Nhắc đến Trung tâm Phật giáo của nước Việt xưa (nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), nhiều người thường liên tưởng tới các địa danh như chùa Bút Tháp, chùa Dâu, lăng Kinh Dương Vương, đền thờ Sỹ Nhiếp..., những di tích mang đậm dấu ấn văn hoá tâm linh của người Việt. Song còn một chốn thiền môn mà sự ra đời của di tích ấy gắn liền với “đất Phật Luy Lâu”, đó là Chùa Tổ thôn Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành. Chùa Phúc Nghiêm được dân gian quen gọi là chùa Chản, vì chùa nằm ở thôn Chản Làng, xã Yên Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Thôn Chản Làng có tên chữ là Khê Khẩu thôn, dưới thời Lê thuộc xã Lan Sơn, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Thôn Khê Khẩu xưa nay được chia thành 3 đơn vị thôn riêng lẻ độc lập (Chản Làng, Chản Đồng và Trại Cầu) cho nên chùa Phúc Nghiêm trở thành công trình tín ngưỡng Phật giáo của cả 3 thôn. Hàng năm, vào tiết tháng Hai, ngày 19 và 20 âm lịch dân 3 thôn tổ chức Hội chùa thu hút đông đảo đệ tử Phật giáo và du khách thập phương về trẩy hội. Qua việc khảo sát di tích, người ta đoán định chùa Phúc Nghiêm được khởi dựng vào khoảng thế kỷ 14- 15, tức là thời gian cuối triều Trần, đầu thời Lê sơ. Trải qua năm, sáu trăm năm lịch sử, công trình kiến trúc đã qua nhiều lần trùng tu sửa chữa nên có nhiều thay đổi so với kiểu thức kiến thức ban đầu. Công trình kiến trúc hiện còn đến ngày nay mang đậm phong cách kiến trúc thời Nguyễn với các hạng mục công trình tiêu biểu như: Tòa tam bảo, nhà tổ, nhà tăng, tháp cổ... Khảo sát trực tiếp di tích người ta có thể đoán định tương đối chính xác bố cục của ngôi chùa cổ thời Lê sơ. Khi đó (thế kỷ 15) chùa Phúc Nghiêm đã có bố cục kiến trúc hoàn chỉnh kiểu “nội công ngoại quốc”, nhưng vì hai dãy hành lang và tam quan đã bị thời gian hủy hoại, cho nên công trình hiện còn theo bố cục chữ công. Tòa tam bảo xây kiểu “bình đầu bít đầu” phía trước có hai cột đồng trụ đắp quả giành. Tam bảo được chia thành hai công trình liền kề nhau là Tiền đường và Phật điện, sắp xếp theo bố cục hình chuôi vồ. Tiền đường gồm 7 gian nhà gỗ lim, với 5 hàng chân cột, kết cấu kiến trúc kiểu kẻ chuyền, có chạm khắc đơn giản. Nối liền phía sau tiền đường là Phật điện, 3 gian rộng có cùng kiểu thức kiến trúc nhưng không chạm khắc mà bào trơn đóng bén kỹ lưỡng. Ở tòa tiền đường có một số mảng chạm, với họa tiết trang trí theo đề tài tứ quý, phản ánh sinh động về sản vật phong phú của quê hương. Trên đầu hồi tòa Phật điện, người xưa đã đề 4 chữ Hán kiểu hành thư, nét chữ bay bướm diệu kỳ “Phong nguyệt vô biên” để ngợi ca cảnh đẹp hữu tình của di tích này. Trường tồn với tòa tam bảo chùa Phúc Nghiêm còn bảo tồn hệ thống tháp gạch cổ kính. Đây là nơi yên nghỉ vĩnh hằng của các vị sư tổ từng tu hành và viên tịch tại chùa. Hôm nay, đến thăm chùa Phúc Nghiêm người ta vẫn thấy rõ dấu tích của hai công trình kiến trúc cổ đã bị hư hại, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đó là hai dãy hành lang (nơi đặt tượng La Hán) và tam quan. Dấu tích ấy đã giúp thế hệ hôm nay có thể hình dung được quy mô bề thế của di tích này. Từ lâu, chùa Phúc Nghiêm đã trở thành trung tâm Phật giáo có danh tiếng của thiền phái Trúc Lâm ở vùng hạ huyện Lục Nam. Hiện nay, hệ thống tượng cổ cùng công trình kiến trúc, đồ thờ tự vẫn được địa phương bảo quản chu đáo. Ở tam bảo và nhà tổ có tới trên ba chục pho tượng gỗ cổ thời Lê - Nguyễn rất có giá trị. Hệ thống bia đá bị thất lạc nhưng bản tự còn lưu giữ được một quả chuông đồng thời Tây Sơn. Chuông cao chừng 100cm (cả quai), chu vi miệng là 160cm. Quai chuông được đúc tạo dáng hình đôi rồng chung thân, miệng rồng phun châu nhả ngọc trông nghiêm nghị mà hiền từ, không dữ tợn như rồng thời Nguyễn sau này. Trên 4 múi chuông đúc nổi 4 chữ Hán, cho biết tên chuông: “Phúc Nghiêm tự chung” (chuông chùa Phúc Nghiêm). Cuối bài văn có dòng lạc khoản cho biết thời gian đúc quả chuông này: “Hoàng triều Cảnh Thịnh bát niên, tam nguyệt, sơ cát nhật tạo trù hồng chung” (Ngày tốt đầu tháng ba niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) tạo đúc chuông lớn). Bài văn này ghi khắc ý nghĩa việc đúc chuông sau đó đến phần ghi một số tập thể, cá nhân hưng công đúc quả chuông này. Văn chuông do nhà sư trụ trì chùa Phúc Nghiêm khi ấy soạn. Cuối cùng có bài minh dài 18 câu, viết theo thể kệ 4 chữ ngợi ca cảnh trí thiền tự Phúc Nghiêm và sự thiện tâm tế độ làm cho quốc thái dân an của chư Phật từ bi. Chùa Phúc Nghiêm là ngôi chùa cổ, từng là nơi in ấn nhiều kinh sách nhà Phật ở thế kỷ 18, 19. Cùng với đình làng Chản, đình Nội, di tích chùa Phúc Nghiêm đã góp phần tô điểm làm phong phú thêm cho quần thể thắng tích ở vùng hạ huyện Lục Nam. Hơn nữa, chùa Phúc Nghiêm còn bảo lưu nhiều di vật cổ thời Lê - Nguyễn nên cần được sự quan tâm nghiên cứu và bảo vệ của chính quyền và ngành chuyên môn./. NGUỒN: ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
Bắc Ninh 145 lượt xem
Chùa Vạn Phúc, nằm tại thôn Trung Bạn, xã Đông Thọ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, là một ngôi chùa có bề dày lịch sử và văn hóa đặc sắc. Ngôi chùa này không chỉ là nơi thờ cúng và tu tập tâm linh của người dân địa phương mà còn là điểm đến văn hóa, tín ngưỡng quan trọng trong khu vực. Chùa VẠN PHÚC là một trung tâm Phật giáo Việt Nam thời Lý. Chùa còn giữ một số tác phẩm điêu khắc bằng đá đời Lý. Đặc biệt, ở điện Phật có tôn trí pho tượng đức Phật ngồi thiền định trên tòa sen cao 1,85m, kể cả bệ là 3m. Đây là một kiệt tác điêu khắc bằng đá ở nước ta. Chùa thờ tượng nhục thân Thiền sư Chuyết Công (1644). Đặc biệt, chùa có pho tượng Đại Phật bằng đá cao 27m, nặng hơn 3.000 tấn, đặt ở độ cao 108m, tạc theo nguyên mẫu pho tượng đức Phật thời Lý ở chùa, đã được khai quang vào ngày 26-9-2010. Chùa Vạn Phúc được xây dựng từ lâu đời và đã trải qua nhiều lần tu bổ. Kiến trúc của chùa mang phong cách đặc trưng của chùa miền Bắc Việt Nam với mái ngói cong, các cột kèo bằng gỗ chạm khắc tinh xảo và các bức tượng Phật được bày trí trang nghiêm. Khuôn viên chùa có các công trình như tam quan, chính điện, hậu cung và các gian thờ khác, tạo nên một không gian tôn nghiêm và thanh tịnh. Chùa Vạn Phúc là nơi thờ Phật, nơi người dân địa phương đến để cầu nguyện, thắp hương, và tham gia các lễ hội Phật giáo như lễ Phật Đản, Vu Lan và các ngày lễ tôn giáo khác. Chùa không chỉ là nơi tu tập của các nhà sư mà còn là nơi gắn kết cộng đồng, giúp người dân giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống. Ngoài ra, chùa Vạn Phúc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức và tinh thần cho thế hệ trẻ, giúp bảo tồn nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam. Với cảnh quan xanh mát và không gian yên bình, chùa là điểm đến thu hút du khách và phật tử từ khắp nơi. Chùa Vạn Phúc nổi bật với không gian cổ kính, các pho tượng Phật quý hiếm và nhiều di vật có giá trị lịch sử. Ngôi chùa này là minh chứng cho sự phát triển văn hóa và tôn giáo của vùng đất Yên Phong, Bắc Ninh qua nhiều thế hệ. Sự tồn tại và phát triển của chùa Vạn Phúc đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn di sản văn hóa và tinh thần của tỉnh Bắc Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung. Chùa Vạn Phúc không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là biểu tượng của tinh thần hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, giữa đời sống tâm linh và cuộc sống thường nhật của người dân nơi đây. NGUỒN: CHÙA VIỆT TOÀN CẦU
Bắc Ninh 223 lượt xem
Câu chuyện về ngôi đình cổ đã mấy trăm năm tuổi trên đất làng Ngăm Lương, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh mà chúng tôi nói tới sau đây là một ví dụ chứng minh cho điều đó. Thôn Ngăm Lương, xã Lãng Ngâm (xưa có tên Ngâm Điền) nằm liền kề dãy núi Thiên Thai, là nơi gặp gỡ giao thoa của nhiều mạch địa - văn hoá chuyển tiếp. Trên địa bàn có sông Đuống ôm vòng phía Tây và Tây Bắc. Đi liền với đó là tuyến giao thông đường bộ cổ, nay là đê sông Đuống. Tuyến sông và con đường cổ ấy làm thành mạch nối Đông - Tây liên kết giữa lưu vực sông Thái Bình và sông Hồng. Lãng Ngâm cũng nằm bên bờ phía Tây của khu vực Lục Đầu Giang, nơi kết thúc mạch núi cao, đồi thấp phía Bắc; nơi đổ về của những sông Thương, sông Cầu, sông Lục Đầu, để mở ra đồng bằng và xuôi về biển Đông. Những tuyến sông đó là những huyết mạch giao thông quan trọng trong chuyển lưu cư dân Việt cổ cùng với những yếu tố kinh tế, lịch sử, văn hóa của đất nước về với Lãng Ngâm; và từ đây - cũng chính nhờ những huyết mạch đặc biệt này - nó tiếp tục tỏa ra, hội nhập cùng đất nước trên mọi lĩnh vực. Điều đó đã cho vùng quê Ngăm Lương - Lãng Ngâm - ngay từ thời cổ - đã là nơi vừa được chứng kiến, vừa trực tiếp góp phần sáng tạo nhiều trang sử văn hóa đặc sắc của quê hương, đất nước. Nằm ở vị trí đầu làng, nhìn về phía Đông Nam, đình làng Ngăm Lương ở vào thế phong thuỷ đẹp. Tiền đường phía trước có hồ nước tụ thuỷ, đường làng uốn quanh, xa là đồng quê màu mỡ. Hai bên là làng mạc, ruộng đồng. Sau lưng đình là đê đại hà và dòng sông Đuống như dải nhiễu bao bọc. Cũng có lẽ làng và đình nằm bên sông,mà người xưa khi dựng đình đã tôn thờ 3 vị Thủy thần làm thành hoàng. Các vị thuỷ thần vốn được coi là các nhân vật có vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy đời sống sinh hoạt và sản xuất của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước từ thuở sơ khai. Hiện nay sự tích của các ngài ở địa phương đã bị thất lạc từ lâu, do vậy không rõ công trạng của các ngài như thế nào. Nhưng trong đình vẫn còn lưu giữ các văn tự chữ Hán ghi tên hiệu của các ngài là: Đệ nhất Ngũ lục hiển ứng biến linh tôn thần, Đệ nhị Trung thiên anh nghị hùng lược tôn thần, và Đệ tam Chàng nhị thông duệ mẫn đạt tôn thần. Đình làng Ngăm Lương có quy mô khá bề thế, ẩn chứa nhiều giá trị đặc sắc về lịch sử, văn hóa tín ngưỡng và kiến trúc - nghệ thuật. Đặc biệt, trên lĩnh vực kiến trúc - nghệ thuật, đây là một trong những đại diện cuối cùng, xuất sắc của nghệ thuật điêu khắc đình làng Bắc Bộ trong ba thế kỷ vàng của văn hóa dân gian. Cũng vì thế, đình đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa vào năm 2009. Theo dòng niên đại hiện còn ghi lại trên câu đầu đình làng Ngăm Lương cho biết, ngôi đình được tu tạo vào ngày đẹp đầu mùa hạ năm Giáp Thân - thời Lê (khoảng năm 1764). Tổng thể công trình khi ấy gồm: Cổng đình, Tam quan được xây kiểu chồng diêm 8 mái, hai bên có 2 vũ sĩ, voi và đắp vẽ tứ linh tứ quý. Bên trong là hai Dải vũ, mỗi bên 4 gian. Tiếp đến là Đại đình và Hậu cung. Trải qua thời gian và chiến tranh, một số công trình như Tam quan, Dải vũ của khu di tích đã bị dỡ bỏ. Năm 1962 sàn gỗ ở Đại đình cũng bị dỡ bỏ để làm bàn ghế. Sau này, người làng tu sửa ngoại viên, xây tường dựng cổng, làm lại tam quan; gom góp những sàn ván sót lại đủ ghép cho sàn một bên chái đình. Hiện tại, khi làng xóm quần tụ, nhà cửa khang trang; ngôi đình vốn to lớn, bề thế so với nhà dân ngày trước giờ có phần giảm bớt đồ sộ; nhưng giá trị tâm linh, giá trị lịch sử - văn hóa lại càng được nhân lên qua thời gian. Với công trình đình Ngăm Lương, vẻ đẹp kiến trúc qua bao thế kỷ vẫn hiện tồn qua kết cấu kiến trúc xưa vẫn được giữ nguyên. Đại đình gồm 3 gian 2 chái 4 mái đao cong, có kích thước dài 21m, rộng 11m, thực sự là một công trình kiến trúc mang đầy đủ vẻ đẹp đặc trưng của đình làng xứ Bắc. Kiến trúc đình làng Ngăm Lương cũng mang kiểu thức như bao ngôi đình làng Bắc bộ. Hệ thống cột gỗ lim lớn nhỏ vững chắc, cấu trúc vì kiểu chồng rường, trụ giá chiêng, ngang 6 hàng cột, dọc dựng 4 hàng. Hệ thống cột vững vàng này đã nâng bổng mái đình xoè rộng lợp ngói mũi, chở che không gian nội đình linh thiêng, với bao tác phẩm chạm khắc có giá trị nghệ thuật, thấm đẫm tâm hồn, tình cảm của những người thợ - nghệ sỹ dân gian dựng đình. Ở các cột cái thuộc hai hàng ngang trước và sau của ba gian chính đình đều có tai cột. Đó là người thợ đã xẻ đầu cột thành khung mộng rộng, rồi đưa phiến gỗ xuống xòe ra hai bên đầu cột, dưới là tay đỡ, trên gắn chốt lên đỡ xà thượng. Nhờ lối cấu trúc này, các tai cột luôn trong tư thế ổn định. Chính các tai cột này đã được người thợ biến thành những tác phẩm nghệ thuật với các kỹ thuật chạm nổi, chạm lộng các mảng đề tài phong phú, mang hơi thở rộn ràng của cuộc sống. Hậu cung đình theo kiểu chuôi vồ, gồm 5 gian kiến trúc vì theo kiểu kẻ chuyền, xung quanh xây gạch, trục dài 11,5m, rộng 8m. Bên trong Hậu cung được bài trí 3 ngai thờ bài vị các vị thành hoàng. Phía trước là bát hương, đài, nến, mâm bồng, đẳng tế... tất cả được đặt trên bệ gạch và bàn vuông, một số hiện vật này có niên đại thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Đặc biệt đình xưa được các triều đại phong kiến Việt Nam ban tặng nhiều sắc phong. Trải qua thời gian đã bị thất lạc, đến nay trong đình chỉ còn lưu giữ được 7 đạo sắc phong. Đạo sớm nhất phong năm Cảnh Hưng 28 (1767), đạo muộn nhất phong năm Đồng Khánh 2 (1886). Hầu hết đều ghi nhận công đức thành hoàng làng đã cứu giúp, trừ tai, trừ biến cho dân, để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. NGUỒN: HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 147 lượt xem
Chùa Đại Bi thuộc xóm 8, thôn Ninh Giang, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa còn được gọi chùa Ninh Giàng hay chùa Xóm 8. Chùa Đại Bi được xây dựng từ rất sớm. Dựa vào các tư liệu thành văn và di vật còn lại trong di tích thì có thể khẳng định chùa được xây dựng cách đây ít nhất là 400 năm. Theo lời kể của các cụ cao niên trong xã thì chùa đã bị thiêu cháy vào ngày 22 tháng 9 năm Mậu Dần, nhưng ngay sau đó nhân dân địa phương đã tham gia công đức cùng cụ Kỷ, người bản xã, tu ở đây, góp công của xây lại chùa theo đúng dáng vẻ cũ. Có lẽ gần đây nhất là lần trùng tu vào năm 1939 hiện còn ghi bằng chữ Hán trên thượng lương Thượng điện: Hoàng triều Bảo Đại thập tứ niên Tuế thứ Kỷ Mão ngũ nguyệt, nhị thập lục nhật thượng lương đại cát. Dịch là : Cất nóc ngày lành 26 tháng 5 năm Kỷ Mão, niên hiệu Bảo Đại thứ 14 (1939). Chùa Đại Bi có quy mô không lớn lắm; toàn bộ mặt bằng nền hình vuông, mỗi cạnh 13,4m với diện tích khoảng 200m. Người thợ xưa đã khéo dựng lên một ngôi chùa trên đó có đầy đủ các thành phần kiến trúc của một ngôi chùa điển hình gồm: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện và dãy hành lang chạy xung quanh, nhà Tổ, nhà khách, nhà phụ. Trên đỉnh mái Tiền đường, chính giữa là phù điêu hình tượng mặt trời, 2 bên có phù điêu phượng và đầu kìm là phù điêu rồng, trên 2 bờ chảy là phù điêu nghê. Đây là những phù điêu biểu tượng cho các linh vật trong tích tứ linh. Đầu đao cách điệu theo dạng cá chép hoá rồng, toàn bộ ngói được lợp bằng ngói mũi hài. Trên 4 trụ biểu gắn tại mặt tiền là 2 câu đối đắp bằng xi măng. Thượng điện là trung tâm bài trí thờ, có kết cấu đơn giản và chung nóc với Tiền đường gồm 25 pho tượng tròn sơn son thiếp vàng được trang trí lộng lẫy bởi hoành phi câu đối và cờ phướn. Sát tường Hậu thượng điện có 4 tượng Hậu dạng phù điêu đá và một tường hồi bên phải là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu thế kỷ XVII. Qua bao thăng trầm, biến đổi của thời gian, đặc biệt là lần bị cháy, các di vật đã bị tổn thất nhiều. Hiện nay chùa còn lưu giữ được những di vật quý bằng đá và đồng gồm: 5 tượng hậu bằng đá dạng phù điêu, 6 bia đá nhỏ, 1 cột trụ đá thiên đài (1691), một số tượng đất, 1 chiếc chuông đồng cao 75cm, đường kính 50cm quai 25cm, có 4 mặt chữ “Đại Bi tự chung”, niên hiệu “Hoàng triều Cảnh Thịnh" (1800); 3 bức hoành phi và 7 câu đối. Hàng năm nhân dân vẫn duy trì lễ hội tại chùa vào các ngày mùng 5, 6, 7 tháng 2 âm lịch. Chùa Đại Bi đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997./. NGUỒN: TẠP CHÍ NGƯỜI HÀ NỘI ONLINE - CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI LIÊN HIỆP VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HÀ NỘI
Bắc Ninh 184 lượt xem
Đền Xà nằm bên bờ nam sông Cầu, gần ngã ba Xà, là nơi hợp lưu của hai con sông cổ Cà Lồ và sông Cầu (còn gọi là sông Như Nguyệt) cùng chảy xuống sông Lục Đầu (tỉnh Hải Dương). Đền Xà, thôn Xà Đoài, xã Tam Giang (huyện Yên Phong, Bắc Ninh) thờ hai vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát. Hai vị là hai anh em ruột và là tướng tài của Triệu Quang Phục trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương. Gần một ngàn năm trước, vào thế kỷ 11 nơi đây được Thái úy Lý Thường Kiệt cho xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ 2, làm lên chiến thắng giặc Tống lẫy lừng tháng 10 năm 1077. Nói về lịch sử ngôi đền, cụ Vũ Công Tưởng (82 tuổi, người làng Xà Đoài, thủ từ đền Xà) cho biết: Đền Xà thờ đức thánh Tam Giang - tức anh em ngài Trương Hống, Trương Hát là những danh tướng của Triệu Quang Phục có công đánh giặc Lương vào thế kỷ 6. Ngôi đền thiêng cũng có từ thế kỷ thứ 6, sau khi các ngài mất. Truyền thuyết về thánh Tam Giang kể rằng, xưa kia ở làng Vân Mẫu (xứ Kinh Bắc) có một người con gái tên là Phùng Từ Nhan. Năm 18 tuổi, Từ Nhan chiêm bao thấy thần Long từ trên trời hạ xuống quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó bà mang thai 14 tháng và sinh hạ được cái bọc 5 con: 4 trai 1 gái. Do là con trời ban cho nên bà lấy họ Trương của Ngọc Hoàng đặt cho 4 người con trai là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và con gái là Trương Đạm Nương. Thời gian sau đó, Trời phái Lã Tiên Ông xuống trần dạy văn võ cho 5 người con của Từ Nhan tại bãi Tràng Học gần nhà Cổ Trạch. Năm anh em đều văn võ song toàn, lớn lên hưởng ứng lời kêu gọi của Triệu Việt Vương làm tướng tiến đánh giặc Lương ở đầm Dạ Trạch và giành thắng lợi lớn. Trương Hống, Trương Hát được phong làm tướng tài của Triệu Quang Phục. Khi Triệu Quang Phục lên ngôi vương (tên gọi khác là Triệu Việt Vương, Dạ Trạch Vương), Lý Phật Tử đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế gả con khiến Triệu Việt Vương mắc mưu rồi bị đánh bại. Khi Lý Phật Tử đoạt được ngôi vua, biết Trương Hống, Trương Hát là tướng tài giỏi bèn cho người mời ra làm quan. Song các ông với lòng trung quân, quyết không thờ hai vua. Biết không thể khuất phục được, Lý Phật Tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông biết không thoát được liền tự vẫn ở dòng sông Cầu để giữ trọn tấm lòng trung với vua. Cũng theo truyền thuyết, Ngọc Hoàng Thượng đế cảm thương đã sắc phong Trương Hống, Trương Hát làm Thần sông. Từ đó, nhân dân 372 làng dọc theo sông Cầu, sông Thương, sông Cà Lồ và các nơi hai ông từng đóng quân đánh giặc đều thương tiếc, lập đền thờ suy tôn các ngài làm Thần. Các triều đại nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý sau đó được âm phù giữ yên bờ cõi nên đều phong anh em họ Trương là Đức thánh Tam Giang - đại vương thượng đẳng thần. Theo sử sách, đền Xà và đức thánh Tam Giang cũng gắn với sự ra đời của bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà”của Lý Thường Kiệt – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Nói về truyền thuyết phát tích bài thơ Thần, cụ Vũ Công Tưởng kể: Theo các bậc cao niên làng Xà Đoài truyền lại, vào một đêm tháng 10 năm 1077, tại ngôi đền thiêng bên chiến tuyến sông Cầu chống giặc Tống, Lý Thường Kiệt vào đền làm lễ cầu âm phù dương hộ cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Làm lễ xong bầu trời đột nhiên bừng sáng như ban ngày, trên không trung xuất hiện hai đám mây một trắng, một hồng bên trên là hai tráng sĩ một cưỡi ngựa trắng, một cưỡi ngựa hồng đạp mây đi giữa bốn bề quân reo ngựa hí. Tương truyền đó chính là ngài Trương Hống, Trương Hát hiển linh phù hộ cho quân dân ta đánh giặc Tống. Cụ từ Vũ Công Tưởng xúc động, thành kính nói: “Các ngài “sinh vi tướng, tử vi thần”; tức là sống làm tướng, thác hóa thần, vẫn thực hiện sứ mệnh cao cả phụng sự đất nước”. Cùng lúc đó trên không trung hay trong tâm tưởng Lý Thường Kiệt bỗng vang vọng bài thơ “Nam quốc sơn hà”: Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” (Bản dịch: Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.” Đây chính là lý do khiến bài thơ được gọi là thơ Thần. Khi bài thơ được Lý Thường Kiệt đọc lên âm vang sang sảng một vùng, khiến quân giặc Tống kinh hãi rụng rời tháo chạy dẫm đạp lên nhau mà chết. Cùng với tài trí mưu lược của quân và dân ta, cuộc kháng chiến chống Tống đã thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt 30 vạn quân Tống, xác chất thành núi, máu chảy thành sông. Trải qua gần 1.000 năm kể từ chiến thắng thần thánh đó, hiện tại ở xã Tam Giang vẫn còn các địa danh như Bãi Xác, Bờ Xác, Đồng Xác là dấu tích sự thất bại thảm hại của quân giặc năm xưa. Hàng năm đền Xà có hai dịp lễ lớn vào mùng 5 tháng Giêng và mùng 9, 10 tháng 4 âm lịch. Hội đền Xà thuộc hội lớn nhất vùng, ngoài các nghi lễ trang nghiêm rước kiệu, rước nước, còn có tục thi bơi chải. Truyền rằng, tục bơi chải của đền Xà gắn liền với việc Lý Thường Kiệt huy động dân binh địa phương tham gia vào việc đánh giặc Tống trên sông Như Nguyệt. Đền Xà ngày nay tọa lạc trên một gò đất rộng gần 10 hecta, cách ngã ba Xà - nơi hợp lưu hai con sông cổ chưa đầy cây số. Hiện ngôi đền đang được trùng tu nhưng về kiến trúc vẫn giữ được nét cổ kính có từ ngàn đời. Phía trước sân vẫn còn tấm bia đá cổ khắc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” hai mặt bản chữ Hán và chữ quốc ngữ, phía ngoài là cổng tứ trụ với bức phù điêu nhuốm màu thời gian. Ngoài hệ thống cổ vật quý còn lưu giữ như tượng thờ, trong hậu cung đền Xà còn có bàn thờ Táo Quân với tượng “hai ông, một bà”. Đầu xuân, du khách, người dân đến lễ đền Xà cầu quốc thái dân an cũng không quên thắp nhang ban thờ Táo Quân với ước nguyện cầu cho gia đình luôn ấm lửa, mong hạnh phúc, bình an cho gia đình mình và cho mọi nhà. Với bề dày lịch sử gần 1500 năm, năm 1988 Đền Xà được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịc sử cấp Quốc gia. Nguồn: Báo điện tử của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Bắc Ninh 169 lượt xem
Nằm trên địa bàn khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, Nhà lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự là nơi sinh ra, lớn lên và hoạt động cách mạng của đồng chí Ngô Gia Tự - Nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng, người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh. Ngày nay, Nhà lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự đã trở thành địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân.Toàn bộ khu nhà được thân phụ của đồng chí Ngô Gia Tự là cụ Ngô Gia Du cho xây dựng vào năm Khải Định nguyên niên (tức năm 1916) bao gồm các công trình: nhà ở chính, nhà điện, nhà ngang, nhà học, nhà nông cụ cùng vườn tược cây cối quanh năm xanh tốt. Cổng vào Nhà lưu niệm vẫn giữ được nguyên lối kiến trúc xưa. Hai bên cổng còn đôi câu đối do chính tay đồng chí Ngô Gia Tự viết bằng chữ quốc ngữ: “Cổng độc lập tha hồ khép mở/Nhà tự do mặc sức ra vào”, thể hiện ý chí độc lập tự do của đồng chí Ngô Gia Tự, nhưng cũng có nghĩa đây là nơi tụ hội của những con người cùng chí hướng, hoài bão đấu tranh cho một đất nước tự do, độc lập. Trên nóc công đắp nổi dòng chữ “Cửa như chợ” thể hiện hoài bão lớn của tuổi trẻ thế hệ đồng chí Ngô Gia Tự. Nhà học 3 gian, trước đây là nhà khách của gia đình, năm 1926, đồng chí Ngô Gia Tự dời Trường Bưởi trở về quê, dùng nhà khách là nơi mở các lớp dạy học, truyền bá cách mạng. Tượng thờ đồng chí Ngô Gia Tự đặt trang trọng tại gian giữa. Nhà chính là nơi ở của gia đình đồng chí Ngô Gia Tự. Gian giữa thờ thân phụ và đồng chí Ngô Gia Tự. Phía trên là bức hoành phi do chính tay thân phụ của đồng chí Ngô Gia Tự để lại gồm 4 chữ “Di mưu yến dực” với ý nghĩa muốn nhắn nhủ con cháu đời sau luôn hướng về nguồn cội tổ tiên và mưu trí giúp nước, giúp nhà. Bên trái nhà chính là nhà Điện 3 gian, là nơi thờ đức Thánh trần của gia đình, nhưng tại đây vào ngày 29/9/1928, Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã họp hội nghị và đưa ra chủ trương “Vô sản hóa”, góp phần đưa cách mạng Việt Nam bước lên một tầm cao mới. Trong nhà Điện còn lưu giữ được nhiều ảnh chân dung các lãnh tụ tiền bối của Đảng và các hiện vật. Đối diện nhà Điện là nhà ngang, là nơi sinh hoạt và chứa các vật dụng của gia đình. Trong những ngày nông nhàn, thân mẫu của đồng chí Ngô Gia Tự vẫn thường miệt mài bên khung cửi này để dệt vải góp phần nuôi các con ăn học trưởng thành. Đặc biệt, tại ngôi nhà này đồng chí đã dùng để in tài liệu bí mật phục vụ cho hoạt động cách mạng. Bên phải nhà Học là dãy nhà nông cụ, gồm 5 gian.Nơi lưu giữ những nông cụ sản xuất hàng ngày của gia đình đồng chí Ngô Gia Tự. Bia ghi nhớ nơi đồng chí Ngô Gia Tự đã sống thời niên thiếu và hoạt động cách mạng trong những năm 1926 - 1928 đặt trong khuôn viên di tích. Khu Nhà lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự đã được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia theo Quyết định số 100-VH/QH ngày 21/1/1989. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 183 lượt xem
Nằm cách trung tâm TP Hà Nội khoảng 20km về phía đông, chùa Keo có lịch sử gần 1.000 năm tọa lạc trên diện tích gần 10.000m2, thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm. Ngôi chùa còn có tên khác là “Báo Ân Trùng Nghiêm tự”, là nơi thờ bà Keo - một trong Tứ đại Phật pháp thời xưa. Giới thiệu về chùa Keo, ông Hoàng Đình Phong-người trông nom và nhang khói tại chùa-lý giải: Tên Keo theo truyền thuyết có ý nghĩa là hai thôn Giao Tự và Giao Tất kết dính với nhau chặt chẽ như keo sơn. Nơi đây vốn có hai nghề truyền thống là nấu keo dán bằng da trâu và làm vàng điệp để sơn son thếp vàng. Tương truyền xưa kia, nhân dân nơi đây cho tạc 4 pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện xong thì còn thừa một khúc gỗ đem tạc tượng Pháp Vân nhỏ hơn. Các pho tượng được đưa về các chùa vùng Luy Lâu và đặt tên nôm theo tên làng là: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn. Pho tượng Pháp Vân nhỏ nhất được làng Keo rước về thờ ở chùa Keo, sau đó được gọi là tượng Bà Keo.Trải qua gần 1.000 năm lịch sử, chùa Keo hiện lưu giữ được tổng cộng 47 pho tượng Phật, trong đó tượng Bà Keo là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Chùa còn giữ 6 tấm bia đá, 1 chuông cổ được đúc thời Cảnh Thịnh (1794), 1 khánh đồng, 8 đạo sắc phong cùng nhiều đồ thờ tự và một số cổ vật mang phong cách thời nhà Lê. Chùa được trùng tu nhiều lần nên mang nhiều phong cách pha trộn. Tam quan được xây bằng gạch theo kiểu nghi môn thời Nguyễn, tòa thượng điện là kiểu nhà 4 mái. Hậu cung và tháp tam bảo mang phong cách thời Nguyễn. Đáng lưu ý, tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn là sản phẩm của thế kỷ XVII. Một trong những nét văn hóa đặc trưng gắn liền với chùa Keo bao đời nay là Lễ hội truyền thống làng Keo. Nói về lễ hội của quê nhà, ông Hoàng Đình Phong nhắc lại câu ca dao: “Mồng 6 hội Keo, mồng 7 hội Khám, mồng 8 hội Dâu, mồng 9 đâu đâu trở về hội Gióng”. Theo ông Hoàng Đình Phong, Lễ hội truyền thống làng Keo diễn ra vào ngày 6-4 âm lịch hằng năm. Đặc biệt, tại Lễ hội làng Keo, ngoài hoạt động tế lễ theo nghi thức tín ngưỡng còn có Lễ rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lễ rước Phật với nhiều nghi thức, phong tục, tập quán cổ xưa mang đậm màu sắc tâm linh, thu hút đông đảo nhân dân địa phương cùng du khách thập phương tham gia. Với những giá trị văn hóa, lịch sử lâu đời, chùa Keo đã được công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1993. Ông Bùi Trọng Thể, Trưởng ban quản lý Di tích chùa Keo cho biết: "Nhân dân làng Keo nói riêng và xã Kim Sơn nói chung rất tự hào về lịch sử, văn hóa của chùa Keo. Trong kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa bị hư hỏng nặng và sau đó được trùng tu lớn vào năm 1995. Qua thời gian, ngôi chùa hiện có nhiều hạng mục bị xuống cấp. Chúng tôi đã gửi đề nghị đến các cấp lãnh đạo mong muốn được xây dựng lại tiền tế, tháp chuông và sửa chữa lại thượng điện, hành lang tượng Phật. Mong rằng những đề nghị trên sẽ sớm được thông qua để góp phần bảo tồn, phát huy di tích lịch sử gần nghìn năm tuổi này". NGUỒN: QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Bắc Ninh 201 lượt xem
Đền Vọng Nguyệt nằm cuối làng Vọng Nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong), gần đê sông Cầu. Đền được khởi dựng từ lâu đời với nhiều tòa, tuy nhiên do yêu cầu tiêu thổ kháng chiến năm 1948, toà đền Hạ và đền Trung bị phá huỷ. Công trình kiến trúc Đền hiện nay chỉ còn lại đền Thượng, được trùng tu lại năm 2004. Đền nằm ở phía Đông của thôn, có vị trí cảnh quan thoáng đãng. Công trình kiến trúc đền Vọng Nguyệt hiện nay mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Đền có mặt bằng kiến trúc kiểu Tiền chữ Nhất, hậu chữ Đinh, là sự hợp thành của hai toà Tiền tế 3 gian 2 chái và Hậu cung 1 gian. Cả Tiền tế và Hậu cung của đền đều được cấu trúc kiểu 4 mái, 4 đao cong, bờ nóc, bờ dải trang trí hoa chanh, gợi sự thanh thoát nhẹ nhàng. Phía trên nóc đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt... Bộ khung đền bằng gỗ lim được liên kết bởi các bộ vì theo kiểu thức “thượng con chồng giá chiêng, hạ kẻ trường”. Trên một số bức cốn, đầu dư và kẻ tiền chạm hoa văn rồng mây, hoa dây. Theo tài liệu ghi lại, đền Vọng Nguyệt thờ Công chúa Lý Nguyệt Sinh (con vua Lý) và Phò mã Đô Uý. Các ngài đã hy sinh anh dũng vì đất nước, được nhân dân nơi đây lập đền hương hỏa phụng thờ. Tại đền hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật tiêu biểu có giá trị như: các đạo sắc phong do các đời vua Lê và Nguyễn phong tặng cho 2 vị thần; Bia thần tích 1642, ngai thờ, bài vị, hoành phi, cuốn thư, câu đối, án gian có niên đại thời Nguyễn; hạc thờ, kiệu bát cống, bộ siêu đao bát biểu có niên đại thế kỷ XX… Những tài liệu cổ vật này vừa là chứng tích của ngôi đền trong lịch sử, vừa là di sản văn hóa quý giá của quê hương. Ngoài ra, đền Vọng Nguyệt còn có nhà bia để thờ các Anh hùng liệt sỹ và tôn vinh các bậc hiền tài của địa phương. Lễ hội chính ở đền làng Vọng Nguyệt được tổ chức vào ngày 9 tháng 2 (âm lịch) hàng năm. Ngoài ra còn các ngày sự lệ khác như: Ngày 4 tháng 4 âm lịch (lễ kỳ phúc); ngày 8 tháng 6 (ngày Kỵ nhật của bà Lý Nguyệt Sinh); Ngày 12 tháng 9 (ngày giỗ thánh Tam Giang)… Đền Vọng Nguyệt được Bộ Văn hóa, Thể thao xếp hạng là di tích lịch sử theo Quyết định số 28-VH/QĐ ngày 18/01/1988. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 275 lượt xem
(BNP) – Đền Bà Chúa Kho nằm trên lưng chừng núi Kho, thuộc khu Cổ Mễ, phường Vũ Ninh (thành phố Bắc Ninh). Đền được lập từ thời Lý, ban đầu vốn là ngôi miếu nhỏ, vào thời Lê, được trùng tu, mở rộng thành khu Đền lớn. Đến nay, Đền Bà Chúa Kho đã được Nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia và được tỉnh Bắc Ninh công nhận là một trong 14 điểm du lịch của tỉnh. Đền Bà Chúa kho là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người dân miền Bắc. Đền là nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương vào các ngày 12 - 15 tháng Giêng, với nhiều nghi lễ và trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu có dịp, người dân Bắc Ninh thường mời bạn bè, du khách thập phương về vãn cảnh, hành hương tại Đền Bà Chúa Kho một lần. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 220 lượt xem
Chùa Kim Đài, còn có tên là chùa Quỳnh Lâm, khu phố Xuân Đài, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn được thiền sư Định Không hưng công xây dựng từ thế kỷ thứ XIII. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đến nay ngôi chùa vẫn giữ được kiến trúc xưa, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương và điểm thăm quan của du khách thập phương khi về với quê hương nhà Lý. Chùa Kim Đài là nơi thờ Phật, thờ Tổ, thờ Mẫu và phối thờ 2 vị tổ là thiền sư Định Không, thiền sư Lý Khánh Văn. Chùa được xây dựng trong khuôn viên rộng gần 3.800m2, có kiến trúc hình chữ Đinh, gồm các hạng mục: Tam quan, Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Ni, lầu Quan Âm… Cổng chùa (Tam quan) được xây dựng quy mô đồ sộ, gồm cổng chính và 2 cổng phụ 2 bên, phía trên mái chồng diêm kiểu “2 tầng 8 mái đao cong”. Tam bảo gồm Tiền đường và Thượng điện liên kết với nhau tạo thành mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh. Tiền đường gồm 5 gian, 2 trái, có kiến trúc kiểu “4 mái đao cong”. Trên nóc tòa Tiền đường đắp nổi 3 chữ Hán “Kim Đài tự”. Thượng điện gồm 3 gian, kết cấu kiểu “thượng chồng rường, hạ chồng rường bảy hiên”. Nhà Tổ và nhà Mẫu có 4 gian, kiến trúc “bình đầu bít đốc tay ngai”. Hệ thống tượng phật được đặt ở hành lang 2 dãy nhà 7 gian. Chùa hiện còn lưu giữ được hệ thống tượng thờ, hoành phi, câu đối cùng nhiều hiện vật cổ có giá trị thời Nguyễn.. Đường đi vào chùa rợp bóng cây xanh, cây cảnh các loại… Trong những năm tiền khởi nghĩa, chùa Kim Đài còn là nơi cán bộ cách mạng, du kích địa phương hoạt động bí mật. Hội chùa được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch hằng năm để tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân có công với vương triều Lý. Chùa Kim Đài được nhà nước xếp hạng là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 61/QĐ-UBND ngày 5/01/2009. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 154 lượt xem
Cách Hà Nội chừng 33km về hướng Đông và nằm sát bờ Nam đê sông Đuống, làng Hồ hay Đông Hồ là một làng nghề cổ truyền, có tên Nôm là làng Mái nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến, với những bức tranh từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần bao người dân Việt. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ, du khách xuôi theo Quốc lộ 5 (đường đi Hải Phòng) chừng 15km đến ga Phú Thụy thì rẽ trái, đi tiếp chừng 18 km sẽ đến phố Hồ, huyện lỵ của huyện Thuận Thành. Từ đây rẽ trái đi thêm chừng 2km là đến làng Hồ. Du khách cũng có thể đi hết phố Hồ rồi lên đê, rẽ trái đến điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường vào Đông Hồ. Đông Hồ là một làng nhỏ với hơn 220 hộ dân, sinh sống bằng nghề làm tranh và hàng mã nhiều hơn làm nông nghiệp, nơi còn lưu giữ cách làm tranh cổ xưa nhất của vùng đất Kinh Bắc. Ca dao Việt Nam đã có những khắc họa thật sinh động về làng tranh Đông Hồ với hình ảnh một làng quê dung dị nằm nép mình bên dòng sông Đuống hiền hòa, nổi bật với những chuẩn mực đạo đức được cổ súy giữ gìn qua bao đời, đã tạo nên cung cách ứng xử độc đáo của người làng Mái: trọng danh dự, khí tiết, ăn nói lịch lãm, trên dưới thưa gửi rõ ràng và hiếm khi trong làng có người to tiếng chửi mắng nhau… “Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về làng Mái với anh thì về Làng Mái có lịch có lề Có ao tắm mát có nghề làm tranh.” Xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVI, tranh Đông Hồ được hình thành bằng phương pháp thủ công, là kết tinh của sự khéo léo và nhẫn nại, cộng với nghệ thuật thẩm mỹ đầy tinh tế… Đây không phải là những bức tranh được vẽ theo cảm hứng nhưng được in lại qua những bản khắc, và để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, đòi hỏi ở người vẽ mẫu cũng như người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao. Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh. Có thể nói giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1944 là thời cực thịnh của làng tranh, với 17 dòng họ trong làng đều tham gia làm tranh. Qua những năm kháng chiến chống Pháp, do chiến tranh tàn phá khốc liệt nên nghề làm tranh cũng tạm bị gián đoạn. Đến khi hòa bình lập lại ở miền Bắc nhất là khi đất nước thống nhất thì làng tranh mới được khôi phục. Đáng tiếc là qua mấy chục năm đổi mới theo nền kinh tế thị trường và với sự tác động của các trào lưu nghệ thuật phương Tây, nhận thức và xu hướng xã hội cũng có sự thay đổi đẩy dòng tranh Đông Hồ đối mặt với sự tồn vong của chính mình (!). Hàng năm, từ tháng Ba đến tháng Bảy cả làng làm hàng mã, sang tháng Tám đến tháng Chạp lại tất bật mùa tranh Tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp. Đặc biệt làng Hồ có hội vào rằm tháng Ba âm lịch, trong ngày hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ… Trong số các dòng tranh dân gian Việt Nam được biết đến như Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Nội - Hà Tây cũ), Đông Hồ (Bắc Ninh), làng Sình (Huế)…, tranh Đông Hồ nổi bật nhờ gắn liền với làng quê thôn xóm, với đời sống bình dị của người dân nông thôn, rất gần gũi với cộng đồng người dân Việt… Tranh Đông Hồ được in trên giấy Dó, một loại giấy được làm thủ công từ nguyên liệu là cây Dó mọc trên rừng giống như vỏ cây Bạch đàn. Cây Dó đem về cho vào cối giã nhỏ, rây thành bột mịn, sau đó dùng bột này chế biến thành giấy Dó. Do trên nền giấy thường được quét bằng một lớp hồ hoặc nhựa thông có pha loại bột từ vỏ sò Điệp giã nhỏ tạo màu sáng lấp lánh nên còn được gọi là giấy Điệp. Người làng Hồ đã biết vận dụng, chắt lọc từ những chất liệu thiên nhiên để tạo nên những sắc màu truyền thống vừa tươi vừa có độ bền màu, như màu xanh da trời được chiết suất từ gỉ đồng; màu chàm được chiết suất từ lá cây Chàm ở Lạng Sơn; màu đỏ thắm từ vỏ cây Vang; màu đỏ son từ đá sỏi khai thác trên núi; màu vàng từ hoa Hòe hay rơm nếp; màu đen từ tro Xoan hay tro lá cây Tre; màu trắng ngà óng ánh sáng điệp là do bởi chất điệp được chế biến từ vỏ ốc hay vỏ sò của vùng biển Quảng Ninh… Đây là những màu cơ bản, không pha trộn và mỗi màu tương ứng với một bản khắc gỗ nên thường tranh Đông Hồ chỉ giới hạn ở bốn màu. Riêng đề tài được lấy từ chính đời sống, sinh hoạt sản xuất hay xuất phát từ triết lý phồn thực, tuy dung dị nhưng cũng rất gần gũi với sinh hoạt đời thường. Từ những nhân vật trong truyền thuyết hay trong tích truyện, những cảnh đẹp của non sông đất nước, đến những bức tranh mang ý nghĩa cầu chúc, những sinh hoạt đời thường như “Vinh hoa phú qúy”, “Hái dừa”, “Đánh ghen”, “Mục đồng thổi sáo”, “Đám cưới chuột”…, tất cả đều hàm chứa những triết lý nhân văn sâu sắc. Không áp dụng các nguyên tắc về ánh sáng hay luật cận - viễn của tranh đương đại với bố cục chặt chẽ về cơ thể học, các nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian chỉ bằng lối vẽ đơn tuyến bình đồ đã tạo nên dòng tranh Đông Hồ mang nhiều tính ước lệ cả trong miêu tả lẫn trong bố cục, đã đưa người xem tranh lạc vào thế giới của những nét vẽ ngây ngô, đơn giản nhưng cũng rất thú vị. Đặc biệt trên mỗi bức tranh, bao giờ nghệ nhân cũng đề một vài chữ Hán hoặc chữ Nôm (ngày xưa) hay câu thơ lãng mạn, tình tứ (ngày nay) càng khiến cho tranh thêm đậm đà ý vị… Tranh Đông Hồ khá gần gũi với đời sống nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh, thành phía Bắc, hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn và có cả trong chương trình học. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, nhà thơ Hoàng Cầm đã làm toát lên hồn dân tộc trong nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ: “Tranh Đông Hồ Gà, Lợn nét tươi trong, Màu dân tộc sáng bừng trên giấy Điệp.” Nhà thơ Tú Xương lại có mấy dòng minh họa tranh Đông Hồ khá hóm hỉnh: “Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo Chuột, Lòe loẹt trên vách bức tranh Gà.” Điều đó đã nói lên mối tương quan giữa tranh Đông Hồ với không khí ngày Xuân trong đời sống nông thôn. Trước kia tranh Đông Hồ được làm ra chủ yếu phục vụ cho dịp tết Nguyên đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường để trang trí trong dịp tống tiễn năm cũ và chào đón năm mới, hết năm lại lột bỏ và thay bằng tranh mới. Thú chơi tranh ngày ấy thật thâm trầm, tao nhã khi những ước mong về một năm mới tốt đẹp được người chơi tranh ý nhị gởi gắm vào nội dung bức tranh mình chọn mua. Đông Hồ có chợ tranh tấp nập vào tháng Chạp với năm phiên chợ vào các ngày 6, 11, 16, 21, 26. Mới tờ mờ sáng dòng người khắp nơi đã đổ về làng Hồ nhộn nhịp như trẩy hội. Có nhiều người đến để mua bán tranh nhưng cũng không ít người đến chỉ để thỏa trí tò mò hay muốn thưởng lãm tranh Đông Hồ. Nhiều người không quản ngại đường xa đã lặn lội về đây với tâm niệm ngày Tết có một vài bức tranh Đông Hồ treo trong nhà thì coi như năm đó gia đình sẽ yên ấm, gặp nhiều may mắn, làm ăn sung túc… Những người con làng Hồ đi đâu cũng nhớ đến câu ca dao: “Dù ai buôn bán trăm nghề, Nhớ đến tháng Chạp thì về buôn tranh”. Mỗi năm đã có hàng vạn bức tranh được bán ra, sau phiên chợ tranh cuối cùng, những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất chờ đến mùa tranh năm sau lại đem ra chợ tranh bán. Tranh làng Hồ đã được nhiều người coi như đặc sản của xứ Kinh Bắc. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước sành điệu, yêu thích tranh Tết Ðông Hồ về tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Sau khi hòa bình lập lại vào năm 1954, làng tranh Đông Hồ đã được khôi phục, nhiều tổ hợp tác sản xuất được thành lập. Đây là thời điểm tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những năm 1985 - 1990, do tác động của nền kinh tế thị trường và việc thay đổi cơ chế chính trị ở các nước Đông Âu, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn đang khi thị hiếu thẩm mỹ của người dân cũng có nhiều chuyển biến trước những du nhập quá mới mẻ từ các nước phương Tây. Do không tìm được đầu ra cho tranh mà hầu như cả làng đều chuyển qua làm hàng mã để sinh sống. Phải công nhận nghề vàng mã đã tạo công ăn việc làm đáng kể cho mọi người, từ người già đến trẻ con đều có thể tận dụng những lúc rảnh rỗi để tham gia sản xuất. Cũng nhờ nghề vàng mã phát triển mà kinh tế người làng Hồ khấm khá hơn, đời sống người dân đã có nhiều thay đổi, những ngôi nhà tranh vách đất cũ kỹ đã được thay bằng các ngôi nhà cao tầng hiện đại… Đã có lúc tưởng như một dòng tranh dân gian nổi tiếng với bề dày lịch sử đang dần bị mai một, nhưng với lòng yêu nghề của nhiều nghệ nhân trong đó phải kể đến gia đình các ông Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam mà nghề làm tranh Đông Hồ đã được khôi phục với sắc diện và sinh khí mới. Trong nỗ lực làm sống lại nghề tranh Đông Hồ, ông Chế đã vận động con cháu đóng góp xây dựng “Trung tâm giao lưu văn hóa dân gian tranh Đông Hồ” rộng đến 5.500m². Trung tâm đã tạo ra được một không gian văn hóa độc đáo, trở thành địa chỉ không thể thiếu đối với các tour du lịch làng nghề. Mỗi năm trung tâm đã đón hàng chục nghìn lượt khách cả trong và ngoài nước đến tham quan tìm hiểu và mua sản phẩm. Một trong những điều làm khách du lịch vô cùng thích thú là được hướng dẫn để tự tay làm ra sản phẩm tranh Đông Hồ. Thời may, nhờ ít người còn tha thiết với việc làm tranh nên tranh của gia đình hai ông làm ra đều bán được, thỉnh thoảng cũng có du khách nước ngoài đến tìm mua tranh. Thu nhập nhờ đó cũng tạm ổn giúp họ có thêm động lực tiếp tục giữ gìn và phát triển nghề truyền thống. Điểm đáng mừng là sau một thời gian chạy theo luồng tranh “thời thượng”, nhiều người cũng kịp nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong sự mộc mạc giản dị của tranh dân gian và quay lại với cái thú chơi và treo tranh Đông Hồ, nhất là trong những ngày Tết. Hy vọng cùng với việc tỉnh Bắc Ninh xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia cho nghề tranh Đông Hồ để đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận di sản văn hóa thế giới, vận may sẽ lại mỉm cười với làng tranh Đông Hồ để tranh Đông Hồ giữ mãi nét tươi trong và sáng bừng trên giấy Điệp… Nguồn: Tranh dân gian đông hồ
Bắc Ninh 179 lượt xem
Đền Tam Phủ (hay còn có tên là đền Ba Vua), thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, nơi tôn thờ 3 vị chí tôn: Thiên Phủ, Địa Phủ, Thuỷ Phủ - Vua của ba cõi tự nhiên (Trời - Đất - Nước) đã tạo hoá lên muôn loài. Theo tư liệu ở địa phương, đền được khởi dựng từ lâu đời trên gò đất cao giữa bãi Nguyệt Bàn - là một bãi bồi lớn, vây quanh là sông nước mênh mông. Di tích gắn liền với sự kiện lịch sử các vua quan nhà Trần triệu tập Hội nghị Bình Than (hội nghị quân sự) bàn kế sách đánh thắng giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta vào thế kỷ XIII (năm 1282) đã lên bãi Nguyệt Bàn - Đền Tam Phủ làm lễ tế cáo trời đất, cầu mong thắng giặc, giữ yên bờ cõi. Trải qua các giai đoạn lịch sử, ngày nay di tích đền Tam Phủ còn gìn giữ được những di vật cổ có niên đại vào thời Lê - Nguyễn và được trùng tu, tôn tạo khang trang. Phía trước là đền thờ “Ba Vua” gồm 3 toà: đền Thượng, đền Trung và đền Hạ; phía sau khuôn viên đền còn có một số công trình như: chùa thờ Phật, điện thờ Mẫu Liễu Hạnh. Trong đó, có giá trị lịch sử, kiến trúc nổi bật nhất là ngôi đền thờ “Ba vua” gồm 3 tòa: tiền tế, trung đền và hậu cung. Tòa tiền tế được xây dựng theo kiến trúc 3 gian 2 trái, mái đao cong, khung dựng hoàn toàn bằng gỗ lim với nhiều đường nét chạm trổ hình rồng, phượng, cây cỏ, hoa lá… tinh vi. Nơi đây có ban thờ đức Thánh Trần (Hưng Đạo vương - Trần Quốc Tuấn) - người đã có công đánh giặc Nguyên Mông ở vùng cửa Đại Than, được nhân dân nơi đây lập đền thờ và các triều vua ban tặng sắc phong. Trung đền được xây dựng theo kiến trúc 3 gian 2 trái, mái đao cong, có kiến trúc tương tự như tòa tiền tế, là nơi đặt ban thờ Ngũ vị tiên ông, Đức ông và Bà chúa Lục Đầu Giang. Đặc biệt, trên khám thờ có treo bức hoành phi cổ bằng tiếng Hán “Tam phủ linh từ” (đền tam phủ linh thiêng), cột hai bên treo câu đối: “Vạn cổ nguy nga Tam Phủ điện/Thiên thu đột ngột Lục đầu giang”. Di tích Đền Tam Phủ và địa điểm Bãi Nguyệt Bàn được UBND tỉnh xếp hạng di tích lịch sử văn hoá năm 2007. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh.
Bắc Ninh 162 lượt xem
Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng xã không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ, công sức, sự thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã, nơi chứng kiến và diễn ra các hoạt động lớn nhỏ của cả làng... là nơi các chàng trai, cô gái gửi gắm, bày tỏ tâm tình. "Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu" Cách Hà Nội 20km về phía Bắc, Đình làng Đình Bảng (Đình Bảng) thuộc thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh (xưa là Hương Cổ Pháp). Vùng địa linh này là quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010). Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý, tạo thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia, đủ cả: Đình, Đền, Chùa, Lăng, Tẩm .... đặc trưng của văn hóa làng Việt Nam . Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc, được xây dựng năm 1700 và đến năm 1736 mới được hoàn thành, do công đầu của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang Nguyễn Thị Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dân làng xây dựng, ngôi đình có thế trường tồn (Nay ngôi nhà cổ của ông Nguyễn Thạc Lượng cho dựng thử trước khi cho dựng Đình Bảng vẫn còn và được gìn giữ bảo tồn). Đình Bảng là nơi hội tụ văn hoá tín ngưỡng, nguyên trước Đình thờ 3 vị nhiên thần: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần Trồng Trọt), đây là các vị thần được cư dân nông nghiệp tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tươi tốt. Hàng năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu khẩn cho một năm mùa màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân dân cũng thờ Lục Tổ (6 vị có công lập lại làng vào thế kỷ XV. Sau này khi đền Lý Bát Đế bị thực dân pháp phá năm 1948, nhân dân đã tiếp nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về thờ tại đình Đình Bảng. Đình Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc, giữ được hình ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình làng. Nhìn lại lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn còn in giữ trên các trống đồng Đông Sơn - Một sáng tạo của cha ông ta trong lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi thế kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn nhưng phải nhận thấy cả hai mẫu hình này có phong thái thống nhất, có sự kế thừa và phát triển truyền thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng nước. Đình Đình Bảng là một công trình kiến trúc quy mô, nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan trọng nhất của Đình Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà Bái Đường (Đại Đình). Bái Đường của đình có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy gian, hai chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ sộ của đình thể hiện qua phần mái toả rộng chiếm 2/3 chiều cao tổng thể và 6 hàng, khoảng 60 cột lim lớn nhỏ có đường kính từ 0,55- 0,65 mét được đặt trên các tảng đá xanh vuông vức. Khi bước vào lòng đình, quý khách được đón chào và bị cuốn hút bởi tất cả sự tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVIII. Sự cuốn hút đầu tiên với mọi du khách là bức cửa Võng lớn ở cung giữa thuộc gian ngoài. Bức Võng phủ kín một diện rộng, kéo dài từ Thượng lương xuống Hạ xà và mở ngang hết một gian. Cửa Võng được chạm lộng kết hợp chạm nổi tinh xảo trên cả 7 lớp, 9 ô các đề tài tứ linh, tứ quý.... phía trên bức cửa Võng là bức trần gỗ che kín mái gian giữa với hình trang trí là một con chim Phượng xoè rộng cánh tới các vầng vân mây quanh đó. Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ". Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức gợi tả bao điều. Suốt hơn 200 năm kể từ khi khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi vào đời sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc cũng như nhân dân cả nước: "Thứ nhất là đình Đông Khang Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm" Đình Đông Khang ngày nay không còn, cái mà hôm nay ta còn được chiêm ngưỡng lại là Đình làng Đình Bảng. Với vẻ đẹp về quy mô kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật trang trí và cái quý giá hơn là đình Đình Bảng cho du khách một cái nhìn trọn vẹn của kiến trúc đình làng được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, trong khi các ngôi đình khác không còn giữ được dáng vẻ nguyên vẹn nữa. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC NINH
Bắc Ninh 188 lượt xem
Chùa Phả Lại hiện tọa lạc trên đỉnh núi Phả Lại thuộc xã Đức Long, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Đây là công trình văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng được khởi dựng từ lâu đời, gắn bó suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của địa phương. Chùa Phả Lại vốn được khởi dựng từ lâu đời. Theo các thư tịch cổ cho biết, vào khoảng niên hiệu Thái Ninh (1075 - 1075) đời vua Lý Nhân Tông, chùa Phả Lại được thiền sư Giác Hải (người Gia Vĩnh, Thanh Hóa) và Dương Không Lộ đứng ra hưng công xây dựng với quy mô lớn. Thời kỳ này, chùa có quy mô cả trăm gian, bao gồm các công trình: Chùa phật, chùa Hộ, chùa Am, Tam quan nội, Tam quan ngoại, Điện kính thiên, Gác chuông, Gác trống, Tăng thất... Thời Trần, nhà vua nhiều lần về đây ngắm cảnh, làm thơ và cho phép nhà chùa tu bổ lớn. Quy mô gồm: Điện kính thiên, Bốn cây tháp lớn, Gác chuông, Gác trống, Tam bảo, Đền thờ thánh Dương Không Lộ và Khổng Minh Không, hai bên là hai dãy hành lang. Dưới chân núi, trước điện Kính thiên là Đền hạ và Ao rồng, phía đông triền núi là chùa Cổ Am. Cũng trong thời gian này, chùa được đổi tên thành "Chúc Thánh tự", ngôi chùa được sử sách ghi chép lại như sau: “Từ 1407, khi nước ta có giặc Minh sang xâm lược chùa Chúc Thánh đã bị giặc Minh tàn phá, chúng đã lấy hết chuông đồng, đỉnh đồng… để làm vũ khí, súng đạn. Những đồ vật khí khác cũng bị chúng lấy”. Khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa, dẹp giặc Minh, một số đồ phật khí khác cũng được hoàn trả lại chùa. Thời Lê Trung Hưng, chùa Phả Lại tiếp tục được tu bổ tôn tạo, nhân dân cùng nhà chùa và các công hầu, quý tử quyên góp tiền của, thuê thợ tạc đá xanh làm lại điện Kính thiên, Tam bảo, Đền, Am, Tháp… Đồng thời cũng cho mở lò nung gạch, ngói tại phía Bắc đồi của chùa để cung cấp gạch ngói xây dựng các công trình và mở lò đúc đồng, đúc những đồ tế khí cần thiết. Sau mỗi lần tu sửa chùa, nhà chùa cho lập các bia công đức, bia hậu để lưu lại cho đời sau. Trải qua nhiều năm từ thời Lê qua thời Nguyễn, chùa Phả Lại tiếp tục tu bổ và cung tiến các đồ phật khí như: Khám, Ngai, Lư hương, Long án, quả, bài vị, chuông… Năm 1884, thực dân Pháp chiếm đóng trên núi Phả Lại, chúng tàn phá gần như bằng địa và định lập đồn bốt ở đây nhưng không thành mà phải kéo sang Phao Sơn lập đồn. Sau đó nhân dân lại tu bổ chùa gồm: 8 gian thờ Khổng Minh Không và Dương Không Lộ, 3 gian Tiền tế, 5 gian chùa phía trước gọi là chùa Cổ Am thờ Phật, 3 Gian Nghè thờ Thành hoàng và hai cây tháp bằng đá. Năm 1947, giặc Pháp lại tới Phả Lại chiếm đóng, phá hủy các công trình trên, chỉ còn một số đồ thờ tự. Năm 1957, nhân dân Phả Lại tiếp tục hưng công phục dựng lại các công trình gồm: 3 gian Tiền tế, 2 gian Hậu cung, 3 gian chùa. Nhiều di vật được quy tụ trả về vị trí như sập đá điện Kính thiên, Rồng chầu, sấu, tượng thánh, bia đá… Năm 1985, nhân dân tiếp tục tu bổ, tôn tạo chùa. Năm 2014, thay bộ cửa bằng gỗ lim. Năm 2018, trùng tu toàn bộ di tích. Hiện nay, Tam bảo chùa Phả Lại có mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh gồm: Tiền đường 3 gian 2 chái 2 dĩ, kiến trúc kiểu 4 mái đao cong. Bộ khung bằng bê tông cốt thép, kết cấu vì nóc kiểu "chồng rường giá chiêng", vì nách gian giữa kiểu "cốn", gian bên kiểu "chồng rường". Thượng điện 2 gian, kết cấu bộ vì kiểu “Thượng chồng chồng rường giá chiêng, hạ chồng rường bảy hiên". Trong không gian di tích còn có đền thờ Đức thánh Khổng Minh Không, gồm 3 toà kiến trúc: Tiền đền 4 gian, Trung đền 4 gian, Hậu đền 2 gian. Ngoài ra, trong không gian di tích còn có toà nhà 3 gian, gian chính giữa đặt ban thờ Thần hoàng. Trải qua biến thiên lịch sử chùa Phả Lại còn bảo lưu được hệ thống tài liệu, cổ vật vô cùng quý giá, có giá trị đặc sắc về nghệ thuật đồng thời chứa đựng nhiều thông tin về lịch sử dân tộc, tiêu biểu như: Bia "Phả Lại tự bi" thời Lê; bản thần tích thần sắc năm 1938; 3 đạo sắc phong niên hiệu Đồng Khánh 2 (1887), Duy Tân 3 (1909), Khải Định 9 (1924); các hiện vật tạo tác thời Nguyễn gồm: long đình; bộ bát biểu; tượng thân Phụ, thân Mẫu Đức thánh Minh Không, bộ tượng Tam thế, tượng Quan âm Tống tử. Chùa Phả Lại là nơi thờ Phật, thờ Mẫu… Nơi đây còn tôn thờ Thiền sư Khổng Minh Không cùng thân phụ, thân mẫu của Ngài. Thiền sư Nguyễn Minh Không (1073 - 1141), người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông là một vị Thiền sư tài năng, có nhiều công lao đóng góp đối với đời sống chính trị, tư tưởng văn hóa của Đại Việt thời Lý, được vua phong làm Quốc sư, chức vị cao nhất trong hệ thống tăng quan nhà Lý. Trong tâm thức dân gian, Nguyễn Minh Không là người có sức mạnh phi thường, đi mây về gió, dời non, lấp biển… là một trong số rất ít những nhân vật lịch sử được dân gian phong Thánh. Ngoài ra ông còn được coi là ông Tổ của ngành y dược và tổ nghề đúc đồng Việt Nam. Từ xưa đến nay chùa Phả Lại luôn là nơi bảo tồn và duy trì những sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của cộng đồng làng xã. Hàng năm, di tích có các ngày sự lệ chính như: Ngày mồng 10 tháng 3 diễn ra lễ hội vui xuân nhằm kỷ niệm ngày Dương Không Lộ về đánh cá và tu ở chùa Cổ Am; Hội đền diễn ra từ ngày 12 đến 15 tháng 8 (Âm lịch). Đặc biệt trong lễ hội có nghi thức rước nước từ Vực Chuông về đền - tương truyền quả chuông chùa thời Lý chìm xuống đó. Các hoạt động trong những ngày sự lệ đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân và khách thập phương về dự hội, góp phần thắt chặt mối đoàn kết cộng đồng làng xã và làm giàu thêm truyền thống văn hoá nước nhà. Chùa Phả Lại, xã Đức Long, thị xã Quế Võ đã được Nhà nước xếp hạng di tích Quốc gia, Quyết định số 100 VH/QĐ ngày 21/01/1989. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ QUẾ VÕ
Bắc Ninh 227 lượt xem
Bức cửa võng đình làng Diềm ở xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có tuổi đời hơn 300 năm, là một kiệt tác nghệ thuật chạm khắc gỗ độc nhất vô nhị, đại diện cho đỉnh cao nghệ thuật chạm khắc gỗ kết hợp sơn son thếp vàng thời Lê trung hưng, vừa được công nhận là Bảo vật quốc gia. Đình Diềm hay còn gọi là đình Viêm Xá, xưa thuộc tổng Châm Khê, huyện Yên Phong, nay thuộc thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Được hoàn thiện vào niên hiệu Chính Hòa thứ 13 (1692), đây là một trong những ngôi đình thuộc hàng “đệ nhất Kinh Bắc”. Đình Diềm hiện đang lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị nghệ thuật cao, trong đó cửa võng đình Diềm là một kiệt tác nghệ thuật chạm khắc gỗ độc nhất vô nhị. Theo đó mỗi tầng trang trí các chủ đề khác nhau, phân ra các tầng, mảng riêng nhưng cả 5 tầng lại có mối liên kết hài hòa, uyển chuyển, mang vẻ đẹp nhân sinh, đề cao cuộc sống con người lao động và tinh thần dân chủ cũng như khát vọng phồn thực, mong muốn sự sinh sôi nảy nở của con người trong cuộc sống.Lớp trên cùng áp mái có trạm hình mặt trời, mây vờn. Phần kế tiếp được trang trí tinh tế với điểm nhấn là bốn bức tượng cô tiên vén mây nhìn xuống. Ông Nguyễn Kim Vệt, Thủ từ đình Diềm cho biết: "Vẻ đẹp của đình Diềm chính là bức Cửa võng “độc nhất vô nhị”. Bức Cửa võng này chạy dài suốt từ thượng lương ở trên độ cao 7m xuống tận nền đình, gồm bốn tầng lớn xếp theo bậc thấp dần cho đến giáp hao cột cái bên trong. Tầng nào cũng được chạm khắc tinh tế với nhiều hình khối nghệ thuật, biểu tượng tứ linh (long, ly, quy, phụng) và những đề tài đậm chất nghệ thuật”. Lớp chạm trổ ở trung tâm bức cửa võng đều được khắc tinh xảo với các hình tượng đối xứng nhau,thể hiện tay nghề của nghệ nhân điêu khắc xứ Kinh Bắc bấy giờ. Dưới ban thờ đình làng Diềm được chạm khắc hết sức công phu, sống động, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoành tráng nhưng vô cùng tinh tế. Một bên là voi và người quản tượng, một bên là hình ảnh ngựa người, người ngựa. Năm 1964, đình Diềm đã được Bộ Văn hóa cấp Bằng công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật và vào tháng 1/2020, cửa võng đình làng Diềm được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Nằm trong quần thể danh thắng cổ kính, thâm nghiêm của một ngôi làng cổ bên bờ sông Như Nguyệt thuộc đất Thủy tổ Quan họ, di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia đình Diềm cùng với những cổ vật, bảo vật giàu giá trị đã hội tụ, kết tinh vẻ đẹp văn hóa đặc trưng của miền đất nghìn năm văn hiến Bắc Ninh - Kinh Bắc và là một trong những kho báu di sản văn hóa tinh thần quý giá của quê hương, dân tộc. Nguồn: Báo điện tử VOV
Bắc Ninh 193 lượt xem
Chùa Linh Ứng (Ngọc Khám - Gia Đông - Thuận Thành) nằm bên đường 282 thuộc khu Phố Khám là một di tích lịch sử quan trọng vùng Dâu từ xa xưa với câu ca: “Mồng bảy hội Khám/Mồng tám hội Dâu/Mồng chín đâu đâu cũng về hội Gióng”. Ngôi chùa cổ này trải qua thời gian hàng trăm năm tồn tại nay đã không còn nguyên kiến trúc ban đầu nhưng hiện vẫn giữ được bảo vật là ba pho tượng đá và tấm bia Trùng tu Linh Ứng tự các chung bi kí dựng năm Hoằng Định 13 (1613). Tấm bia đá khổ lớn đặt trên lưng rùa có kích thước 196 x 129 x 26 (cm) viết chữ 2 mặt cho biết nhiều nguồn thông tin quý giá về lịch sử ngôi chùa. Chùa dựng từ thời Trần phù hợp với truyền thuyết “Bên bụt bên bệ” như sau: Tượng ba ông bụt ốc chở từ bên Ấn Độ sang. Thuyền chở tượng đi trước theo sông Thiên Đức hạ bến Bảo Khám (tên cũ làng Ngọc Khám) bên bờ nam. Thuyền chở bệ đi sau lại hạ bến Long Khám (huyện Tiên Du) bên bờ bắc. Dân Long Khám liền cử một đoàn đại biểu sang Bảo Khám đòi tượng. Giữa lúc hai bên còn chưa thương lượng được thì bụt linh hiển bảo tượng đã yên vị ở đâu thì dựng chùa ở đó. Thế là dân Bảo Khám dựng thêm ngôi chùa ở nơi có ba pho tượng đá lấy tên là Linh Ứng tự. Đến đầu thời Lê Trung Hưng có Thái Lộc hầu Lê Đình Chất, đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Kim tử vinh lộc đại phu, quê Bái Thượng (Thanh Hoá) đã bỏ tiền nhà mua gỗ trùng tu chùa gồm xây gác chuông, dựng bia đá, sửa tam bảo, hành lang, thiêu hương, tiền đường, tam quan, tô tượng phật và mua ruộng 1 sào 3 thước cúng vào chùa. Khởi công ngày 11-5 Nhâm Tý (1612), hoàn thành ngày 19-11 cùng năm. Tham gia công đức cùng Thái Lộc hầu Lê Đình Chất còn có nhiều quan lại cao cấp như Thanh quận công Trịnh Tráng (lúc này chưa lên ngôi chúa), Hoa Dương hầu Vương Châu (quê Bình Ngô láng giềng Bảo Khám, sau này thăng quận công, lúc mất được phong vương cho dân thờ). Ba pho tượng đá có kích thước gần như nhau, cao 145 cm. Tuy có truyền thuyết bên bụt bên bệ nhưng thực tế tượng vẫn có bệ đá hình hoa sen, bệ giữa cao 112 cm, hai bệ hai bên cao 105 cm. Tượng ở tư thế tọa thiền, vẻ phương phi khỏe mạnh. Hai pho hai bên mặt hơi cúi, pho giữa mặt hơi ngửa lên. Cả ba pho tượng đều có tóc xoăn nên dân gian quen gọi là bụt ốc. Về trang phục thì cả ba pho đều mặc áo la bào mở rộng phần ngực trang trí dây anh lạc có hoa, lá, tua khiến khi ngắm tượng thấy sinh động. Bệ tượng trang trí hình hoa sen cùng hoạ tiết rồng, mây, dây hoa cúc... mang đậm phong cách thời Trần để minh chứng chùa có từ thời Trần, tức là từ khi có tượng nên có chùa. Qua một số hiện vật khác cho thấy chùa Linh Ứng còn được tu sửa nhiều lần. Đến năm 1952 chùa bị phá huỷ hoàn toàn, tượng đá không có mái che, thậm chí có pho tượng còn bị bay cả đầu xuống ngòi nước của trường cấp 3 Thuận Thành gần đó. Tuy nhiên, với giá trị độc đáo của ba pho tượng đá, năm 1981 Nhà nước đã xếp hạng là Di tích lịch sử nghệ thuật. Sau đó nhân dân địa phương đã xây dựng lại chùa hoàn thiện dần thành danh lam thắng cảnh hiện nay. Nguồn: Báo Bắc Ninh Online
Bắc Ninh 186 lượt xem
(BNP) – Chùa Dạm là ngôi chùa cổ nằm trên núi Dạm (phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Chùa thờ Phật và Nguyên Phi Ỷ Lan (dân gian gọi bà là Tấm nên cũng gọi là chùa Bà Tấm). Chùa còn có nhiều tên gọi: Chùa Dạm, Lãm Sơn, “Cảnh Long Đồng Khánh”, “Thần Quang tự”. Sử chép và truyền kể, chùa do đích thân Nguyên Phi Ỷ Lan chọn địa điểm và hưng công xây dựng từ mùa đông năm 1086 đến năm 1094 thì hoàn thành và được coi là “Trung tâm Phật giáo lớn nhất của nước Đại Việt”. Đây là một công trình quan trọng nên vua Lý Nhân Tông rất quan tâm chăm lo và khi chùa hoàn thành đã ban tên “Cảnh Long Đồng Khánh”. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa bị dỡ bỏ. Sau khi hòa bình lập lại, năm 1986, nhân dân địa phương xây dựng 3 gian chùa nhỏ trên nền đất cũ để thờ Phật.Kế thừa kết quả khảo cổ học, từ năm 2015 đến nay, cũng như việc tham vấn ý kiến của giới chuyên gia, các nhà khoa học, tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện việc quy hoạch tổng thể và xây dựng “khu di tích văn hóa và sinh thái núi Dạm”. Chùa Dạm được trùng tu tôn tạo, với quy mô to lớn, khang trang tố hảo, cùng với hệ thống tượng thờ và đồ thờ tự tại chùa giá trị lớn về nghệ thuật, thẩm mỹ đại diện cho đặc trưng mỹ thuật mỗi thời kỳ. Hiện tòa Tam Bảo có kết cấu mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Công (I); bao gồm các công trình như: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng Điện. Toàn bộ công trình làm bằng gỗ lim to chắc khỏe đồ sộ. Tiền đường 7 gian 2 chái 4 mái đao cong; có kết cấu vì nóc kiểu “chồng rường giá chiêng”, vì nách “chồng rường bán giá chiêng”. Nối giữa tiền đường và thượng điện là 3 gian thiêu hương. Thượng điện 3 gian 2 chái 4 mái đao cong, có kết cấu vì tương tự tòa Tiền đường, có hệ thống hiên chạy bao quanh công trình chính. Các hạng mục chùa mới có quy mô kiến trúc đồ sộ được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ lim, đắp vẽ, trang trí tinh xảo bằng kỹ thuật truyền thống. Hệ thống cửa bức bàn mở cả 7 gian, 2 hồi xây tường gạch trổ cửa kiểu chữ “Thọ”. Ngoài ra, chùa còn có Nhà Tổ, nhà Mẫu xây dựng đăng đối hai bên, mỗi tòa 3 gian 2 chái 4 mái đao cong và bộ khung gỗ chịu lực và có kết cấu tương tự nhau. Hiện chùa còn bảo lưu tại cột đá chùa Dạm có niên đại từ thế kỷ XI, đã được công nhận là bảo vật Quốc gia có giá trị về lịch sử, mỹ thuật, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu khoa học về nghiên cứu, tìm hiểu. Trong chùa còn có các tượng thờ và các đồ thờ tự đều mới tạo tác thế kỷ XXI như: 03 tượng Tam Thế, bộ tượng Dida Tam Tôn, bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, 01 tượng Ngọc Hoàng, 01 tượng Di Lặc, 01 tượng Quan âm, tượng Hộ Pháp, tượng Đức Ông, tượng Thánh Hiền, tượng Bát Bộ Kim Cương, tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng bà Nguyên Phi Ỷ Lan, tượng Vua Lý Nhân Tông, Hoành phi, câu đối và các đồ thờ tự….. Chùa tòa lạc trên lưng chừng phía Đông - Nam núi Dạm, nhìn xuống cánh đồng trước mặt là núi Con Rùa, xa xa là sông Tào Khê và sông Thiên Đức. Trước cửa chùa có một con mương chạy từ chân núi ra bờ sông gọi là ngòi Con Tên. Giống như hầu hết các ngôi chùa trên làng quê Việt Nam, chùa Dạm là công trình tôn giáo khởi dựng lên từ lâu đời để thờ Phật, thờ Mẫu, thờ các vị sư tổ. Ngoài ra, chùa thờ bà Nguyên Phi Ỷ Lan (người có công xây dựng ngôi chùa vào thời Lý), chùa còn là trung tâm sinh hoạt tôn giáo đạo Phật của nhân dân. Hội chùa diễn ra hàng năm vào ngày 8 tháng 9 (âm lịch). Nhà chùa cùng toàn thể nhân dân sắm sửa lễ vật cúng phật cầu bình an, sức khỏe và may mắn. Ngoài ra vào các ngày như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, tuần rằm, mùng một, dịp lễ hội truyền thống, Tết nguyên đán, các phật tử, các vãi và quý khách thập phương về dự lễ hội chùa. Chùa Dạm được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá - Quyết định số 29 -VH/QĐ ngày 13/01/1964. Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÌNH BẮC NINH
Bắc Ninh 223 lượt xem
Chùa Tiêu có tên chữ là (Thiên Tâm tự) hay còn gọi là Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang - thị xã Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh. Nơi lưu giữ những di sản văn hóa quý giá của vương triều Lý và thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham quan, tìm hiểu lịch sử. Theo lịch sử ghi lại, chùa Tiêu là nơi Lý Công Uẩn được đầu thai và được Quốc sư Lý Vạn Hạnh nuôi dưỡng, giáo dục trưởng thành sau trở thành bậc minh vương có công khởi lập vương triều Lý và nền văn minh Đại Việt. Thái Tổ họ Nguyễn (Lý), người châu Cổ Pháp Lộ Bắc Giang; mẹ là Phạm Thị, ngày 12 tháng 2 năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình (974) sinh ra vua. Vua khi bé đã thông minh, khí độ, rộng rãi, học ở chùa Lục Tổ, sư Vạn Hạnh trông thấy lấy làm lạ nói rằng: Đây là người phi thường sau này lớn lên tất có thể cứu nước, yên dân làm bậc minh chủ thiên hạ. Căn cứ vào sử sách và truyền thuyết dân gian, có thể coi chùa Tiêu có từ thời Tiền Lê. Đến thời Lý đã là một trong những trung tâm Phật giáo lớn, nơi trụ trì của Thiền sư Lý Vạn Hạnh, người có công nuôi dạy Lý Công Uẩn lớn khôn trưởng thành. Chùa Tiêu có nhiều công trình như: Viện Cảm Tuyền, Lầu Tiên Lĩnh, Tiền đường, Thượng điện, Hậu đường… Bên cạnh về phía Đông Nam còn có chùa Trường Liêu. Thời Lê Trung Hưng, chùa Tiêu được trùng tu mở rộng với quy mô lớn theo kiểu chùa trăm gian, nên còn có tên là chùa “trăm gian”. Đến thời Nguyễn, triều vua Bảo Đại, chùa tiếp tục được trùng tu và ghi lại trên câu đầu của toà Tam Bảo. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, quân giặc đã ném bom phá hoại gần như hoàn toàn chùa Tiêu, chỉ còn sót lại một số tượng Phật và đồ thờ tự. Chùa Trường Liêu cũng bị phá hủy, chỉ còn lại ba pho tượng Tam Thế, một pho Đức Chúa và một chuông đồng có tên chùa “Trường Liêu tự chung” đúc năm Thiệu trị 3 (1843). Kiến trúc hiện tại của chùa Tiêu là kiến trúc của những lần trùng tu tôn tạo. Chùa gồm các tòa: Tam bảo, nhà Tổ, nhà khách, gác chuông và các công trình phụ trợ. Tòa Tam bảo được dựng bằng bộ khung gỗ, chạm khắc trang trí hoa lá cách điệu. Nhà Tổ có mái theo kiểu chồng diêm. Tại nhà Tổ có pho tượng cổ Thiền sư Vạn Hạnh và ngai bài vị ghi rõ “Lý triều nhập nội Tể tướng Lý Vạn Hạnh Thiền sư thần vị”. Ngoài những công trình chính, chùa Tiêu còn có một số công trình phụ trợ như: nhà khách, nhà sư… Đặc biệt, chùa Tiêu còn bảo lưu được 14 tháp cổ của các vị sư nổi tiếng từng trụ trì ở đây. Ngoài ra, trên đỉnh núi Tiêu còn có pho tượng Thiền sư Lý Vạn Hạnh cao khoảng 5m. Chùa Tiêu hiện còn bảo lưu được một số cổ vật quý giá thời Lê, Nguyễn, phản ánh về thời Lý như sau: 15 pho tượng Phật bằng gỗ chạm khắc đẹp, 01 pho tượng Thiền sư Lý Vạn Hạnh, 01 bia đá có tên “Lý gia linh thạch” niên đại “Cảnh Thịnh nguyên niên” (1793) ghi chép về lai lịch và công trạng của Lý Công Uẩn, 01 chuông đồng của chùa Trường Liêu, niên đại Thiệu trị ” (1843), 01 bia đá có tên “Cúng điền bi kỷ” niên đại Bảo Đại 3 (1923) và nhiều câu đối, thơ ca, sấm ký… Du khách về với khu di tích chùa Tiêu (Thiên Tâm tự) là tìm về những trang sử sống động tuổi ấu thơ của Lý Công Uẩn, bậc minh vương có công khai lập vương triều Lý và quốc gia Đại Việt. Về chùa Tiêu là về một vùng đất cổ với bao điều bí ẩn gắn với lịch sử, văn hóa của vùng đất Bắc Ninh - Kinh Bắc và của dân tộc Việt Nam. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 182 lượt xem
Hàng năm, cứ mỗi độ tết đến xuân về, hàng ngàn vạn “con Hồng cháu Lạc” từ khắp mọi miền lại tìm về khu di tích đền thờ và lăng mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, thuộc thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, để tri ân và thờ phụng những bậc thủy tổ dân tộc có công khai mở nước. Á Lữ là một làng cổ nằm sát bờ Nam sông Đuống, truyền rằng là đất hội tụ của “Tứ linh” với 99 cái ao, 99 cái gồ, được ví như Long, Ly, Quy, Phượng chầu về, nơi duy nhất có lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những bậc thủy tổ có công mở nước. Lăng Kinh Dương Vương nằm ở trên bãi bồi cao rộng thoáng sát bờ Nam sông Đuống và sầm uất bởi rừng cây cổ thụ bao quanh. Xưa kia, hai ngôi đền cổ ở phía Tây làng Á Lữ thờ phụng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ (Đền Thượng thờ Kinh Dương Vương, đền Hạ thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ), có quy mô kiến trúc to lớn, chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ quý” lộng lẫy. Về phía Đông lăng Kinh Dương Vương xưa còn có một ngôi chùa có tên chữ là “Đông Linh Bát Nhã tự” thờ các đức “Thánh mẫu thủy tổ” là Vụ Tiên, Thần Long và Âu Cơ. Thủy tổ Kinh Dương Vương còn được thờ làm Thành Hoàng làng thôn Á Lữ. Ngôi đình cổ ở phía Đông làng được khởi dựng với quy mô to lớn gồm 2 tòa: Tiền tế 7 gian và Đại đình có 5 gian tiền đình và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ chạm khắc “tứ kinh tứ quý” lộng lẫy. Hệ thống thần phả sắc phong của đình và đền đã cho biết rõ người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, có công khai sơn sáng thủy. Năm 1949-1952, giặc Pháp kéo đến thôn Á Lữ, đóng đồn bốt ở đây, phá hoại toàn bộ đền đình chùa, dân làng đã kịp cất giữ một số đồ thờ tự cổ quý như: ngai, kiệu, sắc phong… của đền và đình. Đến năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ đã tôn tạo khu Lăng mộ Kinh Dương Vương. Năm 2000, một ngôi đền chung thờ các bậc thủy tổ được phục dựng theo kiểu thức truyền thống. Điều vô cùng quý giá của quần thể di tích là còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội: Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam)… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại như sau: 1 đạo Gia Long 9 (1810), 1 đạo Minh Mệnh 2 (1821), 2 đạo Thiệu Trị 2 (1842), 2 đạo Thiệu Trị 6 (1846), 2 đạo Tự Đức 3 (1850), 1 đạo Tự Đức 33 (1880), 2 đạo Đồng Khánh 2 (1887), 1 đạo Duy Tân 3 (1909) và 2 đạo Khải Định 9 (1924). Kho tàng di sản văn hóa quý giá của quần thể di tích còn được thể hiện ở tín ngưỡng và lễ hội truyền thống. Tục truyền, xưa hàng năm cứ đến ngày 18 tháng giêng đền, đình làng Á Lữ lại được mở hội. Để lo việc đình đám, ngay từ trong năm làng phân công việc cho quan đám và các giáp. Giáp đăng cai lễ hội được nhận ruộng công để nuôi lợn và làm bánh chưng, bánh dày tế thần. Vào hội, ngay từ ngày 12, đền và đình được mở cửa để bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt. Đến ngày 16, làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình đền để tế lễ quanh năm. Ngày 17, làng tổ chức rước kiệu từ đình xuống đền Thượng và đền Hạ để xin rước các bậc thủy tổ dân tộc về đình để tế lễ và mở hội. Từ ngày 18 đến 24, mỗi ngày một tuần tế. Lễ vật có lợn cả con, bánh trưng, bánh dày. Đến ngày 25, tế giã đám tại đền Thượng và đền Hạ bằng cá gỏi. Ngoài đình đám 18 tháng Giêng, còn có ngày sự lệ riêng của đền Thượng và đền Hạ. Tục truyền, cứ đến ngày 15 tháng 8 (âm lịch), dân làng làm 3 mâm trám đen và 3 mâm gỏi cá để tế các bậc thủy tổ Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân và Âu Cơ tại đền Thượng và đền Hạ. Các mâm tế: “trám đen” tượng trưng cho 50 người con theo mẹ lên vùng rừng núi sinh cơ lập nghiệp. Còn các mâm “cá gỏi” tượng trưng cho 50 người con theo cha xuống biển khai mở miền biển. Trong những ngày lễ hội, đã thu hút hàng ngàn vạn “Con lạc cháu Hồng” từ khắp mọi miền đất nước về với khu di tích lăng và đền thờ, nhằm tri ân và thờ phụng tôn vinh Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những bậc thủy tổ có công mở nước. Với những giá trị và ý nghĩa lớn lao của khu di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, vừa qua UBND tỉnh Bắc Ninh đã công bố Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích với quy mô rất lớn gồm nhiều hạng mục công trình. Khu di tích đã và đang trở thành trọng điểm du lịch văn hóa tâm linh của nước ta. Nguồn: DI SẢN VĂN HÓA THUẬN THÀNH
Bắc Ninh 194 lượt xem
Chùa Bút Tháp, tên chữ là Ninh Phúc tự - Được biết đến là một trong những danh lam cổ tự đẹp nhất ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, vẫn bảo tồn được tương đối nguyên vẹn cho đến ngày nay, cách thủ đô Hà Nội khoảng gần 30km và chùa Dâu 3km. Ngôi chùa nằm kề bên bờ nam Sông Đuống, thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Phát tích ngôi chùa có từ TK- XIII, được khởi dựng vào Thời vua Trần Thánh Tông, Do sư Huyền Quang sau khi đỗ trạng nguyên rồi từ quan đã về tu ở đây (Sách Chùa Bút Tháp - Bùi Văn Tiến, cũng nói đến vị trụ trì chùa thời Trần là Thiền sư Huyền Quang, Trúc Lâm đệ tam tổ). Trải qua thời gian, chùa đã nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Nhưng lần trùng tu lớn nhất là vào đầu TK –XVII, thời Lê – Trịnh. Khi ấy trụ trì chùa là vị sư Chuyết Chuyết (Từ 1633-1644), cùng đệ tử của ông là thiền sư Minh Hạnh (Từ 1633-1659) đã trùng tu lại toàn bộ ngôi chùa với quy mô lớn, kiến trúc theo kiểu “ Nội công, ngoại quốc” và có sự đóng góp công đức to lớn về tiền của, ruộng lộc của hoàng thái hậu - Diệu Viên, Trịnh Thị Ngọc Trúc (Con gái của Thanh vương Trịnh Tráng) cùng Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên pháp danh Diệu Tuệ và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ (Những vị này về sau cũng đã được lập phủ thờ, tạc tượng đặt trong khám, thờ tại chùa Bút Tháp cho đến ngày nay).Đợt trùng tu này kéo dài từ 1644 đến 1647 chùa mới hoàn thành và có tên chữ là “Ninh Phúc thiền tự”. Sang đầu thế kỷ 18, chùa Bút Tháp lại được tu sửa với quy mô lớn hơn trước. Bia “Ninh Phúc thiền tự bi ký” và “Khánh Lưu bi ký” dựng năm Vĩnh Thịnh 10 (1714) chép rằng “chùa được các quan viên cho tu sửa thêm, chẳng tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt, lại được dân làng góp sức và mời thợ cất dựng sửa sang, Với Điện thờ nguy nga, chùa chiền rộng rải, trang điểm một bầu thế giới Lưu ly”. So với trước thì chùa có thêm dãy nhà riêng ở phía sau Phật đường, quy mô đã to lớn hơn nhiều. Đến năm 1876, khi vua Tự Đức kinh lý qua đây, thấy có ngọn tháp hình dáng khổng lồ nên gọi tên là chùa Bút Tháp từ đó. Quần thể kiến trúc chùa Bút Tháp, nổi bật giữa đồng lúa mênh mông. Chùa quay theo hướng Nam là hướng của trí tuệ, bát nhã trong triết lý nhà Phật. Ngoài cùng là tam quan, tiếp đó là gác chuông 2 tầng 8 mái. Khu trung tâm bao gồm 7 nếp nhà đều nằm ngang, chạy song hành được bố trí trên một trục dọc - Đường thần đạo. Bên trong nội tự, nằm giữa hai dãy hành lang (mỗi dãy gồm 26 gian) là 7 tòa nhà nối tiếp nhau từ ngoài vào, gồm: Tiền Đường, Thiêu Hương, Thượng điện, vắt nối giữa Thượng Điện và Tích Thiện Am là chiếc cầu đá bắc ngang hồ sen ( Cầu dài 4m gồm 3 nhịp uốn cong vồng. Mặt cầu lát đá xanh, hai bên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông, hoa lá công phu, tinh xảo). Tòa Tích Thiện Am, như tên gọi có nghĩa là chứa điều lành. Trong Tích Thiện Am, có tòa cửu phẩm liên hoa - tháp bằng gỗ, 9 tầng, 8 mặt, 9 đài sen tượng trưng cho 9 cấp tu hành chính quả của Phật giáo. Rồi tiếp đến nhà Trung, phủ thờ và cuối cùng là hậu đường, tổng chiều dài hơn 100m. Phía sau nhà Hậu Đường là hàng tháp đá, trong đó có tháp đá Tôn Đức 5 tầng, cao 11m là nơi đặt xá lị thiền sư Minh Hạnh, vị tổ thứ hai của chùa. Bên trái chùa có nhà thờ vị tổ thứ nhất Chuyết Chuyết và ngôi tháp đá Báo Nghiêm tám mặt, 5 tầng cao 13m là nơi táng xá lị của thiền sư Chuyết Chuyết. Hai bên phía đầu ngoài, dọc theo toà Tiền đường là hai nhà bia. Mỗi một công trình kiến trúc của ngôi chùa này là một tác phẩm nghệ thuật khéo léo với các họa tiết trang trí được làm bằng các chất liệu phong phú và đa dạng như đá, gỗ, gạch. Nó thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và môi trường thiên nhiên. Nhìn tổng thể ngôi chùa được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, nhưng lại rất tự nhiên thoáng mở ở khu vực xung quanh, nên chùa Bút Tháp có nét riêng có và vô cùng độc đáo. Đặc biệt, trong hệ thống các pho tượng cổ của chùa Bút Tháp phải kể đến một báu vật cổ, được xem là độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Đó chính là tượng Phật “ Thiên thủ thiên nhãn - nghìn mắt, nghìn tay”. Tượng cao 3,7m, ngang 2,1m, có 11 đầu, 46 tay lớn và 954 tay nhỏ, dài ngắn khác nhau, nở khối vươn cao như ánh hào quang. Đây được coi là một kiệt tác về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng đương thời. Tượng được đặt trên tòa sen rồng đội, với dáng hành đạo, thư thái. Điều đặc biệt, độc đáo của ngôi chùa mà không đâu trên đất nước ta có được, đó chính là ngọn bảo tháp bằng đá cao lớn, uy nghiêm, vươn lên trời xanh, có tên là tháp Báo Nghiêm, nổi bật hẳn giữa vùng đồng bằng rộng lớn. Tháp Báo Nghiêm giống như cây bút khổng lồ, vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05m, 5 tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh, 5 góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ, xung quanh tháp được trang trí hoa văn sinh động và độc đáo. Lòng tháp có một khoanh tròn đường kính 2,29m. Tầng dưới cùng của tháp này có 13 bức chạm đá, chủ yếu là hình các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa. Lùi về phía sau có tháp Tôn Đức cao 11m, nơi đặt xá lị thiền sư Minh Hạnh, vị tổ thứ hai của chùa. Tháp được xây dựng từ giữa thế kỷ 17, 4 mặt tháp đều bít kín bằng đá, mới đây trong lòng tháp người ta vừa tìm thấy được 2 cuốn sách đồng cổ, viết/ khắc kinh Phật. Mấy thế kỷ đã trôi qua, song những gì còn lại ở chùa Bút Tháp cho thấy đây là một trong những trung tâm Phật giáo có ảnh hưởng lớn tại vùng Kinh Bắc xưa, là một trong số ít những ngôi chùa còn giữ được khá nguyên vẹn khối kiến trúc, đồ thờ, tượng thờ cổ của nước ta. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, chùa Bút Tháp luôn được bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo ngày càng đẹp hơn trở thành một trong những điểm thăm quan – Du lịch tâm linh nổi tiếng ở vùng Bắc Ninh – Kinh Bắc. Hàng năm, mọi người dân trong vùng và du khách gần xa luôn nhớ và trở về dự lễ hội chùa, được tổ chức vào ngày 24 tháng 3 ( Âm Lịch). Hội chùa Bút Tháp được diễn ra trong niềm vui náo nức và lòng sùng kính của khách thập phương mỗi khi đến với chùa. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Chùa Bút Tháp đã được Bộ VH-TT xếp hạng và công nhận là di tích LSVH cấp quốc gia từ ngày 28/4/1962. Đến năm 2013, được thủ tướng Chính Phủ cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và Pho tượng Phật “ Thiên thủ thiên nhãn – Nghìn mắt nghìn tay” được cấp bằng công nhận là bảo vật quốc gia./. Nguồn: DI SẢN VĂN HÓA THUẬN THÀNH
Bắc Ninh 185 lượt xem
Chùa Dâu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nơi khởi nguồn của đạo Phật. Đây là một trong những điểm du lịch tâm linh tiêu biểu của tỉnh Bắc Ninh, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến hành hương, tìm hiểu về giá trị lịch sử. Chùa Dâu còn có tên gọi là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng Tự, Pháp Vân tự. Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, được chứng nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt năm 2013. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Thiền Định tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4. Chùa Dâu được xem là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam. Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ , chùa Tướng thờ Pháp Lôi , chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp. Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu. Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng này ở cả vùng Dâu lẫn cả nước. Nhà Tiền thất gồm 7 gian, 2 chái, bên trong bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật. Nổi bật nhất trong các công trình của chùa là tòa tháp Hòa Phong. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng. Những kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Bên ngoài tháp có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Trong tháp có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại Tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương. Tượng Pháp Vân được thờ trong nhà Thượng điện. Đây là một trong 4 pho tượng trong hệ thống tượng Tứ pháp vùng Dâu -Luy Lâu được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Khu vực nối tiền thất và hậu đường là nơi thờ Thập bát La Hán (18 đệ tử đắc đạo của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). Ngoài ra, các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện. nguồn 'Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh'
Bắc Ninh 218 lượt xem
Chùa Phật Tích (còn gọi là chùa Vạn Phúc) toạ lạc trên sườn phía Nam núi Phật Tích trên địa bàn xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Theo sách "Đại Việt Sử Ký toàn thư" và các dấu tích, di vật tìm thấy ở khu vực chùa, Vạn Phúc tự được xây dựng vào khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 10. Ngay từ khởi đầu, chùa Tiên Sơn là nơi hội tụ và dừng chân của các nhà truyền giáo đầu tiên từ Ấn Độ sang nước ta và các thiền sư đạo cao, pháp minh. Tuy nhiên, phải đến thời Lý (1010-1025) mô hình sinh hoạt, tu tập tại chùa mới rõ nét và quy mô bởi lúc này chùa trở thành quốc tự, cũng là quê hương của các vị vua triều Lý. Năm 1041, Lý Thái Tông cho xây Viện Từ Thị Thiên Phúc và đúc tượng Phật A Di Lặc nặng 7.560 cân để tôn thờ. Kể từ đấy, núi Thiên Phúc hay chùa Thiên Phục được hình thành, thay cho tên chùa Tiên Sơn. Năm 1057 - 1066, vua Lý Thánh Tông cho xây chùa Thiên Phúc và dựng tháp cao nhất nước, bên trong dựng tượng Phật hiện cao 1,87m, cả bệ là 2,87m, đúc 2 tượng Phạm Thiên và Đế Thích bằng vàng thờ trước chùa. Theo sử sách, năm 1071, vua Lý du ngoạn đến Phật Tích đã viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước (5m), sai khắc vào đá để ở chùa trên núi Tiên Du. Cũng có truyện kể rằng, năm 1129, dưới triều vua Lý Thần Tông đã khánh thành 84.000 bảo tháp đất nung, đặt ở nhiều nơi trong cả nước, riêng ở Phật Tích đặt 8 vạn tháp, vì vậy dãy núi ở Phật Tích được mang tên Bát Vạn sơn. Từ 1073 – 1210, các triều vua Lý Anh Tông, Lý Cao Tông đều đến Quốc tự Thiên Phúc. Sang đời Trần (1228 - 1400), chùa Thiên Phúc vẫn là quốc tự nhưng được đổi tên là Vạn Phúc. Năm 1279 - 1280, vua Trần Nhân Tông đã cho xây cung Bảo Hoa, sau khi khánh thành, nhà vua đã soạn tập thơ Bảo Hoa dư bút gồm 8 quyển để kỷ niệm. Vua Trần Nghệ Tông (1370) cho xây dựng thư viện Lạn Kha do chính ông làm Viện trưởng, để đọc sách, thưởng ngoạn và hành cung của triều đình. Năm 1384, Vua tổ chức cho thi Thái học sinh (Tiến sĩ) tại đây để chọn người tài đức phục vụ đất nước. Chùa cũng là nơi ghi nhận dấu ấn một thiền sư Trung Hoa nổi tiếng - thiền sư Chuyết Chuyết. Từ năm 1635 - 1644, Thiền sư Chuyết Công đến hành đạo tại chùa Phật Tích, chúa Trịnh Tráng, vua Lê Huyền Tông và các bậc công hầu đều kính trọng. Chúa Trịnh Tráng muốn có thêm kinh điển Phật giáo để lưu hành trong nước nên thiền sư đã cho đệ tử Minh Hành về Trung Hoa thỉnh kinh. Kinh điển thỉnh về, một số được khắc để phổ biến, số còn lại và các bản khắc đều được tàng trữ tại chùa Phật Tích. Đến thời Lê Trung Hưng (1686), chùa bị xuống cấp, các vua Lê đã cho tu bổ lại như quy mô cũ, gọi là chùa Phật Tích (tên chữ là Vạn Phúc). Thời Nguyễn, chùa Phật Tích được tu bổ lần cuối. Từ năm 1949 - 1952, Pháp chiếm chùa Phật Tích và phá hủy hoàn toàn ngôi quốc tự này, chỉ còn nền gạch và một số pho tượng Tổ, và một vài Pháp khí khác.Năm 1959, chùa Phật Tích được Nhà nước cho xây dựng lại theo quy mô nhỏ để giữ gìn các di vật còn lại. Năm 2008, khởi công xây dựng mới một số công trình, trong đó có công trình tạo tác tượng Phật bằng đá(tính cả bệ) cao 30m trên núi Phật Tích. Tượng Phật A Di Đà mới dựng theo tượng Phật do vua Lý Thánh Tông cho tạc năm 1057, nay được tôn thờ tại Chánh điện. Phật Tích không chỉ là trung tâm Phật giáo mà còn lưu giữ kho tàng truyền thuyết, sinh hoạt văn hóa - văn nghệ dân gian, tiêu biểu là những huyền thoại về bà Tổ Cô, các cuộc chiến tranh giữa An Dương Vương và Triệu Đà, chàng tiều phu Vương Chất, Từ Thức gặp tiên, Cao Biền xây tháp yểm bùa, bà chúa Chè, Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo và nổi tiếng là hội xem hoa mẫu đơn chùa Phật Tích vào ngày mồng 4 tháng Giêng. Với những giá trị nổi bật nêu trên, chùa Phật Tích đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt, ngày 31 tháng 12 năm 2014. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bắc Ninh 602 lượt xem
Đình làng Quả Cảm nằm trên núi Tượng. Theo tư liệu cổ của làng thì vào thời Lê đình đã có quy mô to lớn. Ngôi đình đó đã bị phá hủy trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngôi đình hiện nay được xây dựng ngay từ khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc (1954), có thế dựa lưng vào núi Tượng, hướng Đông Nam, nhìn ra ngã ba sông, nơi hợp lưu của sông Cầu và Ngũ Huyện khê. Đình có 3 gian 2 chái tiền tế, 3 gian hậu cung, liên kết thành một tòa có mặt bằng kiến trúc hình chữ “đinh” với kết cấu bộ khung vững chắc với các cấu kiện gỗ lim to khỏe, mái lợp ngói mũi hài cổ, tường xây gạch chỉ. Nội dung Thần tích và các đạo sắc phong có niên đại thời Lê và thời Nguyễn cho chúng ta biết đình làng Quả Cảm thờ Thành hoàng là Thánh Tam Giang. Sắc có niên đại sớm nhất là năm 1710 và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924). Đình có một ngai thờ gỗ và một bài vị ghi “Tam Giang hiển linh”, 2 bức đại tự, 7 đôi câu đối, 3 hương án gỗ thời Lê, Nguyễn, trên đặt bát hương gốm, sứ, lọ hoa cổ men ngọc, men lam thời Lý và thời Lê, Nguyễn, hòm đựng sắc và các loại long miện, long bào, long bia. Không chỉ là một cơ sở thờ tự tín ngưỡng còn lưu giữ được nhiều tư liệu và hiện vật cổ, vào thời Lý, đình Quả Cảm là một điểm quan trọng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Tống của quân dân Đại Việt vào thế kỷ XI. Đình Quả Cảm được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử ngày 9 tháng 1 năm 1990. Đền làng Quả Cảm được dựng trên trại Sáng, nằm ở phía Đông núi Tượng thuộc khu vực bãi Miễu. Theo truyền thuyết và thần tích của làng thì đền thờ bà chúa Sành là Trần Thị Ngọc, người làng Quả Cảm, thứ phi của vua Trần Anh Tông. Bà có nhiều công tích với quê hương, nên khi mất, bà được 72 trang ấp tôn làm phúc thần và lập đền thờ. Trại Sáng vào thời Lý là địa điểm quan trọng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Tống năm 1077 thời Lý. Trải qua nhiều năm tháng, đền thờ được trùng tu nhiều lần. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đền bị phá hoàn toàn. hòa bình lập lại, nhân dân xây dựng lại trên nền cũ. Đền có mặt bằng kiến trúc hình chữ “đinh”, có 3 gian tiền tế và 1 gian hậu cung. Gần đây, dân làng lại xây dựng thêm 3 gian phía trước. Toàn bộ công trình có hướng Tây Nam. Trong đền có bức hoành phi “Quang Thái sinh”, 2 đôi câu đối, tượng bà chúa Sành ở tư thế tọa thiền, chất liệu gỗ, 3 đạo sắc phong có niên đại 1783, 1812, 1924, một văn bia 4 mặt ghi chép về sự tích bà chúa Sành. Đền Quả Cảm được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử ngày 9 tháng 1 năm 1990. Chùa làng Quả Cảm có tên là Kim Sơn tọa lạc trên núi Kim Sơn, hướng ra Ngũ Huyện khê theo hướng Tây nam. Đây là công trình kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn. Các hạng mục công trình của chùa Kim Sơn hiện nay gồm: tòa tam bảo, tòa tạo soạn. Tòa Tam bảo có mặt bằng kiến trúc hình chữ “đinh”, gồm 5 gian 2 dĩ Tiền đường và 4 gian Thượng điện. Các bộ vì kèo có kết cấu theo kiểu chồng giường, giá chiêng, tiền kẻ hậu bẩy. Hệ thống cột to chắc. Cột cái có chu vi 1,32 mét. Nghệ thuật trang trí nổi bật là hình rồng mây chạm nổi trên các đầu dư, con bẩy. Tòa Tam bảo được tu sửa lớn vào năm 1998. Chùa Kim Sơn, ngoài hệ thống tượng thờ phong phú (tượng Phật, Bồ tát, Thánh tăng,...) hoàn toàn bằng chất liệu gỗ có niên đại thời Nguyễn, còn có tượng thân mẫu bà chúa Sành, tượng quan Đề lĩnh Tứ thành người làng Chi Long là những pho tượng gỗ đẹp. Chùa còn lưu giữ chuông đồng thời Nguyễn, chóe thời Thanh, lọ độc bình, bát hương gốm và các văn bia: Hội chùa được tổ chức ngày 20 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Chùa Kim Sơn có vị trí quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Tống của quân dân Đại Việt thế kỷ XI. Chùa đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử ngày 9 tháng 1 năm 1990. Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1068 lượt xem
Đền Vua Bà Thủy Tổ (khu Viêm Xá, phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh) là nơi duy nhất trong 49 làng Quan họ gốc của Bắc Ninh, Bắc Giang thờ vị Thủy tổ Quan họ. Đền được cấp bằng công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1994. Căn cứ tư liệu tại địa phương, Đền Vua Bà vốn được khởi dựng từ thời Lê, đã qua nhiều lần tôn tạo. Hiện nay, di tích được trùng tu, tôn tạo với quy mô bề thế, khang trang tố hảo, bố cục gọn gàng chặt chẽ, hoà nhập với môi trường thiên nhiên xung quanh, công trình của di tích được làm bằng các chất liệu truyền thống, bền vững mang đậm phong cách của Việt Nam. Đền Vua Bà có kết cấu kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 2 tòa: Đại bái và Hậu cung. Trong đó, tòa Đại bái gồm 3 gian 2 chái bình đầu bít đốc, mái lợp ngói, trên đỉnh bờ nóc có đắp đôi rồng chầu. Tòa Hậu cung gồm 2 gian chạy ngang cùng hướng với tòa Đại bái, mới được trùng tu năm 2018, là công trình chào mừng kỷ niệm 10 năm vinh danh Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Đền thờ Vua Bà là nơi duy nhất trong 49 làng Quan họ gốc của Bắc Ninh, Bắc Giang thờ vị Thủy tổ Quan họ, người sản sinh làn điệu Quan họ và là người khai dân lập ấp dạy dân làm ăn, dạy dân làng trồng lúa, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải, nghề này ngày nay vẫn còn duy trì và phát triển thành nghề truyền thống của làng Viêm Xá, bà được phong là Vương mẫu giới phúc. Sau này qua nhiều thế kỷ, nhân dân Viêm Xá còn thờ bà ở trong đình của mình như một vị thần hoàng. Đình Diềm hiện còn giữ được 5 ngai thờ của 5 vị thần hoàng và sắc phong của 5 vị, trong đó có bà. Bà được phong “Đương cảnh thành hoàng thiên tử Nhữ Nương nam nữ Nam Hải Đại Vương”. Hàng năm, cứ đến ngày 6, ngày 7 tháng Hai, gọi là ngày mùa xuân chơi hoa của Đức Vua Bà. Ngày 6/2 là ngày sái tảo, làm lễ nhập tịch tại đền, tế lễ và hát Quan họ tại đền. Ngày 7/2 là ngày chính lễ. Trong ngày chính lễ có rước và hội đảm bảo phong tục truyền thống, an toàn tiết kiệm. Năm 2014, lễ hội làng Diềm được nhà nước công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Để bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, hàng năm vào ngày 10 tháng Giêng cơ quan chức năng cùng tập trung về đền tổ chức dâng hương, mở đầu cho Cuộc thi hát quan họ đầu Xuân, được đông đảo quần chúng tham gia. Qua cuộc thi, Ban tổ chức đã chọn được nhiều nhân tài xuất sắc, đảm bảo duy trì công tác truyền dạy di sản văn hóa quan họ cho thế hệ mai sau. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1119 lượt xem
Chùa Hàm Long (hay Long Hạm) thuộc khu Thái Bảo, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, được khởi dựng từ thời Lý (khoảng thế kỷ XII). Theo con mắt dân gian thì chùa nằm ở thế hàm rồng, nghĩa là dưới hàm một con rồng lớn dài 9 khúc, đó chính là cả dãy Lãm Sơn. Đây là trung tâm Phật giáo lớn, tương truyền là chỗ tu hành của sư Dương Không Lộ. Tọa lạc trên diện tích đất hơn 9.000m2, chùa có vị trí cảnh quan đẹp, hòa hợp với thiên nhiên, được mệnh danh là danh lam cổ tự có lịch sử lâu đời, các công trình kiến trúc được thiết kế, trang trí theo lối truyền thống, chạm khắc tinh xảo, nghệ thuật. Ngày nay, Chùa Hàm Long là trung tâm sinh hoạt tâm linh của nhân dân địa phương và thập phương quanh vùng, nơi tôn thờ phật pháp, là nơi hướng chúng sinh đến với điều thiện tránh xa điều ác, sống từ bi hỷ xả. Ngôi chùa hiện nay có quy mô lớn gồm các công trình: cổng Tam Quan, Tam Bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Khách, nhà Tăng và các công trình phụ trợ. Tam bảo chùa được làm bằng gỗ lim, kết cấu hình chữ Đinh, gồm Tiền đường 7 gian, kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi cốn mê” và 3 gian Thượng điện kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi”. Chùa thờ 7 vị Tổ, thờ Mẫu, thờ ông Đỗ Trọng Vỹ, ông nổi tiếng là người thông minh hiếu học và sau trở thành vị quan thanh liêm, nhà giáo, nhà văn hóa, đặc biệt ông là người có công khởi dựng Văn Miếu Bắc Ninh. Sau khi về già ông về chùa Hàm Long tu trì, sau khi ông mất được thờ phụng tại đây. Hiện nay, chùa Hàm Long vẫn duy trì nghi thức gửi vong cho các vong linh mất vào các giờ hung, giờ phạm. Để tránh tai ương, tật ách, gia đình của vong linh thường gửi vong lên chùa Hàm Long để sớm được trì trú, phổ độ, để các vong linh sớm được vãng sinh, siêu thoát về cõi cực lạc. Các công trình kiến trúc trong khuôn viên Chùa được chạm khắc trang trí tinh xảo, nghệ thuật với một diện mạo khang trang tố hảo. Chùa có ngày hội vào ngày 14 tháng 2 âm lịch, ngoài ra trong năm còn các ngày như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, tuần Rằm, Mùng một, dịp lễ hội truyền thống, Tết nguyên đán. Chùa cũng đón nhiều đoàn khách trong nước và nước ngoài, các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về thăm lễ Phật. Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, ngày 18/01/1988. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1109 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3708 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3102 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2753 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2543 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2415 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2328 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2222 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2178 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2163 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2130 lượt xem