Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4268 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 7711 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 7235 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 5253 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4988 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4516 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4269 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4120 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3980 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3971 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3902 lượt xem
Du lịch Cao Bằng chưa bao giờ hết thú vị bởi mảnh đất núi non Đông Bắc này ẩn chứa vô vàn những điều thú vị khiến du khách cứ muốn tiếp tục khám phá và trải nghiệm. Trong số đó không thể không nhắc tới động Ngườm Ngao – một trong những hang động đẹp nhất đất nước, là món quà vô giá được trao tặng từ tạo hóa. Động Ngườm Ngao nằm ở bản Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Động được một nhà thám hiểm người Pháp phát hiện ra vào năm 1921 (thế kỷ XX). Theo khảo sát của hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh năm 1995, hang động này có tổng chiều dài 2.144m, có 3 cửa chính: Ngườm Ngao, Ngườm Lồm và Bản Thuôn. Để đến được động Ngườm Ngạo, bạn cần vượt qua 89km đường núi, qua đèo Mã Phục, đèo Khau Liêu. Chuyến du lịch Cao Bằng của bạn sẽ vô cùng thiếu sót nếu bạn không ghé Thác Bản Giốc kết hợp thăm quan Động với khoảng cách của hai điểm này chỉ khoảng 3km. Động Ngườm Ngao dài khoảng 2.144m nhưng mới chỉ khai thác được gần 980m, bên trong động gần như còn nguyên sơ với hàng trăm hình thù độc đáo, hấp dẫn. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, Ngườm Ngao là động đá vôi được hình thành cách đây 300 triệu năm trước công nguyên. Cùng với thời gian, những nhũ đá và măng đá đã tạo nên những khung cảnh thật sinh động, kì thú khiến con người phải thán phục, kinh ngạc. Theo tương truyền, xưa kia trong động có rất nhiều hổ dữ sinh sống nên người dân tộc Tày mới đặt tên động là Ngườm Ngao với ý nghĩa là: Động Hổ. Tuy nhiên có thuyết cho rằng những tiếng gầm rú được phát ra nhờ tiếng nước chảy từ suối trọng động tạo lên nghe giống tiếng gầm của Hổ rữ vì vậy người dân đặt tên động là Ngườm Ngao. Động Ngườm Ngao cũng như bao động khác, được tạo thành do sự phong hoá lâu đời của núi đá vôi. Chỉ cần những bước đầu tiên vào trong động, chúng ta sẽ có cảm giác như lạc vào một thế giới khác, tách biệt với hẳn thế giới bên ngoài. Phải mất nhiều thời gian thì những hình thù độc đáo trong động mới được định hình, nào là những nhũ đá nằm dọc, nhũ đá nằm ngang, nhũ đá có hình thù rõ ràng, lại có những nhũ đá mà chỉ những người ưa tưởng tượng mới nhìn ra tạo hình. Khám phá Động Ngườm Ngao, du khách còn có thể phát hiện được vô vàn hình thù đặc biệt phía trong hang, những hình ảnh ruộng bậc thang, giường tiên, vịnh Hạ Long thu nhỏ, tượng ba ông Phúc – Lộc – Thọ, núi vàng, núi bạc… cũng được kiến tạo thật đặc biệt. Động Ngườm Ngao còn gắn với rất nhiều sự tích và truyền thuyết, trong đó có sự tích về đài sen úp ngược. Khi vào động Ngườm Ngao, nếu để ý kỹ, bạn sẽ thấy ở giữa hang là nhũ đá hình đài sen úp ngược. Chuyện kể rằng, ngày xưa có một vị sư ngồi trên đài sen tu mãi mà không thành chính quả, vì quá buồn chán, phẫn chí nên ngài đã úp ngược đài sen xuống, còn mình thì biến thành cột đá đứng bên cạnh đài sen úp ngược đó. Cũng dễ hiểu vì sao người ta lại nói rằng bạn sẽ choáng ngợp ngay từ giây phút đầu tiên bước chân vào động. Nhiệt độ trung bình trong động khoảng 15-20 độ nên luôn khiến cho bạn có cảm giác mát mẻ và thoải mái, chênh lệch hẳn với nhiệt độ bên ngoài, nhất là khi bạn du lịch động Ngườm Ngao vào mùa hè. Đặc biệt trong động Ngườm Ngao, nơi có khe hở thông lên trời, vào đúng 14 giờ chiều ngày 22 tháng 4 hàng năm, sẽ có 3 luồng ánh sáng gặp nhau làm một khoảng lòng động rực sáng như ban ngày trong vài phút. Đây là một hiện tượng thiên nhiên đẹp mắt và rất nhiều du khách du lịch phải trầm trồ về ánh sáng rực rỡ nơi động Ngườm Ngao vào khoảnh khắc này. Du lịch Cao Bằng tức là trải nghiệm những gì thuộc về thiên nhiên nhất, những khung cảnh có vẻ đẹp tuyệt mỹ đến mê lòng. Chắc chắn vẻ đẹp của động Ngườm Ngao sẽ khiến bạn “nhung nhớ” không muốn trở về.
Cao Bằng 2334 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thác Bản Giốc nằm cách thành phố Cao Bằng khoảng 90km và cách trung tâm thủ đô Hà Nội 400km, thuộc địa phận xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh. Xuất phát từ thành phố Cao Bằng bạn có thể đi theo hướng Trà Lĩnh – Tống Cọt để tới bản Giốc. Với những người đam mê phượt có thể lựa chọn con đường qua đèo Mã Phục vì phong cảnh núi rừng trên đường đi rất đẹp và thu hút. Khí hậu ở thác Bản Giốc Cao Bằng được chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Thời điểm mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 9. Đây cũng là thời điểm ngọn thác tuôn nước, đổ bọt trắng xoá, rất thích hợp cho những chuyến đi thác Bản Giốc, đặc biệt là vào thời điểm tháng 8 – tháng 9. Thác vào mùa khô lại mang một sắc thái hoàn toàn khác. Thời điểm này, thác Bản Giốc Cao Bằng khá yên bình, những cánh đồng lúa chín vàng dưới chân thác tạo nên một khung cảnh lãng mạn , nhưng cũng rất yên bình. Khi đến Thác Bản Giốc, bạn có thể thưởn thức các món đặc sản như: Rau dạ hiến, rau bò khai, bánh coóng phù, hạt dẻ Trùng Khánh, phở chua, cháo nhộng ong, chè dây, chè đắng, bánh khảo, mận Bảo Lạc, lê Đông Khê, cá hồ Thang Hen, măng chua, lạp xườn, vịt quay, lợn sửa quay…
Cao Bằng 2229 lượt xem
Từ tháng 6 đến tháng 9
Vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén là một khu rừng đặc biệt nằm trong hệ thống công viên Non nước Cao Bằng. Nơi đây được UNESCO công nhận là Công viên Địa chất toàn cầu bởi hệ thống địa chất đặc biệt với những dãy núi cao, nhiều khoáng sản quý hiếm và có hệ sinh thái đa dạng, nhiều loài động thực vật quý hiếm. Diện tích vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén trải dài trên địa bàn của 5 xã Thành Công, Hưng Đạo, Quang Thành, Phan Thành và Tĩnh Túc thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng và cách trung tâm thành phố Cao Bằng khoảng 73km. Đây là nơi có quan cảnh thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành và đặc biệt có băng tuyết vào mùa đông nên rất lý tưởng cho phát triển du lịch sinh thái. Phia Oắc - Phia Đén nằm trong khu vực công viên địa chất toàn cầu nên địa hình nơi đây cũng rất đa dạng, phong phú từ những thung lũng trũng xuống như lòng chảo sâu, những dòng sông uốn lượn quanh co tạo nên khung cảnh nên thơ hữu tình đến những dãy núi cao vời vợi tạo nên một khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ. Phia Oắc - Phia Đén là tên hai đỉnh núi cao trong khu vườn quốc gia. Đỉnh núi Phia Đén cao 1.391m và đỉnh núi Phia Oắc có độ cao đến 1.931m, được ví như “nóc nhà” phía tây của tỉnh Cao Bằng. Ngoài ra, trong khuôn viên vườn quốc gia này cũng có rất nhiều ngọn núi cao ấn tượng khác như đỉnh Tam Loang cao 1.446m, đỉnh núi Niot Ti cao 1.574m. Ngoài ra, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén còn có cấu tạo địa chất đa dạng và đặc biệt với sự đan xen giữa các loại đá lục nguyên, đá vôi và đá granit tạo nên nhiều loại khoáng sản quý hiếm như: bạc, vàng, thiếc, vonfram... Nơi đây được phân thành 3 khu vực chính: khu bảo vệ nghiêm ngặt, khu phục hồi sinh thái và khu dịch vụ hành chính, với các thảm thực vật đa dạng như rừng á nhiệt đới mưa mùa, rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và một kiểu rừng nguyên sinh đặc trưng của miền Bắc Việt Nam đó là rừng lùn hay còn gọi là rừng rêu. Trong khuôn viên vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén có đến 1.287 loài thực vật đa dạng, trong đó có đến 90 loài thực vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao, đang được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam như là thiết sam núi đá, vù hương, sến mật, thông pà cò, lát hoa và nghiến… Hơn nữa, trên ngọn núi Phia Oắc còn tồn tại rất nhiều loài dược liệu quý của Việt Nam như thất diệp nhất chi hoa, đông trùng hạ thảo, sâm núi… Không chỉ đa dạng về thực vật,Phia Oắc - Phia Đén còncó hệ sinh thái động vật phong phú với 496 loài động vật có xương sống khác nhau và hàng nghìn loài động vật không xương sống, côn trùng… Đặc biệt, có tới 58 loài trong rừng sinh thái này thuộc nhóm động vật quý hiếm, bao gồm 30 loại thú có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 12 loài bò sát, trong đó có 12 loài ở hạng cực kỳ quý hiếm cần được bảo tồn. Đây là nguồn tài sản vô cùng quý hiếm , có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn cao. Chính vì thế, ngoài mang khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén còn là khu bảo tồn được tỉnh Cao Bằng và nhà nước chú trọng. Có thể nói thiên nhiên đã vô cùng ưu ái khi ban tặng cho vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén một bầu không khí trong lành và mát mẻ suốt bốn mùa. Sự hòa quyện của những thảm thực vật xanh thăm thẳm cùng với núi non trùng điệp, những đám mây trắng lững lờ bay tạo nên một khung cảnh thiên nhiên nên thơ, đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Những ngày trời trong, đứng trên đỉnh núi Phia Oắc, du khách có thể nhìn thấy quang cảnh núi non hùng vỹ. Đặc biệt, với đặc trưng khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình thấp, độ ẩm cao, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén như là thiên đường của các loài hoa với màu sắc rực rỡ, mang vẻ đẹp hoang dã, mê hoặc, được nhiều du khách ca ngợi là “nàng tiên ngủ quên” của núi rừng Đông Bắc. Rải rác xung quanh vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén là những làng bản, những dòng suối, những triền đồi, những thửa ruộng bậc thang được đồng bào dân tộc trồng lúa, những thửa ngô, sắn, những rừng chè bao la… tạo nên những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống. Hơn nữa, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén vẫn còn dấu tích các khu biệt thự cổ hay các nhà nghỉ mang phong cách châu Âu của các công chức Pháp xưa để lại nên bạn có thể tham quan các công trình kiến trúc châu Âu cổ tại đây nữa đấy. Ngoài ra, du khách có thể tham quan các địa điểm du lịch khác như di tích đồn Khay Phắt, làng dệt thổ cẩm in sáp ong của dân tộc Dao Tiền, mỏ thiết Tĩnh Túc, đồi chè Kolia, trang trại cá hồi,... Mặc dù mỗi thời điểm thì nơi đây đều mang một hương sắc rất riêng với phong cảnh thơ mộng và hùng vĩ, nhưng cuốn hút du khách nhất vẫn là mùa xuân và mùa đông. Mùa xuân tới là lúc vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén như được thay một tấm áo mới rực rỡ với vô vàn các loài hoa rừng đua nhau khoe sắc. Từ sắc đỏ quyến rũ của những đóa hoa đỗ quyên đến sắc xanh ngọc bích tươi mát của cẩm tú cầu hay sắc tím, trắng, vàng mộng mơ của những nhành lan rừng. Đặc biệt, khí hậu mát mẻ và độ ẩm cao của nơi đây như tiếp thêm nguồn sinh lực cho những bông hoa nở to hơn, rực hơn hơn và hương thơm tỏa ra cũng nồng nàn ngây ngất lòng người khiến ai cũng như quên lối về. Vào mùa đông tới, khi nhiệt độ bắt đầu xuống thấp, vùng núi Phia Oắc - Phia Đén chìm trong một màu trắng xóa tuyệt đẹp tựa như trời Âu. Băng giá phủ đầy đỉnh núi, sương trắng lượn lờ bao quanh, tạo cho du khách cảm giác như đang lạc vào trong chốn bồng lai tiên cảnh.
Cao Bằng 2182 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Quần thể khu di tích lịch sử Pác Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Theo tiếng dân tộc Tày - Nùng thì nơi Pác Bó có nghĩa là “đầu nguồn”. Đây là nơi được Bác Hồ chọn làm căn cứ địa lãnh đạo cách mạng và là nơi có dấu ấn quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Trải qua những dấu mốc quan trọng sau ngần ấy năm nơi đây vẫn lưu giữ gần như nguyên vẹn những chứng tích và dấu ấn của cách mạng và của Hồ Chủ tịch. Pác Bó Cao Bằng bao phủ bởi những dãy núi non hiểm trở, những thác nước như vẫy gọi vỗ về, những rặng tre xanh mát cả vùng trời. Ngoài cảnh đẹp của non nước, đến du khách có thể ghé tham quan những địa danh lịch sử như suối Lê Nin, Núi Các Mác, đài tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, hang Pác Pó… Khám phá khu di tích lịch sử Pác Bó Cao Bằng du kháchsẽ được đắm mình trong không gian thiên nhiên hoang sơ huyền bí và cảm nhận những giá trị lịch sử và văn hóa của vùng đất này. Suối Lê Nin xưa kia được dân bản gọi là suối Khuổi Giàng, theo tiếng Tày có nghĩa suối trời, nhưng vào năm 1941 Bác về nước chọn hang Pác Bó ở và làm việc thì Bác đã đặt tên cho suối này là suối Lê Nin. Suối Lê Nin nằm trong khu di tích lịch sử Pác Bó Cao Bằng, nổi tiếng với làn nước xanh vắt có thể nhìn dưới đáy tựa như mặt gương phản chiếu đại cảnh của đất trời, tạo nên cảnh quan tuyệt đẹp. Điểm đến này được nhiều người yêu thích bởi không gian yên tĩnh, cảnh sắc thơ mộng trữ tình. Thực sự không có một mỹ từ nào có thể diễn tả được nét đẹp và sự trong lành của dòng suối Lê Nin. Theo dòng lịch sử trôi qua thì dòng suối này vẫn giữ được nét đẹp trọn vẹn và càng ngày càng thu hút du khách bởi vẻ đẹp đằm thắm và yêu kiều của con nước. Đến nơi đây du khách sẽ cảm tưởng được nơi mà Bác từng sinh sống, tưởng chừng cảm nhận được hơi ấm của Người, nhìn được những khung cảnh mà Người đã từng gắn bó trong thời kháng chiến. Một điểm tham quan không thể bỏ lỡ khi đến Pác Bó Cao Bằng chính là núi Các Mác. Cùng với suối Lê Nin thì núi Các Mác cũng được Bác đặt tên, đây là tên của hai nhà tư tưởng ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác. Núi Các Mác có có rừng cây xanh thẳm với địa hình thông thông thoáng bên trong nhưng lại hiểm trở và bí mật bên ngoài, có lẽ vì địa hình như vậy mà Bác đã chọn làm nơi hoạt động bí mật. Gần cạnh núi Các Mác men theo suối Lê Nin du khách sẽ thấy được vườn trúc Bác đã trồng vẫn còn. Tất cả như tạo nên được không gian nên thơ đầy yên bình cho nơi Bác đã từng dừng chân. “Sáng ra bờ suối, tối vào hang” câu thơ của Bác trong bài Tức cảnh Pác Bó như miêu tả cuộc sống hằng ngày của Bác thuở hoạt động tại Pác Bó Cao Bằng. Hang Pác Bó hay còn được gọi là hang Cốc Pó chỉ rộng khoảng 15m2, là nơi bác sống và làm việc thuở mới về nước, đây là nơi chứa đựng nhiều dấu ấn của Người. Trong Hang có tấm phản gỗ Bác Hồ nằm nghỉ, bếp lửa sưởi ấm, bàn đá chông chênh nơi người làm việc, hay tảng đá bằng Bác hay ngồi câu cá cạnh suối Lê Nin, vườn trúc cạnh hang Bác tự tay trồng… tất cả vẫn còn đó, và đã trở thành những dấu ấn lịch sử quan trọng của khu di tích lịch sử Pác Bó. Đến khu di tích lịch sử Pác Bó đừng quên ghé thăm đền thờ của Bác nằm trên ngọn đồi Tiếng Chấy. Ngôi đền được xây dựng vào tháng 5/2011 vào dịp kỷ niệm 121 năm ngày sinh của Bác. Ngôi đền được xây dựng với phong cách nhà sàn vô cùng gần gũi và quen thuộc của đồng bào dân tộc nơi đây. Đây không chỉ là điểm đến tham quan của nhiều du khách trong và ngoài nước, mà còn mang giá trị lịch sử, văn hóa và thể hiện được sự tôn kính và tình cảm thiêng liêng đối với Bác Hồ - Người đã cống hiến hết mình cho sự độc lập của dân tộc. Pác Bó Cao Bằng nơi non nước hữu tình, mùa nào cũng có một nét đẹp riêng. Tuy nhiên nếu muốn ngắm trọn vẻ đẹp của nơi đây du khách nên chọn đến và tháng 10 đến tháng 5. Vào thời điểm này tiết trời mát mẻ, không quá lạnh cũng chẳng nắng gắt, trời lại khô ráo thuận lợi cho việc di chuyển đường núi đồi gập ghềnh của Pác Bó. Đặc biệt là có thể ngắm trọn vẻ đẹp đầy nên thơ của suối Lê Nin. Suối Lê Nin nổi tiếng với màu nước xanh ngọc đẹp ngây ngất, nhưng trong năm sẽ có khoảng 2-3 tháng mùa mưa (từ tháng 7 đến tháng 9), nước chảy cuộn nên mặt nước sẽ không trong xanh, khó lòng thưởng ngoạn được cảnh đẹp trầm ấm đầy nên thơ của nơi từng in dấu chân Bác.
Cao Bằng 2072 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Thang Hen ẩn sau những tán rừng già, những mỏm đá tai mèo là một hồ nước hình thoi bốn mùa xanh ngắt. Người Tày bảo nó giống phần đuôi của con ong nên gọi Thang Hen (“đuôi ong” trong tiếng Tày). Thang Hen là hồ nước ngọt rộng nhất trong số 36 hồ nước ngọt ở huyện Trà Lĩnh. Tuy được được ngăn cách riêng biệt nhưng chúng lại được thông nhau bằng những hang động dưới lòng đất. Nước hồ có màu xanh ngọc bích mờ ảo quanh năm, kể cả vào mùa lũ – khi các hồ nước khác trong cùng khu vực đã đỏ ngầu vì bùn. Lý do là bởi hồ có thượng nguồn là hang Thăng Hen ở trên cao. Nước từ trong miệng hang đổ ra cung cấp nguồn “nước sạch” cho hồ. Theo truyền thuyết của người Tày, đất Cao Bằng ngày xưa có chàng Sung tuấn tú, thông minh. Sau khi đỗ trạng, chàng được vua cho phép về vinh quy bái tổ trong bảy ngày. Về quê, chàng kết duyên với nàng Boóc. Mải đắm say với người vợ xinh đẹp, chàng quên mất việc phải về kinh. Tới tận đêm ngày thứ bảy, chàng Sung mới sực nhớ ra. Chàng vội chia tay vợ, chạy về kinh giữa đêm tối. Chàng Sung chạy được 36 bước chân thì ngã đầu đập vào núi rồi chết. 36 bước chân của chàng chính là 36 hồ lớn nhỏ ở quần thể hồ Thang Hen (nay thuộc huyện Trà Lĩnh). Còn những cái hang đá bao quanh hồ chính là do ngón chân của chàng Sung vấp phải mà tạo thành. Cứ vào quãng tháng Chín, tháng Mười hằng năm, nước hồ Thang Hen sẽ bị rút cạn chỉ trong vài ba giờ đồng hồ. Vì thế, nếu được chứng kiến hiện tượng kỳ lạ này là một điều cực kỳ may mắn. Ngay cả những người dân bản địa cũng chỉ có thể áng chừng được thời điểm chứ không chắc chắn lúc nào hồ sẽ cạn nước. Khi nước chỉ còn xăm xắp, người dân sẽ đua nhau xuống dưới hồ bắt cá, tôm, tép về ăn. Những con cá to là mục tiêu “săn lùng” hàng đầu để nướng đãi khách. Kỳ lạ là dù hàng nghìn m3 nước hồ tụt xuống nhưng cảnh vật xung quanh vẫn không có gì thay đổi. Vì thế, nhiều người ví hồ Thang Hen như một túi nước bị ai đó chọc thủng đáy. Người dân nơi truyền miệng nhau rằng, hiện tượng hồ Thang Hen rút cạn chỉ trong một đêm là loài thuỷ quái bị giam giữ trong thung lũng nhiều năm. Trong cơn cuồng loạn vì bị săn đuổi, nó đã dùng móng vuốt tạo nên những hang động ngầm dọc ngang dưới lòng đất. Để ngắm cảnh đẹp của Thang Hen, bạn đừng nên ngủ nướng. Khi mặt trời vừa ló sau dãy núi là thời điểm tuyệt vời nhất để có thể hòa mình vào tiên cảnh nơi đây. Lúc này, mặt hồ như một chiếc gương màu ngọc bích được phủ lên một chiếc khăn voan trắng. Thấp thoáng xung quanh là những ngọn núi ẩn hiện. Cảnh vật ban sớm nơi đây yên bình đến lạ kỳ, tách biệt hẳn với thành phố xô bồ bên ngoài. Khu vực hồ Thang Hen có bờ vực đá dựng đứng. Trên đó, những vị khách tham quan có thể dễ dàng nhận ra những cây gỗ nghiến có tuổi thọ hàng trăm năm, nhiều giống hoa lan rừng. Đây là môi trường sống của các loài động vật hoang dã như: khỉ vàng, gà gô, chim gáy…
Cao Bằng 2044 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc tới du lịch Cao Bằng, nhiều du khách thường nghĩ đến Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Pác Bó, thác Bản Giốc – động Ngườm Ngao… nhưng đối với những người yêu thích tìm hiểu về văn hóa, lịch sử hào hùng của dân tộc gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của quân đội nhân dân Việt Nam thì nên dành thêm thời gian ở Cao Bằng để tham quan và tìm hiểu về Di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950. Các địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 cách thành phố Cao Bằng khoảng 40 km (theo hướng quốc lộ 4A từ Cao Bằng đi Lạng Sơn) có 19 điểm di tích được phân bố thành 4 cụm di tích nằm trên địa bàn 3 xã và 1 thị trấn của huyện Thạch An bao gồm: Cụm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng Biên giới năm 1950 (xã Đức Long); Cụm di tích cứ điểm Đông Khê (thị trấn Đông Khê); Cụm di tích Khau Luông (xã Đức Xuân); Cụm di tích Cốc Xả - điểm cao 477 (xã Trọng Con). Trong đó, các điểm liên quan đến Chiến dịch Biên giới năm 1950 được phân bố chủ yếu trong Cụm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng Biên giới năm 1950 và Cụm di tích cứ điểm Đông Khê. Di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 có giá trị đặc biệt quan trọng gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và sự trưởng thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với vị trí, vai trò, ý nghĩa lịch sử quan trọng của di tích, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của quân và dân Cao Bằng cũng như quân dân cả nước trong việc bảo tồn và phát huy hiệu quả giá trị của di tích, ngày 25/12/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2082/QĐ-TTg xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950. Sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947, quân và dân ta đã đập tan chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp, làm cho cục diện chiến trường giữa ta và địch chuyển sang thế "cầm cự, giằng co", ta đã từng bước chuyển sang thế phản công. Ở Đông Dương, quân Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến và lâm vào thế phòng ngự bị động. Để có thể cứu vãn tình thế, Chính phủ Pháp lập kế hoạch Rơve để phong tỏa biên giới, dùng quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng, tập trung quân Âu - Phi thành lực lượng cơ động thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Tại Cao Bằng, Pháp tập trung củng cố hệ thống các cứ điểm và đồn bốt quân sự trên Quốc lộ số 4 từ thị xã Cao Bằng đến Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn; trong đó Đông Khê là một tiểu khu quan trọng, lá chắn của Cao Bằng. Về phía ta, cùng với việc tăng cường lực lượng quân sự, mở rộng vùng giải phóng, để tranh thủ sự ủng hộ của các nước dân chủ nhân dân trên thế giới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh công tác ngoại giao với phương châm "thêm bạn, bớt thù". Đứng trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến thuận lợi, nhằm đưa cuộc kháng chiến tiến lên bước mới, tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới, lấy tên là "Chiến dịch Lê Hồng Phong II" nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới; mở đường biên giới với các nước xã hội chủ nghĩa phá vỡ thế bao vây của Pháp, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Ban Thường vụ Trung ương quyết nghị thành lập Đảng ủy mặt trận có 05 đồng chí: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Bí thư Đảng ủy mặt trận; đồng chí Trần Đăng Ninh - Ủy viên Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp; đồng chí Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng; đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị; đồng chí Bùi Quang Tạo, Phó Bí thư Liên khu ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc làm Ủy viên. Cao Bằng được chọn làm chiến trường chính của chiến dịch Biên giới, vì Cao Bằng có đường biên giới chung với tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc, đường giao lưu quốc tế thuận lợi, là đầu mối của những trục đường chiến lược quan trọng, đường số 4 chạy dọc biên thùy Đông Bắc tới miền Duyên hải Vịnh Bắc Bộ. Đường số 3 nối liền Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên. Hơn nữa người dân Cao Bằng đã được thử thách, tôi luyện trong thời kỳ cách mạng. Đến cuối năm 1949 các địa phương quanh vùng quốc lộ 3 từ Ngân Sơn đến Bắc Kạn và phần lớn các huyện trong tỉnh Cao Bằng được giải phóng. Với tầm quan trọng của Chiến dịch, từ cuối tháng 8/1950, dù bận nhiều việc hệ trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao đã lên đường ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch, động viên quân và dân chiến đấu. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc. Chiến dịch Biên giới năm 1950 là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là chiến dịch có tầm quan trọng đặc biệt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chiến dịch Biên giới đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.300 tên địch, giải phóng toàn tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, với diện tích rộng 4.500 km2; chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và Pháp, tạo bước chuyển biến mới về chiến lược tiến công, phản công, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Khi nhìn lại thất bại của nước Pháp ở cuộc chiến tranh Đông Dương, nguyên Toàn quyền Đông Dương Catơru đã chua chát xác nhận: "Sự thất bại của quân đội Pháp tại biên giới Việt – Trung tháng 10/1950 đã có ảnh hưởng quyết định đến số phận của Đông Dương và Điện Biên Phủ sau này đã phải chịu ảnh hưởng đó". Thắng lợi của chiến thắng Biên giới năm 1950 chứng minh tính đúng đắn của đường lối chiến tranh "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính" mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra. Bài học về phát huy nội lực, xây dựng lực lượng kháng chiến, xây dựng quân đội để làm nên chiến thắng Chiến dịch Biên giới 1950 vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Cao Bằng 2197 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12