Di tích lịch sử

Bạc Liêu

Khu tưởng niệm Nhạc sĩ Cao Văn Lầu

Tọa lạc tại Phường 2, Tp Bạc Liêu, Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã được UBND tỉnh Bạc Liêu công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1997. Đến năm 2014, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Diện tích gần 12.500m2 với tổng mức đầu tư trên 70 tỷ đồng, đây là nơi yên nghỉ của gia đình cố nhạc sĩ lừng danh Cao Văn Lầu. Ngoài ra, khu di tích còn có các hạng mục công trình như , Nhà trưng bày nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và cải lương, nhà trưng bày nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bản Dạ cổ Hoài Lang, Nhà biểu diễn Đờn ca tài tử Nam bộ, Vườn nhạc cụ, Hồ Sen bán nguyệt… Đi qua cổng chính, du khách sẽ bắt gặp “Đài Nguyệt Cầm” sừng sững ngay giữa khuôn viên. Cầu thang đi lên Đài với 32 bậc thang tượng trưng cho sự phát triển của bản Dạ Cổ Hoài Lang từ nhịp 2 lên bản Vọng cổ nhịp 4, 8, 16, 32, 64. Phía trên Đài cao nhất là biểu tượng chiếc Đàn kìm cách điệu – biểu tượng của đờn ca tài tử Nam bộ gắn liền với hình ảnh nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Đàn kìm được cách điệu từ đốt tre, phần đàn kìm được đục lõm tạo sự huyền bí, thiêng liêng, gợi lên sự hoài niệm và tưởng nhớ về những người đã khuất. Trên Đài Nguyệt Cầm có 21 chậu kiểng đại diện cho 21 tỉnh, thành phố, nơi phát triển mạnh về đờn ca tài tử. Ngay sau Đài Nguyệt Cầm là tượng nhạc sĩ Cao Văn Lầu đang ngồi ôm cây đàn Kìm, sau lưng là bản Dạ Cổ Hoài Lang – đây là tác phẩm bất hủ của ông, được mệnh danh là “bài ca Vua” của sân khấu cải lương Nam bộ cho đến nay. Cạnh đó Vườn nhạc cụ với 12 loại nhạc cụ dân tộc được khắc bằng đá xanh. Qua Vườn nhạc cụ đi thẳng vào là Nhà trưng bày nghệ thuật “Đờn ca tài tử và sân khấu cải lương Nam Bộ”. Du khách sẽ được xem và tìm hiểu nhiều tư liệu quý, hình ảnh và hiện vật liên quan đến sự hình thành và phát triển nghệ thuật Đờn ca tài tử và sân khấu cải lương Nam bộ. Nơi lưu chân du khách nhất chính là Nhà trưng bày về nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Nơi đây lưu trữ rất nhiều hiện vật như sách, báo, tài liệu, hình ảnh về cuộc đời và sự nghiệp nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Đặc biệt, tại đây du khách sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng sáp cố nhạc sĩ được làm bằng silicon rất giống với người thật. Ngoài những hạng mục công trình kể trên, tại khu lưu niệm cố nhạc sĩ không thể không nhắc tới, đó chính là khu mộ của gia đình cố nhạc sĩ, ngoài ra còn có Nhà sân khấu biểu diễn loại hình đờn ca tài tử, Nhà bán hàng lưu niệm...đã thực sự thu hút du khách khi đặt chân đến mảnh đất này. Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu thật sự là điểm tham quan hấp dẫn nhất Bạc Liêu. Nếu có dịp ghé thăm tỉnh Bạc Liêu, bạn đừng quên tham quan khu lưu niệm nhé. Nguồn: cổng thông tin điện tử liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh bạc liêu

Bạc Liêu 660 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Quốc gia Đặc biệt Căn cứ Cái Chanh

Căn cứ Cái Chanh (tên gọi khác là Khu Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu), nằm trên địa bàn xóm Cái Chanh nhỏ, ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, giai đoạn từ năm 1949 - 1954, Căn cứ Cái Chanh là nơi trú đóng và hoạt động cách mạng của lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Căn cứ là nơi hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ nói chung đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cái Chanh là nơi đặt Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn từ 1973 - 1975: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địa bàn Cái Chanh, xã Ninh Thạnh một lần nữa trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc. Đây là căn cứ hoạt động cách mạng của Tỉnh ủy Bạc Liêu giai đoạn 1973 - 1975. Cũng tại khu căn cứ này, ngày 13 tháng 1 năm 1975, Tỉnh ủy đã họp và thông qua quyết tâm giải phóng tỉnh Bạc Liêu; đồng thời quyết định dời Căn cứ Tỉnh ủy từ Cái Chanh (xã Ninh Thạnh Lợi) về Lái Viết (xã Ninh Quới), huyện Hồng Dân để thuận lợi trong chỉ đạo điểm tấn công giải phóng thị xã Bạc Liêu. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Bạc Liêu được giải phóng. Căn cứ Cái Chanh từ khi được Tỉnh ủy đặt Căn cứ (tháng 11 năm 1973) cho đến khi Tỉnh ủy chuyển về Lái Viết (tháng 1 năm 1975) đã làm tốt sứ mệnh lịch sử của mình, nơi nuôi giấu, chở che an toàn cho Tỉnh ủy lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi. Căn cứ Cái Chanh là nơi tái hiện hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan và nhân dân ở cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng chiến chống Pháp, Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, giai đoạn 1949 - 1952. Tại đây, nhân dân đã chở che, đùm bọc, nuôi dưỡng nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Căn cứ Cái Chanh gồm các hạng mục kiến trúc chủ yếu: Cổng, nhà trưng bày, nhà bia, nhà ở và làm việc của đồng chí Lê Duẩn, nhà hội trường, nhà đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, nhà bếp của cơ quan Tỉnh ủy, nhà văn thư - y tế, nhà cơ yếu, nhà điện đài, nhà Trung đội phòng thủ, nhà Chánh văn phòng Tỉnh ủy, nhà Ban xây dựng căn cứ, nhà chờ, các hầm hố… Với những giá trị tiêu biểu trên, Căn cứ Cái Chanh đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Bạc Liêu 991 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Phước Đức Cổ Miếu

Phước Đức Cổ Miếu hay còn gọi là chùa Bang tọa lạc tại số 74 đường Điện Biên Phủ, phường 3, TP Bạc Liêu. Đây là ngôi miếu lâu đời nhất của người Hoa sống ở Bạc Liêu. Phước Đức cổ miếu được một nhóm người Hoa xây dựng vào khoảng năm 1810. Ban đầu, ngôi miếu được dựng bằng cây lá đơn sơ để thờ các vị thần theo tín ngưỡng dân gian người Hoa như: Bổn Đầu Công (Ông Bổn), Quan Đế, Thần Nông, Thổ công, Ông bà Công Mẫu. Cũng vì Ông Bổn được thờ chính, nên gọi là “miếu Ông Bổn”; về sau đổi là “Phước Đức cổ miếu”, vì người Hoa tin rằng Bổn Đầu Công cũng chính là Phước Đức chánh thần – một vị thần được coi là có công khai hoang đất đai và phù trợ cho mọi người sinh cơ lập nghiệp có cuộc sống an lành. Năm 1903, bang Triều Châu được thành lập, đặt trụ sở tại Phước Đức cổ miếu, trong căn phòng rộng cạnh Tây lang, nên còn gọi là chùa Bang. Từ một ngôi miếu nhỏ có diện tích khiêm tốn, sau nhiều lần trùng tu, ngôi miếu ngày nay đã có diện tích 580 m2, theo kiến trúc hình chữ Quốc, một lối kiến trúc cung đình triều Minh, Trung Quốc. Toàn bộ ngôi miếu là một công trình kiến trúc nghệ thuật quy mô và hoàn mỹ toát lên vẻ đẹp uy nghi, cổ kính. Cột, đầu kèo, đầu xiên, con đội, án thờ bằng đá và gỗ quý đều được chạm khắc tỉ mỉ, công phu, tinh xảo bằng chữ Hán được mạ vàng, theo lối Hành thư và Khải thư. Tất cả thể hiện các chủ đề: Tứ linh (long, lân, quy, phụng), cỏ cây, hoa lá, hình nhân và linh thú. Ngoài ra còn trang trí các hoành phi, câu đối được sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Trên nóc miếu gắn cặp rồng chầu mặt trời (lưỡng long triều dương), hình ảnh phổ biến nhất được trang trí trên các đình miếu người Hoa, tượng trưng hạnh phúc vĩnh hằng. Mái lợp ngói ống, diềm mái bằng gốm tráng men xanh, cuối mái trang trí hoa văn hình long vĩ, hai bên là hai pho tượng gốm nhỏ biểu tượng của âm dương, nguồn gốc của mọi sự hòa hợp, kỷ cương của vạn vật. Mỗi bộ phận trong miếu đều được xem như một cổ vật có giá trị nghệ thuật cao. Với các chất liệu có tính bền vững nên Phước Đức cổ miếu tồn tại kiên cố đến ngày nay. Các tác phẩm nghệ thuật ấy đã được các nghệ nhân liên kết với nhau một cách hài hòa và chặt chẽ tạo thành một tổng thể kiến trúc độc đáo. Không chỉ là nơi thờ cúng các vị thần, Phước Đức cổ miếu còn là cơ sở hoạt động cách mạng của Chi bộ làng Long Thạnh quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu do đồng chí Nguyễn Văn Đàng làm bí thư từ 1930 đến 1954. Với những giá trị đó, chùa được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2000. Hàng năm tại Phước Đức cổ miếu đều có tổ chức các lễ hội lớn như: Vía Ông Bổn; Lễ Vu Lan; Lễ Kỳ Yên… Lớn nhất là lễ hội Vía Ông Bổn được tổ chức vào ngày 29 tháng 3 âm lịch; và lễ Vu Lan được tổ chức vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Phước Đức cổ miếu không chỉ là chốn tâm linh của người dân địa phương mà còn trở thành nét đẹp thuộc về bản sắc văn hóa của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Du Lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 897 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành Hoàng Cổ Miếu

Được Bộ Văn Hoá – Thể Thao và Du Lịch công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 2001, Thành hoàng cổ miếu (còn có tên gọi chùa Vĩnh Triều Minh) là một di tích thể hiện văn hóa tín ngưỡng Thành hoàng của người Việt ở Bạc Liêu, một nét văn hóa kế thừa tín ngưỡng Thành hoàng của người Hoa ở Bạc Liêu… Chùa Vĩnh Triều Minh nằm trên đường Điện Biên Phủ thuộc địa phận phường 3 (TP Bạc Liêu) được xây dựng năm Ất Sửu 1865. Đây là nơi thờ phụng các bậc tiền hiền đã có công khai phá và mở mang vùng đất này từ nhiều thế kỷ trước. Tuy không phải là nơi thờ Phật nhưng trước đây người dân quen gọi là chùa Vĩnh Hương, do người Minh Hương thành lập. Về sau, người địa phương gọi là chùa Minh, và hiện tên gọi chính thức là Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh. Nguồn gốc thờ Thành hoàng cũng là của người Minh Hương, thừa kế tín ngưỡng Thành hoàng ở Trung Quốc. Theo phong tục ở đây, thời gian tổ chức chánh lễ Thành hoàng đản hàng năm thường kéo dài suốt 3 ngày đêm (24, 25 và 26 tháng 7 âm lịch) với các nghi lễ như: chiêm bái, cúng cô hồn và phát gạo… Chùa xoay mặt về hướng sông Bạc Liêu, cửa chính vào chùa được lắp ghép từ những cột đá xanh được chạm khắc rất công phu và tinh xảo hình ảnh rồng, hạc, mây… Toàn bộ kiến trúc chùa xây dựng theo hình chữ “Quốc”, một mô hình kiến trúc cung đình thời Minh (Trung Quốc). Mái hiên được lợp bằng mái ngói âm dương ba lớp, các góc mái đều có trang trí hoa văn hình sóng uốn lượn. Ngoài ra, trong chùa còn chạm khắc các hoa văn như thú, cây cảnh, lá và các vị tiên… Phía trước khánh thờ Thành hoàng là một chiếc bàn dài bằng gỗ quý, chính giữa bàn để một chiếc lư đồng cao khoảng 70 cm, đây là loại lư mắt tre quý hiếm ở Việt Nam… Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh vốn là một di sản vô giá thể hiện một nét văn hóa tín ngưỡng độc đáo của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Báo Bạc Liêu online

Bạc Liêu 981 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình An Trạch

Đình An Trạch tọa lạc tại ấp An Trạch, xã Vĩnh Lợi, tổng Thanh Hòa (nay thuộc khóm 2, phường 5, thị xã Bạc Liêu - tỉnh Bạc Liêu). Đình được Tri huyện Phạm Thành Mậu khởi công xây dựng vào ngày 6.4.1877 (năm Đinh Sửu) trên phần đất rộng 4.000m2 và đích thân làm Chánh bái; Tri huyện Hồ Vạn Thành làm Bồi bái. Do điều kiện xây dựng thời bấy giờ còn nhiều hạn chế, nên đình An Trạch đơn giản trông giống như một mái nhà ba gian, vật liệu được dùng cũng rất thô sơ. Sau này, qua nhiều giai đoạn, đình được xây dựng rộng hơn, kiên cố và bề thế hơn với kiến trúc đa phương, nhiều hướng theo kiến trúc đình Huế. Các công trình kiến trúc của đình gồm: Ngôi đình chính, sân đình trước, sân đình sau, nhà hậu đình, bốn góc có miếu nhỏ, hai dãy nhà Đông Lang và Tây Lang. Ngôi đình chính có nền cao 0,75m, 4 hiên, 8 mái, đỉnh nóc có “Tứ long tranh châu”. Hiên đình có 4 mái: trước, sau, Đông Lang và Tây Lang đều lợp ngói hình ống. Đầu mái chảy gắn gạch men màu xanh có hoa văn và hình răng cưa. Mỗi mái hiên có 4 cột vuông chịu lực, được xây dựng bằng gạch thẻ và có đắp chỉ gờ theo hình bát đấu. Bốn cột hiên phía trước, đầu cột đắp hoa văn hình lá cúc sơn màu xanh nhạt, trên mỗi cột có ghi câu đối. Thời vua Khải Định (1916 - 1925) đình An Trạch được sắc phong “Bổn Cảnh Thành Hoàng”. Theo dân gian truyền tụng, khi xưa đình An Trạch thờ danh sĩ Nguyễn Công Trứ, một người làm quan thời vua Tự Đức, có tinh thần yêu nước, thương dân và có công khai hoang phục hóa, mở mang bờ cõi. Hằng năm, cứ vào ngày 14 tháng 11 âm lịch, đình đều tổ chức giỗ Ông. Trong các ngày lễ chính, như: Kỳ Yên, Vu Lan đều có văn tế Nguyễn Công Trứ, cầu nguyện Ông giúp dân, cầu cho mưa thuận gió hòa, an khang thịnh vượng... Sự tôn kính ấy đã đi vào cõi tâm linh của người dân địa phương như một dòng chảy tự nhiên. Đây còn là một biểu hiện đạo lý tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc ta. Trong những năm kháng Pháp, đuổi Mỹ, đình là nơi tổ chức các buổi hội, họp của cách mạng, nuôi chứa những người cộng sản... Ghi nhận giá trị văn hóa, lịch sử, năm 2000, đình An Trạch được công nhận là Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hiện nay, UBND tỉnh Bạc Liêu đang có dự án kiến trúc, trùng tu lại đình khang trang hơn, vững chắc hơn, nhằm nâng cao vai trò và ý nghĩa của đình trong đời sống tinh thần nhân dân không chỉ trong tỉnh. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 888 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp cổ Vĩnh Hưng

Tháp cổ Vĩnh Hưng tọa lạc tại ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Đây không chỉ là một kiến trúc tháp thuộc nền văn hóa Óc – Eo còn sót lại duy nhất ở Tây Nam bộ, mà trong cuộc khai quật tại tháp Vĩnh Hưng, các nhà khảo cổ học còn thu được nhiều hiện vật hết sức quý giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá quý … đánh dấu một giai đoạn tồn tại và phát triển khá dài (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 13 sau công nguyên) của tháp cổ Vĩnh Hưng. Tháp Vĩnh Hưng đã trải qua nhiều lần khảo sát, năm 1911 học giả người Pháp Lunet de Lajonquiere đã phát hiện ra dưới tên gọi là tháp Trà Long. Năm 1917 Henri Parmentier đã đến khảo sát khu vực này. Trong báo cáo này (dưới tên gọi là tháp Lục Hiền) ông thống kê một số hiện vật được phát hiện trong và ngoài tháp. Đặc biệt, trong số ấy có tấm bia tìm thấy trong ngôi chùa Phước Bửu Tự ở cạnh tháp khắc chữ Phạn, ghi rõ tháng Karhila, năm 814, tương ứng với năm 892 sau công nguyên, và tên của vua Yacovan-Man (thế kỷ thứ 9). Các nhà khảo cổ đã xác định tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên để thờ vị vua tên là Khmer Yacovar – Man. Vào tháng 5/1990, các nhà khảo cổ thuộc Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Minh Hải đã đến khảo sát và đào một hố thám sát, phát hiện một số hiện vật như đầu tượng thần, minh văn, bàn nghiền, Linga – Yoni… Tiếp tục hành trình làm sáng rõ giá trị của một di tích cấp quốc gia, cũng như nhằm phục vụ công tác trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp di tích tháp Vĩnh Hưng, trong năm 2002 và tiếp sau đó là năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu khai quật xung quanh tháp. Những đợt khai quật này tiếp tục những việc như làm lộ diện chân móng tháp, giải quyết những vết tích chìm trong lòng đất để có những giải pháp trùng tu, tôn tạo ngôi tháp nhằm phát huy giá trị của di tích. Nhiều hiện vật có giá trị đã được phát hiện trong những đợt khảo sát như: tượng Nữ thần được tạc theo phong cách truyền thống tượng tròn Óc Eo Phù Nam, bàn tay phải của “Tượng thần”, một số Linga – Yoni, đồ gốm dùng trong sinh hoạt và đặc biệt là bộ tượng đồng được các nhà khảo cổ học đánh giá là bộ sưu tập tượng độc đáo, là “bảo vật quốc gia”, trong đó có một số tượng độc bản có giá trị rất cao. Năm 2011, di tích tháp Vĩnh Hưng được trùng tu tôn tạo gồm các hạng mục: nhà trưng bày, nhà bia, nhà bảo vệ, hàng rào và một số hạng mục khác nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Tháp cổ có kiến trúc khá đơn giản và mộc mạc trên một doi đất có diện tích khoảng 100m, cửa Tháp quay về hướng Tây, bình diện chân Tháp hình chữ nhật với hai cạnh là 5,6m và 6,9m. Chiều cao của Tháp là 8,2m (tính từ nền Tháp). Toàn bộ 3 mặt Đông – Nam – Bắc được xây bằng gạch. Tường của chân Tháp dày 1,8m, càng lên cao độ dày của tường càng mỏng, vách tường được dựng nghiêng dần lên phía đỉnh tạo thành vòm cuốn. Theo nhiều nhà khoa học, người Khơme cổ đã dùng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt, họ đã dùng một loại keo thực vật để kết dính các viên gạch với nhau, mà không cần dùng đến các chất liệu xây dựng như xi măng, hay vôi vữa như bây giờ. Tháp được xây bằng hai loại gạch có màu sắc khác nhau. Từ chân tháp đến độ cao 4m là gạch đỏ và từ 4m trở lên trên được dùng gạch trắng. Nhìn vào từ cửa chính là bộ Linga – Yoni tượng trưng cho âm dương hòa hợp được phục chế lại. Bộ Linga – Yoni nguyên gốc đang được gìn giữ tại bảo tàng. Từ những giá trị độc đáo được ghi nhận, Tháp cổ Vĩnh Hưng đã được công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1992. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 922 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Giác Hoa

Chùa Giác Hoa hay còn gọi là chùa cô Hai Ngó tọa lạc tại ấp Xóm Lớn, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. Chùa được xây dựng từ năm 1919 do bà Huỳnh Thị Ngó, sinh ra trong một gia đình điền chủ giàu có tiếng ở Bạc Liêu vào cuối thế kỷ 19 hiến tiền, đất để dựng nên dân gian thường gọi là Chùa Cô Hai Ngó. Tháng 10/1920 chùa hoàn thành sau 18 tháng thi công. Chùa Giác Hoa là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhất ở Bạc Liêu lúc bấy giờ. Sau khi xây dựng chùa xong, cô Hai Ngó luôn tham gia và thực hiện các công việc lợi ích xã hội như dạy học, giúp đỡ người nghèo… Chùa là tổng thể các công trình kiến trúc lớn nhỏ, được bố trí chặt chẽ, cân đối theo lối “nội công, ngoại quốc”, kết hợp hài hoà kiến trúc Đông – Tây. Phía trước là Chánh điện, phía sau là sân Thiên tịnh và ngôi nhà Hậu tổ (thờ gia tiên và cô Hai Ngó, người sáng lập ra ngôi chùa). Chính điện cơ bản giống một công thự thời thuộc địa, ngự trên nền rất cao, kiên cố, màu vàng trầm mặc, mái ngói, nền gạch thẫm màu.. như một kiệt tác nghệ thuật. Các khối công trình còn lại trung thành với mảng kiến trúc chung chủ đạo Đông – Tây, đậm dấu ấn Pháp, điểm xuyến bởi chút mái cong và những dòng ký tự Đông Phương ở phía trước, nối kết các công trình và trong không gian nội bộ từng công trình là các hành lang mát mẻ, bố trí khoa học, toàn bộ không gian Giác Hoa tự nhịp nhàng cứ như một bản nhạc hài hòa. Có thể nói, riêng về không gian sinh thái, thẩm mỹ, kiến trúc và sự cổ kính, Giác Hoa tự đạt mức độ khá cao. Vào bên trong chánh điện là một không gian trang nhã, thanh tịnh, thoáng mát, được thiết kế và xây dựng hoàn toàn bằng gỗ quý. Với kết cấu 20 cột gỗ tròn có đường kính 45 cm được chạm khắc rồng, phượng và nhiều họa tiết rất tinh xảo chia làm 5 hàng ngang, chống đỡ mái ngói. Những bức tượng Phật, các vật trang trí phía trong cũng được làm bằng gỗ tốt. Trong khuôn viên ngôi chùa còn có những công trình kiến trúc độc đáo như tượng bán thân Phật Quan Âm trên núi, thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, thác nước, tượng 12 con giáp, … tạo thêm nét đặc sắc cho ngôi chùa. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến Chùa Giác Hoa là cơ sở cách mạng, nuôi chứa nhiều chiến sĩ, cán bộ. Năm 1945 hưởng ứng lời kêu gọi “Hũ gạo nuôi quân” của Hồ Chủ Tịch, cô Hai Ngó đã ủng hộ cho cách mạng 2.000 giạ lúa. Với những giá trị đó, chùa đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2001. Ngôi chùa còn là nơi truyền dạy Phật học, mở lớp “an cư kiết hạ” đầu tiên cho hàng trăm tăng ni đến học miễn phí. Hiện nay, ngôi chùa còn có Trường trung cấp Phật học của Giáo hội Phật giáo tỉnh Bạc Liêu quản lý, cái nôi của giáo dục ni giới Nam Bộ. Chùa Giác Hoa ngày nay đẹp uy nghi, lộng lẫy, trở thành điểm du lịch tâm linh Bạc Liêu nổi tiếng đón tiếp hàng trăm ngàn khách thập phương mỗi năm. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 891 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Xiêm Cán

Ngày 29/6/2022, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Bạc Liêu đã ký Quyết định công nhận di tích lịch sử văn hóa Chùa Xiêm Cán. Di tích lịch sử văn hóa Wotkomphisakoprekchru (chùa Xiêm Cán) toạ lạc tại ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Chùa Xiêm Cán được khởi công xây dựng tháng 3 năm 1887, do Hòa thượng Lâm Mau trụ trì xây dựng. Thượng tọa Dương Quân là vị trụ trì đời thứ tám. Chùa được xây dựng trên diện tích rộng gần 50.000m2, mang kiến trúc Angkor Khmer truyền thống, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, các mảng phù điêu, màu sắc hoa văn, đường nét chạm trổ cong lượn thể hiện đầy đủ, đậm nét đặc trưng cho một di tích văn hóa của dân tộc khmer. Bao quanh chùa là 1 hàng rào xây kiên cố, với nhiều hoa văn, phù điêu đắp nổi bánh xe luân hồi. Hai bên tường rào trước cổng tam quan được điêu khắc hình ảnh Thái tử Tất Đạt Đa và thiếu nữ múa rất ấn tượng. Cổng tam quan là một công trình kiến trúc đa dạng gồm nhiều phù điêu đắp nổi hoa văn tỉ mỉ hình khối mang ý nghĩa biểu trưng của con số 3 như: Phật – Pháp – Tăng; quá khứ - hiện tại - tương lai...) các mảng phù điêu trang trí được thể hiện theo dạng dưới là 01 hoa sen, trên là 2 cánh lớn, giữa 2 cành lá thêm 3 bộ kinh Tam Tạng, phía trên có thêm bánh xe luân hồi. Hai bên khoảng đất trống của lối đi vào có khoảng vài chục cột trụ tròn, trên cột ghi tên những phật tử có đóng góp xây dựng chùa. Vào bên trong sân chùa là bức tượng Phật trong tư thế nằm (nhập niết bàn) có phần mái che để khách thập phương dâng hương, cầu nguyện trước khi vào chánh điện. Chùa Xiêm Cán là nơi đồng bào Khmer thường tập trung để học chữ, học múa hát, học nghề. Nơi đây, hàng năm diễn ra nhiều lễ hội của người Khmer, thu hút rất đông đồng bào dân tộc Khmer về dự. Các ngày lễ hội lớn trong năm được diễn ra tại chùa như: - Chôl chnăm thmây (lễ vào năm mới) diễn ra 3 ngày (khoảng ngày 14, 15, 16 tháng 4 dương lịch). - Lễ Sen (lễ cúng ông bà) diễn ra một trong 3 ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch. - lễ dâng y cà sa diễn ra một trong những ngày từ 16/9 - 15/10 âm lịch. Ngoài ra, tại chùa còn diễn ra các lễ hội tôn giáo mang nét đặc trưng của phật giáo Nam tông. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, chùa Xiêm Cán còn là nơi phát động bổn đạo phật tử cùng sát cánh với nhân dân trong tỉnh tham gia hoạt động cách mạng. Điển hình cho phong trào đó là đại đức Trần Kin, đại đức Thạch Thươl, phó đại đức Dương Tha và nhiều vị sư khác. Đặc biệt vào năm 1966, thực hiện chủ trương của Đảng về việc biểu tình chống bầu cử . Các nhà sư và bà con phật tử của chùa đã đồng loạt đi biểu tình chống bầu cử như: đập phá thùng phiếu, chống bắt lính,… ngoài ra Chùa Xiêm Cán còn là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Ban Quản trị chùa Xiêm Cán cũng đã hình thành Câu lạc bộ biểu diễn nghệ thuật để phục vụ nhu cầu thưởng thức các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer thông qua các hoạt động biểu diễn nhạc cụ dân tộc, múa Áp sa ra…đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho du khách và được các doanh nghiệp lữ hành, nhiều đoàn khảo sát, các đoàn công tác tỉnh bạn đến tham quan. Hàng năm thu hút hàng trăm ngàn lượt người khách tham quan, nhất là dịp nghỉ hè và các ngày lễ, tết. Chùa Xiêm Cán là công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của dân tộc Khmer Bạc Liêu, đồng thời cũng là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử cách mạng của tỉnh. Đây là một địa chỉ tham quan du lịch đặc sắc của du khách khi đặt chân đến vùng đất Bạc Liêu. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bạc Liêu

Bạc Liêu 925 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Cỏ Thum (Kusthum)

Chùa Cỏ Thum (KosThum) là chùa Khmer Nam tông có truyền thống đấu tranh cách mạng qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Tên đầy đủ của chùa là Cơro-pum-meanchey KosThum, được xây dựng vào năm 1832, nhằm năm Phật lịch 2376, tại xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và tay sai giai đoạn (1945-1975),Chùa Cỏ Thum là cơ sở hoạt động của các đồng chí cán bộ cách mạng, các sư sãi cùng với nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị chống bắt người, di dời Chùa…Đặc biệt năm 1949, được sự chấp thuận của Trung ương và địa phương, chính phủ lâm thời Campuchia được thành lập tại Chùa. Để đảm bảo an toàn cho cán bộ cách mạng, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, nhà chùa tổ chức đào 2 hầm bí mật để cho cán bộ cách mạng trú ẩn. Hầm thứ nhất được làm dưới nền nhà tăng xá, hầm được thiết kế theo chữ “L” có một cửa lên xuống được làm ở nơi kính đáo, có lỗ thông hơi. Nóc hầm làm bằng cây, ở trên có ngụy trang đắp đất khít với đất làm nền nhà. Hầm thứ hai được làm cách hầm thứ nhất 30m về phía sau nhà ở của đại đức Trần Duyên, hầm cũng được làm theo hình chữ “L” chìm dưới đất, có một cửa lên xuống, có lỗ hơi, nóc hầm thả đà ngang bằng cây, trên phủ đất và được ngụy trang rất kỹ để tránh địch phát hiện. Chùa Cỏ Thum có một “hạng mục”: nhà bia ghi tên tuổi các liệt sỹ đã hy sinh ở đây, trong đó có các nhà sư Khmer. Di tích lịch sử Chùa Cỏ Thum không chỉ có ý nghĩa lịch sử cách mạng mà nó còn gắn với địa điểm, quần thể kiến trúc chùa Cỏ Thum. Ngôi chính diện có nền cao hơn mặt đất gần 1m. Chùa có hành lang bao quanh, cửa chính quay về hướng Đông, do quan niệm Phật ở phương Tây, nên quay sang hướng Đông để ban phước, phù hợp với hướng tượng Phật. Chùa có 3 cấp mái, mỗi cấp chia thành 3 nếp, nếp giữa được nâng cao hơn hai nếp bên. Đầu và các gấp mái đều có đắp một khúc đuôi rồng dài, cong vút. Trang trí bên ngoài có nhiều hình chạm, đắp như: Tượng Reahu, tiên, chằn, Garuda, keyno,…Ngoài ra, bên trong chùa các bức tường vẽ hình ảnh về cuộc đời Đức Phật (Jataka) bằng những nét vẽ vô cùng sinh động. Không gian rộng lớn cạnh dòng kênh, bao chắn kín đáo sau các bức tường, lấp lánh các khối công trình phủ màu sơn vàng và đỏ đặc trưng của hệ phái, cũng khó hình dung về hai cuộc chiến tranh khốc liệt đã trải qua, chùa đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Chính vị thế hẻo lánh, bao bọc bởi địa hình thuận lợi hình thành căn cứ bí mật đã duy trì ở đây một cơ sở nuôi chứa, đào tạo cán bộ cách mạng, của khu Tây Nam Bộ và cả cách mạng Campuchia. Với những giá trị về văn hóa cũng như về lịch sử cách mạng quan trọng đó, Bộ Văn hóa, Thể thao đã xếp hạng Chùa Cỏ Thum là di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2006. Hàng năm tại chùa tổ chức rất nhiều lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer như: Lễ hội năm mới(Chool chnăm thmây) vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch; lễ cúng ông bà vào các ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch; lễ cúng trăng; lễ cầu an; lễ Phật đản…thu hút rất nhiều khách thập phương đến tham quan, chiêm bái. Nguồn: Ban quản lý Di tích Bạc Liêu

Bạc Liêu 874 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

ĐỀN THỜ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Đền Thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Bà Chăng A, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm 1969, nghe tin Bác Hồ kính yêu mãi mãi đi xa, quân dân xã Châu Thới vô cùng bàng hoàng, đau đớn. Với tình yêu thương của Bác đối với nhân dân miền Nam ruột thịt nên nhân dân nơi đây có tâm nguyện chung là xây dựng Đền thờ Bác ngay tại quê hương để ngày đêm hương khói cho Người. Hàng ngàn cán bộ, nhân dân trong xã và huyện đã không sợ hy sinh, gian khổ, ngày đêm góp sức, góp công xây dựng Đền thờ Bác ngay chính mảnh đất đầy khói lửa, đạn bom Châu Thới anh hùng… Tháng 3/1970, Xã ủy Châu Thới thực hiện chủ trương của Huyện ủy Vĩnh Lợi tiến hành xây dựng Đền thờ Bác. Sau 2 lần Đền thờ bị địch đốt phá, nhân dân cũng như Xã ủy Châu Thới và Huyện ủy Vĩnh Lợi quyết tâm xây dựng đền kiên cố bằng xi măng, cốt sắt… Công việc mua vật liệu để xây dựng gặp nhiều khó khăn do phải đi qua nhiều đồn bốt của địch, nhưng với động lực là lòng kính yêu Bác, nhân dân xã Châu Thới xung phong đi mua vật liệu, mỗi người mua một ít, mua làm nhiều lần. Khi đã chuẩn bị xong, lúc 10h ngày 25/4/1972 Xã ủy Châu Thới đã làm Lễ khởi công xây dựng Đền thờ Bác. Sau 24 ngày đêm không ngại đạn pháo của địch, nhân dân và Xã ủy Châu Thới đã hoàn thành việc xây dựng Đền thờ. Sáng 19/5/1972 (ngày sinh nhật Bác), Lễ khánh thành Đền thờ Bác được tiến hành trong niềm hân hoan và trang nghiêm của trên một ngàn người trong Xã Châu Thới và các chiến sĩ huyện Vĩnh Lợi. Việc xây dựng đền thờ ngay trong lòng địch đã khó khăn, việc bảo vệ đền thờ càng khó khăn gấp bội. Sau khi đền thờ hoàn thành, địch thường xuyên huy động các phương tiện đánh phá nhưng bằng tất cả tình cảm của người con miền Nam đối với vị cha già kính yêu của dân tộc, các lực lượng du kích, lực lượng địa phương quân Vĩnh Lợi và Đội bảo vệ đền thờ một lòng quyết tâm bảo vệ Đền thờ Bác. Ghi ơn công lao to lớn, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhiều năm qua, tỉnh Bạc Liêu đã luôn quan tâm đến việc trùng tu, nâng cấp. Đến nay Đền thờ Bác Hồ Bạc Liêu được xây dựng trên một khuôn viên đất rộng 11.000m2 với các kiến trúc chính như: Ngôi Đền thờ Bác Hồ, Nhà bao che đền, Nhà trưng bày, Hội trường và phòng làm việc, khu dịch vụ và khu vườn được trồng nhiều loại cây xanh. Đặc biệt, trong khuôn viên di tích nổi bật với hồ sen thơm ngát. Đền thờ Bác Hồ ở Châu Thới được đánh giá là một trong những Đền thờ Bác đẹp nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài khu vực chính của Đền thờ còn có hoa viên và hội trường để chiếu phim tài liệu giới thiệu với du khách khái quát về thân thế và sự nghiệp của Bác. Đền được xây dựng bằng gạch, đòn tay gỗ dầu, phía trước có mái hiên và ban công đổ mái bằng. Khoảng hơn 300 tài liệu và hiện vật phản ánh quá trình nhân dân xã Châu Thới chiến đấu bảo vệ đền thờ và các tư liêu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch được lưu giữ tại nhà trưng bày. Đền thờ Bác Hồ ở Bạc Liêu đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1998. Đây là niềm tự hào của quân và dân Bạc Liêu, hàng năm vào các ngày lễ lớn, ngày nghỉ đặc biệt vào ngày sinh nhật Bác có rất đông du khách và nhân dân thăm viếng. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 984 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Lịch sử Nọc Nạng

Địa danh đồng Nọc Nạng thuộc làng Phong Thạnh quận Giá Rai, ngày nay là ấp 4 xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Ngày xưa, nơi này là vùng sình lầy rộng lớn, nhiều rừng tràm, choại, lau sậy mọc chen chúc, quanh năm chỉ có chim muông và rắn độc trú ẩn. Người dân đi khai hoang đến sinh sống và khai phá vùng này, đã dựng lên những cái chòi lợp lá để có chỗ che mưa nắng và tránh rắn độc. Vì đất sình lầy không thể cất nhà như trên đất khô, người dân đã chặt cây làm nọc đóng xuống đất sình rồi gác nạng bên trên làm sàn để cất nhà. Địa danh đồng Nọc Nạng còn gắn liền với cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của người nông dân chống sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bọn địa chủ. Gia đình anh em ông Mười Chức đã đem bao mồ hôi công sức ra để biến đổi cánh đồng này thành ruộng lúa. Khi mọi người đang sống và lao động bình yên thì địa chủ đã cấu kết với bọn cường hào và thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt đến cướp lúa, cướp đất của gia đình ông Mười Chức. (trên thực tế, phần đất anh em ông Mười Chức làm là do ông cha khai phá để lại). Năm 1927, sau nhiều thủ đoạn xảo quyệt và thâm độc hòng chiếm đất của gia đình ông Nguyễn Văn Chức (Mười Chức) không xong, tên Mã Ngân, một địa chủ ở Cà Mau đã lừa bán đất cho vợ một quan huyện là Hồ Thị Trân. Sau khi mua đất mà không lấy được đất do gia đình ông Mười Chức phản đối kịch liệt, bọn chúng đã mượn thế lực của thực dân Pháp đến trấn áp nhằm lấy ruộng và lúa của gia đình ông Mười Chức. Thế là một cuộc đấu tranh của gia đình ông chống lại sự đàn áp của bọn thực dân Pháp đã xảy ra đẫm máu vào ngày 17/02/1928. Trong cuộc chống trả này, gia đình ông Mười Chức mất 4 người: ông Mười Chức , bà Mười Chức (cùng đứa con trong bụng), ông Năm Mẫn , ông Sáu Nhịn. Về phía bọn thực dân thì có 1 tên quan Pháp bị thương nặng qua ngày sau thì chết và vài tên khác bị thương. Mấy người còn lại trong gia đình ông Mười Chức đều bị bắt và kết tội là "dậy loạn, chống công quyền, giết người". Không vì thế mà chùn bước, gia đình ông lại tiếp tục gửi đơn khiếu nại… Báo chí cũng lên án mạnh mẽ. Trước dư luận của công chúng cuối cùng chính quyền Pháp phải trả đất lại cho gia đình ông Mười Chức. Sự kiện đồng Nọc Nạng là một bằng chứng tội ác của chế độ thực dân Pháp cướp nước và bè lũ quan lại tay sai, nói lên tinh thần chống áp bức của người nông dân thật thà chất phác. Tuy cuộc đấu tranh của nông dân vùng Nọc Nạng là một cuộc đấu tranh tự phát nhưng đã biểu hiện được sự đấu tranh của giai cấp nông dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long thời ấy, thể hiện tinh thần kiên cường và nghĩa khí của người nông dân Nam bộ, góp phần hun đúc cho truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ngày 30/8/1991, sự kiện lịch sử đồng Nọc Nạng được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa, di tích này nằm ở ấp 4, xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Đã trải qua hơn tám mươi năm, cánh đồng Nọc Nạng vẫn còn đọng lại khúc ca bi tráng ngày nào, sự kiện ấy đã đi vào lịch sử dân tộc với hình ảnh người nông dân Bạc Liêu chất phác thật thà mà đầy nghĩa khí. Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Giá Rai

Bạc Liêu 1041 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật