Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đình Tấn Lộc thuộc khu phố 4, phường Tấn Tài, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Đình được xây dựng ở đầu làng. Theo các cụ già trong làng thì vào năm Minh Mạng thứ 11 sau khi ông Phan Văn Nghi xin thành lập làng Tấn Lộc thuộc Kinh Dinh, phủ Ninh Thuận thì Đình Tấn Lộc lúc bấy giờ có tên là Đình Dinh Thủy, mới được xây dựng ở cuối làng bằng các vật liệu thanh tre đơn giản. Đến năm Giáp Dần (1853) đời vua Tự Đức, Đình Dinh Thủy mới được dời về địa điểm hiện nay. Đình thờ Thần Thành Hoàng, Thiên Y A Na và Chưởng Thái Giám Bạch Mã. Theo tục lệ của tiền nhân lưu lại, hàng năm thôn Tấn Lộc tổ chức tại đình làng làm đại lễ theo Xuân kỳ vào tháng 2 Âm lịch và làm trung lễ theo thu lệ vào tháng 8 Âm lịch. Mỗi đợt tế được chia làm ba phần, với những nghi thức rất trang trọng, từ lễ Khai sắc, đến lễ kỵ Tiền hiền và lễ Tế tại Chánh điện. Đình Tấn Lộc phường Tấn Tài đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá , kiến trúc nghệ thuật. Đình Tấn Lộc được xây dựng trên một khu đất có diện tích là 1.950 mét vuông, xung quanh có tường rào bao bọc. Mặt trước của Đình hướng ra sông Dinh, mặt sau nhìn ra xa có ngọn núi Cà Đú là điểm tựa lưng vững chãi. Đình Tấn Lộc là một tổng thể kiến trúc bao gồm: từ ngoài vào là nghi môn, bình phong, sân gạch, cách chừng 15m là tòa chánh điện, nối chánh điện với nhà Kiều là một khoảng sân nhỏ mà các cụ thường gọi là Thiên Tĩnh (giếng trời). Liền với nhà Kiều là nhà Tiền Hiền. Hai bên hông của tòa Chánh điện là nhà Đông và nhà Tây, phía trước nhà Đông và nhà Tây là hai ngôi miếu nhỏ, miếu Đông thờ Ngũ hành, miếu Tây thờ Thổ thần, còn hai bên hông của nhà Kiều là hai nhà Trù (nhà bếp) nhưng chỉ còn một căn phía Đông, còn căn phía Tây đã bị đổ nát. Ở phía Đông, giữa nhà Đông với nhà Trù có một cổng nhỏ (còn gọi là cổng Đông) dùng để ra giếng lấy nước. Đình Tấn Lộc là một công trình kiến trúc, điêu khắc gỗ có giá trị. Về mặt kiến trúc Đình là một quần thể gồm nhiều ngôi nhà Tứ trụ ghép lại, sự có mặt của các kèo đâm, kèo khuyết làm cho diện tích của ngôi đình được nới rộng ra xung quanh. Đề tài trang trí ở Đình khá phong phú, hầu hết các mô típ cổ điển đều được sử dụng và mang tính triết lý sâu sắc như: “Tứ linh”: Rồng biểu trưng cho quyền lực, Lân biểu trưng cho ước vọng Thái Bình, Quy ngoài biểu trưng cho sự chịu đựng và sống lâu thì nó còn được quan niệm là hợp thể trong quan hệ đối đãi của trời cha đất mẹ, Phụng biểu hiện về ước vọng muôn đời của người dân Việt trong mối quan hệ với thần linh. Với đề tài bát bửu thì có Hoa mặt trời (trời) tượng trưng cho nơi ngự trị của thần linh mang tính linh thiêng. Gươm biểu hiện cho sức mạnh của con nhà võ diệt trừ xấu xa, ma quỷ. Quạt vả nhằm tiêu trừ độc hại ma quỷ. Đàn biểu hiện sự thanh cao của đạo nhân. Bầu rượu biểu trưng của Lý Thiết Quài đi tìm “lẻ quên” thoát khỏi sự ràng buộc xấu xa của cuộc đời và cây gậy Như Ý biểu hiện cho quyền lực… Hơn 100 năm qua, do sự tác động của thiên nhiên nên Đình đã qua nhiều lần tu bổ. Trong những lần tu sửa đó, do nhận thức có hạn nên một số kiến trúc như nhà Đông, nhà Tây đã được làm mới lại hoàn toàn trên nền cũ song cơ bản Chánh điện và nhà Tiền hiền vẫn giữ được những yếu tố nguyên gốc nên vẫn không làm mất đi dáng vẻ uy nghi, cổ kính của ngôi đình. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Ninh Thuận
Ninh Thuận 1169 lượt xem
Trùng Sơn cổ tự là một tổng thể công trình kiến trúc hoành tráng được hòa thượng Thích Bửu Hiền tạo lập vào năm 1973 tại di tích lịch sử núi Đá Chồng (núi Phụng Hoàng), thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Ban đầu, chùa chỉ là một ngôi nhà thờ Phật giản dị trên núi, là nơi hàng ngày nhà sư Bửu Hiền dùng làm nơi tu tập, đồng thời cũng là nơi để bà con, phật tử viếng thăm, khấn phật, cầu an. Dần về sau, ngôi am nhỏ được nhà sư mở rộng, xây thêm các hạng mục, tiểu cảnh nhằm mục đích làm nơi nghỉ ngơi, ngắm cảnh cho bà con, phật tử gần xa mỗi khi lên viếng phật. Qua đời của Hòa thượng Thích Bưu Hiền, đến đời của Thượng tọa Thích Tâm Tường. Ngôi am được mở rộng xây dựng trên diện tích, quy mô hoành tráng gồm nhiều hạng mục như cổng tam quan, chánh điện, nhà thờ tổ, … Năm 2012, do hạn hẹp về kinh phí nên chùa chỉ hoàn thành trước hạng mục chính điện, nhà thờ tổ, sân hiện, bậc cấp tam quan lên xuống … riêng hạng mục tam quan, các tiểu cảnh, khu vực đặt thờ các tượng phật, bồ tát ngoài trời, … vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Do việc xây dựng theo địa hình đồi núi nên rất khó phân biệt đâu là tiền đường, bái đường, chính điện, cổng tam quan hay nhà thờ tổ. Chính vì thế mà tổng thể công trình chùa vừa tạo ra tính sinh động theo mô típ kiến trúc độc đáo, đồng thời cũng tạo ra tính phức tạp khi nhận diện. Sau hơn 40 năm xây dựng và hoàn thiện. Cho đến ngày nay, chùa đã trải qua ba đời trụ trì. Trong đó gồm: Hòa thượng Thích Bưu Hiền (người sáng lập), Thượng tọa Thích Tâm Trường (người kế nhiệm thứ hai và cũng là đệ tử của Hòa Thượng Thích Minh Tâm, sư huynh Hòa Thượng Thích Bưu Hiền), Đại đức Thích Nguyên Minh (trụ trì hiện nay, đệ tử Thượng tọa Thích Tâm Trường). Nhìn chung, các đời trụ trì của chùa Trùng Sơn đều có mối gắn kết của “tông môn pháp phái”. Trùng Sơn Cổ Tự có độ cao hơn 60m so với mặt nước biển. Đường dẫn lên chùa là đường tam cấp dốc, thẳng đứng với gần 500. Đi hết đường tam cấp, cảnh sắc mở ra đầu tiên chính là hạng mục tam quan còn đang xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ thuần Việt. Tuy chưa hoàn thành, nhưng khi nhìn tổng thể, tam quan Trùng Sơn Cổ Tự là hạng mục vững chắc, bền bỉ, rộng lớn khi nguyên vật liệu hoàn toàn và bê tông, cốt thép và đá xanh. Qua tam quan, tiếp tục đi lên là khoảng sân hiên phía dưới, với điểm nhấn là nhiều cây cảnh và đôi rồng thời Lý Trần uy nghi, dũng mãnh. Từ sân hiên đi lên theo bậc tam cấp, chính là quần thể công trình kiến trúc gồm sân, chính điện, nhà thờ tổ, nhà khách, … mà ba đời trụ trì xây dựng. Chùa Trùng Sơn cổ tự còn nổi tiếng là nơi rất linh thiêng khi đây là nơi ngự trị của hai ngôi chùa Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ và Tổ đình chùa Trùng Khánh. Sự hội tụ này thể hiện cho một vùng đất linh khí của đất trời. Nguồn: Du lịch Ninh Thuận
Ninh Thuận 1570 lượt xem
Đề-pô xe lửa Tháp Chàm là cơ sở hạ tầng của Sở Hỏa xa do người Pháp lập ra bao gồm: Nhà ga, Khu bảo trì, sửa chữa đầu máy toa xe, Khu ở công chức. Người dân Ninh Thuận quen gọi là Đề-pô xe lửa Tháp Chàm (thuộc phường Đô Vinh, Tp. Phan Rang–Tháp Chàm hiện nay). Đề-pô xe lửa Tháp Chàm phục vụ vận chuyển hành khách, hàng hóa, kỹ thuật duy tu, sửa chữa... Được biết đường sắt xuyên Việt hoạt động thông suốt từ năm 1936. Trước đó có các đoạn hoàn thành và hoạt động như đoạn đường sắt Nha Trang-Tháp Chàm-Sài Gòn hoạt động từ năm 1903, đoạn đường sắt từ Tháp Chàm đi Đà Lạt dài 84 km, trong đó có 16 km đường sắt răng cưa, khởi công xây dựng năm 1906 đến năm 1933 bắt đầu hoạt động. Với đặc điểm này, Đề-pô xe lửa Tháp Chàm là một trong các cơ sở đường sắt nhất nước ta thời đó như Gia Lâm (Hà Nội), Bến Thủy (Vinh), Touran (Đà Nẵng), Dĩ An (Sài Gòn–Bình Dương)... Theo sử liệu, với quy mô khoảng 200 công nhân, Đề-pô xe lửa Tháp Chàm là ga hành khách và ga kỹ thuật thực hiện tác nghiệp kỹ thuật đầu máy, toa xe và một số chức năng khác. Do vậy, đây là nơi hội tụ nhiều cá nhân ưu tú từ các tỉnh khác vào làm việc, từ đây họ trở thành hạt nhân tuyên truyền các tư tưởng chính trị tiến bộ. Cuối năm 1928, họ thành lập Chi bộ Tân Việt tại làng Bảo An. Tháng 4-1929, đảng Tân Việt chuyển thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn, cơ sở đảng Tân Việt tại Ninh Thuận cũng đổi tên và hoạt động theo phương hướng mới. Sau ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4-1930, các chi bộ Tân Việt tại Ninh Thuận chuyển thành các chi bộ Đảng Cộng sản theo chủ trương chung của cả nước, bao gồm Chi bộ Đề-pô xe lửa Tháp Chàm và Chi bộ Cầu Bảo, Chi bộ Sở Muối Cà Ná. Từ đó, tổ chức Đảng lãnh đạo Nhân dân đấu tranh, tiêu biểu là tổ chức cuộc biểu tình ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930. Sáng sớm ngày 1-5, công nhân đi làm thấy cờ đỏ búa liềm xuất hiện trên đỉnh tháp nước ga Tháp Chàm và trên cây me cổ thụ làng Bảo An; truyền đơn rải nhiều khu vực ga, khu dân cư Bảo An. Cùng lúc đó, 120 công nhân Đề-pô xe lửa Tháp Chàm tổ chức mít-tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động và yêu cầu giới chủ thực hiện các quy định lao động. Có thể nói, vừa ra đời, chi bộ Đảng tại Đề-pô xe lửa Tháp Chàm đã tổ chức đấu tranh trực diện với Pháp. Với những sự kiện, dấu ấn lịch sử trên, Đề-pô xe lửa Tháp Chàm được công nhận Di tích Lịch sử Cách mạng cấp tỉnh vào năm 2003. Nguồn: Báo Ninh Thuận
Ninh Thuận 1843 lượt xem
Ngày 28/02/2023, Miếu Năm Bà, phường Bảo An, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm được xếp hạng là Di tích Lịch sử cấp tỉnh. Miếu Năm Bà là cơ sở tín ngưỡng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân trong khu vực phường Bảo An, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Miếu không chỉ có giá trị về lịch sử văn hóa mà còn gắn với các phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến quan trọng trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Trong cách mạng Tháng 8 năm 1945, Miếu là nơi tổ chức các cuộc họp bí mật của chính quyền Việt Minh, là nơi tổ chức các hoạt động nuôi giấu cán bộ cách mạng, nơi hội họp của Dân quân du kích địa phương. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Miếu là nơi tổ chức các hoạt động tuyên truyền chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng, phát động các phong trào tham gia kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và nhiều hoạt động yêu nước, đưa tiễn con em địa phương lên đường nhập ngũ. Khi đất nước hòa bình, Miếu là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng, tín ngưỡng của người dân địa phương. Ngày nay, hàng năm tại Miếu Năm Bà, Tỉnh Đoàn thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt truyền thống và nghe các đồng chí lão thành cách mạng kể chuyện về diễn biến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh ta (ngày 21/8/1945) cho các đoàn viên, thanh niên, học sinh; qua đó, giáo dục, bồi đắp lòng tự hào dân tộc, lý tưởng cách mạng, tình yêu quê hương, đất nước trong thế hệ trẻ hôm nay. Việc xếp hạng di tích lịch sử Miếu Năm Bà nhằm xác lập cơ sở pháp lý và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cộng đồng, tổ chức, cá nhân tham gia thực hành di sản văn hóa tại Miếu Năm Bà. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm trực tiếp quản lý, bảo vệ, tu bổ, phục hồi và phát huy các giá trị của Miếu Năm Bà theo quy định; đồng thời, nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác trong khu vực di tích đã khoanh vùng để kinh doanh những dịch vụ không phù hợp; trong trường hợp đặc biệt sử dụng đất đai ở di tích vào mục đích khác phải được phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Đảng Bộ Tỉnh Ninh Thuận
Ninh Thuận 1282 lượt xem
Tháp Hòa Lai, một ngôi tháp cổ được cho là một trong những công trình lâu đời nhất của người Chăm còn tồn tại. Tháp Hòa Lai tọa lạc ngay trên đường quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn Ba Tháp, xã bắc Phong, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 9, có kiến trúc nghệ thuật độc đáo của vương quốc Chăm Pa vùng Panduranga xưa. Tháp Hòa Lai đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử Quốc gia năm 1997. Đến ngày 22/12/2016, được xếp hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt. Trong quá khứ, nơi đây từng có ba ngôi tháp nên từng có tên gọi là Ba Tháp, tuy nhiên do sự bào mòn của thời gian và những biến động trong lịch sử, một ngôi tháp đã bị sập. Người dân bản địa còn hay gọi tháp này là tháp Hòa Lai thay cho tên Ba Tháp ngày trước. Khác với kiến trúc của tháp Po Klong Garai, phong cách kiến trúc của tháp Hòa Lai nổi bật với những cánh cửa hình vòm có nhiều mũi tròn, các trụ tường hình bát giác với phong cách trang trí hình lá uốn cong. Đến với tháp Hoà Lai, bạn sẽ được tận mắt ngắm nhìn nghệ thuật xây dựng và điêu khắc cực kỳ tinh tế của dân tộc Chăm Pa. Ngôi tháp vốn là một tổng thể kiến trúc bao gồm tháp Bắc, tháp giữa và tháp Nam. Hiện nay, ngọn tháp trung tâm chỉ còn lại phần nền do bị phá vỡ nghiêm trọng vào thế kỉ 9. Nơi đây được biết đến là khu di tích cổ có khá nhiều công trình phụ bao quanh tháp nhưng theo thời gian chỉ còn một ít vết tích lưu lại như tường thành, lò gạch… Nét đặc sắc của cụm tháp Hòa Lai chính là phong cách trang trí hết sức tinh xảo với những đường nét hoa văn bên ngoài mặt tháp chỉ giới hạn ở vòm cửa, các trụ ốp và bộ diềm mái. Mỗi công trình tháp mang trong mình một nét đẹp riêng nhưng lại được xây dựng vô cùng hòa hợp với nhau. Tháp Bắc được xây bằng gạch, trên tường chạm trổ hoa văn hình mặt chim, thú, lá, hoa… rất ấn tượng. Ở hướng Đông của tháp Bắc chỉ có duy nhất một cửa vào, ba hướng còn lại đều là cửa giả. Bên trong tháp có sẵn các ô hình tam giác để gắn đèn lên mỗi khi cúng tế. Tháp Nam là ngọn cao nhất, cũng được xây bằng gạch và chạm khắc hoa văn trên tường nhưng chưa hoàn thiện. Toàn bộ thân tháp trông như một khối lập phương đồ sộ nhô lên từ một bệ vuông và nâng đỡ cả một hệ thống các tầng nhỏ hơn. Trải qua hơn 1000 năm cùng biết bao thăng trầm lịch sử, vẻ đẹp của tháp Hoà Lai vẫn trường tồn theo năm tháng và giữ nguyên những giá trị nghệ thuật đặc sắc trong lối kiến trúc và điêu khắc của người Chăm xưa. Nguồn: Du lịch Ninh Thuận
Ninh Thuận 1404 lượt xem
Đình Đắc Nhơn toạ lạc tại thôn Đắc Nhơn, xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Ngôi đình xây dựng trên một khu đất bằng và rộng. Năm 1999, Đình Đắc Nhơn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Theo hồ sơ lý lịch di tích của Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận, đình Đắc Nhơn do một vị sư người Trung Quốc đến Phan Rang xây dựng vào thế kỷ thứ 18 tên là Hoà thượng Liễu Minh - Đức Tạng. Lúc mới xây dựng, đình Đắc Nhơn chỉ là một ngôi miếu nhỏ mang tên “Đắc Nhơn Từ Miếu”. Điều bí ẩn tồn tại hàng trăm năm nay mà không ai lý giải được tại sao ngôi đình Đắc Nhơn của người Việt lại thờ vua Po Klaong Garay của người Chăm? Và việc vua Po Klaong Garay của người Chăm trở thành vị thần hoàng trong ngôi đình của người Việt là một hiện tượng giao lưu văn hoá rất độc đáo. Nhân dân thôn Đắc Nhơn còn lưu truyền câu chuyện rằng, xưa kia vùng đất mà họ đang sinh sống là thuộc nước Chiêm Thành. Để ghi ơn những bậc tiền hiền đã khai khẩn đất hoang, dẫn thuỷ nhập điền nên họ thờ phụng ngài để cầu mong sự bình an, sung túc, lúc gặp hoạn nạn cầu mong ngài phù hộ và che chở. Qua 6 đời vua triều Nguyễn, đình Đắc Nhơn vinh dự 7 lần được trao sắc phong từ thời vua Minh Mạng (1840), đến vua Khải Định (1924). Trong đó, thời vua Thiệu Trị trao 2 tấm sắc phong. Như vậy, đình Đắc Nhơn có tất cả là 8 sắc phong. Nội dung của các tờ sắc phong cho biết vị thần hoàng được dân gian thờ phụng chính ở đình Đắc Nhơn mang tên là “Lạc Phiên Dương thần”, mà trong dân gian hay gọi là vua Lác. Về mặt kiến trúc đình Đắc Nhơn thể hiện đầy đủ tiêu chí của một ngôi đình truyền thống. Nhưng, kiến trúc của đình Đắc Nhơn mang dáng vẻ của một ngôi nhà truyền thống của người Chăm gồm có 3 gian chính. Tại chánh điện có để một cái tấm phản đặt theo hướng bắc nam, nhìn lên trần nhà là cổ lầu làm bằng tấm ván gỗ kết lại như biểu tượng bức màn Lemlir biểu tượng cho bầu trời trong văn hoá Chăm hay là biểu tượng Thang Sa xuất hiện ở kiến trúc đền tháp Po Klaong Garay dùng để treo tấm màn lễ Panil mỗi khi dâng lễ vật trong đền tháp. Những dấu vết, bàn tay tài hoa của người thợ vẫn còn hằn in lên trên các nét chạm trổ, điêu khắc ở công trình kiến trúc tôn giáo đình Đắc Nhơn là một bằng chứng sống động về giao thoa văn hoá Việt - Chăm. Việc một vị vua của người Chăm trở thành thần hoàng được thờ phụng trong ngôi đình của người Việt là một hiện tượng kì lạ và độc đáo phản ánh sự giao lưu, tiếp biến văn hoá Việt - Chăm. Người Việt thờ vua Po Klaong Garay với tên gọi Lạc Phiên Dương thần mà trong dân gian gọi là vua Lác. Đồng thời, người Việt còn sáng tạo thêm về nguồn gốc của vua Lác từ những câu chuyện cổ tích của người Chăm để phù hợp với quan niệm, tư duy người Việt. Khi cúng lễ cho vua Po Klaong Garay trên đền tháp người Chăm cúng con dê, con gà. Khi tiếp nhận văn hoá Chăm, mỗi năm tế thần ở đình Đắc Nhơn bao giờ lễ vật cũng có một con dê. Như vậy, những đường biên văn hoá Việt - Chăm trong việc thờ phụng thần hoàng và xây dựng nhà ở càng làm giàu thêm hệ giá trị văn hoá hai dân tộc. Nguồn: Trang Tin Điện Tử Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Chăm
Ninh Thuận 1175 lượt xem
Đình làng Tri Thủy thuộc thôn Tri Thủy, xã Tri Hải, huyện Ninh Hải. Đình được xây dựng cách đây trên 200 năm để thờ thần Thành Hoàng. Đình còn thờ các bậc tiền nhân có công khai khẩn lập làng, dựng đình. Hiện nay, tại đình Tri Thủy vẫn còn lưu giữ những sắc phong của các triều vua Nguyễn ban cho Thành Hoàng. Đình làng Tri Thủy được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di tích cấp quốc gia vào tháng 4-2011. Đình Tri Thủy được xây trên khu đất nằm ngay đầu làng Tri Thủy có diện tích 3231,82m2. Mặt trước của Đình hướng ra Đầm Nại, bên phải là chùa Kim Sơn, bên trái là trục đường chính liên xã, phía sau Đình Trị Thủy là Núi Đình và khu dân cư. Tên Đình Tri Thủy lấy theo tên làng Tri Thủy (trước đây có tên làng Bến Đò, thuộc tổng Mỹ Tường, đạo Ninh Thuận nay thuộc thôn Tri Thủy, xã Tri Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận), được hình thành cách đây 200 năm do những người cánh họ Dương (Bình Định) theo chân Chúa Nguyễn di cư vào Ninh Thuận. Đình được xây dựng để thờ thần Thành Hoàng, theo tín ngưỡng dân gian thì đây là vị Thần bảo trợ cho dân làng, vì không có thần phả để lại nên ngày nay rất khó xác định được lai lịch của Thần. Ngoài Thành Hoàng là đối tượng thờ chính, ở Đình còn thờ thêm các vị tiền bối có công khai khẩn, lập làng, dựng Đình và Bà Thủy Long. Tại Đình còn lưu giữ những sắc phong của các vua Nguyễn ban cho Thành Hoàng . Đình Tri Thủy là một tổng thể kiến trúc công trình xây dựng bao gồm từ ngoài vào là cổng Tam Quan, bức Bình phong, sân Đình, tòa Chánh Điện. Hai bên là tòa Chánh điện là nhà Đông, nhà Tây. Phía sau Chánh điện là 1 khoảng sân nhỏ nối Chánh điện với nhà Tiền Hiền. Kết cấu kiến trúc và nghệ thuật của một số bộ phận chính: – Cổng Tam Quan: kiến trúc theo phong cách cổ, dáng tứ trụ; trên các cột đắp nổi câu đối có nội dung ca ngợi vùng đất hiển linh, phù hộ cho dân làng sống giàu sang, hạnh phúc. – Bình phong: được xây dựng trước sân Đình đối diện với tòa chánh điện. Theo quan niệm của dân gian, bình phong có tác dụng ngăn ngừa luồng khí độc thổi vào thôn. – Chánh điện: là công trình kiến trúc chính nên có quy mô và uy nghi hơn so với các kiến trúc còn lại được chia làm hai phần: Tiền đàng và Hậu tẩm. Tiền đàng là ngôi nhà dành cho việc hành lễ nên còn gọi là nhà Tiền bái. Tiền đàng là một ngôi nhà tứ trụ, tường xây bằng đá, chất kết dính vữa vôi, mái lợp ngói Tây. Tòa Chánh điện là nơi thờ Thành Hoàng nên nội thất được treo các câu đối và nhiều đồ thờ tự khác. Chính giữa là án thờ thần, trên án và xung quành án thờ được bài trí các đồ tự khí và các vật trang trí rất tinh xảo nhưng không kém phần uy nghiêm; các hiện vật được lưu giữ tại Đình. Trong năm tại Đình Tri Thủy tổ chức một số lễ nghi thức long trọng như Tết Nguyên đán, Tiết Thanh Minh, Rằm tháng 7 âm lịch…. Nguồn: Du lịch Ninh Thuận
Ninh Thuận 1412 lượt xem
Bẫy đá Pi Năng Tắc còn có tên gọi là “Bẫy đá Bác Ái” nằm tại triền núi Gia Túc, thuộc xã Phước Bình, huyện Bác Ái, cách trung tâm thành phố Phan Rang - Tháp Chàm khoảng 70km về hướng Tây Bắc. Vào cuối năm 1959, tại địa điểm này Pi Năng Tắc - Anh hùng Lực lượng vũ trang tìm cách ngăn địch vào sâu trong vùng Phước Bình để tàn phá. Tận dụng sự hiểm trở của đèo Gia Túc với dốc cao, một bên là vách đá dựng đứng, phía dưới là dòng sông Trương chảy xiết, vực sâu, chỉ có con đường dẫn vào Phước Bình, ông Pi Năng Tắc cho lập 17 chiếc bẫy đá liên hoàn trên đoạn đường dài khoảng 500 mét, phía dưới đoạn đường cho cắm chông, xoa bẫy, mang cung có tẩm độc. Tại nơi đây đã ghi lại trận địa phục kích địch bằng bẫy đá vào trưa ngày 10/8/1961 của du kích Raglai do Pi Năng Tắc - Anh hùng Lực lượng vũ trang đã chỉ huy dân quân du kích đồng loạt cho sập bẫy, đá trên vách núi đổ xuống đội hình địch, địch hoảng loạn bỏ chạy lại bị tên ná bắn ra, bị đạp chông, mắc bẫy do du kích gài sẵn, khiến cho hơn 100 tên địch thiệt mạng tại chỗ. Bẫy đá Pi Năng Tắc đã cho chúng ta thấy giá trị to lớn về lịch sử kháng chiến nói lên tinh thần dũng cảm, thông minh sáng tạo của đồng bào dân tộc Raglai. Chiến thắng ngày 10/8/1961 là một trong những trận đánh điển hình về nghệ thuật chiến tranh nhân dân chỉ với vũ khí thô sơ. Trải qua mấy chục năm, bãi chiến trường xưa đã có nhiều biến đổi nhưng bẫy đá vẫn còn đó và đã đi vào lịch sử truyền thống của địa phương, ở trong trái tim của mọi người dân Raglai, là niềm tự hào về một quá khứ anh hùng của dân tộc – Pi Năng Tắc. Để ghi nhớ chiến công của anh hùng Pi Năng Tắc, Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận đã dựng bia kỷ niệm chiến tích tại đèo Gia Túc gắn với tên Anh hùng Lực lượng vũ trang Pi Năng Tắc và đã được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao (nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng địa danh Bẫy đá Pi Năng Tắc là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia vào ngày 31/08/1992. Hiện nay, Bẫy đá Pi Năng Tắc đã trở thành địa chỉ tham quan, giáo dục truyền thống lịch sử cho thế hệ học sinh, sinh viên. Mặc dù thời gian đã lùi xa về quá khứ hơn 63 năm, dấu tích về những bẫy đá vẫn hiện hữu sinh động, minh chứng hùng hồn về nghệ thuật chiến tranh du kích, tinh thần thông minh, sáng tạo tuyệt vời và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Ninh Thuận. Nguồn: Bảo Tàng Tỉnh Ninh Thuận
Ninh Thuận 1777 lượt xem
Núi Cà Đú là một địa danh có tiếng trên ngã ba quốc lộ 1A Bắc – Nam đi Ninh Chử, nằm bên núi Cà Đú có độ cao 318m. Cà Đú là gọi trại tiếng Chăm: Chơk Du’, nghĩa là núi có hình giống con vích; quả thật nếu đứng từ Gò Đền nhìn núi, ta thấy như con vích, con rùa đang bò ra phía biển. Càng lên cao núi Cà Đú càng thoáng mát bởi cấu trúc của các hang động. Từ đây du khách được ngắm nhìn bao quát khu du lịch biển Ninh Chử, cánh đồng muối Phương Cựu, Đầm Vua, đồng lúa vàng của huyện Ninh Hải và xa xa là hòn núi Đá Chồng. Chính vẻ đẹp này đã góp phần tôn thêm vẻ đẹp của núi Cà Đú. Với những tảng đá chồng chất lên nhau và nhiều hang lớn, lắm ngõ ngách nên núi Cà Đú khá hiểm trở. Chính địa thế này từ những năm đầu của phong trào Cần Vương, nghĩa quân đã chọn núi Cà Đú làm căn cứ chống pháp. Cũng từ đây, các đội trinh sát, các lực lượng vũ trang và cán bộ cách mạng suốt những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đã bám trụ gầy dựng cơ sở , tổ chức diệt tề, trừ gian. Cùng các chiến khu cách mạng lúc bấy giờ như Bác Ái, Anh Dũng, CK 7, 19, 35, căn cứ núi Cà Đú có một vị trí rất quan trọng nằm giữa vùng bị tạm chiếm, gần dân nhất và cũng gần địch nhất, nhưng căn cứ Cà Đú lại bất khả xâm phạm. Mặc dù quân địch tìm mọi cách tiêu diệt nhưng các trận càn quét, bao vây, phản kích của địch đều bị quân kháng chiến bám trụ ở núi Cà Đú đánh lui. Bao năm bám trụ chịu đựng mọi gian khổ, lực lượng kháng chiến ở núi Cà Đú đã giữ vững niềm tin cách mạng. Núi Cà Đú là một nơi không thể sản xuất ra lương thực, ngay cả nguồn nước uống cũng cần phải tiếp tế, nắm được điều này địch đã dùng mọi thủ đoạn quyết triệt tiêu mọi nguồn tiếp tế của dân cho lực lượng cách mạng. Nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, niềm tin sắc son vào Cách Mạng, nhân dân ở khu vực xóm Dừa, Dư Khánh… đã không ngại gian khó, hy sinh tìm đủ mọi cách để tiếp tế lương thực cho du kích. Địch chặn đường bộ, nhân dân lại vận chuyển bằng đường thuỷ qua Đầm Nại. Chính sự đùm bọc của nhân dân quanh vùng đã tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ cách mạng và tạo nên các huyền thoại về các trận đánh “xuất quỷ nhập thần” của lực lượng kháng chiến. Chứng tích ấy ngày nay vẫn còn lưu lại trong kí ức của nhân dân tỉnh Ninh Thuận. Chính ý nghĩa lịch sử cách mạng trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đúng vào ngày 16/4/1999 – ngày kỷ niệm giải phóng Ninh Thuận, Uỷ ban nhân dân tỉnh có quyết định công nhận núi Cà Đú là một di tích lịch sử của tỉnh. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Ninh Thuận 1485 lượt xem
Miếu Xóm Bánh nằm trên khu phố 1, phường Đài Sơn, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, từ trung tâm thành phố Phan Rang - Tháp Chàm dọc theo đường Nguyễn Văn Cừ khoảng 400m, rẽ theo một con hẻm về phía tay trái hơn 100m là tới di tích. Thời Minh Mạng, Ấp Thanh Sơn (hiện nay là phường Đài Sơn) là vùng đất thuộc thôn Văn Sơn, huyện An Phước, tỉnh Bình Thuận, cư dân nơi đây đã xây dựng một ngôi Miếu nhỏ để thờ phụng nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Miếu có tên chữ là Thanh Sơn Miếu, nhưng tên thường gọi là Miếu Xóm Bánh. Nơi đây thờ nữ thần Thiên Y - A Na (bà Chúa Ngọc), một hiện tượng thờ phổ biến của cư dân người Việt trong quá trình di dân và sinh sống trên vùng đất mới. Ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ, đến năm Thành Thái thứ 14 được chuyển dời đến địa điểm hiện nay và xây dựng với quy mô lớn còn giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay. Miếu Xóm Bánh nằm trong khu vực đông dân cư nhưng lại được xây dựng trên một khu đất khá rộng đến 4629m2, toàn bộ kiến trúc được bao quanh bởi tường thành xây bằng đá, vữa vôi, chừa hai cổng đi vào khu vực Miếu. Cổng phía trước miếu gọi là Nghi môn nằm hướng Nam, cổng phía sau nằm hướng Bắc. Nghi môn có cấu trúc giống như một ngôi nhà nhỏ có 6 trụ bằng vữa vôi, phân đều hai bên theo chiều dọc, nâng đỡ phần mái ở trên, trụ ở giữa được gắn hai cánh cửa gỗ, mái lợp ngói âm dương, ở hai đầu đường bờ nóc đắp nổi vân mây xoắn tạo dáng hình thuyền. Hai bên sân xây am thờ sơn thần, ngũ hành. Bên trong xây dựng khá bề thế, thể hiện những mảng chạm khắc gỗ với nhiều đề tài phong phú như: tứ linh, bát hữu, hoa lá, chim thú; các dải hoa dây, hoa lá tập trung ở các khám thờ, hương án, các bức hoành phi, câu đối, đầu dư, đầu bẩy,…với đường nét tỉ mỉ, tinh xảo, đòi hỏi người nghệ nhân phải dày công mới hoàn thành. Hàng năm, vào rằm tháng giêng, tháng 7 và tháng 10 tiến hành lễ cúng Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Vào ngày 25 tháng chạp âm lịch cúng đưa Chư thần về trời. Ngày 30 tháng chạp âm lịch cúng rước Chư thần về Miếu đón năm mới. Ngoài ra Miếu Xóm Bánh còn tổ chức Lễ Kỳ Yên với đầy đủ nghi thức cổ truyền gần giống nghi thức tế Đình ở Ninh Thuận, được bắt đầu từ sáng hôm trước đến trưa ngày hôm sau, đây là lễ lớn nhất trong năm cầu thần phù hộ cho làng xã bình yên, cơm no áo ấm, lễ diễn ra vào Tiết Thanh Minh. Miếu Xóm Bánh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích quốc gia năm 2002. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Thành Phố Phan Rang - Tháp Chàm
Ninh Thuận 1218 lượt xem
Đình Văn Sơn thuộc khu phố 4, phường Văn Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Đình được xây dựng trên một khu đất rộng, cửa hướng về phía Nam, phía trước có hồ sen hình bán nguyệt, xa dần ở phía sau là ngọn núi Cà Đú. Vào năm 1829, sau khi việc trùng tu Đình hoàn thành các Hương chức bây giờ dựng bia kỷ niệm, tấm bia được đặt trước sân nhà Tiền hiền, ở giữa là chữ “ Văn Sơn Thôn Đình” , bên trái là “ Minh mạng thập niên tuế thứ Ất Hợi cốt ngoạt kiết đán” (ngày 1 tháng tốt năm Ất hợi đời vua Minh Mạng thứ mười 1892). Đây là niên đại duy nhất đề cập tới quá trình hình thành của Đình được khắc trên văn bia và lưu giữ đến ngày nay, vì vậy đời sau đã lấy đó làm mốc cho việc thành lập Đình nhưng thật chất ngôi Đình đã có trước đó. Đình Văn Sơn gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của thôn Văn Sơn, nó chính là kết quả của một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Từ cổng Tam quan vào, qua một sân gạch đất tòa Chánh điện, nhà Tiền hiền nằm ở phía Tây tòa Chánh điện, nhà Nhóm nằm ở phía Đông tòa Chánh điện, liên kết giữa Tiền hiền- Chánh điện- Nhà nhóm bằng hai cửa phụ ở hai đầu hồi tòa Chánh điện, toàn bộ kiến trúc liên hoàn với nhau tạo thành một công trình khép kín. Chính điều này, khi bước chân vào Đình, du khách cảm nhận được không khí trang nghiêm đầm ấm, gần gũi. Đình Văn Sơn là một ngôi đình có nhiều nhà vuông ghép lại, toàn bộ kiến trúc được đặt trên nền móng cao gia cố kỹ, tránh được mưa gió, xây dựng tuân thủ theo nguyên tắc đối xứng, với kỷ thuật xây dựng này tạo cho ngôi Đình nét khỏe khoắn và vững chãi. Đình có nhiều mảng chạm khắc đẹp, đề tài trang trí phong phú gồm: “Tứ linh” (Lân - Ly - Quy - Phụng), Rồng, Bát Tiên, Bát Bửu, từ một dải hoa dây, từ cây trúc, cây mai, từ một dải vân mây qua sự khéo léo của các nghệ nhân cũng được cách điệu thành Rồng. Các tác phẩm chạm khắc của các nghệ nhân không bị gò bó theo một khuôn khổ mà thường có sự ngẫu hứng và luôn dẫn dắt người xem đến những điều mới lạ. Ngày 24 tháng chạp âm lịch hàng năm, Đình tổ chức Lễ đầu năm và cuối năm, đưa chư Thần Thành Hoàng về báo công và tội của làng, ngày 26 tháng giêng âm lịch có lễ tạ Thần để tạ ơn thần phù hộ cho dân làng và cầu mong những điều lành cho năm tới. Lễ Tam Nguyên diễn ra trong 3 ngày rằm lớn trong năm, rằm tháng giêng, tháng 7, tháng 10, lễ này để tạ ơn thần Thiên Quan Đại Đế đã làm cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Lễ Kỳ Yên đây là lễ chính ở Đình, hằng năm tổ chức 2 lần vào mùa Xuân (tháng 2 hoặc tháng 3 Âm lịch) và mùa Thu (tháng 7 hoặc tháng 8 Âm lịch), với mục đích cầu thần cho mùa màng sắp tới và báo đáp thần sau mùa thu hoạch. Ngày hội đình được tổ chức hằng năm vào tiết Thanh minh, đặc biệt là tại đây đã tổ chức Lễ giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 (âm lịch), từ năm 2004 đến nay. Đình Văn Sơn được Bộ Văn hóa- Thông tin công nhận là di tích quốc gia năm 1999. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Thành Phố Phan Rang - Tháp Chàm
Ninh Thuận 1205 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 5050 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4056 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3430 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2960 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2906 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2872 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2714 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2570 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2542 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2501 lượt xem