Thác Trái Tim nằm trên địa phận xã Sin Suối Hồ huyện Phong Thổ, cách trung tâm thành phố Lai Châu chừng 32 km. Thác ẩn mình dưới những tán cây cổ thụ, uốn lượn giữa núi non điệp trùng, với phong cảnh hữu tình, thác Trái tim đẹp đến thơ mộng giữa núi rừng Tây Bắc. Để tới được thác Trái tim du khách phải đi xuyên qua rừng. Trên con đường ấy du khách sẽ có những cảm nhận rất riêng, rất thú vị qua môĩ mùa khác nhau. Mùa xuân, con đường dẫn tới thác trở nên đẹp hơn nhờ vẻ đẹp kiêu hãnh của hoa Lan, mùa hạ con đường ấy trở lên thơ mộng bởi những bông hoa Sim, mùa thu mùa thu hoạch của Thảo quả sẽ khiến du khách cảm thấy thú vị hơn rất nhiều trong chuyến hành trình khám phá mảnh đất này, mùa đông đến bước chân du khách như đặt lên chốn bồng lai tiên cảnh bởi đôi chân ta như thể dẫm đựơc trên những đám mây . Tất cả hòa quyện tạo thành bức tranh sơn thuỷ tuyệt mỹ đầy quyến rũ. Trên đường đi, dòng chảy của thác, tạo thành dòng suối nhỏ đổ theo vách đá, tung bọt trắng như vũ điệu của núi rừng. Ngọn thác còn là minh chứng cho tình yêu của một đôi trai gái trong bản. Chuyện xưa kể lại rằng: Từ lâu lắm rồi không ai còn nhớ vào thời gian nào, tại một bản người dân tộc Mông dưới chân thác có một chàng trai khôi ngô, dũng mãnh giỏi săn bắt đem lòng yêu một cô gái xinh đẹp giỏi thêu thùa may vá, cả hai quấn quýt và thương yêu nhau tha thiết như con hươu, con nai trên rừng ngày ngày bên nhau. Cả bản ai cũng ngưỡng mộ tình yêu của đôi trai tài gái sắc. Cả hai say sưa trong chén men tình không được bao lâu thì chàng trai phải lên đường đi đánh giặc, nàng chờ chàng không biết bao mùa trăng mọc rồi trăng lặn mà vẫn chưa thấy chàng về, nàng lại hay tin chàng đã tử trận tại chiến trận xa xôi, quá đau buồn nàng lên nơi ngày xưa họ thường hay hẹn ước nhớ về chàng khóc dữ dội và nàng hóa thành thác nước lúc nào không hay. Cả bản ngỡ ngàng khi thấy chàng đánh trận mang vinh quang trở về, hóa ra tin chàng chết nơi chién trận chỉ là lời đồn ác miệng của quân giặc. Biết chuyện người yêu như vậy chàng trai lên đỉnh ngọn thác kêu gào thét, tiếng gào thét như xé rách núi rừng, cầu xin núi rừng hãy để họ mãi bên nhau muôn đời, muôn kiếp cảm động trước tình yêu đôi lứa đất trời đã biến chàng thành tảng đá hình trái tim nằm ngay giữa thác nước. Ngày nay những đôi trai gái yêu nhau thường đến đây cùng nhau uống nước ở thác với ước nguyện sẽ được bên nhau trọn đời trọn kiếp. Đến với Thác Trái tim để du khách có được cảm nhận hòa mình trọn vẹn trong thiên nhiên, đó là chiêm ngưỡng cảnh sắc hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, đó là cảm giác đắm mình trong làn nước mát của dòng suối dưới chân thác, tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ. Du khách còn có thể trải nghiệm những khoảnh khắc thả hồn ngắm cảnh thiên nhiên hoang sơ và niềm vui khám phá nét văn hóa độc đáo của người dân bản địa. Thật vậy, Thác Trái Tim chính là điểm tìm đến thiên nhiên lý tưởng cùng gia đình, bạn bè, để lại sau lưng những ngày làm việc mệt nhọc nơi đô thị. Nguồn: Du lịch Lai Châu
Lai Châu 244 lượt xem
Bản văn hóa du lịch Gia Khâu I, thuộc xã Nậm Loỏng, thành phố Lai Châu, cách thành phố Lai Châu chưa đầy 10 km. Gia Khâu nằm trong một thung lũng nhỏ, bao bọc chung quanh là các dãy núi cao, với hệ thống hang động nguyên sơ như hang Ron, hang Khỉ và hang Gấu. Phần lớn cư dân sinh sống ở bản Gia Khâu I là người Mông. Các nét văn hóa dân tộc của bà con nơi đây vẫn được gìn giữ và bảo tồn từ trang phục, nếp nhà truyền thống, lễ hội dân tộc, văn hóa ẩm thực, nghề dệt thổ cẩm, tập quán canh tác... Gia Khâu I còn được biết đến với Lễ hội Gàu Tào, một trong những lễ hội cổ truyền của đồng bào người Mông, được tổ chức thường niên tại đây trong hai ngày 14 và 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Bản nằm trong lòng thung lũng trù phú, xung quanh là núi đá vôi hùng vĩ. Tại đây, hệ sinh thái trong lành, môi trường vẫn còn hoang sơ. Ẩn mình trong núi đá vôi được che chở bởi những cánh rừng nhiệt đới, hệ thống hang động Gia Khâu I đang trở nên nổi tiếng bởi sự lộng lẫy, kỳ vĩ và huyền bí mà tạo hóa đã hào phóng ban tặng cho vùng đất này. Hệ thống hang động Gia Khâu nằm trên một ngọn núi thấp thuộc bản Gia Khâu, là một hệ thống bao gồm ba hang động, được chia thành ba cấp ở ba hướng, nằm thu gọn trong một thung lũng, được người dân nơi đây phát hiện ra trong khi làm nương rẫy và được gọi tên là hang Gia Khâu. Trước kia, người dân trong bản thường gọi là “Kho Chua Ploong Trsây” (Hang trên đồi lá dong) vì hang nằm trên đồi mọc toàn cây dong. Hệ thống hang động Gia Khâu gồm có ba cửa hang, cửa hang trên cùng (cửa 1) vòm cửa rộng 2,8m, cao 1,8m, trước cửa hình tượng một ông Phật đang ngồi thiền xung quanh lô nhô những nhũ đá hình như một toà sen, phía trên là một bức rèm nhũ phủ kín làm tăng thêm vẻ huyền bí của di tích. Chiều dài vòm cửa của hang 5m vào trong là một cửa hang nhỏ, đây là cửa dẫn xuống hang, rộng 1,3m, cao 1,25m, từ đây có thể nhìn xuống trung tâm của hang. Hệ thống hang động Gia Khâu được Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu công nhận xếp hạng di tích Danh lam thắng cảnh cấp tỉnh theo Quyết định số 1571/QĐ-UBND, ngày 6-10-2009. Đến Gia Khâu I để được thăm thú phong cảnh hữu tình, thăm hệ thống hang động kỳ vĩ với những hình thù lạ mắt, để gặp những người dân hiền hòa, thân thiện và mến khách. Được thưởng thức mâm cơm quê với những món ăn truyền thống thanh tao mà ngon miệng, hẳn mỗi người đều ra về với ấn tượng khó quên về một mô hình du lịch sinh thái đầy hấp dẫn nơi núi rừng Tây Bắc. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Lai Châu 261 lượt xem
Nằm trên địa phận xã Bình Lư thuộc huyện Tam Đường- thác Tình nằm giữa một vùng núi non trùng điệp, nhìn từ xa thác giống như một dải lụa mềm mại đang thả mình trong không gian bao la của núi rừng hùng vĩ. Không biết từ khi nào cuộc sống của người Dao và cư dân địa phương đã gắn bó chặt chẽ với thác Tình, nguồn nước trong mát vẫn hối hả chảy ngày đêm của thác chính là tư liệu cho quá trình sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của bà con nơi đây. Thác Tác Tình đẹp là vậy nhưng ít ai biết được rằng đằng sau vẻ đẹp mê hồn ấy là một câu chuyện tình hết sức u buồn. Truyện kể lại rằng: Xưa kia, từ lâu lắm rồi không ai còn nhớ vào thời gian nào, tại một bản người dân tộc Dao dưới chân thác có một nàng Lở Lan xinh đẹp, vẻ đẹp của nàng được ví như những đoá Lan rừng - đẹp và ngào ngạt hương thơm. Nàng đem lòng yêu một chàng trai trong bản, cả hai thương nhau và quấn quýt như con hươu, con nai trên rừng bên nhau sớm tối. Nhưng hạnh phúc không được bao lâu thì tai hoạ đã ập xuống đầu hai người, tình yêu của họ đã gặp muôn vàn trắc trở, trông gai vì bị kẻ gian âm mưu hãm hại chia cách, không thể nên duyên chồng vợ. Để giữ trọn tình yêu thuỷ chung của mình và lời thề ước giữa hai người, nàng Lở Lan đã trẫm mình xuồng dòng thác. Cảm phục trước hành động của cô gái trẻ, người dân nơi đây đã đặt tên cho ngọn thác là thác Tác Tình để tưởng nhớ đến cô cùng với mong ước tác hợp cho chuyện tình của hai người. Với tên thác đầy ý nghĩa, cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ của núi rừng Tây Bắc và câu chuyện tình mãnh liệt, thuỷ chung của đôi trai gái đã tạo nên một ngọn thác vừa mang vẻ đẹp quyến rũ lại vừa huyền bí làm say đắm lòng người. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, biến cố của lịch sử thác Tình vẫn giữ được những nét đẹp nguyên sơ, hùng vĩ. Thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng du khách thăm quan, để rồi khi đã đặt chân đến nơi đây ai ai cũng đọng lại những ấn tượng không thể phai mờ về thác Tình – ngọn thác của tình yêu. Nguồn: Du lịch Lai Châu
Lai Châu 235 lượt xem
Quần thể động thuộc xã Bình Lư, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Động Tiên Sơn cách thị trấn Tam Đường khoảng 4km và cách Sapa khoảng 50km. Động cũng nằm ngay sát với quốc lộ 4D nên bạn rất dễ để có thể di chuyển đến đây. Động Tiên Sơn Lai Châu hình thành từ một loại đá vôi mang tên carxto từ hàng triệu năm trước đây. Còn nếu đứng từ động hướng mắt ra xa, bạn còn có thể thấy thấp thoáng đằng xa dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, đỉnh Fansipan ẩn hiện trong mây, hay khung cảnh núi non trùng điệp vô cùng đẹp mắt. Đặc biệt, nơi đây còn gắn liền với truyền thuyết về 99 ngọn núi và 99 hồ nước trong xanh của đồng bào người Lự. Theo truyền thuyết kể rằng, 99 ngọn núi hùng vĩ ấy chính là biểu tượng cho 99 chàng trai cường tráng, khỏe mạnh còn 99 hồ nước trong xanh lại là hình ảnh của 99 người con gái chăm chỉ, xinh đẹp. Những ngọn núi và hồ nước ấy nối tiếp nhau tạo nên “bức tường thành” ôm giữ một vùng đất đai trù phú, phì nhiêu. Đó chính là vùng đất mà bạn đang đặt chân đến – động Tiên Sơn. Để đi được đến với động, bạn phải trải qua một quãng đường khá dài đi qua các ngọn núi hệt như những chiếc bát úp ngược. Sở dĩ mà nhiều người vẫn gọi nơi đây là “chốn bồng lai tiên cảnh” là vì cảnh sắc nơi đây có sự hài hòa giữa núi non, sông suối, chim muông,... tạo nên một bức tranh thiên nhiên đẹp nao lòng. Vào năm 1996, động Tiên Sơn Lai Châu được Bộ Văn hóa công nhận xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Động có tới 36 khoang nối tiếp với nhau chạy dài giữa 2 sườn núi vô cùng thú vị. Mỗi cung động khác nhau ấy lại được nhân dân quanh vùng đặt theo tên của nhiều nhân vật linh thiêng như Mẫu Âu Cơ, Lạc Long Quân, Bà Chúa Kho,... Khi ghé tới mỗi cung bạn sẽ được chiêm ngưỡng những vẻ đẹp riêng với vô vàn điều kỳ thú. Càng đi sâu vào động thì khoang càng lớn, không gian lại càng trở nên thoáng đãng. Phía bên trong động là vô số những thạch nhũ với các hình thù đa dạng khác nhau. Những nhũ đá này khi có ánh sáng chiếu vào thì tạo ra những khối có màu sắc tuyệt đẹp càng làm cho không gian trong động trở nên huyền ảo. Đặc biệt phía bên trong động còn có 1 dòng suối chảy vắt qua uốn lượn. Vì thế mà khi bạn đến đây sẽ ngay lập tức cảm nhận được sự mát mẻ trong động, đặc biệt là vào mùa hè bạn sẽ nhận thấy được sự khác biệt rõ rệt này. Cùng với đó là âm thanh róc rách khi bạn đi qua cũng rất vui tai hay những tiếng tí tách của những giọt nước rơi từ vòm đá trên trần động xuống dưới nhũ đá bên dưới tạo thành những hình dạng muôn hình muôn vẻ vô cùng thú vị. Nếu so với nhiều những động khác thì động Tiên Sơn Lai Châu vẫn còn giữ được những nét hoang sơ và tự nhiên vốn có. Lễ hội động Tiên Sơn được xem như là một trong những lễ hội không thể bỏ lõ khi tới Lai Châu. Lễ hội này được diễn ra vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch hàng năm (tức ngày 15 tháng Giêng âm lịch). Lễ hội là hoạt động chung văn hóa của nhiều đồng bào dân tộc khác nhau như dân tộc Kinh, dân tộc Thái hay dân tộc Giáy, dân tộc Lự. Từ một hang động còn hoang sơ, chưa được cải tạo thì nay động Tiên Sơn Lai Châu đã được cải tạo lên rất nhiều và trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn không nên bỏ lỡ khi đến với Lai Châu. Nguồn: Du lịch Lai Châu
Lai Châu 262 lượt xem
Danh thắng Núi Đá Ô nằm trong địa phận bản Bành Phán, xã Tả Phìn, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Núi đá Ô Sìn Hồ gắn liền với sự tích gặp tiên của đồng bào dân tộc Dao nơi đây. Sự tích kể lại rằng: ngày xửa ngày xưa có một ông Tiên trên trời đi du ngoạn ở dưới trần gian. Ông Tiên đằng vân đáp xuống đỉnh San Ta Ngai – đỉnh núi được coi là cao nhất của Sìn Hồ. Sauk hi quan sát bốn phía, ông Tiên nhìn thấy một bãi đất bằng ở phía Nam. Tiên ông muốn tới vùng đó tham quan nhưng không rõ đường vì xung quanh là rừng rậm, núi xanh. Vậy nên ông Tiên đã quyết định sẽ mở một con đường. Bằng phép tiên ông đã mở con đường bằng cách xé vách đá, giờ đây là đường vào bản Sang Ta Ngai. Bãi bằng mà ông nhìn thấy chính là bản Tả Phìn. Ông Tiên được dân bản đón tiếp nồng hậu trong 7 ngày 7 đêm.Đến ngày thứ bảy ông chợt nhớ ra mình phải về trời. Do đi vội vã nên Tiên ông đã để quên rất nhiều đồ. Trước khi vào đến bản Tả Phìn khi ông nghỉ chân ở đỉnh núi ngọc, Tiên ông làm rơi mất viên ngọc, sau này bị Pháp lấy đi. Lúc đang xem hội ông rời khỏi Tả Phìn còn để quên chiếc ô dùng để che nắng che mưa lúc xem hội. Cái ô tiên này được cắm giữa bản. Sau này cái ô hóa đá, chính là núi Đá Ô bây giờ. Dân bản địa hàng năm đều tổ chức lễ hội và đến cúng lễ tại Đá Ô để cầu sức khỏe. Núi đá Ô là một dạng đá badan phong hóa có hình dạng như một chiếc ô lớn. Núi đá Ô nằm ở ngay trung tâm xã Tả Phìn, Sìn Hồ. Một phần của núi đá Ô dựa lưng vào hai cây cổ thụ lớn ( hai cây chò). Núi đá Ô cao hơn ba mét (3,7m) và chia làm ba phần. Phần trên cùng có dạng chóp ô lớn cao khoảng bảy mươi đến tám mươi cm và đường kính khá lớn lên đến 5,2 m, nhiều người đứng dưới phần chóp ô này vẫn có thể che nắng mưa tốt. Phần đá của chóp ô có màu xanh rêu cùng rất nhiều hoa văn đặc biệt, độc đáo. Phần thân giữa có đường kính 2,5 m gồm nhiều phiến đá có màu nâu đen được xếp chồng lên với nhau tạo thành những dạng hình thù độc lạ. Phần chân ( phần sát đất) có chiều cao lên đến 55cm và đường kính lên đến 5,4 m là những phiến đá phẳng ( đường kính 40 – 50 cm) cũng là nơi để dân địa phương đặt lễ vật khi đến dâng cúng được bao bọc bởi phần rễ nổi của hai cây cổ thụ. Nằm gần khu vực Núi Đá Ô là Động Ông Tiên, động có nhiều thạch nhũ với hình thù kỳ lạ được hình thành do kiến tạo địa chất từ hàng nghìn năm. Với khung cảnh thiên nhiên đẹp, khí hậu mát mẻ, trong lành đã tạo thành nét riêng biệt cho núi đá Ô. Để nơi đây trở thành một trong những danh lam thắng cảnh nổi bật của cao nguyên Sìn Hồ. Núi đá Ô Sìn Hồ đã được UBND tỉnh Lai Châu công nhận là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh năm 2007. Nguồn: Du lịch Lai Châu
Lai Châu 239 lượt xem
Cổng Trời còn có tên gọi khác là Đèo Ô Quy Hồ hay Đèo Hoàng Liên Sơn cắt ngang dãy Hoàng Liên Sơn, nối liền hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu, là một trong những cung đường đèo dài, hiểm trở nhưng vô cùng hùng vĩ và là thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp ở Việt Nam. Ngày 29/6 vừa qua, cùng với thác Cầu Mây, Cổng Trời thuộc khu vực đèo Hoàng Liên xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu đã chính thức trở thành Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia theo Quyết định số 2248/QĐ-BVHTTDL. Để lên tới Cổng trời có thể đi từ hai phía: một từ Tam Đường tỉnh Lai Châu, hai là từ Sa Pa tỉnh Lào Cai. Dù đi bằng đường nào, ngọn đèo này cũng làm "thót tim" du khách. Con đường uốn lượn, không ít lần du khách phải nép sát vào vách núi để tránh những chiếc xe hơi đổ đèo với tốc độ cao. Những dãy núi cao ngất với đám rễ cây chằng chịt, bên kia là những dãy taluy chênh vênh trên thung lũng sâu thăm thẳm. Mây bao phủ quanh các ngọn núi hay dưới thung lũng làm khách cảm giác như đang bồng bềnh giữa biển mây. Đèo Ô Quy Hồ có độ cao khoảng 2.000 mét so với mực nước biển, 2/3 quãng đường đèo thuộc tỉnh Lai Châu và 1/3 còn lại thuộc tỉnh Lào Cai. Những năm gần đấy, danh thắng này ngày càng nổi tiếng, đã và đang trở thành một điểm đến không thể bỏ qua khi đi du lịch các tỉnh phía bắc. Để vượt qua quãng đường dài khoảng hơn 50 km lên tới đỉnh đèo - vị trí Cổng Trời không hề đơn giản. Tuy quãng đường không dài nhưng vô cùng treo leo, hiểm trở. Càng lên cao càng ngoằn ngoèo như thách thức các tay lái vốn quen với đường đồng bằng trải nhựa phẳng phiu. Cùng với đó, sương mù ở đây quanh năm dày đặc. Vào những ngày mưa hoặc lạnh, trước tầm nhìn chỉ còn một vài mét. Xe chỉ dám "bò" từ từ, bám gần sát vách núi để đảm bảo an toàn. May mắn là con đường đèo này nay đã được trải nhựa và mở rộng để việc đi lại được thuận lợi và bớt nguy hiểm hơn. Cuối năm 2012, mạng thông tin điện tử quốc tế có uy tín Globalgrashopper đã bình chọn đèo Đèo Ô Quy Hồ - một trong mười danh thắng đẹp nhất Việt Nam. Nhưng dù đường đi có vất vả đến đâu, khi đặt chân tới Cổng Trời du khách cũng cảm thấy thật xứng đáng với những công sức đã bỏ ra. Từ vị trí này, du khách có thể phóng tầm mắt bao quát cả thung lũng rộng lớn phía dưới với những ruộng nương xanh rì, con đường ôtô xuôi ngược Phong Thổ (Lai Châu) - Sapa (Lào Cai), xa xa là Thác Bạc - một trong 10 thác nước đẹp nhất Lào Cai, luôn được giới trẻ tìm đến khám phá. Cao khoảng 200m, Thác Bạc ngày đêm ào ào nước đổ như góp nên âm thanh của núi rừng heo hút. Hay đơn giản đứng chỉ để nhìn khoảng không vô tận và khoáng đạt phía trước. Màu xanh ngút ngàn của cây, màu vàng của lúa chín chen lẫn những mảng lúa xanh non đến sắc nâu trầm ấm của đất. Và rồi lại được làm dịu bởi gió từ núi Hoàng Liên Sơn đưa tới. Có đứng tại Cổng Trời này mới cảm nhận được vẻ kiêu hùng của đỉnh Phan Xi Păng (Fanxipan) vời vợi lưng trời. Bên dưới là những vực sâu thăm thẳm, với thảm rừng nguyên sinh chứa đựng nhiều bí ẩn chưa được khám phá. Cũng lên tới Cổng Trời, mới thực sự cảm nhận được hết vẻ đẹp thiên nhiên vùng Tây Bắc, mới biết được tại sao những thửa ruộng bậc thang của SaPa được tạp chí Travel and Leisure của Mỹ bình chọn là một trong bảy thửa ruộng bậc thang đẹp nhất châu Á và thế giới. Càng hiểu hơn vì sao hình ảnh những bản làng ở Lai Châu thường xuyên xuất hiện trên các tạp chí du lịch quốc tế và thêm tự hào về quê hương Việt Nam. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Lai Châu 228 lượt xem
Được mệnh danh là "Tây Bắc đệ nhất động", Quần thể hang động Pu Sam Cáp là một trong những kiệt tác hoàn mỹ của tạo hóa ban tặng cho Lai Châu. Nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu khoảng chừng 5km, trên tỉnh lộ 129 nối thành phố Lai Châu với huyện Sìn Hồ, thuộc địa bàn xã Sùng Phài, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Quần thể hang động Pu Sam Cáp thuộc hệ thống dãy Pu Sam Cáp có độ cao khoảng 1300m đến 1700m so với mặt nước biển. Đây là dãy núi đá vôi hình thành từ kỷ nguyên kiến tạo, theo địa hình catster với sườn núi thoải về hướng Nam và dốc đứng, chia cắt về hướng Bắc. Với hơn 10 hang lớn nhỏ, trong đó có 2 hang động lớn, cũng là 2 hang động đã được đưa vào khai thác và đón tiếp khách du lịch là: Động Thiên Môn và Động Thiên Đường. Nét đẹp của quần thể hang động Pu Sam Cáp được ví như người đẹp ngủ quên giữa núi rừng Tây Bắc. Một vẻ đẹp nguyên sơ được giới chuyên môn đánh giá là không hề kém cạnh nếu đem so với bất kỳ hang động nào như Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), động Thiên Cung (Quảng Ninh) hay động Hương Tích (Hà Tây cũ)… Men theo lối bậc đá đi lên núi để bắt đầu chuyến hành trình khám phá của mình, du khách sẽ đến với động Thiên Môn. Một vòm cửa lớn và sâu hun hút hiện ra, một cảm giác mát lạnh từ đá và những cơn gió nhẹ thoảng qua sẽ khiến cho du khách cảm thấy vô cùng thư giãn và thoải mái. Trong khoảng không huyền bí ấy là vô số những “tác phẩm nghệ thuật” sống động mà “mẹ thiên nhiên” đã dựng lên từ đá. Trung tâm động là vòm hang cao rộng với diện tích lên tới 600m2. Mặt nền hang tương đối bằng phẳng, xen kẽ với những vũng nước lớn nhỏ khác nhau. Có thể gọi đây là “nhà hát của tạo hóa”. Vào sâu hơn nữa, quý khách sẽ thấy rất nhiều những khối thạch nhũ mang hình thù trừu tượng nhiều ẩn dụ cứ nối nhau muôn hình không dứt, tưởng như mọi sự từ thưở hồng hoang trên Trái Đất đều có ở nơi đây. Ra khỏi động Thiên Môn, du khách sẽ có một hành trình đầy thú vị qua một đoạn đường rừng còn nguyên nét hoang sơ để đến với động Thiên Đường. Nếu như động Thiên Môn được ví như "Nhà hát của tọa hóa" thì động Thiên Đường được ví như một bức tranh thu nhỏ của chốn bồng lai tiên cảnh. Gần cửa động, một con sư tử đá với dáng ngồi sừng sững, oai vệ như một vị thần canh gác, bảo vệ trung thành. Bước vào trong động, dưới chân chúng ta, những đường cong uốn lượn xuống dần như ruộng bậc thang. Càng đi sâu vào trong, ta như bắt gặp một không gian đa sắc, đa chiều, những giàn nhũ đá rủ xuống như tái hiện một hình ảnh nào đó thân quen của cuộc sống như giàn hoa, vườn rau… Giữa lòng động, một hồ nước trong vắt mang dòng nước mát, hiền hòa như nguồn sinh khí của đất trời. “Tháp Ngọc” hiện lên nổi bật và thu hút. Chiếc “Lọng Thiên” là một khối thạch nhũ với chu vi to, rộng, mấy người ôm không xuể. Lộng lẫy bốn bề là non xanh nước biếc với những cột tháp nhũ trắng trong như những cột thủy tinh sừng sững quanh hồ nước. Và còn bao hình thù kỳ bí khác đưa ta vào thế giới của sự tưởng tượng phong phú. Hãy một lần đến với Quần thể hang động Pu Sam Cap để chiêm ngưỡng và tận hưởng những phút giây thư giãn, hòa mình vào thiên nhiên. Nguồn: Trang thông tin điện tử thành phố Lai Châu
Lai Châu 222 lượt xem
Quần thể đền thờ vua Lê Thái Tổ và bia vua Lê Thái Tổ nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu 110km về phía Tây Nam, thuộc địa phận hành chính của xã Lê Lợi và xã Pú Đao, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu. Đền thờ được dựng lên để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, người đã có công dẹp loạn vùng Tây Bắc. Ngôi đền tọa lạc trên vị trí đắc địa, cao ráo, có thể phóng tầm mắt 4 phía. Tại quần thể đền thờ Vua Lê còn có một di tích quý báu đó là di tích bia Lê Lợi. Tháng Chạp năm Tân Hợi (1431), vua Lê Thái Tổ đã cho tạc khắc vào vách đá Pú Huổi Chỏ bên bờ bắc sông Đà để lưu lại cho muôn đời sau, sử cũ gọi là “Bia cổ hoài lai”. Văn bia ghi lại sự kiện lịch sử vua Lê Thái Tổ thân chinh chỉ huy các đạo quân dẹp phản loạn ở vùng Tây Bắc của Tổ quốc. Đó là sự kiện năm 1431, tù trưởng Đèo Cát Hãn làm phản, liên kết với Kha Đốn (còn gọi là Kha Lại) - một bầy tôi phản nghịch của Ai Lao (nước Lào) quấy nhiễu Nhân dân nơi biên ải, đánh chiếm vùng đất Mường Muỗi (nay là vùng Thuận Châu - Sơn La ngày nay). Do hành động phản nghịch của Đèo Cát Hãn, vua Lê Thái Tổ đã phái Quốc vương Tư Tề và quan Tư khấu Lê Sát đem quân tiến đánh. Sau đó, vua Lê Thái Tổ thân chinh đem quân lên châu Phục Lễ (châu Ninh Viễn). Đại quân của triều đình tiến theo đường từ sông Hồng, rồi ngược sông Đà, bằng đường thủy và đường bộ, đánh tan quân phản nghịch Đèo Cát Hãn. Khi quân của nhà vua tiến đến sào huyệt của Đèo Cát Hãn, Kha Lại và Đèo Cát Hãn bỏ trốn, sau đó Nhân dân bắt được Kha Lại và giết chết. Tháng Chạp năm Tân Hợi - 1431, sau khi bình định vùng Tây Bắc, trên đường quay trở về qua địa phận xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn (hiện nay), để ghi nhớ sự kiện trọng đại này đồng thời răn dạy các tù trưởng cai quản nơi biên cương của Tổ quốc, vua Lê Thái Tổ đã cho khắc 1 bài thơ vào vách đá . Tấm bia khắc bài thơ của vua Lê Thái Tổ còn lại cho đến ngày nay là một di sản văn hóa cực kỳ quý báu. Tấm bia đá hay đúng hơn là một trang vàng lịch sử chống giặc ngoại xâm cùng những tên tù trưởng tham lam, câu kết với ngoại bang để chống lại Nhà nước phong kiến Việt Nam lúc đó. Năm 2005, Nhà máy thủy điện Sơn La khởi công. Để tránh bị ngập nước, phần bút tích văn bia của vua Lê Thái Tổ đã được di dời. Bút tích sau khi được khoan cắt ra thành một khối đá lớn có kích thước dài 2,62m, rộng 1,13m, cao 1,85m, trọng lượng trên 15 tấn. Năm 2012, bia Lê Lợi được di dời khỏi vách đá Pú Huổi Chỏ đến khuôn viên đền thờ vua Lê Thái Tổ cách vị trí cũ 500m. Di tích Bia Lê Lợi đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 02-9-1981. Cuối 2016, Bia Lê Lợi chính thức được công nhận là Bảo vật quốc gia. Đầu năm 2017, Đền thờ vua Lê Lợi cũng được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 23-01-2017. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu
Lai Châu 239 lượt xem
Di chỉ khảo cổ Nậm Tun được khai quật trong hang Nậm Tun, địa phận bản Phiêng Đanh, xã Mường So, huyện Phong Thổ nay là thị xã Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Trước năm 1945, hang Nậm Tun có tên gọi là Thẳm Hộ Khoại - nghĩa là Hang Dào trâu. Di tích khảo cổ học Nậm Tun khai quật năm 1973, tầng văn hoá dày 1,8 m có hai lớp. Lớp trên có mặt rìu đá mài, đồ gốm và 3 mộ (còn giữ lại được di cốt) đặc trưng cho hậu kì đá mới. Lớp dưới đã tìm thấy gần 200 công cụ cuội ghè đẽo thô sơ, kích thước lớn, trên 700 mảnh tước và 2 mộ đặc trưng cho hậu kì đá cũ, tiêu biểu cho di tích khảo cổ hang động cổ xưa nhất ở Tây Bắc, thuộc văn hoá Sơn Vi. Di chỉ hang Nậm Tun là nơi cư trú, mai táng và chế tác công cụ của 2 lớp người, có 2 tầng văn hóa, giai đoạn trước và giai đoạn hậu kỳ thời đại Đá mới. Ở hang Nậm Tun có 5 ngôi mộ cổ và nhiều di vật cổ, đặc biệt là mũi dùi bằng xương, lần đầu tiên tìm thấy ở Việt Nam. Hang Nậm Tun ở vào vị trí khá thuận lợi. Cửa hang nhìn về phía Tây. Trước hang là một dòng suối lớn, ngày nay người dân nơi đây quen gọi là làng Nậm Phé (Nậm Phé cách cửa hang không quá 100 m). Về mùa nước lũ, dòng suối dâng lên ngập cả thung lũng bao quanh hang. Thung lũng ngày nay quang đãng hơn, từ đó mọc lên những bản làng của người Hoa và người Thái sống xen kẽ. Hang Nậm Tun có cấu tạo rất phức tạp. Có chỗ thạch nhũ phủ dày. Có chỗ thạch nhũ chỉ mới tráng thành lớp mỏng. Lớp này dày trong khoảng 0,15m đến 0,20m. Tại đây tìm thấy di tích văn hoá của nhiều thời đại khác nhau. Những chiếc rìu mài toàn thân, những mảnh gốm tuy thô ráp song đã chế tạo bằng bàn xoay, có trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn thừng…, một khuôn đúc hai mang bằng đá, một hạt cườm xanh bằng ngọc bích- tất cả nếu sớm nhất cũng thuộc vào giai đoạn hậu kì thời đại đá mới. Qua lớp cuội to, là lớp đất có màu nâu sẫm, lẫn nhiều sỏi. Ở đây tìm thấy nhiều công cụ cuội ghè đẽo thô sơ, có trọng lượng và kích thước khác nhau, chưa có hình dáng ổn định, tìm thấy nhiều mảnh tước to, sản phẩm của quá trình chế tác công cụ bằng phương pháp ghè đẽo trực tiếp. Di tích khảo cổ hang Nậm Tun được xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 07/02/2013. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu
Lai Châu 241 lượt xem
Dinh thự Đèo Văn Long nằm trên địa phận xã Lê Lợi, huyện Sìn Hồ, Tỉnh Lai Châu. Theo kết quả khảo sát năm 1983 của Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Lai Châu thì công trình này được bắt đầu xây dựng từ năm 1916. Các tư liệu để lại về dinh thự và gia tộc họ Đèo tuy còn rất sơ khai, nhưng đều cho rằng tất cả các công việc chọn hướng, chọn vị trí đặt cổng chính, miếu thờ, nhà Đẳm (nhà thờ tổ tiên) đều được gia tộc họ Đèo thuê thầy địa lí xem xét cẩn thận. Hai kiến trúc sư một người Pháp, một người Trung Quốc được mời về để thiết kế và giám sát, vật liệu được đưa lên từ các tỉnh miền xuôi. Vì vậy, kiến trúc khu dinh thự mang đường nét phương Tây hòa quyện dáng dấp phương Đông, đồng thời là đặc trưng của nghệ thuật xây dựng và phong thuỷ của người Thái. Dinh thự có diện tích chừng hơn 1ha, do nhu cầu phòng thủ, đón tiếp các quan chức Chính phủ Đông Dương và để thoả mãn lối sống xa hoa của mình, họ Đèo đã tập trung dân phu, binh lực, thợ thuyền cho việc xây dựng quần thể dinh thự, đặt tại một vị trí hiểm yếu, nằm ở ngã ba nơi gặp nhau của con sông Đà, sông Nậm Na và suối Nậm Lay. Còn sau lưng dinh thự là núi cao, trước mặt là ngã ba sông (sông Đà, sông Nậm Na và suối Nậm Lay) có thể khống chế được con đường lên Phong Thổ, Mường Tè và xuôi về Hòa Bình, Sơn La, cũng như qua ngả Điện Biên sang Lào, địa thế hợp cho việc phòng thủ và chống lại quân địch, nếu thất bại có thể rút lui an toàn. Năm 1918, khu dinh thự đã hoàn thành với 8 đơn nguyên chính là: Cổng chính, nhà Đẳm, nhà ăn, nhà xoè, tháp nước, hầm nhốt phạm nhân, miếu thờ ma rừng và một nhà nữa có mặt hình chữ L (chưa rõ mục đích sử dụng). Ngoài ra, còn một số công trình bổ trợ khác như tường bao, cổng phụ, đường xe dẫn lên cổng chính, bậc thềm dài và hẹp dẫn xuống hầm nhốt phạm nhân, kho thóc, bến thuyền, nghĩa địa. Khu nhà chính được xây hai tầng bằng gạch đỏ, sàn gỗ, mái lợp ngói được tách ra từ những phiến đá, thường được gọi là đá đen (lúc mới tách đá mềm có thể dùng dao cắt được, nhưng khi gặp nắng đá sẽ cứng như sành). Xung quanh lâu đài là bức tường thành cao trên 3m, được xây bằng đá phiến dày 40-50cm, rất vững chãi, trên tường có nhiều lỗ châu mai quan sát phía bên ngoài. Trước khu nhà chính có khoảng sân rộng để múa xoè khi Đèo Văn Long tổ chức tiệc tùng, tiếp khách. Có thể nói quần thể dinh thự là một “pháo đài bất khả xâm phạm” của vua Thái. Nói đến Đèo Văn Long là con thứ của Đèo Văn Trị và là một lãnh chúa của Khu tự trị Thái ở Liên bang Đông Dương. Gia đình họ Đèo vốn xuất thân từ một dòng dõi quý tộc tại Vân Nam (Trung Quốc), họ không phải những người phản động mà đã cùng nhau chung sống hòa thuận trên mảnh đất Lai Châu từ rất lâu. Những năm cuối thế kỉ XIX, hưởng ứng phong trào Cần Vương, dòng họ Đèo đã sát cánh cùng nghĩa quân Cờ Đen trấn giữ Sơn Tây và lập được nhiều chiến công. Thế nhưng sau những tổn thất khá lớn ở trận quyết chiến cùng sự nghi kị, thiếu thống nhất trong nội bộ, Đèo Văn Trị đã kí vào bản hiệp ước ngừng bắn vĩnh viễn với quân Pháp. Được Chính phủ Pháp bảo hộ, hậu thuẫn về tiền bạc và vũ khí, Pháp khôi phục cho Đèo Văn Trị cai quản vùng đất Sipsong Chuthai (12 xứ thái). Năm 1908, Đèo Văn Trị mất, trao lại quyền binh cho con là Đèo Văn Kháng, sau đó Kháng chết, Đèo Văn Long thay anh trai lên nắm quyền. Từ đây, với bản chất là kẻ tàn bạo, Đèo Văn Long gieo rắc bao nỗi khiếp sợ cho Nhân dân trong vùng. Ngoài việc cho quân lính đi cướp bóc vơ vét của cải của Nhân dân trong vùng, vua Thái còn đóng những chiếc thuyền lớn, lấy sông Đà làm trục giao thông chính chở lâm thổ sản mà hắn đã cướp được của Nhân dân địa phương mang xuống miền xuôi bán như: thuốc phiện, da hổ, da báo, mật gấu,… sau đó chở hàng hóa lên bán cho người dân địa phương. Sau giải phóng thị trấn Lai Châu (1952), Đèo Văn Long chạy sang Pháp lưu vong, dinh thự bị người dân phá hủy. Đến nay toàn bộ khu dinh thự đã trở thành phế tích, nhiều công trình bị mất hoàn toàn không thể xác định được hình dáng kiến trúc ban đầu. Năm 1980, dinh thự Đèo Văn Long được UBND tỉnh Lai Châu ra quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh và nằm trong kế hoạch phục dựng. Tuy nhiên từ năm 2010, công trình thủy điện Sơn La tích nước, một phần khu dinh thự của Đèo Văn Long bị chìm vĩnh viễn xuống lòng sông chỉ còn lại một ít phế tích. Nguồn: Báo Lai Châu
Lai Châu 233 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1294 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 1022 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Từ trung tâm huyện Yên Lạc, du khách theo con đường trải nhựa chừng 300m sẽ đến ngay được khu Đền. Ai đã qua đây một lần sẽ không thể nào quên được sự tuyệt diệu của một không gian Càn Khôn hòa nhập. Một khu vườn cây um tùm quanh năm xanh tốt, những cành cây vươn dài, tán lá xòe ra như bàn tay khổng lồ ôm lấy mái đền cổ kính, uy linh, hương lúa, hương ngô ùa vào đền quện lẫn khói hương trầm ngan ngát. Tiếng chuông trong ngần dội vào thinh không huyền ảo khiến tâm hồn con người vơi bớt nỗi nhọc nhằn nơi trần thế. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 985 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 942 lượt xem
Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông tọa lạc tại ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng). Nơi đây gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của một vùng đất cách mạng anh hùng. Ngược dòng lịch sử, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới xưa kia vốn là một vùng đất trống trải, rộng lớn, sông ngòi chằng chịt và rất vắng vẻ. Lúc bấy giờ, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được xây dựng trên một nền cao khoảng 40cm, có diện tích 2.400m2. Ngôi miếu được xây bằng gạch, lợp ngói, chia làm 2 gian, gian trước thờ Bà Chúa Xứ và các bậc tiền hiền, hậu hiền, gian sau làm nhà bếp để chuẩn bị các lễ thức cúng kiếng. Trước năm 1930, phong trào khởi nghĩa chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và tay sai của nhân dân Mỹ Quới liên tục diễn ra nhưng chưa mạnh mẽ. Đến đầu năm 1930, đồng chí Quản Trọng Hoàng là đảng viên đã về đến làng Mỹ Quới tổ chức tuyên truyền, bồi dưỡng lý luận cách mạng cho các thanh niên ưu tú. Từ nguồn nhân lực đó, vào tháng 6/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được thành lập tại chợ Mỹ Quới do đồng chí Châu Văn Phát làm bí thư. Trong một thời gian ngắn, đồng chí Châu Văn Phát phân hóa tư tưởng, cầu an, không kiên định lập trường, quên đi nhiệm vụ, bị kỷ luật. Sau đó, tổ chức đảng cấp trên đề cử đồng chí Trần Văn Bảy làm Bí thư Chi bộ và lấy Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông làm địa điểm sinh hoạt chi bộ. Dưới các hình thức hoạt động công khai như tổ chức các lớp dạy võ, dạy nhạc cổ, dạy chữ quốc ngữ… nhiều lớp huấn luyện bí mật được chi bộ mở liên tục, ngầm tuyên truyền đường lối cách mạng, kết nạp nhiều thanh niên ưu tú vào Đảng, từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương ngày càng phát triển. Sau cuộc khởi nghĩa ngày 23/11/1940 trên khắp các tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp điên cuồng mở những cuộc càn quét với quy mô lớn để trả thù những người cách mạng yêu nước. Ngôi Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông cũng bị bọn chúng đập phá, san bằng… Có thể nói, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới không chỉ là cái nôi cách mạng, nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng mà còn là căn cứ cách mạng của các cơ quan như: Huyện ủy và các ban ngành của huyện Thạnh Trị, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, cơ quan Binh vận, Giao liên, Kinh tài, Dân Quân y, đoàn Ca múa nhạc của tỉnh Sóc Trăng và một số ban ngành của Thị xã ủy Bạc Liêu. Trong kháng chiến, nhiều phen thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ trút bom đạn càn quét lực lượng cách mạng nhưng vẫn không lay chuyển nổi tinh thần sắt đá của quân dân vùng quê anh hùng này. Căn cứ địa cách mạng nơi đây vẫn được giữ vững cho đến ngày 30/4/1975. Theo các chú ở Hội Cựu chiến binh xã Mỹ Quới, qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều người con ưu tú của quê hương Mỹ Quới đã được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có hơn 100 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trải qua mưa bom lửa đạn của những năm tháng chiến tranh, sau khi đất nước hòa bình, bà con ở ấp Mỹ Đông đã cùng nhau dựng lại miếu thờ bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng, nguyện cầu cho mảnh đất quê hương được mưa thuận gió hòa, mọi người có cuộc sống an lành, no ấm. Đến năm 1997, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng tấm bia lưu niệm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Định kỳ hằng năm, người dân Mỹ Quới tổ chức lễ hội vía Bà vào ngày 16/2 âm lịch. Ngày 27/11/2003, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 773 lượt xem
Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395 ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như: Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh. Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc. Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV. Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ. Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930. Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích. Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản… Thành cổ Thăng Long - Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/8/2009. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hà Nội 766 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 766 lượt xem
Di tích lịch sử thôn Cây Xoài là Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông. Ngày 25/5/1959, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chính thức thành lập Đoàn B90, có nhiệm vụ bí mật vào Nam cùng với đơn vị tại chỗ xây dựng cơ sở, xoi mở hai tuyến đường phía Đông và phía Tây từ Nam Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ - nơi có Xứ ủy Nam Bộ. Vượt qua những khó khăn, hi sinh và cả những chuyến móc nối không thành công, cuối cùng, vào khoảng 16 giờ, ngày 30/10/1960, Đoàn công tác B90 đã bắt liên lạc với đoàn công tác C200 của miền Đông Nam Bộ tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Đến ngày 4/11/1960, tại Km 4 trên đường Đắk Song đi Gia Nghĩa, cánh phía Tây của Đoàn B90 tiếp tục bắt liên lạc với đơn vị C270 từ Đông Nam Bộ lên. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược, đường hành lang chiến lược Bắc - Nam được khai thông đã trở thành một điểm nút quan trọng giúp thông suốt tuyến đường Hồ Chí Minh, từ đây, tuyến vận tải quân sự chiến lược Đường Hồ Chí Minh như huyết mạch thông suốt từ Bắc chí Nam chi viện kịp thời sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần quyết định vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ năm 1961 đến năm 1965, tuyến Đường Hồ Chí Minh thông suốt, hàng vạn con em đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc đã trở lại chiến trường; hàng loạt nhu yếu phẩm như bưu phẩm, công văn tài liệu, vũ khí, khí tài, kể cả thiết bị đài phát thanh giải phóng... đã được các chiến sĩ giao liên tuyến cánh Đông và cánh Tây đưa đón vận chuyển khẩn trương chi viện cho chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ; đưa đón cán bộ cấp cao của Đảng vào Nam lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Mỹ. Qua một thời gian hoạt động, cơ sở ở Nam Tây Nguyên được mở rộng và nối liền các vùng có cơ sở ở Tây Khánh Hòa, Tây Ninh Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng và nối liền từ Đắk Mil đến chiến khu Đ. Bên cạnh đó, lực lượng hành lang Quảng Đức phối hợp với Campuchia mở rộng vùng kiểm soát dọc tuyến hành lang, tạo sự liên hoàn, phối hợp có hiệu quả các chiến trường trong kháng chiến. Để đạt được kỳ tích nối thông giữa các chiến trường, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không thể không nhắc đến vai trò của đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã không quản hi sinh, gian khổ bảo vệ hành lang, che chở cho các lực lượng tham gia vận tải quân sự trên đường Trường Sơn, che dấu cán bộ, bảo vệ cách mạng, đảm bảo hoạt động thông suốt. Đó là những chàng trai, cô gái Đoàn H50 bám đường, bất chấp gian khổ, thiếu thốn; Là các đoàn dân công của địa phương bí mật gùi, thồ hàng hóa, vũ khí vượt qua những đèo cao, dốc đứng, cánh đồng lầy lội và đồn bốt nguy hiểm; Đó là hình ảnh 800 đồng bào ở căn cứ Nâm Nung phải ăn lá rừng, củ rừng để dành lúa, ngô, khoai, sắn giúp đỡ đội xoi đường và cán bộ, bộ đội đi trên hành lang, bất chấp sự nguy hiểm để nuôi quân, che chở các chiến sĩ cách mạng... Di tích lịch sử thôn Cây Xoài “Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc - Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông” là một trong những địa danh lịch sử gắn liền với kỳ tích của thế kỷ 20 - Đường Trường Sơn, được Nhà nước đầu tư xây dựng và hoàn thành vào ngày 23/3/2010. Ngày 02/8/2011, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch công nhận đây là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Ngày 30/10/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tổ chức Lễ tưởng niệm và đặt Bia ghi danh sách các cán bộ, chiến sĩ đã tham gia chiến đấu, hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Nguồn: Đảng Ủy Khối Các Cơ Quan Và Doanh Nghiệp Tỉnh Đắk Nông
Đắk Nông 707 lượt xem
Mộ Ông Ích Khiêm toạ lạc tại nghĩa trang xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 10km về phía tây - nam. Ông Ích Khiêm, tự là Mục Chi, sinh ngày 21/12/1829 tại làng Phong Lệ Bắc, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang. Ông thi đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và làm quan dưới triều vua Tự Đức. Nổi tiếng là người thông minh, chính trực, là một vị tướng khẳng khái và mưu lược, ông có công trong việc cầm quân bảo vệ Đà Nẵng khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta. Xuất thân từ một gia đình thuần nông, nhưng Ông Ích Khiêm đã sớm bộc lộ tài trí thông minh hơn người. Sau khi đỗ cử nhân vào năm 15 tuổi, ông về làm quan dưới triều vua Tự Đức, giữ chức Tiểu Phủ Sứ, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Trong sự nghiệp làm quan, ông từng đạt tước vị cao nhất là Tả thị lang Bộ binh. Với tính cách bộc trực, khảng khái và có phần nóng tính, lại sinh vào thời chính trị nhiễu loạn, con đường quan lộ của Ông Ích Khiêm gặp rất nhiều sóng gió, trắc trở. Ông thường đương đầu trực tiếp với bọn cường hào, ác bá, từng bị hại phải cách chức. Khi đó ông trở về quê nhà phát triển nông nghiệp, mua và phát đất cho bà con làm ruộng, hướng dẫn người dân làm đường, đào kênh mương, dẫn nước tưới. Vào năm 1858, khi thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng và xâm phạm chủ quyền nước ta, nhà vua gọi ông về nhậm chức mới, cầm quân bình định xứ sở. Xuất thân là quan văn nhưng thời thế đã khiến Ông Ích Khiêm trở thành quan võ. Trong quá trình làm tướng, ông nhiều lần bị cách chức rồi lại lập công lớn và phục chức nhờ tài năng quân sự không thể phủ nhận. Tuy nhiên đến năm 1884, khi hay tin vua Tự Đức qua đời, bản thân lại đang bị giam cầm tại nhà ngục Bình Thuận, triều đình rối ren, vị chí sĩ đã quyên sinh, hưởng thọ 55 tuổi. Đầu năm 1885, ông được truy phục hàm Thị độc. Cho đến nay, tài năng, phẩm giá và công lao của Ông Ích Khiêm vẫn lưu trong sử sách và được người đời ghi nhớ, ca tụng. Ông Ích Khiêm mất ngày 19/ 7/ 1884 tại Bình Thuận. Con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa thi hài ông về quê và mai táng tại làng Phong Lệ. Ngôi mộ được xây theo hình bát giác, có chiều dài từ cổng vào là 13,8m; chiều rộng 6,1m; tường bao xung quanh mộ cao 0,72m. Nấm mộ có chiều dài 4,75m; rộng 3,5m; cao 0,35m. Phía trước mộ có nhà bia, bên trong đặt một tấm bia bằng đá cẩm thạch cao 0,83m; rộng 0,54m được trang trí hình rồng, phụng và hoa lá. Mộ Ông Ích Khiêm được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích quốc gia vào ngày 12/7/2001. Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch
Đà Nẵng 703 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 665 lượt xem