Điểm di tích

Chùa Ông Mẹt

Chùa Ông Mẹt tọa lạc tại Phường 1, thành phố Trà Vinh. Tên gọi theo Phạn ngữ của ngôi chùa này là Bodhisàlaraja, người Khmer vẫn quen gọi là Wat Kompong, dịch nghĩa là Chùa Bến. Chùa Ông Mẹt là trung tâm Phật giáo Khmer tỉnh và được chọn đặt Văn phòng Trị sự Phật giáo Khmer hệ phái Mahanikay. Đầu thế kỷ 20, khi Thánh đường Công giáo được nhà cầm quyền thực dân đầu tư xây dựng thì cộng đồng phum sóc Khmer cũng chung sức xây dựng ngôi chùa Ông Mẹt trang nghiêm, bề thế như một hình thức tôn vinh các giá trị văn hóa dân tộc. Ngôi chùa gồm nhiều kiến trúc hài hòa nhau bao quanh ngôi chánh điện, trong khuôn viên rộng gần 1,3 ha có vòng tường kín bao bọc chung quanh. Cổng chùa Ông Mẹt là một kiến trúc đẹp với 8 trụ cột nâng đỡ mái cổng và chia cổng thành lối đi chính ở giữa rộng và hai lối đi nhỏ hơn ở hai bên. Trên đầu mỗi cột đều trang trí Chim thần Keyno hai mặt luôn tươi cười đón khách. Hai bên cổng là hai bờ tường vừa thấp dần vửa mở rộng, trang trí bởi cặp rắn bảy đầu theo phong cách nghệ thuật Khmer truyền thống. Chánh điện chùa Ông Mẹt quay mặt về hướng đông và được xây dựng trên nền tam cấp. Nền cấp một bằng đá xanh cao 1,35 m được bao bọc bởi hàng rào sắt cao gần 2 m và trên mỗi đầu cột rào đều có hình Bhrama bốn mặt. Trên bệ thờ bên trong ngôi chánh điện là cốt tượng Đức Phật Thích Ca uy nghi trên tòa sen cao 4,4 m; dài 5 m và rộng 4,3 m. Chung quanh tượng lớn này còn có nhiều tượng Phật nhỏ hơn bằng nhiều chất liệu như đá, xi măng, đồng, gỗ… với nhiều kích thước và tư thế khác nhau. Phía sau chánh điện là Thư viện với lối kiến trúc độc đáo nhà sàn gỗ truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ xưa. Toàn bộ 24 đầu cột, xiên tâm, xiên dọc… đều được chạm khắc công phu, sơn son thếp vàng. Thư viện có ba gian, gian giữa là nơi chứa sách, trong đó có nhiều thư tịch cổ; hai gian hai bên là nơi đọc sách, học tập của các vị sư sãi và bà con trong phum sóc. Trong khuôn viên chùa Ông Mẹt còn có một số kiến trúc như tăng xá, Văn phòng Trị sự Phật giáo hệ phái Mahanikay, giảng đường, sala thờ Neakta, tháp tưởng niệm… Xuất phát từ chùa Ông Mẹt, phong trào đấu tranh đòi dạy và học chữ Phạn, chữ Khmer lan rộng khắp các nhà chùa, các phum sóc trong tỉnh, chống lại chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp. Sau đó, không chỉ dạy và học chữ Khmer mà chữ quốc ngữ cũng được đưa vào giảng dạy, tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc thuận lợi hơn trong việc học tập, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Vừa học chữ, học kiến thức, các thế hệ sư sãi Khmer tại chùa Ông Mẹt còn được chú trọng nâng cao lòng yêu nước, ý chí căm thù kẻ xâm lược. Do đó, ngôi chùa này là nơi xuất phát phong trào đấu tranh chính trị của sư sãi, đồng bào Khmer trong tỉnh và là nơi che chở cho rất nhiều thanh niên các dân tộc trong tỉnh không phải đi lính cho địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chính vì vậy, khi trận tiến công Xuân Mậu Thân đang diễn ra, kẻ thù cho máy bay ném bom gây hư hại nặng. Chùa Ông Mẹt đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 2009. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh 104 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

DI TÍCH LỊCH SỬ CHÙA PHNÔ OM PUNG (SIRIVANSARÀMA)

Chùa Phnô Om Pung (Sirivansaràma) hay còn gọi là chùa Long Trường, tọa lạc tại ấp Long Trường, xã Tân Hiệp, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Chùa được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 15/3/2016. Tháng 8 năm 1945, lực lượng Thanh niên Tiền phong, quần chúng nhân dân xã Long Hiệp và khoảng 30 vị sư của chùa Phnô Om pung, trong đó có sư cả đã dùng các loại vũ khí thô sơ như gậy gộc, tầm vông vạt nhọn, súng giả nổi dậy biểu tình thị uy rầm rộ. Trước sức ép mạnh mẽ của quần chúng nhân dân và sự vận động tích cực, nhiệt tình của các vị sư, bọn Tề xã đã giao lại chính quyền cho cách mạng. Tháng 9/1946, Chi bộ xã Long Hiệp đầu tiên được thành lập, Chùa Phnô Om Pungbộ đã được chọn làm cơ sở nuôi chứa, bảo vệ lực lượng cách mạng. Trong giai đoạn từ năm 1946 đến 1950, tiểu đoàn 310 thuộc lực lượng quân khu 9 đánh trận Nômen, có sự tham gia của quân du kích địa phương, phật tử và sư sãi của chùa Phnô Om Pung. Trong trận đánh này, lực lượng của ta đã giành thắng lợi. Tháng 4/1953, dựa vào bọn gián điệp chỉ điểm nên bọn địch phục kích và bắt được đồng chí Thạch Ngọc Biên đang trú ẩn trong tủ tại chùa Phnô Om Pung. Lúc này chúng tra tấn đồng chí trước sân chùa đến ngất xỉu. Thấy vậy, sư cả vận động các vị sư sãi trong chùa biểu tình để gây áp lực cho bọn địch. Do đã bắt được lực lượng cách mạng của ta trú ấn ngay tại chùa, nên bọn địch xem chùa là cái gai trong mắt, chúng luôn tìm mọi cách lùng sục, bắt bớ, bắn phá chùa. Cũng trong năm này chùa bị bắn cháy hoàn toàn, có 5 phật tử và 2 vị sư của chùa bị thương. Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, lực lượng cách mạng gặp nhiều khó khăn, địch bắt bớ giam cầm nhiều cán bộ, tìm mọi cách cô lập gia đình kháng chiến. Tuy vậy, nhiều gia đình không ngại khó khăn gian khổ, chấp nhận hy sinh để nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng trong đó có sư sãi chùa Phnô Om Pung. Nhà chùa làm hầm bí mật để nuôi chứa cán bộ cách mạng. Đặc biệt, trong chính điện là nơi tôn nghiêm nhất, nhưng các vị sư đã không ngại nuôi chứa cán bộ trong hầm dưới tượng Phật Thích ca. Năm 1960, chùa Phnô Om Pung được lực lượng cách mạng chọn làm địa điểm in ấn nhiều loại truyền đơn, khẩu hiệu và nuôi chứa bảo vệ cán bộ cách mạng đóng tại chùa. Từ năm 1961 - 1968, chi bộ vận động nhường cơm xẻ áo và chia cấp ruộng đất cho nhân dân, chùa Phnô Om Pung cũng tích cực tham gia đóng góp “Lạc quyên” để cung cấp lương thực cho lực lượng cách mạng. Trong lúc này, tại chùa mở trường dạy học giáo lý, pali và các lớp phổ thông. Thông qua các lớp học này, các vị sư sãi và cán bộ cơ sở đã tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, giải thích âm mưu thâm độc của kẻ thù, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cách mạng. Từ những lớp học này nhiều người sau đó trở thành những cán bộ chiến sĩ cách mạng. Giai đoạn 1969 - 1971, Phnô Om Pung tiếp tục nuôi chứa bảo vệ nhiều cán bộ của xã, huyện và tỉnh. Qua hai cuộc kháng chiến các vị sư sãi và phật tử bất chấp những khó khăn nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng và tham gia kháng chiến. Chùa Phnô Om Pung đã đóng góp một phần vào công cuộc giải phóng đất nước. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh 93 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng chùa Bào Môn

Chùa Bào Môn cò gọi là chùa Đom Bon Bak tọa lạc ở ấp Bào Môn, xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ngay từ những ngày đầu khi Chi bộ xã Đôn Châu thành lập, Chi bộ đã đến chùa Bào Môn để xây dựng cơ sở hoạt động hợp pháp, làm nơi nuôi chứa cán bộ đồng thời vận động các nhà sư lập ra Ban Tăng sự yêu nước tỉnh, tổ chức biểu tình chống bắt lính, đòi giảm tô giảm thuế. Năm 1946 – 1950, thông qua các lớp học, chi bộ đã tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, giải thích âm mưu thâm độc của kẻ thù, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cách mạng cho thanh niên. Từ những lớp học này nhiều người sau đó trở thành những cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Năm 1951, trong trận càn vào ấp Bào Môn và ấp Mồ Côi, xã Đôn Châu địch bắn chết một số cán bộ, sư cả chùa Bào Môn đã vận động phật tử đưa xác các cán bộ về chùa tổ chức mai táng. Sau đó trong một trận càn của lính Commendo thì nhà chùa đã đưa một số cán bộ vào các tháp, và trần chính điện ẩn náu. Nhiều cán bộ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp đã được nhà chùa nuôi chứa, đùm bọc, chở che. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chùa Bào Môn tiếp tục là cơ sở vững chắc của cách mạng. Nhiều hầm bí mật được làm trong khuôn viên chùa, dưới bệ thờ Phật, trên trần chính điện và ngay trong phòng của sư cả. Cuối năm 1968, địch phát hiện lực lượng du kích đóng tại chùa, chúng đưa quân đến bao vây và kêu gọi đầu hàng. Trước tình thế khó khăn đó, với sự nhạy bén, sư cả cho tiểu đội du kích xuống xi-tẹt nước trước chính điện, rồi bằng những lời lẽ khéo léo, kiên quyết, sư cả giải thích cho bọn địch hiểu đây là nơi tu hành, mình là người Khmer phải tôn trọng người tu hành và chùa chiền. Trước những lý lẽ thuyết phục của sư cả, bọn địch cũng không tìm được chứng cớ đành phải rút đi trong sự tức giận. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Trà Vinh, hòa thượng Kim Tốc Chơn – Trưởng Ban Sãi vận tỉnh đã phân công sư Lâm Rường Sơn (chùa Bào Môn) cùng các vị sư Sơn Song, Thạch Sương, Sơn Sa Ra vào dinh tỉnh trưởng thuyết phục tên Nguyễn Văn Sơn tỉnh trưởng Vĩnh Bình kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền đầu hàng góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho kháng chiến” bà con phật tử, sư sãi chùa Bào Môn đã đóng góp hàng chục lượng vàng, hàng ngàn giạ lúa và nhiều vật dụng khác. Có 25 vị sư và phật tử đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Riêng sư cả được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, Huy chương vì sư nghiệp phát triển dân tộc. Chùa Bào Môn được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 10/6/2005. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh

Trà Vinh 114 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu

Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu thuộc ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Tháng 7/1959, để chi viện nguồn lực cho cách mạng miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập đơn vị vận tải quân sự trên biển – Đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125). Đến đầu năm 1961, Trung ương ra chỉ thị cho các tỉnh gồm Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau chuẩn bị bến bãi và tổ chức tàu thuyền ra Bắc để thăm dò đường vận chuyển vũ khí vào Nam. Tháng 9 năm 1962, đồng chí Phạm Thái Bường, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Cục miền Nam ra quyết định thành lập Đoàn 962 quản lý các bến tiếp nhận vũ khí các tỉnh. Bến Trà Vinh do đồng chí Lê Văn Sến (Năm Sến) – Phó chính ủy Đoàn 162 trực tiếp phụ trách. Thời gian này, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định chọn 2 xã ven biển là Trường Long Hòa và Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải (nay là các xã: Trường Long Hòa, Dân Thành thuộc thị xã Duyên Hải; xã Đông Hải, Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải) để mở bến tiếp nhận vũ khí. Cụm Bến 1 thuộc khu vực vàm Rạch Cỏ – La Ghi, cụm Bến 2 thuộc khu vực Phước Thiện, Hồ Tàu, Khâu Lầu, Láng Nước. Những khu vực này là vùng căn cứ cách mạng, luôn là mục tiêu tấn công của địch vì vậy việc che giấu, vận chuyển vũ khí vô cùng gian nan vất vả. Ngày 17 tháng 3 năm 1963, Bến Trà Vinh tiếp nhận chuyến tàu đầu tiên vào vàm Phước Thiện. Với địa thế sông ngòi chằng chịt, rừng ngập mặn nhiều cây thấp có thể cho tàu có trọng tải lớn ép vào để ngụy trang, con tàu đã được cất giấu an toàn. Tiếp đó là chuyến thứ hai vào vàm Láng Nước chở theo 70 tấn vũ khí. Từ năm 1963 đến 1966, Bến Trà Vinh đã đón 16 chuyến với 689 tấn hàng. Riêng Bến Cồn Tàu đón 10 chuyến, trong đó năm 1963 đón 4 chuyến, năm 1964 đón 6 chuyến. Tuy hoạt động chỉ trong thời gian ngắn, nhưng Bến Trà Vinh là một mắc xích quan trọng của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển và Bến Cồn Tàu là trọng tâm của mắc xích quan trọng ấy. Năm 2004, Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Đến năm 2010, Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được đầu tư xây dựng, đưa vào hoạt động với diện tích 1,2 ha gồm Bia tưởng niệm và Nhà trưng bày hình ảnh, hiện vật gắn liền với chiến công của quân dân Trà Vinh đối với tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến tham quan khu di tích, du khách có thể thắp nén hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh khi làm nhiệm vụ trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, tham quan Nhà trưng bày, nhìn Bia tưởng niệm vươn cao trong nắng mới như nhắc nhớ chiến công năm xưa và truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh

Trà Vinh 107 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Phước Mỹ Tự

Di tích chùa Phước Mỹ thuộc ấp Bến Chùa, xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang. Chùa Phước Mỹ còn gọi là chùa Cây Quăn hay chùa Bà Sở. Gọi là chùa Cây Quăn là vì trước đây bên bờ sông phía trước chùa có cây quăn lớn nên bà con lấy đặc điểm này gọi tên chùa. Gọi là chùa Bà Sở vì ngôi chùa do bà Phạm Thị Đồ còn gọi là Bà Sở một lưu dân người Gò Công về đây lập nghiệp tạo dựng vào năm 1886. Ngôi chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng hơn 1 hécta, phía trước là sông Thâu Râu. Bến sông trong kháng chiến là Khu Căn cứ Tỉnh ủy (Khu Căn cứ Ấp 5, Mỹ Long). Cách chùa khoảng 500m về phía Nam là khu Căn cứ Huyên ủy (Khu Căn cứ Rẫy Tiều). Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ngôi chùa là cơ sở của cách mạng, là địa điểm dừng chân đóng quân của nhiều đơn vị. Các nhà sư, phật tử hết lòng đùm bọc, chở che và đóng góp tiền của phục vụ kháng chiến. Mọi người luôn tin tưởng vào Đảng vào sự nghiệp cách mạng, vì vậy nơi đây là chỗ dựa để Huyện ủy Cầu Ngang xây dựng khu căn cứ kháng chiến. Ngay khi Chi bộ Hiệp Mỹ ra đời, Chi bộ đã chọn chùa là một trong những địa điểm hội họp, tuyên truyền phát động các phong trào đấu tranh và được quần chúng nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ phong trào cách mạng lắng xuống, chùa Bà Sở đón đồng chí Tám Sự được trên điều về vào trụ trì chùa nhằm che mắt địch hoạt động gầy dựng lại cơ sở. Đồng chí được bà con phật tử nuôi chứa, chở che. Trong công cuộc “Trường kỳ kháng chiến” để khống chế phong trào cách mạng trong vùng, tháng 6/1951 thực dân Pháp đưa bọn Leon Leroy từ Bến Tre sang dùng tàu theo sông Thâu Râu vào đóng đồn tại chùa Bà Sở. Nhưng chỉ một tháng sau với sự hỗ trợ của bà con phật tử, Đại đội 380 của ta đã tập kích đồn làm địch thương vong nặng. Bước sang giai đoạn chống Mỹ chùa Bà Sở tiếp tục là trụ sở, là địa điểm dừng chân đóng quân của nhiều cơ quan như: Huyện đội, hậu cần, dân y, công trường huyện, Xã ủy, Huyện ủy, Tỉnh ủy… Cũng tại chùa, ngày 5/12/1974 đồng chí Nguyễn Trường Thọ, Phó Bí thư Tỉnh ủy, chính trị viên tỉnh đội tổ chức cuộc họp với Thường vụ Huyện ủy, ban chỉ huy các Tiểu đoàn 501, 512, 509 triển khai kế hoạch giải phóng nông thôn, giải phóng Cầu Ngang. Vì nằm trong vùng căn cứ lại là địa điểm đóng quân của ta, cho nên trong kháng chiến ngôi chùa cũng là mục tiêu càn quét, bắn phá của địch. Nhiều lần chùa bị bom đạn làm hư hỏng, có giai đoạn địch chiếm chùa làm trụ sở. Thế nhưng các sư và phật tử vẫn tin tưởng vào Đảng, bất chấp hy sinh đùm bọc, chở che bảo vệ cơ sở cách mạng. Chính nơi đây đã khởi xướng nhiều phong trào đấu tranh chính trị, phong trào bao vây bức rút đồn bót, phong trào phá ấp chiến lược. Ngoài ra, nhà chùa và bà con phật tử cũng đóng góp nhiều của cải cho cách mạng. Với những thành tích đó, ngày 10/12/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận chùa Phước Mỹ (chùa Bà Sở) là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh 92 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Giác Linh (Chùa Dơi)

Chùa Giác Linh tọa lạc trên một động cát cao thuộc ấp Nhứt A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Chùa Giác Linh còn gọi là chùa Dơi vì trước đây trong khuôn viên chùa có nhiều loài chim tru ngụ trên các cây cổ thụ trong đó có loài dơi quạ, cho nên mà bà con lấy đặc điểm này để gội tên chùa. Bước vào cổng chùa, bên phải là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát khá lớn, đang mở lòng từ bi bát ái đem phép mầu nhiệm cứu độ chúng sinh. Đi thêm vài chục mét, ta sẽ gặp ngôi chùa. Chùa dựng trên một khoảnh đất cao, được bao um tùm bởi nhiều loại cây: mã tiền, mù u, nhọc, tre… tạo nên nét u tịch, linh thiêng. Vào trong chùa, ta sẽ nhận thấy được nét khác biệt của chùa Giác Linh với những chùa Phật khác. Bàn thờ Phật không bố trí tượng thờ theo thứ tự: Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn… như ở những chùa Phật Đại thừa (Mahayana) thường có. Chùa không chỉ thờ Đức Phật cùng những vị liên quan đến Phật giáo: Bồ Tát, La Hán… mà còn thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, và dung hợp cả tín ngưỡng dân gian: Bà Chúa Xứ, Táo Quân, Cậu Tài, Cậu Quí. Chính từ cách nghĩ của những nhà tu, cho nên phật tử không chỉ chú trọng việc đạo mà cả việc đời. So với những ngôi chùa khác về qui mô xây dựng, giá trị kiến trúc, điêu khắc thì chùa Giác Linh quả khiêm tốn. Chùa chỉ có bộ bao lam bằng gỗ sơn son thiếp vàng với đề tài tứ linh là đáng nói. Tuy nhiên, ngôi chùa thật giàu thành tích cách mạng. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, Linh Sơn Điện đã là tụ điểm hội họp, sinh hoạt của những nghĩa sĩ yêu nước chống Pháp trong tổ chức Thiên Địa Hội. Năm 1922, tổ chức Thanh Niên Đỏ của tỉnh được thành lập nơi đây, trong đó có đồng chí Dương Quang Đông. Rồi một trong ba Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Trà Vinh – Chi bộ Mỹ Long cũng chọn địa điểm này hội họp thường xuyên trong những năm đầu thành lập. Và trong cuộc biểu tình của 300 nông dân năm 1931 đòi “dân sinh, dân chủ” băng, cờ búa liềm bay trên rào chùa. Đến năm 1934 – 1935, chùa lại được chọn làm trụ sở của cơ quan Liên Tỉnh uỷ Vĩnh – Trà – Bến. Giai đoạn cận Cách mạng Tháng 8 năm 1945, để nắm bắt thời cơ khởi nghĩa giành thắng lợi, ngôi chùa lại chứng kiến một cuộc họp trù bị nhằm củng cố lại Xứ uỷ, do đồng chí Dương Quang Đông triệu tập. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ni cô Phụng – một bậc chân tu của chùa đã dùng tiếng mõ làm tín hiệu triệu tập hoặc giải tán cán bộ cách mạng khi hội họp hay lẫn tránh lúc có động. Sang giai đoạn chống Mỹ cứu nước, ni cô Phụng trở thành ni sư trụ trì chùa, dưới sắc áo nhà tu đã che mắt bọn địch bằng những chuyến hành hương, đã vận chuyển vũ khí cho tổ chức cách mạng. Những năm 1966 – 1967 chiến tranh ác liệt, mặt phía tây nam trong khuôn viên chùa có một hệ thống chiến hào dài hơn 300m được đào nhằm chống lại các cuộc hành quân, càn quét của địch. Cũng trong giai đoạn này, dựa vào sự tĩnh mịch của chốn tu hành, sự um tùm của cây cối, hàng chục hầm bí mật được đào trong khuôn viên chùa để cán bộ ẩn tránh. Đặc biệt, cả đại hồng chung cũng được nhà chùa hiến cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc. Năm 1970, địch đến đóng đồn sát rào chùa, nhằm khống chế cách mạng vùng Mỹ Long và cũng để theo dõi các nhà tu hành. Dù vậy, ni sư Phụng vẫn một lòng một dạ bám trụ chùa, để một năm sau ta đã công kích bọn chúng phải bỏ đồn rút chạy. Chùa Giác linh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 24/01/1998. Chốn “Thiền môn bất cấm vô duyên khách” này giờ đây luôn rộng cửa đón chúng ta đến suy ngẫm về đạo về đời. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh

Trà Vinh 93 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chùa Teakhinasakor Ta Lôn

Chùa Teakhinasakor Ta Lôn (Cái Cối) tọa lạc ở ấp Cái Cối, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Trong những năm kháng chiến, ngôi chùa không chỉ là cơ sở hoạt động bí mật, địa điểm nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng, mà còn là nơi xuất phát nhiều phong trào đấu tranh chính trị. Ngay từ khi Chi bộ xã Long Vĩnh được thành lập (04/9/1933), Chi bộ bàn với sư cả Triệu Minh Tên chọn chùa làm cơ sở hoạt động hợp pháp của cách mạng, tổ chức nuôi chứa, bảo vệ cán bộ và mở các lớp học cho sư sãi, con em trong vùng. Thông qua các lớp học này, ngoài việc học chữ, giáo lý các thầy còn tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Nghi ngờ chùa Ta Lôn là cơ sở của cách mạng, năm 1943, tiến hành lục soát ngôi chùa nhưng không phát hiện được gì, chúng tức giận cho đốt cháy ngôi chánh điện và một tăng xá. Hành động của địch càng làm tăng thêm nỗi căm hờn trong sư sãi, phật tử và quần chúng nhân dân nơi đây. Năm 1948, ngôi chùa một lần nữa bị địch đến lục soát. Cũng như lần trước, không tìm thấy chứng cứ tên Prụm Yên cầm đầu lại cho lính đốt ngôi chính điện. Sang thời kỳ chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Long Vĩnh, cơ sở cách mạng chùa Ta Lôn không ngừng phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất. Đầu năm 1955, địch ráo riết khủng bố quần chúng, trả thù những người kháng chiến gây cho ta một số thiệt hại. Để đối phó với tình hình, các vị sư chùa Ta Lôn bất chấp khó khăn, nguy hiểm và cả tính mạng của mình đã tổ chức nuôi chứa cán bộ ngay tại phòng riêng của mình. Năm 1959, địch mở cuộc hành quân ruồng bố thẳng tay bắn phá, giết người cướp của và bắt những người dân mà chúng tình nghi là “cộng sản nằm vùng”. Trong chiến dịch này, bọn chúng đã bắt sư cả Sơn Hiến và 4 vị sư cùng 3 phật tử chùa Ta Lôn. Cuối năm 1960, tại sân chùa Tà Lôn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng xã Long Vĩnh được thành lập và ra mắt trước hơn 500 đại biểu quần chúng. Trong buổi lễ có hơn 20 vị sư do sư cả nhì Sơn Thượng lãnh đạo khi hoàn tục đã tình nguyện tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc. Tháng 02/1962, không thực hiện được ý đồ gom dân vào ấp chiến lược, địch bỏ thuốc độc vào nguồn nước ngọt làm chết 2 trẻ em và 1 vị sư chùa Ta Lôn. Tháng 5/1964, địch cho máy bay ném bom và tàu thủy quân lục chiến đậu ở cửa biển Định An nã đạn pháo vào chùa Tà Lôn làm hàng chục ngôi nhà, chủ chùa là ông Sơn Rượng chết cùng 8 phật tử bị thương. Ngôi tha la bị cháy rụi và chánh điện bị sụp đổ một phần. Những năm 1965-1968, địch mở nhiều cuộc hành quân càn quét và sử dụng máy bay phun thuốc khai hoang, rải chất độc màu da cam. Ngày 22/02/1966, 18 vị sư và hơn 100 phật tử của chùa kéo ra khu trù mật Cái Đôi đấu tranh với địch. Cuộc đấu tranh của sư sãi và đồng bào Khmer Long Vĩnh được sư sãi và đồng bào Khmer cả tỉnh hỗ trợ nên đã giành thắng lợi. Với những thành tích đóng góp cho sự nghiệp giải phóng đất nước, các vị sư và phật tử chùa Ta Lôn được Nhà nước tặng nhiều bằng khen, huân, huy chương. Ngày 18/4/2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận chùa Ta Lôn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh 99 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Miếu Tiền Vãng

Miếu Tiền Vãng còn gọi là miếu Tiên Sư, tọa lạc trong khuôn viên trường Tiểu học Lê Văn Tám thuộc khóm 1, phường 1, thành phố Trà Vinh. Ngược dòng lịch sử khi thực dân Pháp vào Đông Dương rồi đặt chân lên đất Trà Vinh vấn đề đặt ra là họ cần có một số người biết tiếng Pháp, tiếng Việt phục vụ trong bộ máy chính quyền. Ban đầu họ tuyển chọn những người biết tiếng Pháp, tiếng Việt ở các nhà thờ công giáo, nhưng nhu cầu ngày càng nhiều, vì vậy nền giáo dục Pháp – Việt ra đời vào những năm cuối thế kỷ 19. Ngôi trường để đào tạo ở Trà Vinh là Ecole primaire Complementaire de Tra Vinh. Theo thời gian học sinh ngày một đông, ngôi trường cũng được mở rộng, nhiều thế hệ thầy cô giáo cũng đã ra đi vì bom đạn, khói lửa của chiến tranh. Năm 1943, với lòng tôn sư trọng đạo bằng sự tâm huyết của các vị giáo chức trong đó có công lao rất lớn của thầy Phạm Văn Lược, thầy Vương Hảo Thuận và thầy Võ Văn Hợi đề xuất và tiến hành xây dựng ngôi miếu thờ phụng các thầy cô giáo. Để có kinh phí xây dựng ngôi miếu, thầy Phạm Văn Lược và thầy Vương Hảo Thuận đã xin quan đầu tỉnh lúc bấy giờ cho tổ chức “Hội chợ phiên” trong khuôn viên của trường và xin giữ lại một phần kinh phí. Sau một thời gian gom góp, hai thầy đã cho khởi công xây dựng ngôi miếu theo bản thiết kế của thầy Võ Văn Hợi. Sau gần nửa năm thi công đến cuối năm 1943 ngôi miếu được hoàn thành. Tọa lạc giữa sân trường là ngôi miếu nhỏ quay mặt về hướng Nam. Kết cấu ngôi miếu theo kiểu tứ trụ đâm chái, khung sườn chịu lực, cửa vách đều bằng gỗ. Mái lợp ngói âm dương tiểu đại, bịt đầu mái là loại ngói có tráng men màu xanh ngọc dạng cánh sen. Nền miếu lát gạch. Đặc biệt, hai bên tả hữu ngôi miếu còn có hai giàn trống chiêng. Bên tả là giá trống, bên hữu là giá chiêng. Giá trống chiêng thiết kế theo kiểu nhị long cửu đao. Cửa miếu treo tấm biển đại tự “ký ức bất vong” viết bằng chữ Hán. Trong miếu, ngay giữa là bàn thờ, phía sau là tấm bia đá. Tấm bia đá này trước kia có đính tên 139 thầy cô giáo, có cả giáo viên người Pháp, người Việt, người Hoa, người Khmer đã có công trong sự nghiệp giáo dục và đã qua đời, nhưng hiện nay những bảng đồng đính vào bia không còn, chỉ sưu tầm được một số danh tích thầy cô. Cũng như nhiều công trình khác, thời gian đồng hành với hư hỏng. Từ ngày xây dựng đến nay, ngôi miếu đã qua ba lần trùng tu, sữa chữa nhưng vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Miếu Tiền Vãng biểu trưng độc nhất vô nhị trên đất Trà Vinh – biểu trưng của lòng tôn sư trọng đạo, nơi ghi công, tôn vinh các thế hệ thầy cô giáo có công trong sự nghiệp giáo dục, được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 10/12/2004. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh 93 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Ông (Chùa Phước Minh Cung)

Phước Minh cung còn có các tên gọi khác là Chùa Quan Thánh đế hay Chùa Ông là cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng người Hoa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Như tên gọi chùa Quan Thánh đế, vị thần chính được thờ tại Phước Minh cung là Quan Công, tức Quan Vũ hay Quan Vân Trường – viên tướng văn võ song toàn, nổi tiếng trung hiếu tiết nghĩa của lịch sử Trung Hoa thời Tam quốc. Cùng được phối tự với Quan Thánh đế tại Phước Minh Cung còn có Phước đức chính thần, Chúa sanh nương nương và hai vị tùy tướng của Quan Thánh đế là Quan Bình và Châu Xương. Phước đức chính thần trong quan niệm của người Hoa ở Trà Vinh là sự đồng nhất giữa Thổ công, Thần tài và Bổn đầu công. Riêng Bổn đầu công, hay còn gọi là ông Bổn là viên quan có tên Trịnh Tu Hòa – người được hoàng đế nhà Minh cử đi thương thuyết với triều đình các nước Đông Nam Á tạo điều kiện cho Hoa kiều làm ăn, sinh sống. Phước sanh nương nương hay còn gọi là Mẹ Thai sanh, trong quan niệm của người Hoa, là vị nữ thần cai quản việc sinh đẻ, nuôi dưỡng trẻ con. Phước Minh cung tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ, Phường 3, thành phố Trà Vinh. Khuôn viên ngôi chùa rộng hơn 800 m2, chùa có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc” (bên trong là chữ “Công”, vòng ngoài là chữ “Quốc”). Mặt bằng tổng thể gồm ba tòa nhà tiền điện, trung điện và chính điện song song nhau; dọc hai bên có hai dãy nhà Tả điện và Hữu điện đối diện nhau, tạo thành hình chữ “Khẩu”. Giữa các tòa nhà có sân thiên tĩnh và hành lang thông thương nhau. Toàn bộ các tòa nhà đều thiết kế theo tầng bậc và lợp ngói lưu ly. Mặt dựng đầu hồi trang trí bằng các đồ án truyền thống Trung Quốc như lưỡng long tranh châu, bát tiên, hoa lá, muông thú… Tiền điện có 16 trụ cột bằng gỗ lim sơn màu son, trong đó có 4 cột vuông trên tẩng đá tròn và 12 cột tròn trên tảng đá vuông, biểu trưng của âm dương hòa hợp. Tiền điện là nơi thờ Ngọc hoàng thượng đế ở án giữa cùng phối tự Tiên hiền – Hậu hiền hai bên tả hữu. Trung điện là tòa nhà nhỏ hình vuông, có bốn cột đều vuông trên táng đá tròn. Đây là nơi thiện nam tín nữ thập phương tề tựu chuẩn bị lễ vật cúng tế trước khi bước vào ngôi Chính điện. Chính điện là tòa nhà cân đối với Tiền điện với 16 cột tròn trên táng đá vuông. Ngôi chính điện được chia thành ba gian: – Gian trung tâm đặt án thờ Quan Thánh đế quân dưới bức đại hoành phi bằng chữ Hán “Càn khôn chính khí”. Ba pho tượng Quan Vân Trường ở giữa cùng Quan Bình, Châu Xương hầu hai bên với ngựa Xích thố bằng mây. – Gian trái đặt án thờ Chúa sanh nương nương dưới bức hoành phi “Tải sinh tải dục” bằng chữ Hán. – Gian phải đặt án thờ Phúc đức chính thần dưới bức hoành phi “Uy linh uy đức” bằng chữ Hán. Phước Minh cung thực sự là một “Bảo tàng mỹ thuật truyền thống” của cộng đồng người Hoa trên địa bàn Trà Vinh cũng như cả Nam bộ. Với các giá trị văn hóa về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc, âm nhạc truyền thống cũng như vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Hoa, vai trò củng cố tình đoàn kết các dân tộc cùng cộng cư trên vùng đất Trà Vinh, Phước Minh cung đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 2005. Nguồn: Du lịch Trà Vinh

Trà Vinh 106 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thờ Bác Hồ

Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Long Đức (Trà Vinh) tọa lạc ở ấp Vĩnh Hội, xã Long Đức, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh (Việt Nam); cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 5 km về hướng Bắc. Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tỉnh Trà Vinh đã được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1989. Khu di tích đền thờ Bác Hồ rộng 5,4 ha với các hạng mục chính như: Đền thờ Bác Hồ, nhà trưng bày thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, khuôn viên cây xanh, ao cá, khu vui chơi cắm trại…và đặc biệt là mô hình Nhà sàn Bác Hồ được thiết kế, in sao và lắp khoa học với tỉ lệ 97% theo nguyên bản nhà sàn Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch ở thủ đô Hà Nội. Khuôn viên đền thờ rất rộng với những hàng cây rợp bóng quanh bờ hồ gợn sóng lăn tăn. Nơi được chia làm nhiều khu khác nhau nhưng toàn bộ nơi ấy sự nhớ ơn đời đời của người dân nơi đây với Bác – vị cha già kính yêu của toàn dân tộc Việt. Những hiện vật nơi đây vẫn nguyên vẹn như ngày đầu: chiếc máy bay B52 mà quân đội ta đã bắn rơi, chiếc xe tăng của cuộc chiến năm ấy, ngồi nhà sàn gỗ mà bác Hồ từng sống, chỉ ngắm thôi đừng sờ vào nhé. Nhà Trưng bày được xây dựng theo kiến trúc truyền thống dân tộc. Trong đó, nhiều hiện vật, hình ảnh, tài liệu giúp người tham quan hiểu được một cách khái quát về cuộc đời hoạt động của Bác; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất trong kháng chiến và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Trà Vinh; quá trình xây dựng và chiến đấu bảo vệ ngôi Đền. Khi đến đây, bạn hãy vào đền và thắp một nén hương, tỏ lòng biết ơn và xung quanh đó còn trưng bày những bức ảnh trắng đen thắm đượm tình quân dân, khung cảnh chiến tranh tàn khốc mà người dân nơi đây trải qua và Trà Vinh thuở đất nước vừa độc lập với những khó khăn, thiếu thốn, cùng nhìn lại và cảm nhận được kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Công viên với hồ sen lớn hài hòa cùng hệ thống cây xanh, hoa kiểng quanh năm khoe sắc tạo ra khu vui chơi, giải trí đa dạng, hấp dẫn. Trong đó, những tán còng cổ thụ và lũy tre bao quanh cùng hệ thống hầm hào, công sự là chứng nhân của quá trình xây dựng, chiến đấu bảo vệ ngôi Đền được phục hồi và bảo quản một cách nghiêm túc, chu đáo. Đền thờ Bác Hồ đã trở thành niềm tự hào, là biểu trưng của tấm lòng người dân Trà Vinh đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguồn: Du lịch Trà Vinh

Trà Vinh 96 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật