Cụm di tích Nghè chùa Gia Cốc nằm trên khu đất bằng phẳng, cao ráo, chạy từ phía Tây Bắc sang Đông Nam, thuộc thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Theo bản thần tích chữ Hán do quan Thượng thư Bộ lễ Nguyễn Hiền theo lệnh vua sao lục bản chính vào năm Thuận Thiên tam niên bát nguyệt sơ tam nhật (3/8/1430) còn lưu lại tại di tích cho biết, xưa kia cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc (hiện cụm di tích nằm ở thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương) tọa lạc trên một khu đất có cảnh đẹp lạ thường, chạy từ Tây Bắc sang Đông Nam, phía trước có đống rùa vàng làm án; đằng sau nước triều hội tụ, bên tả có rồng, bên hữu có hổ chầu, phía sau có voi phục. Hiện nay, tuy phong cảnh của cụm di tích có thay đổi nhiều, song vẫn giữ được nhiều đặc điểm từ thuở xa xưa. Và theo quan niệm của dân gian, nhánh sông Neo chạy từ Tây Bắc xuống Đông Nam thôn Gia Cốc chính là hình ảnh của con rồng. Nhiều gò đống ở phía trước di tích chính là dấu vết của rùa vàng và hổ phục. Các nguồn tài liệu sử sách cho biết, vào thời Lý, thôn Gia Cốc gọi là trang Gia Cốc. Sau đổi thành xã Gia Cốc, tổng Phú Mễ, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Sau Cách mạng tháng 8/1945 đổi thành thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương như hiện nay. Cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc gắn liền với tên tuổi một vị quan Thái sư thời Lý tên là Lê Trung Hoa. Ông sinh ngày 10/3 mất ngày 10/8 (chưa rõ năm). Ngay từ nhỏ, ông đã có chí lớn, văn võ song toàn. Lúc bấy giờ giặc Tống cử tướng là Hoàng Phúc đem quân sang xâm lược nước ta. Triều đình phong cho Lê Trung Hoa làm Thái sư thống lĩnh một vạn quân để chống giặc Tống. Lúc này quân Tống đóng đồn ở trấn Hải Dương, Thái sư Lê Trung Hoa chỉ huy quân đánh bên Đông, đỡ bên Tây, quân giặc tan, đất nước thanh bình trở lại, ông đem quân về trang Gia Cốc khao thưởng quân sĩ. Tại trang Gia Cốc, thấy phong cảnh đẹp lạ thường nên ông đã quyết định lập trại và đóng quân tại đây. Sau khi ông mất, triều đình đã cấp tiền xây đình, miếu thờ phụng và được các triều đại phong sắc là “Thượng đẳng thần”, tự là “Đức Đại vương Thái sư”. Ông được nhân dân nơi đây tôn vinh là Thành hoàng làng và tạc tượng thờ. Hiện nay, tại cụm di tích còn lưu giữ được 5 đạo sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 6 (1853) phong ngày 10/11; vua Tự Đức năm thứ 31 (1878) phong lần 2; vua Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) phong ngày 1/7; vua Duy Tân năm thứ 3 (1909) phong ngày 11/8; vua Khải Định năm thứ 9 (1924) phong ngày 25/7. Nghè Gia Cốc được làm theo hình chữ Nhị, phần ngoài 5 gian và hậu cung 3 gian, các vì kèo đều được làm theo kiểu con chồng, đầu các con chồng đều được chạm khắc đề tài tứ linh, các đầu bẩy hiên được chạm khắc tứ quý. Bên trong hậu cung có 3 bệ thờ, bên trái thờ Trần Hưng Đạo, ở giữa thờ Lê Trung Hoa và bên phải thờ Phạm Ngũ Lão. Cạnh nghè Gia Cốc là chùa Gia Cốc có kiến trúc theo hình chữ Đinh gồm tiền đường 5 gian và tam bảo 3 gian… Với những giá trị về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật… độc đáo, cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ra quyết định số 281 cấp bằng công nhận cụm di tích Nghè chùa Gia Cốc là cụm di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 14/4/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 26 lượt xem
Đình Đào Lâm thờ 4 vị tướng là Phạm Vân, Hoàng Công Bỉnh, Vũ Công Tạo và Thái tử Lý Mạnh. Cả 4 ông đều có công giúp nhà Lý đánh đuổi giặc Lương. Theo thần tích còn lưu giữ tại đình Đào Lâm thì vào thế kỷ VI, nhà Lương bên Trung Quốc sai tướng Trần Bán Tiên mang quân sang xâm lược nước ta. Nhận được tin, vua Lý Nam Đế liền họp các quan trong triều tìm kế đánh giặc và chiêu mộ quân. Vì văn võ toàn tài, các ông Phạm Vân, Hoàng Công Bỉnh, Vũ Công Tạo cùng với Thái tử Lý Mạnh được nhà vua tin tưởng giao 2.000 binh lính lên đường đánh giặc. Khi đến làng Đào Tòng, huyện Gia Phúc, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Đào Lâm, xã Đoàn Tùng) thì được nhân dân hoan hỷ đón tiếp. Thấy nơi này đẹp cảnh, đẹp người, 4 vị bèn ra lệnh cho binh sĩ cùng dân làng lập hành cung, mở tiệc khao quân. Hôm đó, trong làng có 20 thanh niên trai tráng xin theo đánh giặc. Vài ngày sau, đoàn quân cấp tốc lên đường thẳng tiến tới bờ sông Tô Lịch giao chiến với quân thù. Bằng sự mưu trí, đoàn quân của 4 vị nhanh chóng đẩy lui quân giặc. Không chịu thua, quân Lương xin thêm tiếp viện. Ở trận đánh thứ 2, do chênh lệch về lực lượng và khí giới nên binh sĩ của 4 vị tử trận nhiều. Để vẹn tròn khí tiết với nước non, cả 4 vị tướng đã gieo mình xuống dòng sông Tô Lịch vào ngày 20 tháng 10 âm lịch. Sau trận đánh, một số binh lính còn sống sót trở về làng Đào Tòng và thuật lại chuyện. Để tưởng nhớ công ơn, dân làng Đào Tòng đã lập đền thờ 4 vị tại nơi hành cung mà nghĩa quân lập nên ngày trước (nay là hậu cung của Đình làng Đào Lâm). Với công lao to lớn, nhà Lý liền sắc phong Thượng Đẳng Thần cho cả 4 vị tướng. Vua Lý ra lệnh cho nhân dân làng Đào Tòng đến rước mỹ tự vua phong về đền thờ tứ vị. Năm 1288, Ô Mã Nhi và Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nhà Trần. Vua Trần Nhân Tông đã giao Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn đến đền thờ 4 vị ở làng Đào Tòng bái yết và cầu tảo. Sau đó đi đánh giặc giành được thắng lợi vẻ vang. Đến năm 1416, vua Lê Thái Tổ đánh đuổi nhà Minh cũng đi đến đền thờ 4 vị bái yết và cầu tảo quả nhiên cũng giành chiến thắng. Nhờ đó mà triều đại nhà Trần và nhà Lê đều có sắc phong Thượng Đẳng Thần cho 4 vị. Đình Đào Lâm nằm trên khu đất bằng phẳng, rộng rãi và được xây dựng với quy mô khá lớn. Đình gồm ba công trình chính: đình ngoài, đình giữa và hậu cung, ngoài ra còn có gác chuông. Trải qua thời gian, ngôi đình đã nhuốm màu rêu phong, có nhiều nét cổ kính. Đình ngoài có 5 gian 2 chái có diện tích trên 250 m2 với 4 hàng cột gỗ lim lớn. Kiến trúc các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen được chạm khắc hoa lá cách điệu. Đầu các con chồng được tạo dáng hình đầu rồng. Tại 8 đầu dư chạm khắc hình độc long ngậm ngọc tạo thế vững chắc và thể hiện sự linh thiêng. Mái đình ngoài được lợp bằng ngói mũi, trên các đao góc được tạo dáng hình đầu rồng uốn cong mềm mại. Trên các bờ mái bố trí tứ linh (long, ly, quy, phượng). Ở hai đầu bờ nóc đình là hai đầu rồng to khỏe với tư thế như kìm giữ cho mái đình vững chắc hơn. Đình giữa cách đình ngoài 2 m cũng gồm 5 gian 2 chái nhưng diện tích nhỏ hơn (khoảng 220 m2). Kiến trúc nổi bật nhất là nghệ thuật chạm khắc tại các đầu bẩy với đề tài bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Trên các bức cốn là long quần rất sắc sảo, sinh động. Trên xà ngang trung tâm treo bức đại tự “Đức phong thượng đẳng thần". Phía dưới bài trí 1 bộ kiệu bát cống, 2 bộ kiệu long đình. Hai bên là hai hàng long đao bát bửu. Tất cả mọi hiện vật đều sơn son thếp vàng. Cũng như đình ngoài, đình giữa được xây dựng vào thời Hậu Lê và tu sửa vào thời Nguyễn. Tiếp theo là đình giữa rộng khoảng 105 m2 gồm ba gian hậu cung. Gian đầu bài trí án thư, trên có các đồ tế. Phần sau hậu cung đặt một khám thờ lớn bên trong bài trí bốn ngai thờ bốn vị thành hoàng làng. Trên mỗi ngai có một bài vị ghi tên tuổi các vị... Tháng 3.1990, đình Đào Lâm được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 25 lượt xem
Đình Lương Xá thờ ông Đào Nhã là người có công giúp nhà Trần chống quân xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ 13; Công lao của ông đã được ghi trong thần tích, sắc phong, câu đối hiện còn và lưu giữ tại di tích. Đình còn phối thờ bà Trần Thị Hường người ủng hộ phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19. Đình Lương Xá khởi dựng vào cuối thế kỷ 19, trùng tu lớn vào năm 1930. Di tích kiến trúc khá đồng bộ từ Đại bái, Hậu cung và Giải vũ, là một di tích có quy mô lớn, có nhiều mảng chạm khắc, phù điêu đạt trình độ nghệ thuật cao. Với lối kiến trúc này, giúp chúng ta nghiên cứu lịch sử điêu khắc cổ Việt Nam. Căn cứ vào những giá trị lịch sử, năm 2001, Đình Lương Xá được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đối với địa phương, đình Lương Xá không chỉ là nơi tôn thờ người có công với nước, nơi đây còn ghi dấu ấn trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Là nơi ghi dấu ấn văn hoá, tín ngưỡng làng xã khá đậm nét. Nghiên cứu lịch sử di tích đình Lương Xá là mang lại cho chúng ta nguồn tư liệu quý giá, trong việc tìm hiểu phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Lễ hội có tục rước tế thần theo phong tục lâu đời của nhân dân địa phương được tổ chức vào ngày 8 tháng 3 (âm lịch). Hiện nay Lễ hội đã được Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch hoàn thiện Hồ sơ, kịch bản Lễ hội điểm và đã tiến hành tổ chức Lễ hội theo đúng kịch bản từ năm 2014. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 46 lượt xem
Đình Kiên Lao, hay còn gọi Đình Xuân Quang. Đình Kiên Lao thờ 02 vị thần hoàng là người có công với nước ở thế kỉ thứ X là Đào Công Chiêu và Đào Công Hiển. Đình Kiên Lao tọa lạc trên một khu đất thoáng mát có dáng rồng chầu hổ phục. Bao bọc bởi cánh đồng lúa rau màu xanh tươi và rặng cây xanh bóng mát, đình mang dáng vẻ cổ kính và trầm mặc. Kiến trúc Nguyễn, mặt chính hướng Nam, nhìn ra cánh đồng lúa ven làng. Tam quan bề thế (được chính quyền và nhân dân địa phương tôn tạo năm 1992), cổng chính dựa trên hai cột trụ, trên đắp đôi nghê, hai cổng phụ xây chồng diêm hai mái. Đình xây hình chữ Đinh (丁) gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung. Mái lợp ngói mũi, trên nóc đắp hai con kìm, giữa dựng hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu hồi tiền tế và hồi sau hậu cung đều đắp nổi hổ phù. Tại cửa phụ hậu cung còn ghi dòng chữ “Đồng Khánh nguyên niên tuế thứ Bính Tuất thập nhất nguyệt sơ lục nhật lương thời bản xã trùng tu" tỏ rõ đình được xây dựng năm 1886, trùng tu năm Bảo Đại thứ 3 (năm 1928). Chính cung trang trí cửa võng, hai bên treo các câu đối và đặt bộ bát biểu sơn son thếp vàng. Trong cung cấm có hai cỗ ngai bài vị và 2 cỗ bành kiệu tươi màu sơn đỏ thếp vàng của hai Thành hoàng làng. Đình còn có ban thờ Trần Hưng Đạo. Nơi đây còn lưu giữ được 2 cuốn thần phả và 12 đạo sắc phong thời Lê và thời Nguyễn phong cho hai vị Thần hoàng làng và nhiều cổ vật và đồ thờ có giá trị như: Khám thờ thời Nguyễn, 3 bức đại tự, 3 câu đối, 3 hương án thời Nguyễn….Trước cổng tam quan còn khoảnh sân rộng hơn trăm thước vuông, có trụ đá xanh làm cột cờ kề sát mặt hồ bán nguyệt rộng ước 500 thước vuông. Cảnh trí hài hòa mát mẻ, phong thủy tốt đẹp. Căn cứ vào những giá trị lịch sử, năm 1995, Đình Kiên Lao được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia theo quyết định số 2223- VH/ QĐ ngày 26 tháng 6 năm 1995. Lễ hội hằng năm được tổ chức vào ngày 15 tháng 11 (Âm lịch).Có tục tế thần, rước kiệu rất đặc sắc mang đậm nét văn hóa truyền thống được nhân dân và du khách ngưỡng mộ. Hiện nay Lễ hội đã được Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch hoàn thiện Hồ sơ, kịch bản Lễ hội điểm và đã tiến hành tổ chức Lễ hội theo đúng kịch bản từ năm 2012. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Đại Đức , huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 47 lượt xem
Chùa Muống (Quang Khánh tự) ở xã Ngũ Phúc là trung tâm tôn giáo lớn của huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Ngôi Chùa đã trải qua 7 thế kỷ tồn tại, được ghi vào lịch sử của chế độ phong kiến Việt Nam. Ngoài bề dày lịch sử, chùa Muống còn được mệnh danh là ngôi chùa nhiều tháp nhất tỉnh Hải Dương. Trải qua chiến tranh tàn phá, chùa vẫn còn lưu giữ được hệ thống tháp đá thời Lê và thời Nguyễn khá đồ sộ. Chùa Quang Khánh là một ngôi chùa lớn của đất nước thuộc thiền phái Trúc Lâm. Chùa có từ thời Trần đầu thế kỷ 14 do Huệ Nhẫn Quốc sư Vương Quán Viên chủ trì, Huệ Nhẫn còn là một lương y có tài chữa mắt. Vua Lê Thánh Tông đã từng đến chùa, đề thơ tại di tích. Chùa là cơ sở cách mạng và kháng chiến của xứ uỷ và tỉnh. Đến năm 1947 chùa còn 120 gian, 32 tháp đá và gạch, khoảng 50 pho tượng phật và nhiều cổ vật. Đây là ngôi chùa nhiều gian nhất tỉnh. Đồng thời là trung tâm tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đạo phật lớn nhất của huyện Kim Thành. Chùa được xếp hạng di tích Quốc gia năm 1992. Hàng năm Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày là: ngày 24 ; ngày 25 và ngày 26 tháng Giêng (âm lịch) dân gian thường gọi là Lễ hội Non Đông. Do lợi thế giao thông thuỷ bộ và là một ngôi chùa cổ có tiếng ở khu vực do vậy hàng năm thu hút vài ngàn du khách tới Lễ hội Chùa. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 47 lượt xem
Ngôi đình ở thôn Ngọc Lâm (làng Quỳnh Gôi), xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Đình thờ thành hoàng là Cao Sơn Đại Vương, thời Hùng Duệ vương, có công chống giặc Thục, giữ yên bờ cõi. Đình được xây dựng từ thế kỷ XVII, trùng tu nhiều lần vào các năm 1686, 1692, 1750, 1756, 1772, 1838, 1899. Trong chiến tranh, đình bị hư hỏng nặng. Ngôi đình hiện nay gồm có Tiền bái 5 gian, Hậu cung 3 gian, 6 gian giải vũ. Trong đình, hiện còn nhiều cổ vật, trong đó có 9 tấm bia có niên đại từ thế kỷ XVII-XVIII, 15 đạo sắc thời Lê Trung Hưng và Nguyễn. Lễ hội hằng năm từ ngày 8 đến ngày 13 tháng 2. âm lịch. Đình đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 2001. Đình làng thôn Ngọc Lâm hiện nay do thời gian mà đã có phần không còn nguyên trạng nhưng với nỗ lực của chính quyền trong thôn xã cũng như nhân dân đã khôi phục hiện trạng và bảo tồn nét truyền thống và cổ kính của Đình Quỳnh Côi nét di tích mang đạm chất quê hương "Cây Đa-Giếng Nước-Sân Đình". Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tứ Kỳ , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 57 lượt xem
Nằm trong quần thể di tích lịch sử văn hóa độc đáo của xã Phượng Kỳ, chùa Khánh Linh ở thôn Tân Hợp (thôn Tứ Kỳ Hạ cũ) cách trung tâm thành phố Hải Dương khoảng 20km, cách trung tâm huyện Tứ Kỳ 5km về phía Nam, đã được xếp loại di tích lịch sử quốc gia từ năm 1999. Với có hệ thống tượng được tạc bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, có niên đại xác định vào thế kỷ XVIII, hệ thống bia đá được điêu khắc tinh xảo, chùa Khánh Linh được đánh giá là công trình mang đậm tính nghệ thuật cùng với giá trị lịch sử hào hùng. Theo văn bia lưu giữ tại chùa, chùa Khánh Linh được xây dựng vào thời Thiệu Long nhà Trần năm 1258. Lúc đầu chùa còn nhỏ, mái lợp cỏ tranh. Các triều đại sau, nhân dân đều góp tiền tu sửa, lợp ngói, sắm tượng, đúc chuông, tạo nên khung cảnh khang trang, lộng lẫy như bài minh đã mô tả: "Chùa Khánh Linh uy nghi cao vời vợi/ Đất thiêng người tài/ Phúc Khánh lâu dài/Tiền đường dựng trước/ Gác cao hưng vinh/Âm thanh chấn động/ Lễ phật kính sùng...". Qua tấm bia ghi lại việc trùng tu, tôn tạo này cho thấy tiền của dân đóng góp lên tới 1.838 quan, 27 cây cột đá, 8 cột và hoành gỗ. Trong đó, người đóng góp ít nhất là 1 quan tiền, người đóng nhiều lên đến 120 quan tiền và một cây cột đá. Trải qua chiến tranh và thiên tai khắc nghiệt, đến nay chùa còn 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Tòa tiền đường có kết cấu theo kiểu chồng rường đấu kê gồm 6 vì kèo, họa tiết hoa lá được chạm vào các đấu kê. Đỡ toàn bộ vì và mái là 12 cột cái bằng gỗ lim, đường kính 32 cm. Cột quân bằng đá gồm 2 loại tròn và vuông. Cột vuông bố trí phía trước cửa, cột tròn phía sau. Trên các cột đá đều ghi tên người cung tiến. Gian chính giữa được nối thông với 3 gian hậu cung bởi một vì kèo con chồng đấu kê. Tòa hậu cung có 6 cột cái bằng gỗ lim, đường kính 29 cm và 6 cột quân bằng đá. Bệ thờ đặt tượng ở ba gian hậu cung đều được xây cuốn bằng gạch. Hệ thống tượng Phật, văn bia, cây hương đá của chùa mang đậm nghệ thuật điêu khắc thể hiện tính chân, thiện, mỹ của Phật giáo. Hệ thống tượng ở đây đều được tạc bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, có niên đại xác định vào thế kỷ XVIII. Những pho tượng cổ trong chùa có nhiều kiểu dáng, ngồi, đứng không trùng lặp. Tượng cân đối, uy nghi, phản ánh sự dày công, tỉ mỉ trong tạo tác. Trong khuôn viên chùa có một số công trình kiến trúc bổ trợ khác, đó là nhà tổ 3 gian, trong đó có tượng của 2 vị sư đã tu ở chùa. Phía trước cửa chùa là một vườn phong lan với nhiều loài, đa dạng kích cỡ được sư trụ trì Thích Nữ Thông Nhân chăm sóc, vun trồng gần 10 năm qua. Khung cảnh ấy đã tạo nên sự tĩnh mịch cho ngôi chùa. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ các tấm bia "Tân tạo tiền đường thượng các" "Khánh Linh tự bi ký"; "Thập phương công đức bi ký" và 1 cây hương đá với họa tiết trang trí tinh xảo. Năm 1999, chùa Khánh Linh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Phượng Kỳ , huyện Tứ Kỳ , tỉnh Hải Dương .
Hải Dương 61 lượt xem
Đông Dương Tự là tên gọi theo cách dùng từ Hán Việt của chùa Đông Dương. Người dân nơi đây vẫn thường gọi tên chùa Lâm, bởi chùa nằm trên vùng đất thôn Phúc Lâm, xã Minh Đức. Nhân dân địa phương cũng thường gọi nôm bằng tên chùa Trong, để phân biệt với một ngôi chùa khác nhỏ hơn phía sau làng, tên là chùa Ngoài. Chùa Trong, tức Đông Dương Tự có nghĩa là ngôi chùa quay về hướng Đông, hướng mặt trời mọc lên. Và ngôi chùa Ngoài được gọi tên là Mãn Nguyệt Tự, ngôi chùa hướng về phía mặt trăng, khi trời chiều ngả bóng. Nói về tên gọi của nó để thấy được rằng, có một sự cân bằng và đối xứng trong cách đặt tên của ngôi chùa, trong lối kiến trúc hài hoà của người xưa. Cũng như các ngôi chùa khác của việt Nam, Đông Dương Tự là ngôi chùa thờ Phật dòng Đại Thừa. Chùa được xây dựng từ thời Lê (khoảng năm 1600) và có sự đóng góp tiền của, công đức của vị tướng thời Lê là Nguyễn Thế Mĩ, người có công khắc dựng bia công đức để tại chùa. Theo văn bia khắc năm Đức Long (1632) cho biết quận công Nguyễn Thế Mỹ tự là Vạn Phúc, văn võ song toàn được vua tin yêu giao cho nhiều trọng trách trong nội phủ. Khi giặc ngoại xâm sang xâm lấn, ông được vua phong làm nguyên soái cầm quân đánh thắng giặc, mang lại thanh bình cho đất nước, quê hương. Ông được vua phong thưởng rất hậu. Công danh tuy vinh hiển khắp nơi nhưng ông vẫn sống khiêm nhường, phú quý mà chẳng kiêu căng. Ông bỏ tiền của tu sửa lại chùa Đông Dương với 54 gian rất khang trang. Công lao của ông đã được khắc ghi vào bia đá, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hải Dương, ông được tạc tượng thờ tại khu vực chùa Đông Dương. Chùa Đông dương đã được nhà nước công nhận là di tích văn hóa lịch sử năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Minh Đức , huyện Tứ Kỳ , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 67 lượt xem
Chùa Phú Lộc có tên nôm là chùa Ma Há, tên tự là Phú Lộc Tự là một trong sáu di tích của xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, cách Thành Phố Hải Dương khoảng 12 km về phía tây bắc. Là nơi có vị trí giao thông thuận lợi cho nên từ những thế kỷ trước Phú Lộc đã sớm trở thành trung tâm giao lưu kinh tế, văn hoá của khu vực, trên cơ sở xã hội đó nhiều thiết chế văn hoá cổ truyền đã ra đời và phát triển. Chùa được khởi dựng vào thời Lê Sơ (thế kỷ XV) đây cũng là thời kỳ kinh tế, văn hoá phát triển rực rỡ trong lịch sử địa phương, chùa được trùng tu lớn vào thế kỷ XIX ( năm 1898), với kiến trúc tương đối đồ sộ. Trải qua những năm tháng dãi dầu mưa nắng, chiến tranh và biến cố xã hội, chùa hiện còn có kiến trúc kiểu chữ đinh (J) gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung, bảo lưu kiến trúc cổ. Tọa lạc trên mảnh đất rộng rãi bằng phẳng ở trung tâm làng Phú Lộc, phía trước có ao lớn, ven ao nhân dân trồng nhiều loại cây ăn quả xanh tốt, mái chùa cổ kính ẩn hiện trong những lùm cây tạo nên phong cảnh u tịch, thâm nghiêm. Toà tiền đường xây bít đốc, bổ trụ, kết cấu khung vì kẻ chuyền chồng chóp, guốc nóc vát cạnh khắc chữ “Thọ” cách điệu, đấu hình chữ nhật, các con chồng chạm khắc đao hoả, phong cách thời Hậu Lê và hoa sen cách điệu. Các đầu bẩy toà tiền đường chạm kênh bong rồng lá quấn quanh, đao và râu tóc rồng kiểu mây cụm và đao hoả. Trên phần kẻ chuyền tạo hệ thống lá dong, được trang trí “ Rồng lá” “ Trúc hoá long” xen kẽ với các con chồn đang nô giỡn. Nhìn chung di tích trải qua nhiều lần tu sửa cho nên kiến trúc nguyên bản bị thay đổi đôi chút, hai vì đầu hồi kiểu giá chiêng xen lẫn chồng rường, các bức cốn chạm đề tài tứ linh. Nối liền với tiền đường là 3 gian hậu cung xây bít đốc bổ trụ, kiến trúc kiểu kèo cầu, trụ báng đơn giản. Chùa Phú Lộc thờ Phật theo phái Đại Thừa, trước cách mạng tháng 8 năm 1945, chùa có qui mô rất lớn, có tới 50 pho tượng và nhiều đồ tế tự, riêng hệ thống tượng thờ tại thượng điện có 6 lớp và hầu hết tượng được tạo vào thế kỷ XVIII – XIX . Ngoài ra ở các gian bên có tượng Quan Âm Toạ Sơn và Quan Âm Tống Tử, theo kinh phật đây là hai sắc tướng của Quan Âm. Ở toà tiền đường, tượng thờ được bố trí như sau: Ở gian bên trái là nơi thờ Đức Thánh Hiền và tượng Trừng Ác, bên phải thờ Đức Ông và tượng Khuyến Thiện. Ở hai bên đầu hồi thờ Bát Bộ Kim Cương, Thái Thượng Lão Quân và Bồ Đề Đạt Ma. Nhà thờ Mẫu mới được nhân dân xây dựng năm 1996, thờ Mẫu Thoải, Mẫu Thiên và Mẫu Thượng Ngàn theo tín ngưỡng thờ các siêu lực tự nhiên của người Việt cổ. Với 35 pho tượng các loại, phần lớn được tạo vào thế kỷ XVIII – XIX, chùa Phú Lộc không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà còn là nơi lưu giữ những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc dân gian có giá trị. Ngoài hệ thống tượng phật, chùa Phú Lộc còn giữ được nhiều cổ vật và đồ thờ tự khác như câu đối, đại tự, chuông đồng, cửa võng, bát hương... Lễ Phật cầu may là việc làm không thể thiếu của người dân theo đạo Phật ở Việt Nam. Vào những ngày rằm và mùng một đầu tháng, nhân dân Phú Lộc đến chùa lễ Phật, lễ vật dâng cúng Phật chỉ là sản vật quê hương nhưng tỏ rõ tấm lòng thành kính. Ngoài ra chùa Phú Lộc còn có một số các ngày lễ chính như sau: Đó là ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch - ngày Phật đản, ở Phú Lộc có lệ tụng kinh và làm lễ Mộc dục, tắm tượng bằng nước lá thơm và bao sái tượng bằng lụa đỏ, tấm lụa sau được xé ra làm nhiều mảnh nhỏ cho mọi người để cầu phúc. Ngày 15 tháng 7 âm lịch - ngày lễ Vu lan, làm lễ cúng cho các cô hồn phổ độ chúng sinh theo đạo Phật xá tội vong nhân. Những năm gần đây nhân dân địa phương còn tổ chức lễ “Quy phật” cho những người quá cố với ý nghĩa cầu mong cho linh hồn người đã khuất được siêu thoát theo quan niệm tín ngưỡng dân gian. Vì đình Phú Lộc có thờ Thành hoàng nên dịp hội đình, nhân dân làm lễ ở đình xong bao giờ cũng đến chùa cúng Phật và ngược lại, cho nên lễ đình, chùa Phú Lộc đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân nơi đây. Chùa Phú Lộc là di tích Phật giáo được xây dựng khá sớm trên mảnh đất có bề dầy lịch sử văn hoá, một công trình kiến trúc cổ mang đậm nét nghệ thuật thờ Hậu Lê, với những mảng chạm khắc điển hình về các hình tượng “ Tứ linh” được hoá thân cùng với “ Tứ quý”. Hình tượng hoa sen với nhiều góc độ khác nhau được cách điệu tạo sự phong phú đẹp mắt. Hệ thống tượng Phật là những tác phẩm điêu khắc độc đáo của thế kỷ XVIII – XIX. Chùa còn là cơ sở cách mạng kháng chiến của huyện Cẩm Giàng và xã Cẩm Vũ. Việc nghiên cứu, bảo vệ di tích có giá trị minh chứng cho truyền thống cách mạng của cán bộ và nhân dân địa phương và giáo dục cho thế hệ trẻ trách nhiệm tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với những giá trị lịch sử, văn hoá như đã nêu trên, chùa Phú Lộc đã được xếp hạng cấp quốc gia theo quyết định số 04/ 2001/Quyết Định – Bộ Văn Hóa Thể Thao, ngày 19/01/2001. Với cơ sở khoa học và pháp lý đó, cùng với ý thức giữ gìn di sản văn hoá của nhân dân địa phương, chùa Phú Lộc sẽ được bảo vệ và phát huy tác dụng tốt đáp ứng nguyện vọng của nhân dân địa phương. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 80 lượt xem
Đền Long Động xã Nam Tân thờ 3 danh nhân khoa bảng: Thủ khoa Minh kinh bác học Mạc Hiển Tích, đỗ đầu khoa thi năm Quảng Hựu thứ 2 (Bính Dần, 1086) tương đương Trạng nguyên; được chọn làm Hàn Lâm học sỹ, sau thăng lên Thượng thư Bộ lại, là một người có biệt tài về chính trị, từng đi sứ Chiêm Thành năm Hội Phong thứ 4 (1094). Tiến sĩ Mạc Kiến Quan (em ruột của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích) thi đỗ khoa thủ tuyển (năm Kỷ Tỵ 1089) làm quan đến chức Thượng thư bộ Công. Lưỡng Quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (đời thứ 5 của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích) thi đỗ Trạng nguyên năm Giáp Thìn (1304), đời vua Trần Anh Tông. Cuộc đời của các vị tiên hiền Mạc Hiển Tích, Mạc Kiến Quan ít được nhắc đến trong lịch sử, nhưng Mạc Đĩnh Chi thì đã có nhiều sách báo nói đến và cũng nhiều giai thoại. Theo đó, Mạc Đĩnh Chi là người vô cùng mẫn tiệp, thông tuệ, có tài kinh bang tế thế, làm quan đứng đầu triều, trải qua ba đời vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông. Tương truyền Ông từng hai lần đi sứ, với sự hiểu biết uyên bác, tài hùng biện và khéo léo ứng xử của một nhà ngoại giao tài ba, ông được vua quan nhà Nguyên vô cùng nể phục và phong làm Lưỡng quốc Trạng nguyên; “Lưỡng quốc Trạng nguyên danh bất hủ, Tam hiền Lũng động phúc trường lưu".... Với những giá trị lịch sử văn hóa, năm 1995, đền Long Động xã Nam Tân được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Năm 2019, Đền Long Động được công nhận là điểm du lịch cấp tỉnh. Lễ hội Đền Long Động được tổ chức vào mùa Xuân (từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 2 âm lịch) để tưởng nhớ ngày Mạc Đĩnh Chi qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm Bính Tuất (1346). Lễ hội mang đậm nét giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, thể hiện đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn", góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nam Sách , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 68 lượt xem
Chùa Trăm Gian là di tích lịch sử - văn hóa thuộc thôn An Đông, xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Di tích được hình thành cách đây khoảng 1000 năm, tọa lạc ở vùng quê bình yên, nằm gần dòng sông Kinh Thầy thơ mộng, không gian thanh tịnh, mái ngói rêu phong, vườn tháp cổ kính và từng là một ngôi chùa lớn, trung tâm Phật giáo của cả nước, trường dạy kinh Phật cho nhiều phật tử. Chùa được gọi theo quy mô, kiến trúc của di tích. Đến nay vẫn giữ được bố cục, nét kiến trúc độc đáo và nhiều cổ vật có giá trị khoa học. Ngoài tên gọi Trăm Gian, chùa còn có tên là An Ninh, cách gọi theo tên địa danh của làng và tên tự là chùa Vĩnh Khánh. Từ thị trấn Nam Sách đi hướng cầu Bình theo Quốc lộ 37, đến ngã ba rẽ vào xã An Bình (cạnh trụ sở UBND xã Quốc Tuấn), du khách đi theo đường trục xã vào thôn An Đông (cách trụ sở UBND xã An Bình 400m) là đến di tích. Cũng như các ngôi chùa khác, chùa Trăm Gian được xây dựng để thờ Phật theo phái Đại thừa, với tư tưởng truyền bá đạo Phật cho mọi người để hướng đến những giá trị Chân -Thiện - Mỹ tốt đẹp, con người chung sống hòa bình, khởi tâm làm nhiều việc thiện, tránh xa điều ác, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đại thừa là “cỗ xe lớn” có thể chở được nhiều phật tử trong việc tu tập và cùng nhau để sớm đến được bến bờ giác ngộ. Chùa Trăm Gian ngoài thờ Phật theo phái Đại thừa còn thờ thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ (Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông (tổ 1), Pháp Loa Tôn giả (tổ 2) và Huyền Quang Tôn giả (tổ 3). Bên cạnh đó, chùa còn thờ các nhà sư đã quy y và trụ trì tại chùa, có công trùng tu, tôn tạo mở rộng di tích như: Thánh Tổ ni Phạm Thị Toàn (Toàn Nương) trụ trì 02 năm (xuất gia năm 1011, viên tịch năm 1013), là đệ tử của thiền sư Từ Đạo Hạnh dòng Tỳ ni đa lưu chi. Khi nhà Trần trị vì đã gia phong cho bà “Trinh Khiết Đoan Trực Trai Trang Hoàng Quý Phi Tối linh Thượng đẳng Công chúa”. Vị sư tổ tiếp theo trụ trì là người làng, học đạo theo thiền phái Trúc Lâm tên là Nguyễn Diệu Quang, được gọi là Tổ Rau (vì tu theo lối tịch cốc mỗi ngày chỉ ăn 1 bìa đậu phụ và 2 mớ rau vào lúc chính ngọ). Vua Lê Cảnh Hưng phong “Hòa thượng Đại nhân tăng lục thiền già”. Vị sư tổ tiếp theo là Viên Giác, người họ Nguyễn ở bản xã, quy y và viên tịch tại chùa vào ngày 14/9. Vị sư tổ tiếp theo là Viên Tịch, vốn trước tu ở chùa Bổ Đà (Bắc Giang) sau làm môn đồ tổ Viên Giác và viên tịch ngày 24/6 và một số nhà sư khác hiện có mộ tháp ở phía sau chùa. Không chỉ là danh lam cổ tích trong vùng, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngôi chùa là cơ sở cách mạng, nơi luyện tập, họp hành và trú ẩn của du kích, bộ đội địa phương. Năm 1965, chùa là nơi kho tán của phân viện 7 và Kho quân nhu của Quân khu III. Sau năm 1975, một phần chùa trở thành trụ sở UBND xã, thư viện, đài truyền thanh, nhà truyền thống xã... Hiện nay, ngôi chùa trở lại thành điểm sinh hoạt văn hóa tôn giáo tâm linh của nhân dân trong vùng. Tương truyền chùa Trăm Gian có từ thời Lý (khoảng thế kỷ XI). Đến thời Trần, tướng quân Nguyễn Huy Tĩnh đóng quân tại chùa để chặn quân Nguyên từ hướng sông Bạch Đằng đánh vào Thăng Long. Đến triều Lê, năm Chính Hoà (1691) đời vua Lê Hy Tông sửa thượng điện, năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705) đời vua Lê Dụ Tông vua tiếp tục sửa thượng điện; các năm 1740, 1809 tu sửa và tôn tạo khá nhiều công trình trong chùa. Thế kỷ XIX- XX, chùa Trăm Gian được trùng tu với quy mô khá lớn và độc đáo vào bậc nhất mang phong cách thời Nguyễn. Hiện nay, toàn bộ khuôn viên của di tích tọa lạc trên diện tích 17.977m2, với các công trình chính như: Từ phía Đông, mở đầu là công trình gác chuông (128m²), có quy mô lớn và độc đáo. Trên gác chuông ở gian trung tâm treo quả chuông đồng đúc vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), đây là quả chuông hiếm có của tỉnh Hải Dương. Gác chuông gồm 05 gian, trong đó 03 gian giữa có kiến trúc chồng diêm, cổ các. Hai đầu hồi kiến trúc theo kiểu bít đốc tạo dáng quai chảo. Bộ mái của phần chồng diêm là hai vì kèo, cột đặt trên xà thượng của công trình phía dưới. Phía trên mái chồng diêm có 4 đầu đao với phù điêu rồng chầu, phượng múa, bờ nóc đắp hạp long ở 2 đầu. Hệ thống bờ nóc, bờ chảy mềm mại, trang trí ô hoa chanh cách điệu. Phía sau gác chuông, qua một sân nhỏ là chùa chính gồm: Tiền đường 07 gian, có chiều dài 16m, rộng 8m. Kết cấu các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen. Các chi tiết như cột cái, cột quân, bẩy hiên, xà nách, các con thuận, câu đầu, trụ, con vành, đấu gòi được chế tác rất công phu. Các xà thượng, xà hạ, hoành, rui đều được soi chỉ. Kết cấu hệ thống giằng ngang và giằng dọc hợp lý, chặt chẽ. Thượng điện có chiều dài 11m, rộng 8m, phần mộc của thượng điện có kết cấu và chế tác giống tiền đường, nhưng các chi tiết phần mộc nhỏ hơn. Tường xây bằng gạch Bát Tràng, bên trong trát vữa, ngoài để mộc bắt mạch nõn dong, mái lợp ngói mũi. Bên trái thượng điện là 07 gian nhà thờ Mẫu, có chiều dài 14m, rộng 4m. Các vì kèo kết cấu theo kiểu kèo cầu, đơn giản. Bên phải là hai Nhà khách nối liền nhau như một hành lang. Sau thượng điện là nhà Tứ ân, kết cấu kiểu kẻ chuyền chồng chóp, các con chồng, đấu sen, các bức chạm lá lật chạm trổ tinh vi. Nhà tổ nằm phía sau nhà tứ ân. Phía bắc chùa có sân rộng chừng 1.000m² cùng một số công trình quay ra sân như: Nhà tháp, nhà tăng, am trong, am ngoài cùng nhiều công trình phụ khác. Phía sau chùa là một vườn tháp gồm 10 ngôi, trong đó có 9 ngôi được xây dựng vào thời Lê và Nguyễn, một ngôi được xây dựng năm 2003. Chùa Trăm gian là ngôi chùa thuộc thiền phái Trúc Lâm, có nhiều hạng mục công trình và nhiều gian nhất hiện còn trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Hằng năm, chùa Trăm Gian tổ chức lễ hội nhằm vào ngày 11 , ngày 12 tháng 9 âm lịch. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật điêu khắc, giá trị khoa học của di tích và cổ vật đang được lưu giữ tại chùa. Ngày 02/3/1990, di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia theo Quyết định số 168/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thể Thao. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nam Sách , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 107 lượt xem
Đình Quán Đào thuộc thôn Quán Đào , xã Tân Tiến, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương là nơi thờ Thiên Tác Đại Vương Lí Canh Tôn, là một danh tướng thời nhà Lí người có công phù giúp Nhà Lí đánh tan quân Tống xâm lược. Quán Đào xưa vốn là trang Quán Đào, là một xã của Tổng Mỹ Xá- Phủ Tứ kỳ. Từ năm 1925 đến 1944 là một xã của tổng Hội xuyên huyện Gia Lộc. Từ năm 1945 đến nay Quán Đào, là một thôn của xã Tân Tiến huyện Gia Lộc. Trước đây trong xã, thôn nào cũng có Đình, chùa . Đình thuộc thôn quán Đào nên có tên gọi là: Đình Quán Đào. Đình được xây dựng ở trung tâm thôn Quán Đào, nằm trên một gò đất cao gọi là đống con voi. Trước cửa đình là một cái ao lớn, trước đây thông ra sông cống câu, thuyền đinh có thể vào tận cửa Đình, còn xung quanh là đường làng. Ở phía Tây của Đình còn có một ngôi miếu cũng được xây dựng trên một gò đống còn được gọi là đống Con Xà. Phía Bắc Đình cũng có một gò đống cao gọi là Đống Rước Vua, nằm cách Đình khoảng 500m. Như vậy ngôi Đình được xây dựng ở giữa các gò đống tạo ra thế rồng chầu hổ phục. Cũng như mọi ngôi đình Việt Nam. Đình Quán Đào được xây dựng để thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân làng, mỗi khi có việc lớn. Đình được xây dựng từ thời Lý. Nguyên là nơi thờ cụ Thiên Tác quê chính ở Cao Xá Cẩm Giàng. Theo lệnh của chiều đình về Quán Đào để mộ quân đánh giặc Tống. Khi chiến thắng được vua phong là “ Tôn canh linh ứng” và được vua ban sắc phong khi chết được nhân dân Quán Đào tôn là thành hoàng thờ tại đình làng. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 hội làng được mở từ ngày 10 đến ngày 20 tháng giêng âm lịch, tại Đình được tổ chức nhiều hình thức như rước, tế, lễ, hát chèo….Đặc biệt ở đây có lệ thi lợn thờ mỗi giáp một con. Đình Quán Đào còn đặc biệt là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử gắn liền với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của địa phương. Nhân dân Quán Đào nói riêng và nhân dân Tân Tiến nói chung là những du kích đánh Pháp nổi tiếng kiên cường, dũng cảm, đã được lịch sử tỉnh, huyện ghi nhận. Ngôi đình là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp của địa phương. Tại đây những người chỉ huy luôn đưa ra những quyết định đúng đắn và đều giành thắng lợi. Tháng 8/1945 nhân dân Tân Tiến đã tập trung tại đình để lên huyện tham gia giành chính quyền. Trong những năm 1946 Đình còn là nơi nhân dân học bình dân học vụ, xóa mù chữ cho nhân dân trong xã. Đình cũng là nơi nhân dân đến ủng hộ vàng bạc trong tuần lễ vàng mà Bác Hồ và chính phủ kêu gọi. Đình còn là nơi thành lập xã Tân Tiến gồm ba thôn, Đông cận, Quán Đào, Tam Lương năm 1946. Ngày 06/1/1946, Đình còn là nơi chứng kiến cuộc bầu cử Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của xã. Liên tiếp các năm 1946 – 1947 Đình còn là nơi luyện tập võ trang của du kích, để chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp của địa phương. Ngày 23/12/1946 quân địch đi ca nô đổ bộ lên bến đò neo ( cách xã 2 km) bắn súng vào xã. Liền sau đó khoảng 40 người dân Tân Tiến tay cầm vũ khí đã xông lên đường 191 đánh trả. Trận ra quân lần đầu đã chứng tỏ tinh thần quyết tâm đánh giặc của nhân dân được huyện biểu dương khen ngợi. Ngày 23/2/1947. Địch càn thẳng vào xã đốt cháy 2/3 số nhà dân, bắn chết 4 người, bắt đi 20 người. Biến căm thù thành hành động. Chi bộ Tân Tiến đã họp tại đình Quán Đào và ra nghị quyết” Tổ chức biên chế quân du kích chặt chẽ, huấn luyện quân sự, mỗi đồng chí phải có một thứ vũ khí…Tuyên truyền nhân dân toàn xã chuẩn bị đánh giặc”. Từ đó tại đình du kích ngày đêm luyện tập, nhân dân đẩy mạnh sản xuất và tham gia bình dân học vụ. Từ năm 1947 địch tăng cường càn quét, 3 năm đầu kháng chiến từ 1946 đến 1948 chi bộ Đảng tiếp tục được phát triển, chính quyền được củng cố. Từ năm 1950 quân địch thua đau ở biên giới chúng quay về đồng bằng, đồn bốt được mọc lên như nấm. Quanh xã Tân Tiến có nhiều bốt địch như bốt Bỉnh di, Đông Quan, Xuân nẻo, Lũy Dương…Trước tình này chi bộ họp tại đình Quán Đào ra nghị quyết bám sát dân, giữ vững cơ sở, đấu tranh với địch trong thời gian khó khăn này, đình Quán Đào con che dấu hàng trăm cán bộ huyện, tỉnh và một số cán bộ xã bạn. Trong lúc khó khăn tình làng, nghĩa xóm càng đậm đà sâu đậm, mọi người nhường cơm sẻ áo.. Từ năm 1952 đến 1954 chiến trường chính ta mở rộng, tại xã được phát triển lên một bước gồm có 42 đồng chí có 6 súng trường, 1 súng liên, một tiểu liên và nhiều chông mìn, lựu đạn, luôn hoạt động quấy phá địch. Trong 8 năm kháng chiến chống Pháp nhân dân Tân Tiến cùng các xã bạn tham gia 105 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 241 tên địch, Với thành tích đó xã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Riêng thôn Quán Đào được tặng huân chương kháng chiến hạng 2, 4 du kích được phong là chiến sĩ thi đua. Trước đây di tích có rất nhiều đồ tế tự như Long đình, Luyện, Bát biểu, Cờ quạt, Tàn lòng, Quần áo tế lễ, Đồ thờ tự… Trải qua thời gian và đặc biệt là kháng chiến chống Pháp ác liệt đã diễn ra trên mảnh đất này đã tiêu hủy rất nhiều hiện nay chỉ còn: 1 Đỉnh đồng thời Nguyễn , 1 bức đại tự sơn son, 1 bát Hương bằng sứ, 8 lọ hoa sứ, 3 bộ thờ, 1 bức Y môn, 1 ngai thờ gỗ, 2 câu đối gỗ, 1 bàn thờ gỗ sơn son, 1 hòm sắc, 1 thần tích, 3 bức đại tự. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật điêu khắc, giá trị khoa học của di tích và cổ vật đang được lưu giữ tại chùa. Năm 1995 được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử văn hóa quốc gia . Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương .
Hải Dương 82 lượt xem
Trước năm 1945, Đồng Tái là tên xã, trong xã có đủ đình, chùa, miếu. Năm 1946, Đồng Tái là một thôn của xã Thống Kênh (Gia Lộc), đình Đồng Tái từ đó gắn liền với tên thôn. Đình Đồng Tái được xây ở trung tâm của làng, trên một khu đất cao, rộng, mặt hướng tây nam, trông ra sông Nhị Hà (nay là sông Thưa). Theo ngọc phả còn lưu lại và qua lời kể của các cụ cao tuổi trong làng, đình Đồng Tái thờ 3 chị em họ Đào là: Đào Thị An, Đào Công Hải và Đào Công Thông, những người có công phò vua Duệ Vương đánh giặc Thục, giặc Lương bảo vệ đất nước... Những năm kháng chiến sau này, đình Đồng Tái là nơi gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương và của tỉnh. Tháng 4 - 1995, đình Đồng Tái được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. "...Tương truyền, Đào Công Bột, quê ở An Bang, phủ Hải Đông, là thiếu phó quan thời Hùng Vương thứ 18, được giữ chức bộ trưởng Châu Hoan (Thanh Hóa), sau được vua hạ chiếu điều đến phủ Thượng Hồng (trấn Hải Dương) làm quan thượng thư. Trong thời gian ở Thượng Hồng, ông kết duyên với một nữ anh thư họ Nguyễn, con gái một gia đình danh gia, lệnh tộc ở Kênh Triều, huyện Gia Phú (nay là Gia Lộc). Được khoảng 3 năm thì Thượng Hồng đột nhiên có trận nước lụt lớn, quan Thượng Thư và nhân dân phải làm chòi cao tránh nước. Trong cơn thủy hoạn, bỗng có 3 quả trứng từ đâu trôi đến trước chòi của quan thượng thư. Thấy lạ, ông vớt 3 quả trứng đó rồi cất đi. Không lâu sau, một trận mưa lớn, sấm chớp đùng đùng, 3 quả trứng nổ như tiếng sét và nước lũ tự dưng rút cạn. Quan thượng thư nửa mừng, nửa lo, cho rằng 3 quả trứng kia là chuyện bất thường, liền lệnh cho quân sĩ làm lễ tế đảo để tiễn 3 quả trứng thần kỳ. Ngay đêm đó, quan thượng thư nằm mơ thấy một người tướng mạo uy nghi, cỡi trên con Hoàng Long (rồng vàng) tặng cho mình một tấm gấm có đề thơ sẵn. Tỉnh dậy, ông thấy tấm gấm đặt bên mình thì rất đỗi vui mừng. Từ đó vợ ông mang thai, lần lượt sinh hạ được Đào Thị An, Đào Công Hải và Đào Công Thông. Cả ba chị em đều khôi ngô, tuấn tú, diện mạo khác thường, tính tình khoan hòa, văn võ kiêm toàn. Đặc biệt, Đào Công Hải và Đào Công Thông, thế và lực có thể bạt núi, ngăn sông, đi trên sóng nước như đi trên cạn. Nhân dân ở đây coi như ba vị thánh giáng trần. Sau khi cha mẹ tạ thế, 3 chị em họ Đào dựng một quán nước ở đầu làng Kênh Triều để mưu sinh. Lúc này nhà Thục đưa đại binh sang xâm chiếm nước Văn Lang. Vua Duệ Vương cùng quần thần trực tiếp ra đánh giặc, nhưng vì thế và lực không cân nên vừa đánh vừa rút lui. Tới địa phận xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc thì trời xế chiều, vua hạ chiếu cho quân thần dựng trại để nghỉ. Đêm đó, nhà vua ngự giá tại chùa Quang Minh, tổng Hậu Bổng. Trong giấc ngủ mơ màng, vua thấy một người cao to, áo mũ cân đai chỉnh tề tiến đến trước mặt nói rằng:” Thần vâng mệnh Thiên Hoàng giấy báo cho thời quân gặp nhân tài để diệt giặc. Giật mình tỉnh lại thì đó là giấc mộng và bên mình có tấm gấm, trên đề mấy vần thơ: Thiên Hoàng xuống báo giúp thời quân/ Tìm đến Kênh Triều gặp Thánh Nhân/ Huynh đệ một nhà Đào Thị đó là người giúp nước cứu nhân dân”. Lập tức vua cho quân thần đến Kênh Triều, mời 3 chị em họ Đào về hậu bổng yết kiến, rồi phong cho Đào Công Hải là quyền trưởng Trung Hoa quốc tể; Đào Công Thông là Thống trưởng tướng quân. Hai vị nhận chức, điều khiển toàn bộ 30 vạn binh mã, chia làm nhiều mũi tiến đến đồn giặc đánh phá. Chỉ một trận đánh, giặc Thục đã tan tác, những tên sống sót tranh nhau tẩu tán. Đất nước trở lại thanh bình, muôn dân an cư lạc nghiệp… 5 năm sau, mộng xâm lăng của giặc Thục lại nổi lên, chúng cho đại binh dồn rập sang đánh chiếm nước ta lần nữa. Đào Công Thông và Đào Công Hải xin vua cho xuất binh phá giặc. Nắm bắt được điểm yếu của địch, hai tướng quân bố trí đánh úp ban đêm, cho những thợ lặn xuống khoan thủng thuyền địch. Bị động, thuyền đắm, quân Thục một lần nữa đại bại, kinh hoàng chạy về nước. Sau khi toàn thắng, Đào Công Thông và Đào Công Hải không ở lại triều đình để hưởng vinh hoa phú quý, mà xin về về Kênh Triều cư trú. Trên đường về bỗng mây đen từ đâu kéo đến mù mịt, sấm chớp dữ dội, chỉ trong khoảnh khắc hai vị tướng quân đã hóa cùng mây nước. Nhà vua thương tiếc người tài, truyền cho nhân dân nơi đây lập đền thờ, cúng...” Từ những ngày đầu thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, đình Đồng Tái là bản doanh của nghĩa quân Thống Kênh, lãnh đạo nhân dân trong vùng anh dũng chống lại ách xâm lược của thực dân Pháp. Nghĩa quân Thống Kênh phát triển mạnh, hoạt động rộng lớn khắp các vùng Tứ Lộc, Kim Môn, Chí Linh, Châu Giang, thị xã Hải Dương, từng nhiều phen làm thực dân Pháp phải kinh hoàng. Những năm 1930 - 1945, khi phong trào cách mạng dâng cao và chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa, đình Đồng Tái là nơi hội tụ đại biểu trong vùng, bầu các cơ quan chính quyền từ lâm thời đến chính thức. Đình cũng là nơi thành lập chi bộ Đảng của xã, là địa điểm để chi bộ hội họp, chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể kháng chiến. Cũng tại đình Đồng Tái, các đơn vị bộ đội như Tây Sơn, Bảo Lộc, B42, 075 của tỉnh về tập luyện. Sau này, đình Đồng Tái vinh dự là nơi các đồng chí lãnh đạo tỉnh, trung ương về hội họp, phát động các phong trào chống mỹ cứu nước trên toàn tỉnh và là nơi lưu trữ các tài liệu quan trọng khi đó... Sau nhiều thăng trầm của lịch sử, nhất là những năm kháng chiến chống Pháp đình Đồng Tái bị hủy hoại nhiều, còn lại tiền tế và hậu cung. Trong đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật từ thời Nguyễn như: Long đình, khám, ngai, cửa võng, đại tự, cuốn thư, kiếm thờ... Tiếp nối truyền thống anh hùng của cha anh, ngày nay, nhân dân Đồng Tái ngoài việc đồng tâm, đồng sức bảo vệ di tích, còn không ngừng học tập, hăng say lao động, sản xuất, góp phần xây dựng làng quê ngày một giàu đẹp, văn minh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 113 lượt xem
Chùa Dâu có tên chữ Hán là Sùng Thiên tự thuộc thôn Thị Đức, xã Nhật Tân (Gia Lộc). Từ xa đã thấy ngôi chùa uy nghiêm hiện ra giữa cánh đồng cùng với một vùng cây cối um tùm. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, kiến trúc đặc sắc, mang đậm dấu ấn Phật giáo. Xung quanh chùa có ao sen và dòng sông Hàn uốn lượn. Theo ngọc phả, chùa Dâu thờ đức thánh bà húy Phạm Trinh Hiến hiệu Tiên Dung công chúa có công âm phù Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán. Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, chống lại nhà Hán. Một lần tiến quân tới đất này, hai bà cho đóng quân doanh tại đây, đêm nằm mộng có người xưng là Tiên Dung công chúa nguyện âm phù đánh giặc. Ngày hôm sau hai bà mang quân đánh trận trên sông Hàn và giành thắng lợi vang dội. Hai Bà Trưng cho tướng sĩ và nhân dân địa phương ăn mừng rồi ra chiếu chỉ cho dân làng lập miếu thờ Tiên Dung, gia phong mỹ tự là Diệu Quang Huệ Tĩnh Ý Phạm Trinh Hiến phu nhân Thượng đẳng thần. Qua thời gian nhân dân đã xây dựng nơi đây thành ngôi chùa uy nghi vừa thờ Phật vừa thờ thánh. Chùa Dâu xưa có quy mô hơn 100 gian. Niên đại khởi dựng chùa chưa xác định được nhưng căn cứ các dấu tích gạch, ngói tìm có thể xác định chùa được làm cuối thời Lý, đầu thời Trần. Tuy nhiên do chiến tranh và thiên tai, đến nay, chùa Dâu đã mất đi nhiều hạng mục kiến trúc cổ. Hiện tại, chùa có kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Mái chùa có nhiều bức phù điêu với hoa văn tản vân, nhật, nguyệt đẹp mắt. Trong chùa có 12 pho tượng, chất liệu gỗ, sơn son thếp vàng. Ngoài hệ thống tượng Phật cổ kính, hậu cung còn một khám lớn, chất liệu gỗ, chạm khắc tinh xảo, bên trong có tượng của công chúa Tiên Dung. Tượng được tạc ở tư thế ngồi, khoan thai, nét mặt phúc hậu. Theo những người cao tuổi địa phương, toàn bộ hệ thống tượng trong chùa đều được tạc bằng gỗ dâu. Tương truyền, dòng sông Hàn cạnh chùa thường xuyên xảy ra lũ lụt. Một lần nước lớn, lũ từ thượng nguồn đổ về cuốn theo một bè gỗ dâu lớn, thớ vàng óng như tơ. Mọi người cho là điềm lành bèn vớt lên lấy gỗ tạc thành tượng. Từ đó chùa có tên gọi là chùa Dâu. Viếng thăm chùa Dâu mới thấy nơi đây còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như 2 tấm bia thời Lê, một số mảnh tháp nung, mảnh đất nung đầu chim phượng, đất nung hình đầu rồng cùng gạch, ngói có hoa văn niên đại từ thế kỷ 13-14. Độc đáo và đặc biệt nhất là tấm bia thời Trần được bài trí ngay trước sân chùa. Bia được tạo dựng năm 1331. Nội dung của văn bia do hòa thượng Huệ Văn, một người tu hành tại đây soạn, có khoảng 1.180 chữ. Đây là một tác phẩm độc đáo về nghệ thuật điêu khắc. Bia cao khoảng 1,5m, được đặt trên lưng rùa đá khá lớn. Mái bia cong vừa phải, thân bia có một đường diềm chạm khắc hình rồng và hoa dây. Trán bia được trang trí bằng nhiều lá và hoa sen sống động, gần gũi với thiên nhiên. Nổi bật ở mặt trước bia khắc chữ Phật lớn dạng chữ thảo. Dưới chữ Phật có chạm hai hình, một bên là chim hạc đứng, đầu đội ngọn nến đang cháy. Một bên là con quỷ hình người đội đỉnh hương. Dưới chân bia có chạm khắc các hoa văn hình sóng nước, hình núi. Mặt sau bia có khắc 3 chữ Hán “Sùng Thiên tự”, dưới ghi họ tên những người cung tiến ruộng, tiền tu sửa chùa. Không chỉ độc đáo về kiến trúc và lễ hội, chùa Dâu còn là một trong những “địa chỉ đỏ” quan trọng. Chùa Dâu là nơi ghi dấu nhiều sự kiện cách mạng. Trước Cách mạng Tháng 8.1945, Mặt trận Việt Minh có một cuộc họp tại chùa bàn về cướp chính quyền, phá kho thóc của giặc Nhật ở huyện Thanh Miện chia cho dân nghèo. Năm 1945, khi giặc Pháp đánh chiếm thị xã Hải Dương, Hội Liên Việt tỉnh chọn địa điểm nhà chùa là nơi sơ tán. Đến năm 1945-1950, bộ đội Tây Sơn của huyện Gia Lộc đã chọn ngôi chùa làm địa điểm mở lớp huấn luyện. Từ đây, quân ta tỏa đi hướng đường 17, đường 20 tiến hành các trận phục kích đánh địch trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1949-1953. Các năm 1951-1952, cán bộ, du kích các xã Phạm Kha, Lam Sơn cùng bộ đội đã chọn chùa làm cơ sở bám dân tiêu diệt địch, phá tề diệt ác ôn ở chợ Chương, chợ Ba Đông. Hiện trong chùa vẫn còn hầm bí mật từ thời kỳ trước. Chùa Dâu là nơi vừa thờ Phật lại vừa thờ thánh. Lễ hội truyền thống của chùa được mở vào ngày 8 đến ngày 10 tháng 8 âm lịch. Vào dịp này, nhân dân, du khách thập phương về tham dự rất đông. Với kiến trúc, giá trị đặc sắc, chùa đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1992. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 111 lượt xem
Di tích lịch sử quốc gia Đền Đươi thuộc địa phận xã Thống Nhất, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi thờ Quốc mẫu Nguyên phi Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan. Vương phi Ỷ Lan còn có tên gọi khác Linh Nhân Hoàng thái hậu, bà là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông và là thân mẫu của hoàng đế Lý Nhân Tông – hai vị vua triều nhà Lý (ở thế kỷ XI). Quốc mẫu Ỷ Lan được lịch sử tôn vinh là bậc nữ kiệt, có tài trị nước. Sinh thời, bà từng hai lần đăng đàn nhiếp chính, có nhiều công lớn gây dựng triều đình nhà Lý và phát triển Phật giáo Việt Nam. Với gần một nghìn năm tồn tại, đền Đươi đã trải qua những biến cố, thăng trầm thời cuộc, chịu ảnh hưởng của thiên nhiên, mưa nắng và chiến tranh tàn phá. Nhiều hạng mục của đền xuống cấp nghiêm trọng. Vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, di tích còn giữ lại các hạng mục công trình mang dấu ấn kiến trúc niên đại thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) và thời Nguyễn kiến trúc kiểu chữ “quốc”, bao gồm: các toà Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, hai dãy giải vũ nối 2 toà Tiền tế với Trung từ. Trong khuôn viên quần thể di tích còn có ngôi chùa Quỳnh Hoa, nhà mẫu cũng xuống cấp nghiêm trọng. Để đáp ứng mong mỏi và nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương và du khách thập phương, quần thể di tích đền Đươi được đầu tư tu bổ tôn tạo các hạng mục cơ bản, gồm: các tòa Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, hai dãy hành lang tả hữu, nghi môn nội và một số hạng mục phụ trợ. Toà Tiền tế gồm ba gian, kiến trúc kiểu chữ “nhất” với bốn vì kèo chính. Hệ thống cột, đầu dư, vì kèo làm bằng gỗ lim, kết cấu “chồng rường, giá chiêng” cùng các bức chạm khắc tinh xảo. Hai tòa Tiền tế và Trung từ của ngôi đền kết nối bởi hai dãy giải vũ, tạo thành một không gian khép kín. Toà hậu cung có ba gian, trong đó có một gian cung cấm, bài trí khám thờ và tượng Nguyên phi Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Đặc biệt, Đền Đươi còn lưu giữ được nhiều đồ thờ, tế tự và cổ vật có giá trị, như bốn bộ kiệu, một long đình, bốn ngai thờ, một bộ bát bửu, hai câu đối, một bát hương đồng và hai nghê đá từ thế kỷ XVII. Tiếp nối dấu ấn lịch sử xưa, tại di tích năm 1943 - 1944 đội tuyên truyền giải phóng quân cũng như đội tự vệ của xã thường xuyên tổ chức luyện tập quân sự để chuẩn bị cho cao trào cách mạng dân tộc như đồng chí Thiều, đồng chí Tuệ (hiện là cán bộ, giáo viên đã nghỉ hưu). Tháng 8/1945 cán bộ cách mạng và quần chúng đã tập trung ở đến tiến đi giành chính quyền ở huyện Gia Lộc rồi sau đó về tịch thu bằng, triện của bọn quan lại, cường hào, lý dịch, xóa bỏ chính quyền của bọn thực dân phong kiến. Chính quyền lâm thời được thành lập trong niềm vui mừng phấn khởi của nhân dân. Năm 1946, bọn thực dân Pháp quay súng trở lại xâm lược nước ta, thị đội Hải Dương sơ tán về đền kịp thời chỉ đạo cuộc kháng chiến. Đội du kích của xã đã lấy khu đền làm địa điểm luyện tập quân sự. Năm 1947 đồng chí Trần Dừa, trưởng ty công an và đội việt hùng đã về đền đóng để đi tiêu trừ bọn Việt gian phản quốc. Năm 1948, ủy ban kháng chiến huyện Cẩm Giàng và đơn vị bộ đội Quang Trung sơ tán về đền làm việc và luyện tập. Sau đó là ủy ban kháng chiến xã Thạch Khôi sơ tán về để giữ vững hoạt động. Tại khu di tích còn được đào các hầm bí mật để che giấu bảo vệ cán bộ, bộ đội. Có thể nói trong suốt hai cuộc kháng chiến đền Đươi xã Thống Nhất là cơ sở của cuộc kháng chiến ở địa phương và là đường dây liên lạc lên chiến khu Việt Bắc. Tưởng nhớ bà, hàng năm cứ đến ngày 12 tháng 2 âm lịch là ngày sinh; và 25 tháng 7 là ngày mất của bà, nhân dân địa phương lại tổ chức lễ hội để nhắc lại công lao, sự nghiệp của Vương mẫu Ỷ Lan cho mọi người ghi nhớ và học tập. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 71 lượt xem
Đền Cuối là nơi thờ tự An Nghĩa Đại Vương Nguyễn Chế Nghĩa – một là danh tướng đời nhà Trần, người con của làng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (nguyên là xã Cối Xuyên, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu). Ông sinh ra trong một gia đình có danh vọng. Từ nhỏ ông đã có sức khoẻ lạ thường, giỏi cỡi ngựa, sử dụng giáo dài, thiên văn và binh pháp đều tinh thông, đồng thời lại thích ngâm vịnh và làm thơ. Nhờ thông minh, có tài, lại đúng thời nhà Trần cần người tài giỏi nên ông được đầu quân dưới trướng Phạm Ngũ Lão và tham gia các trận đánh chống quân nhà Nguyên và ở ải Chi Lăng. Ra trận, ông cưỡi ngựa, cầm giáo xông vào giữa đám quân giặc, đánh đâu thắng đấy... Khi giặc dẹp xong, ông được cử làm Khống Bắc đại tướng quân, tước Nghĩa Xuyên Công. Nguyễn Chế Nghĩa được ghi nhận là người có tính tình trung hậu, thẳng thắn, không ngại gian lao, nên được coi là một tướng tâm phúc, tài giỏi của nhà Trần. Vua Anh Tông yêu mến, gả con gái yêu là công chúa Ngọc Hoa cho ông. Khi tuổi cao, ông về nghỉ tại quê nhà Hội Xuyên. Hiện nay nằm trong quần thể di tích đền Cuối còn có chùa La Khởi, giáo trường (nơi An Nghĩa Đại Vương Nguyễn Chế Nghĩa rèn luyện võ nghệ và môn đánh thó cho dân binh), ao chiêm tinh (nơi ngài xem thiên văn để dự đoán thời tiết chỉ cho dân chúng làm ăn) và khu lăng mộ. Sự tồn tại đến ngày nay của những di tích này là một điều hiếm hoi và đáng tự hào của người làng Cuối. Lăng công chúa Nguyệt Hoa (phu nhân đức thánh), lăng công tử Sùng Phúc (con trai đức thánh) và lăng phát tích (phụ mẫu đức thánh) được làm bằng đá xây kiểu long đình, có tường đá bao quanh, đến nay có niên đại mấy trăm năm. Riêng lăng đức thánh nằm ở phía bắc làng trên một gò cao, thế “bạch tượng quyển hồ” (voi trắng hút nước) rộng 2 sào được xây bằng gạch từ thời Trần vẫn còn nguyên vẹn. Trước lăng có táp môn trên đắp chữ vạn thọ, hai bên lối vào có rồng chầu, phía sau lăng đắp hình voi trắng. Trong lăng có bia đá khắc chữ hán. Tạm dịch: Mộ quan nhập nội thị, Thái úy, Phò mã đô úy triều Trần, tôn thần họ Nguyễn, tên Chế Nghĩa, người bản xã cùng công chúa Nguyệt Hoa sắc phong thành hoàng... Lịch sử đã lùi xa song với 31 đạo sắc phong trong 300 năm liên tục (triều Lê 21 đạo, triều Tây Sơn 2 đạo, triều Nguyễn 8 đạo), người dân Cối Xuyên luôn tự hào về vị anh hùng của quê hương mình. Lễ hội đền Cuối diễn ra trong 3 ngày, từ 26 đến 28 tháng 8 âm lịch, bắt nguồn từ ngày giỗ tướng Nguyễn Chế Nghĩa (27 tháng 8). Dù đã qua hơn 600 năm cùng bao biến đổi thăng trầm của lịch sử song cả phần lễ, phần hội ở đền Cuối vẫn lưu giữ được những nét độc đáo riêng. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 82 lượt xem
Đền Quát là nơi thờ danh tướng Yết Kiêu, Đệ nhất đô soái thủy quân đức Thánh Trần triều. Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế (1242-1301), người thôn Hạ Bì, xã Yết Kiêu. Ông là một danh tướng nhà Trần, tài đức song toàn. Ông là tùy tướng, một trong hai tướng cầm cờ tiết chế của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, có biệt tài bơi lặn, nhiều lần đục thủng thuyền giặc Nguyên Mông làm nên những chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử, người có công lớn giúp nhà Trần 3 lần đại phá quân Nguyên ở thế kỷ XIII. Ông được vua Trần phong tặng “Trần triều hữu tướng, đệ nhất đô soái thủy quân, tước hầu”. Sau khi ông mất, Vua Trần đã ban sắc phong cho dân làng Hạ Bì lập đền thờ và suy tôn ông là Thành hoàng làng. Yết Kiêu còn được lập miếu, đền thờ ở nhiều nơi, nhưng lớn nhất vẫn là đền Quát. Khu đền Quát đã tồn tại hơn 700 năm, đến thế kỷ XVII-XVIII, đền được tôn tạo khang trang và được tu sửa nhiều lần vào triều Nguyễn với khuôn viên rộng 2.700 m2. Khu di tích đền Quát được xếp hạng là Di tích cấp quốc gia vào ngày 28/1/1989. Năm 2017, tỉnh Hải Dương hoàn thành việc tôn tạo, tu sửa ngôi đền này. Ngôi đền đã được tu bổ theo 3 giai đoạn với tổng kinh phí hàng chục tỷ đồng từ sự đóng góp của du khách và nhân dân địa phương. Lễ hội Đền Quát diễn ra vào mùa Xuân (từ ngày 10 đến ngày 20 tháng Giêng), mùa Thu (từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 8 âm lịch). Vào dịp này, nhân dân địa phương và khách thập phương trở về vùng sông nước Hạ Bì làm lễ tạ Thành Hoàng Yết Kiêu. Ngày 1 tháng 10, huyện Gia Lộc, Hải Dương đã tổ chức đón nhận Bằng ghi danh Lễ hội đền Quát là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và tổ chức khai hội truyền thống mùa Thu đền Quát. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 95 lượt xem
Ngôi chùa có tên chữ là Linh My tự, thuộc thôn Ngọc Lộ, xã Tân Việt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa. Chùa khởi dựng năm nào chưa rõ, quy mô lớn với đầy đủ các hạng mục: Thượng điện, thiêu hương, tiền đường, tam quan. Trải qua thời gian và chiến tranh, chùa bị tàn phá, rồi được trùng tu nhiều lần vào các năm 1781, 1797, 1817, 1826, 1908, 1912. Ngôi chùa hiện nay có bố cục kiểu chữ 工 Công gồm 13 gian, mang dấu ấn kiến trúc thời Nguyễn. Chùa hiện lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, trong đó có 11 tấm bia, 25 pho tượng. Hằng năm, chùa mở trọng hội vào ngày 17 tháng 7 âm lịch . Chùa được xếp hạng di tích quốc gia theo quyết định Quyết Định 04/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao - ngày 19/1/2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 74 lượt xem
Đền Từ Hạ nằm ở thôn Phúc Giới (xã Thanh Bính cũ) nay là xã Thanh Quang. Đền thờ ba vị Thành hoàng làng: Đặng Chân, Trịnh Thị Khang và Đặng Trí, có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân vào thế kỷ X. Không chỉ mang những giá trị văn hóa tâm linh, đền còn là nơi các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ chọn làm căn cứ sinh hoạt, hội họp, lãnh đạo nhân dân trong tỉnh đấu tranh chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1946 - 1954. Tại đây, vào tháng 11 năm 1951, lãnh đạo Tỉnh uỷ và Uỷ ban Kháng chiến tỉnh Hải Dương đã họp bàn kế hoạch với bộ đội chủ lực, quyết định đánh bốt Xuân Nẻo và Ô Mễ (Tứ Kỳ), mở ra cục diện mới đối với cuộc kháng chiến chống Pháp ở Hải Dương. Hiện nay, đền Từ Hạ còn lưu giữ khá nhiều cổ vật và đồ thờ tự thời Lê và thời Nguyễn, tiêu biểu như 8 đạo sắc phong thời Nguyễn vào các năm 1887, 1889, 1909, 1911 và năm 1924; ba pho tượng Thánh Phụ, Thánh Mẫu và Thánh Tử sơn son thếp vàng, 2 bức cuốn thư trang trí hoa lá cách điệu, 1 nghê đá thời Lê, 2 tấm bia thời Nguyễn… Với những giá trị lịch sử, văn hóa to lớn, đền Từ Hạ được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 99 lượt xem
Di tích lịch sử văn hóa Đình Lôi Động xã Tân An huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương được Bộ Văn hóa Thể thao nay là Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch công nhận cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa năm 1994. là nơi thờ 3 vị danh nhân Danh tướng Yết Kiêu, Người anh hùng nông dân kiệt xuất Nguyễn Hữu Cầu thế kỷ thứ 18 và tiến sỹ Nguyễn Như Ngu. Hàng năm vào ngày 12, ngày 13 tháng 3 âm lịch. Uỷ ban nhân dân xã Tân An, Ban quản lý di tích, cán bộ và nhân dân trong xã tổ chức Lễ dâng hương để tưởng nhớ công lao của 3 vị danh nhân đã có công với nước với dân và khơi dậy giá trị văn hoá truyền thống của quê hương Tân An. Cổng thông tin điện tử xã Tân An, huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 99 lượt xem
Đền Ngọc Hoa nằm giữa Trung tâm thôn Văn Tảo, xã Thanh An, đền ngự trên một thế đất đẹp, cổng quay hướng nam, lưng tựa vào thế chảy của dòng sông Rạng. Năm Khải Định thứ 9 có ghi: Sắc chỉ cho xã Văn Tảo phụng sự, phong cho Ngọc Hoa là bậc tôn thần chính trực, dịu dàng, giúp nước che chở cho dân, cho phép dân bản phụng sự thần. Đến tháng 2 năm 1994 đền được Bộ văn hóa – Thông tin cấp bằng di tích lịch sử cấp quốc gia. Để tưởng nhớ người con gái tuyệt sắc giai nhân Ngọc Hoa có tình yêu chung thủy với chồng là Phạm Tải. Hằng năm vào các ngày từ mùng 4 đến mùng 6 tháng 2 âm lịch, địa phương đều tổ chức Lễ hội truyền thống với nhiều hoạt động sôi nổi, mang đậm những giá trị văn hóa tâm linh độc đáo. Đền Ngọc Hoa ngự tại thôn Văn Tảo đã mấy trăm năm. Lúc đầu chỉ là ngôi miếu thờ, sau nhân dân thập phương góp công của cải tạo nâng cấp dần. Được sự giúp đỡ của ngành văn hóa - thông tin và công sức của nhân dân xã Thanh An và cả những người con quê hương xa xứ, đến nay, ngôi đền đã trở thành một khu di tích có tầm cỡ đẹp bậc nhất ở khu vực. Đền có diện tích 3.640m2. Phía ngoài là một công viên rộng gần 1.000m2 với nhiều cây đại thụ làm nên một quang cảnh bề thế thoáng đẹp. Khu hồ của đền có diện tích 3.490m2 tạo nên một không gian tĩnh lặng êm đềm. Đền có quần thể nhiều ngôi nhà kiến trúc đẹp, có sân thượng, có tả vu, hữu vu và hậu cung. Ngoài một số bia khắc chữ Hán dựng ở cổng đền và quanh khu vườn, trong khuôn viên còn tồn tại một số ngôi mộ chưa được xác định tính danh. Vào năm 1980, người ta đã khai quật một ngôi mộ cổ, phát hiện hài cốt một người con gái quấn nhiều lớp vải. Bấy giờ bảo tàng chưa xác định nguồn gốc hài cốt. Gian ngoài đền Ngọc Hoa có kiến trúc đẹp, mái cong lượn, cột dựng trên các phiến đá. Phần hậu cung như một cái am lớn, 2 cửa lách ra vào chỉ cao chừng đầu người. Tượng Ngọc Hoa đặt giữa bàn thờ trên cao. Bức tượng không lớn, cao chừng 60 phân nhưng được tạc khá tinh xảo: khuôn mặt tròn, mắt sáng, mũi cao, đôi má ửng hồng toát lên vẻ long lanh, đoan trang mà thanh thoát của một mỹ nữ nơi thôn dã. Theo người coi đền thì bức tượng đã có từ lâu lắm, không ai nhớ rõ nguồn gốc. Đền Ngọc Hoa và hội đền Ngọc Hoa với nghi lễ linh thiêng sùng kính, một tính ngưỡng tôn vinh giá trị truyền thống, ghi nhận công lao của tướng công Trần Công đã có công đánh giặc giữ nước; đồng thời đề cao giá trị đạo đức thủy chung tiết hạnh cần được tôn tạo, giữ gìn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 94 lượt xem
Chùa Cả ở xã Tân An (Thanh Hà) được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1994. Nơi đây còn lưu giữ nhiều cổ vật quý. Chùa Cả có tên chữ là Đại Từ Khâm Thiên tự. Theo sử sách, chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê, trùng tu lại với quy mô rộng từ năm 1881. Chùa Cả thờ vua Lý Nhân Tông. Tương truyền vua Lý Nhân Tông từng đóng đồn nơi đây để đi đánh giặc. Chùa còn thờ Phật hoàng Trần Nhân Tông mà nhân dân ở đây tôn là Thánh. Do đó, chùa Cả có hai chức năng vừa là đền, vừa là chùa. Chùa có kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường dài 21 m, rộng 7,5 m và 3 gian hậu cung dài 10,9 m, rộng 8,5 m. Điểm khác biệt của chùa Cả là tòa tiền tế có kiến trúc như ở đền, các góc đao cao vút, các bức phù điêu hình rồng được bàn tay khéo léo của nghệ nhân xưa chạm khắc tinh xảo... Hằng năm cứ vào ngày 30 tháng 10 và 1 tháng 11 âm lịch, xã Tân An lại tổ chức lễ dâng hương tưởng nhớ Phật hoàng Trần Nhân Tông và vua Lý Nhân Tông, cầu cho mưa thuận gió hòa, sản xuất thuận lợi, cuộc sống của người dân ngày càng sung túc. Vào những ngày này, nhiều người xa quê hương cũng về hội chùa. Từ khi xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia đến nay, ngôi chùa đã được trùng tu, tôn tạo lại với kinh phí hơn 2 tỷ đồng. Số tiền này do người dân nơi đây và du khách thập phương công đức, đóng góp. Nhân dân đã đóng góp hàng nghìn ngày công để tu sửa, xây dựng các hạng mục công trình trong khuôn viên chùa. Đến nay, khu di tích đã khang trang hơn nhưng vẫn giữ được hồn cốt linh thiêng, cổ kính. Chùa hiện có thêm tòa tam quan, phục hồi một số pho tượng, đồ thờ tự. Trong sân chùa đặt nhiều cây cảnh, hoa, tạo không gian tĩnh lặng, trong lành, hấp dẫn du khách. Chùa Cả còn lưu giữ nhiều cổ vật quý. Người có công gây dựng, phục hồi lại một số hạng mục của ngôi chùa là sư thầy Thích Quảng Nghiêm, hiện là trụ trì chùa. Chùa trước đó chưa có người chính thức trụ trì mà giao cho địa phương quản lý. Năm 2012, thầy Thích Quảng Nghiêm về tiếp quản chùa, trong khuôn viên còn nhiều chỗ bị bỏ hoang. Sau khi tiếp quản, sư thầy Quảng Nghiêm đã phân loại từng cổ vật và gìn giữ cẩn thận. Ngôi chùa còn giữ được tượng Phật A Di Đà cao gần 2,7 m (không kể bệ và đài sen). Đây là một trong những pho tượng gỗ cổ lớn của cả nước. Tượng được tạo dựng dưới thời Nguyễn, ghép liền nhau bởi những mảnh gỗ mà nhìn qua khó có thể nhận biết chỗ ghép nối. Tượng Phật với tư thế ngồi tọa thiền trên đài sen. Tuy có từ lâu đời nhưng nước sơn và chất liệu gỗ mít vẫn còn bền bỉ theo thời gian, chưa có dấu hiệu bị mục. Nơi đây còn lưu giữ 1 tháp đá cao 5 tầng ngay trước tiền đường. Hai tầng trên của tháp đá uốn đầu hình mai luyện, bốn góc uốn cong hình đầu long, trên đỉnh tháp có hình đài hoa đặt trên những cánh hoa sen đang nở. Đây cũng là tháp đá cổ quý hiếm mà ít chùa có được. Theo người già trong làng, chính tháp đá là nơi đặt xá lợi của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều tháp lăng mộ của các trụ trì qua nhiều đời, được chạm khắc với những đường nét cầu kỳ. Chùa còn có 5 tấm bia đá quý có giá trị, niên đại từ năm 1874-1933 ghi lại dấu tích từng thời kỳ lịch sử bằng tiếng Hán. Bên giếng chùa có đôi cá sấu đá từ thế kỷ 17 do nghệ nhân xưa chạm khắc, đường nét tinh tế. Chùa còn lưu giữ 11 sắc phong từ thời Lê, thời Nguyễn và 1 chiếc chuông đồng cao 1,2 m, đường kính miệng 56 cm. Trên chuông có chạm khắc những bài vịnh ca ngợi cảnh đẹp của chùa và người công đức đúc chuông. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 91 lượt xem
Chùa Hào Xá hay Chùa Hào (gọi theo Hán-Việt là Bạch Hào cổ thiền tự) , ở làng Hào Xá, xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; được xây dựng từ thời nhà Lý. Là ngôi chùa có phong cảnh sông nước hữu tình, mang nhiều nét độc đáo của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1993 và năm 2015; lễ hội chùa Hào Xá là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Làng Hào Xá, xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà nằm trên một giải đất hẹp ven sông Cửa Chùa - một nhánh của sông Hương. Thế đất của làng như hình con chim phượng hoàng xòe cánh. Chùa Hào Xá tọa lạc trên đầu chim có chùm lông màu trắng nên có tên chữ là Bạch Hào tự tức chùa Bạch Hào. Dân địa phương gọi tắt là chùa Hào Theo ngọc phả, chùa được xây dựng năm 1011 vào thời vua Lý Thái Tổ. Lúc đầu nhân dân trong vùng đã dựng chùa mang tên chùa Hào với quy mô ba gian chủ yếu bằng tranh tre lợp lá gồi, lá cọ để thờ Phật. Về sau, qua các triều đại, chùa được xây dựng lại và mở rộng thêm quy mô, thờ Phật, vua Trần Nhân Tông, thành hoàng làng và các vị sư trụ trì Theo ngọc phả và các tài liệu liên quan, vào thời nhà Trần, ở trang Hạ Hào (thời Hậu Lê, trang Hạ Hào đổi thành làng Hào Xá, thuộc xã Hương Đại, tổng Bình Hà, huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách; từ năm 1956, Hào Xá là một làng của xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà) có vợ chồng ông Nguyễn Danh Doãn và bà Phạm Thị Phương sinh được hai người con trai đặt tên là Nguyễn Danh Nguyên và Nguyễn Danh Quang. Hai anh em Nguyên và Quang học rất giỏi, tinh thông võ nghệ. Lớn lên, hai anh em kết thân với Lý Đình Khuê là bạn học và người cùng làng. Khi đi thi, cả ba người đều đỗ cao và được vua phong làm học sĩ, chuyên chăm lo việc giáo huấn trong cung. Khi giặc Nguyên Mông đem quân sang xâm lược nước ta, ba ông theo vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đi đánh giặc ở Phả Lại, Vạn Kiếp. Giặc tan, nhà vua hết lời ca ngợi, bia đá còn ghi lời vua nói: "Từ ngày nước nhà xảy ra chiến sự Tam Công ngày đêm miệt mài tu thân luyện chí tìm phương kế cứu nước, cứu dân" Ngày 6 tháng 1 năm 1293, Điều Ngự Đầu Đà Trần Nhân Tông du ngoạn đầu xuân và truyền giảng kinh sách bằng đường thủy. Đến trang Hạ Hào, ba cư sĩ tổ chức cùng dân làng mở hội đua thuyền để tiếp đón vị đệ nhất tổ thiền phái Trúc Lâm. Thấy phong cảnh sông nước hữu tình, Thượng hoàng hạ lệnh cho dựng lại chùa, mở rộng quy mô và đổi lại tên là chùa Bạch Hào, làm hoành phi câu đối, lập bệ thờ bằng đá hình tòa sen để thờ Phật và giao cho 3 ông ở lại tu tại chùa. Ít năm sau, ba vị cư sĩ được Đức Điều Ngự triệu về Yên Tử tu luyện rồi lần lượt "hoá" tại đây. Ghi nhớ công lao giúp dân giúp nước của ba ông, vua nhà Trần đã ban vàng bạc cho dân làng Hạ Hào lập miếu thờ và sắc phong làm thành hoàng, khắc vào đại tự "Tướng Hào tỏa sáng". Nguyễn Danh Quang được sắc phong là Phả Lại cư sĩ, Nguyễn Danh Nguyên là Phả Hộ cư sĩ, Lý Đình Khuê là Phả Tế cư sĩ. Ba vị cư sĩ được thờ tại chùa, được tôn là ba vị sư tổ đầu tiên của chùa. Hàng năm, cứ vào ngày mồng 4 - 6 tháng Giêng âm lịch, dân làng Hòa mở lễ, hội (đua thuyền...) cho đến ngày nay. Vào những năm 1540, thời nhà Mạc, tăng phó Trần Như Thừa đã quyên góp tiền của công đức xây dựng lại chùa gồm 60 gian lớn nhỏ theo kiểu nội công ngoại quốc. Sau này do mai một bởi thời gian thiên nhiên, bão lũ cũng như các cuộc chiến tranh thời Lê, thời Mạc, thời Nguyễn chùa cũng được tu sửa nhưng kiến trúc cổ không còn được giữ lại bao nhiêu. Hoà thượng Thích Gia Huệ trụ trì tại chùa từ năm 1954 cho đến khi viên tịch... Vào những năm cuối thập kỉ 90, đầu những năm 2000 các Tăng Ni, chư tôn Thiền đức trụ tại chùa, các tín đồ Phật tử và nhân dân đã tôn tạo chùa; tháp chuông và ngôi Tam bảo của chùa lần lượt được xây dựng khang trang. Trải qua thời gian, nhiều cuộc chiến tranh, đến nay các nét độc đáo, vật cổ giữ lại quá ít. Ngôi chùa hiện nay, bao gồm Tiền đường 5 gian, Hậu cung 2 gian, Nhà tổ 3 gian; tiền đường, được xây dựng theo kiểu chồng rường đấu sen; các vì kèo đều có chạm khắc hoa lá, trúc hoá long. Vào cuối thế kỷ 19, nghĩa quân Bãi Sậy lấy chùa Hào làm cơ sở trú quân. Trong chiến tranh Việt - Pháp, chùa Hào là nơi thành lập chi bộ đảng đầu tiên của xã Bình Hà (trước đó là tổng Bình Hà); nơi chứng kiến lễ ra mắt của Mặt trận Việt Minh huyện Thanh Hà; cơ sở hoạt động của cán bộ một số xã lân cận và nhiều chiến sĩ cách mạng; nơi đứng chân của một số cơ quan huyện, nơi đặt trạm giao liên giữa huyện với khu Hà Đông và thực hiện tiêu thổ kháng chiến với tháp chuông phải dỡ bỏ. Sư trụ trì của chùa là Ngô Văn Nhẫn kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những đảng viên đầu tiên của làng Hào. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 102 lượt xem
Chùa Minh Khánh (chùa Hương Đại, chùa Hương) tọa lạc ở làng Bình Hà thuộc thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; thuộc hệ phái Bắc tông, thờ Phật và đức vua Trần Nhân Tông; là di tích lịch sử văn hóa Quốc gia năm 1990. Chùa Minh Khánh được xây dựng vào thời Lý - Trần, được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ 16, 17, 18, 19. Năm 1992, sư trụ trì Thích Đàm tổ chức đại trùng tu ngôi chùa và xây tam quan. Hiện nay, chùa Minh Khánh có khuôn viên rộng hơn 1ha, bên trong còn bảo toàn được hệ thống tượng Phật, vườn tháp cổ và các di vật quý: lưu giữ trên 200 cổ vật như tượng, tháp, bia, cột đá, giếng nước...; 13 đạo phong của các triều Lê, Nguyễn (Vĩnh Khánh, Cảnh Hưng, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định...) và nghị định xếp hạng di tích của Toàn quyền Đông Dương năm 1925. Ở chánh điện, chùa còn lưu giữ 9 viên ngọc Xá lợi tương truyền là của Trúc Lâm đệ nhất tổ Trần Nhân Tông và tháp lưu huyết của Ngài. Lễ hội chùa Minh Khánh kéo dài 3 ngày liền, chính hội tổ chức vào ngày 1/11 Âm lịch hàng năm, kỷ niệm ngày đức vua Trần Nhân Tông viên tịch trên núi Yên Tử. Phần lễ có lễ rước sắc, rước mâm ngũ quả, lễ mộc dục và lễ tế. Phần hội gồm các trò chơi: cờ người, múa rối nước, chèo, thi mâm ngũ quả, thi làm bánh dầy…. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 96 lượt xem
Chùa Đồng Neo tọa lạc trên địa bàn thôn Cập Thượng, xã Tiền Tiến, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Được xây dựng vào năm 1699, niên đại của chùa có hơn 300 tuổi. Đây là ngôi chùa cổ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa vào ngày 31/12/1997. Chùa được xây dựng theo kiến trúc : “Nội công ngoại quốc", nhà côn sơn đương tiện, lối kiến trúc cổ, hoa văn tinh xảo và độc đáo là kiến trúc đặc trưng của thời Hậu Lê. Ngôi Tam Bảo được xây dựng theo kiến trúc chữ Đinh có 7 gian tiền đường và 3 gian hậu điện. Vật liệu để dựng chùa là tường gạch Bát tràng cổ và cột chống, mái bằng gỗ. Tại 4 góc mái là bốn mái đao cong vút chạm trổ đầu rồng. Mái chùa được dựng với kiến trúc đặc trưng thời Hậu Lê đó là theo dạn thức bộ vì kiểu “chồng rường" và “thượng rường hạ bẩy". Hệ thống chịu lực gồm 2 hàng cột gỗ lim, đường kính 0,40m, đều được kê trên chân tảng đá. Lối kiến trúc truyền thống rường - bẩy đã tạo ra nhiều khoảng không gian nền cho nghệ thuật chạm khắc gỗ dân gian ở tất cả các chi tiết: đầu dư, dép hoành, thân bẩy, các bức cốn mê, cốn nách, xà rồng, cửa võng... thể hiện các đề tài trang trí : Rồng - phượng trong phong cách nghệ thuật hóa thân : các linh vật luôn hóa đổi thành chim muông, hoa lá, cùng cảnh sắc thiên nhiên phong vân vần vũ, góp phần bổ khuyết cho kiến trúc, đồng thời nâng cao giá trị mỹ thuật, tôn thêm vẻ uy linh, nghiêm cẩn nơi thánh thần ngự tọa - một đặc điểm của tư duy kiến trúc đồng bằng Bắc Bộ : tự nhiên và cuộc sống luôn là đề tài chủ đạo cho mọi sáng tác nghệ thuật, nhất là nghệ thuật xây dựng các công trình kiến trúc tín ngưỡng. Trong ngôi Tam Bảo còn lưu giữ thờ tượng Phật vô cùng quý giá có từ thời Hậu Lê. Cách bài trí tượng thờ đặc trưng của các chùa miền bắc và sự kết hợp quan điểm Tam giáo đồng nguyên gồm 3 pho Tam Thế, tam Thánh Tây Phương, tượng Đức Bản Sư niêm hoa vi tiếu, tượng Di Lặc, tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế và Nam Tào Bắc Đẩu, tòa Cửu Long. Các đồ thờ trong chùa đều bằng gỗ và chạm khắc tinh xảo. Trong chùa có các hoành phi câu đối được chạm khắc tinh xảo như : đại tự “Hiển ứng linh", đại tự “Tuệ nhật viên dung"… có từ thời Nguyễn. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được hơn 100 bản khắc bằng gỗ mít gồm kinh Lăng Nghiêm và kinh Viên Giác. Sau chùa là 3 gian nhà Tổ, mới được trùng tu. Trước đây, vào thời kháng chiến chống Pháp nhà Tổ được kiến trúc theo hình chữ Nhị, nhưng đã được tháo dỡ 7 gian tiền đường để phục vụ kháng chiến. Hiện nay, trong nhà Tổ còn thờ tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và chư vị Tổ sư từng trụ trì tại chùa, đều là tượng cổ, điêu khắc độc đáo. Ngoài ra chùa còn nhiều cổ vật quý giá được lưu giữ qua nhiều thế hệ như : Thống đá đựng nước thời vua Lê Hy Tông năm Chính Hòa thứ 23 tức năm Nhâm Ngọ (1702). Thống đá cổ này do một gia đình họ Nguyễn làm quan trong triều Lê về tiến cúng. Chùa có chuông cổ ngày ngày vào lúc sớm chiều , chiêu mộ đều ngân vang, nhưng ít người được biết đến chuông được đúc từ thời Hậu Lê niên hiệu Chính Hòa thứ 21 tức năm 1700. Hơn 300 năm nay, tiếng chuông chùa luôn gắn bó với dân làng cũng như những người con sống xa quê. Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ các bia đá cổ : - Bia đá Đồng Neo tháp, 4 mặt khắc chữ có từ năm 1679. - Bia đá Linh ứng tự năm 1895. - Bia đá Hậu Phật ký năm Duy Tân thứ năm (1911) - Phía trước tháp chuông có một cây hương đài bằng đá cao 1,2m, có 4 cạnh rộng 0,18m có dòng chữ ghi : Lê triều Chính Hòa, nhị thập niên, Kỷ Mão phi việt cát nhật (nghĩa là năm 20 niên hiệu Chính Hòa 1699). Ngoài những bảo vật bằng đá, bằng đồng, chùa còn có vườn tháp cổ như các tháp - Tháp Minh Quang được xây bằng gạch 3 tầng, bia tháp ghi : Tự Đức thập nhất niên- năm Tự Đức thứ nhất (1864), là tháp thờ Hòa Thượng Thích Chiếu Khuông. - Tháp Thiên quan bảo tháp bằng gạch 3 tầng xây dựng thời vua Minh Mệnh 1827. - Tháp Phả Đồng Minh được xây dựng từ thời Nguyễn thờ 3 vị sư : Phổ Chiêu, Phổ Hiếu, Phổ Nghiêm. - Tháp có giá trị nhất là Tịnh Minh tháp bằng đá 3 tầng được xây dựng năm Tân Dậu, đây là tháp thờ Hòa thượng Thích Tường Tường. Trên tháp có đôi câu đối : Huân lao tịnh nghiệp thiết lâm đài, Lật ngật kình dương thành chế để" Hoà thượng Thích Chiếu Khuông sinh năm Mậu Tuất (1778) vào niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 39, người quê Siêu Loại - phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh.) Thân mẫu là Nguyễn Thị Đàm ở làng Đông. Đến triều Cảnh Thịnh năm thứ 3 (1796), Hoà thượng cùng 18 người vào chùa Khánh Quang thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Lâm Tế đàng ngoài làm lễ thế phát xuất gia. Hoà thượng là cháu đời thứ 9 của Thiền sư Chuyết Chuyết. Hoà thượng là người thông minh, dĩnh ngộ không khác gì một tỵ Tổ, chay tịnh làm theo các điều răn dạy của Phật Tổ. Đến niên hiệu Bảo Hưng năm thứ nhất (1801), Hoà thượng đã thụ giới cụ túc. Sau đó, Hoà thượng về chùa Đồng Neo trụ trì. Hoà thượng đã tiến hành sửa chữa thượng điện, làm mới tượng Phật, làm nhà để chúng Tăng ở. Đến thời vua Tự Đức, Hoà thượng làm lại nhà Tổ, tạc tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma (vẫn còn thờ tại nhà Tổ ngày nay). Năm Giáp Tý - 1865, Hoà thượng lúc này đã 87 tuổi đời, 64 năm tuổi hạ công đức tu hành đã viên mãn. Nhằm ngày 15 tháng 2, Hoà thượng ngồi trên đàn trà tỳ, chúng Tăng vĩnh biệt Hoà thượng với lòng tôn kính vô biên. Hoà thượng đã thâu thần thị tịch nhập Niết Bàn. Đồ chúng đã cung nghinh xá lợi Hoà thượng nhập phù đồ. Hàng năm, nhân dân Phật tử chùa Đồng Neo tưởng nhớ công đức của Giác linh Hoà thượng đối với Đạo pháp- Dân tộc đã tổ chức Lễ tưởng niệm để tri ân, báo ân đối với bậc Tổ sư cao Tăng đắc đạo. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Tiền Tiến , thành phố Hải Dương.
Hải Dương 108 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3515 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3051 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2505 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2448 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2364 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2252 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2136 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2129 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2098 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2076 lượt xem