Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Tọa lạc tại Phường 2, Tp Bạc Liêu, Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã được UBND tỉnh Bạc Liêu công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1997. Đến năm 2014, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Diện tích gần 12.500m2 với tổng mức đầu tư trên 70 tỷ đồng, đây là nơi yên nghỉ của gia đình cố nhạc sĩ lừng danh Cao Văn Lầu. Ngoài ra, khu di tích còn có các hạng mục công trình như , Nhà trưng bày nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và cải lương, nhà trưng bày nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bản Dạ cổ Hoài Lang, Nhà biểu diễn Đờn ca tài tử Nam bộ, Vườn nhạc cụ, Hồ Sen bán nguyệt… Đi qua cổng chính, du khách sẽ bắt gặp “Đài Nguyệt Cầm” sừng sững ngay giữa khuôn viên. Cầu thang đi lên Đài với 32 bậc thang tượng trưng cho sự phát triển của bản Dạ Cổ Hoài Lang từ nhịp 2 lên bản Vọng cổ nhịp 4, 8, 16, 32, 64. Phía trên Đài cao nhất là biểu tượng chiếc Đàn kìm cách điệu – biểu tượng của đờn ca tài tử Nam bộ gắn liền với hình ảnh nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Đàn kìm được cách điệu từ đốt tre, phần đàn kìm được đục lõm tạo sự huyền bí, thiêng liêng, gợi lên sự hoài niệm và tưởng nhớ về những người đã khuất. Trên Đài Nguyệt Cầm có 21 chậu kiểng đại diện cho 21 tỉnh, thành phố, nơi phát triển mạnh về đờn ca tài tử. Ngay sau Đài Nguyệt Cầm là tượng nhạc sĩ Cao Văn Lầu đang ngồi ôm cây đàn Kìm, sau lưng là bản Dạ Cổ Hoài Lang – đây là tác phẩm bất hủ của ông, được mệnh danh là “bài ca Vua” của sân khấu cải lương Nam bộ cho đến nay. Cạnh đó Vườn nhạc cụ với 12 loại nhạc cụ dân tộc được khắc bằng đá xanh. Qua Vườn nhạc cụ đi thẳng vào là Nhà trưng bày nghệ thuật “Đờn ca tài tử và sân khấu cải lương Nam Bộ”. Du khách sẽ được xem và tìm hiểu nhiều tư liệu quý, hình ảnh và hiện vật liên quan đến sự hình thành và phát triển nghệ thuật Đờn ca tài tử và sân khấu cải lương Nam bộ. Nơi lưu chân du khách nhất chính là Nhà trưng bày về nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Nơi đây lưu trữ rất nhiều hiện vật như sách, báo, tài liệu, hình ảnh về cuộc đời và sự nghiệp nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Đặc biệt, tại đây du khách sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng sáp cố nhạc sĩ được làm bằng silicon rất giống với người thật. Ngoài những hạng mục công trình kể trên, tại khu lưu niệm cố nhạc sĩ không thể không nhắc tới, đó chính là khu mộ của gia đình cố nhạc sĩ, ngoài ra còn có Nhà sân khấu biểu diễn loại hình đờn ca tài tử, Nhà bán hàng lưu niệm...đã thực sự thu hút du khách khi đặt chân đến mảnh đất này. Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu thật sự là điểm tham quan hấp dẫn nhất Bạc Liêu. Nếu có dịp ghé thăm tỉnh Bạc Liêu, bạn đừng quên tham quan khu lưu niệm nhé. Nguồn: cổng thông tin điện tử liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh bạc liêu
Bạc Liêu 903 lượt xem
Căn cứ Cái Chanh (tên gọi khác là Khu Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu), nằm trên địa bàn xóm Cái Chanh nhỏ, ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, giai đoạn từ năm 1949 - 1954, Căn cứ Cái Chanh là nơi trú đóng và hoạt động cách mạng của lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Căn cứ là nơi hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ nói chung đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cái Chanh là nơi đặt Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn từ 1973 - 1975: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địa bàn Cái Chanh, xã Ninh Thạnh một lần nữa trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc. Đây là căn cứ hoạt động cách mạng của Tỉnh ủy Bạc Liêu giai đoạn 1973 - 1975. Cũng tại khu căn cứ này, ngày 13 tháng 1 năm 1975, Tỉnh ủy đã họp và thông qua quyết tâm giải phóng tỉnh Bạc Liêu; đồng thời quyết định dời Căn cứ Tỉnh ủy từ Cái Chanh (xã Ninh Thạnh Lợi) về Lái Viết (xã Ninh Quới), huyện Hồng Dân để thuận lợi trong chỉ đạo điểm tấn công giải phóng thị xã Bạc Liêu. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Bạc Liêu được giải phóng. Căn cứ Cái Chanh từ khi được Tỉnh ủy đặt Căn cứ (tháng 11 năm 1973) cho đến khi Tỉnh ủy chuyển về Lái Viết (tháng 1 năm 1975) đã làm tốt sứ mệnh lịch sử của mình, nơi nuôi giấu, chở che an toàn cho Tỉnh ủy lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi. Căn cứ Cái Chanh là nơi tái hiện hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan và nhân dân ở cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng chiến chống Pháp, Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, giai đoạn 1949 - 1952. Tại đây, nhân dân đã chở che, đùm bọc, nuôi dưỡng nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Căn cứ Cái Chanh gồm các hạng mục kiến trúc chủ yếu: Cổng, nhà trưng bày, nhà bia, nhà ở và làm việc của đồng chí Lê Duẩn, nhà hội trường, nhà đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, nhà bếp của cơ quan Tỉnh ủy, nhà văn thư - y tế, nhà cơ yếu, nhà điện đài, nhà Trung đội phòng thủ, nhà Chánh văn phòng Tỉnh ủy, nhà Ban xây dựng căn cứ, nhà chờ, các hầm hố… Với những giá trị tiêu biểu trên, Căn cứ Cái Chanh đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bạc Liêu 1239 lượt xem
Phước Đức Cổ Miếu hay còn gọi là chùa Bang tọa lạc tại số 74 đường Điện Biên Phủ, phường 3, TP Bạc Liêu. Đây là ngôi miếu lâu đời nhất của người Hoa sống ở Bạc Liêu. Phước Đức cổ miếu được một nhóm người Hoa xây dựng vào khoảng năm 1810. Ban đầu, ngôi miếu được dựng bằng cây lá đơn sơ để thờ các vị thần theo tín ngưỡng dân gian người Hoa như: Bổn Đầu Công (Ông Bổn), Quan Đế, Thần Nông, Thổ công, Ông bà Công Mẫu. Cũng vì Ông Bổn được thờ chính, nên gọi là “miếu Ông Bổn”; về sau đổi là “Phước Đức cổ miếu”, vì người Hoa tin rằng Bổn Đầu Công cũng chính là Phước Đức chánh thần – một vị thần được coi là có công khai hoang đất đai và phù trợ cho mọi người sinh cơ lập nghiệp có cuộc sống an lành. Năm 1903, bang Triều Châu được thành lập, đặt trụ sở tại Phước Đức cổ miếu, trong căn phòng rộng cạnh Tây lang, nên còn gọi là chùa Bang. Từ một ngôi miếu nhỏ có diện tích khiêm tốn, sau nhiều lần trùng tu, ngôi miếu ngày nay đã có diện tích 580 m2, theo kiến trúc hình chữ Quốc, một lối kiến trúc cung đình triều Minh, Trung Quốc. Toàn bộ ngôi miếu là một công trình kiến trúc nghệ thuật quy mô và hoàn mỹ toát lên vẻ đẹp uy nghi, cổ kính. Cột, đầu kèo, đầu xiên, con đội, án thờ bằng đá và gỗ quý đều được chạm khắc tỉ mỉ, công phu, tinh xảo bằng chữ Hán được mạ vàng, theo lối Hành thư và Khải thư. Tất cả thể hiện các chủ đề: Tứ linh (long, lân, quy, phụng), cỏ cây, hoa lá, hình nhân và linh thú. Ngoài ra còn trang trí các hoành phi, câu đối được sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Trên nóc miếu gắn cặp rồng chầu mặt trời (lưỡng long triều dương), hình ảnh phổ biến nhất được trang trí trên các đình miếu người Hoa, tượng trưng hạnh phúc vĩnh hằng. Mái lợp ngói ống, diềm mái bằng gốm tráng men xanh, cuối mái trang trí hoa văn hình long vĩ, hai bên là hai pho tượng gốm nhỏ biểu tượng của âm dương, nguồn gốc của mọi sự hòa hợp, kỷ cương của vạn vật. Mỗi bộ phận trong miếu đều được xem như một cổ vật có giá trị nghệ thuật cao. Với các chất liệu có tính bền vững nên Phước Đức cổ miếu tồn tại kiên cố đến ngày nay. Các tác phẩm nghệ thuật ấy đã được các nghệ nhân liên kết với nhau một cách hài hòa và chặt chẽ tạo thành một tổng thể kiến trúc độc đáo. Không chỉ là nơi thờ cúng các vị thần, Phước Đức cổ miếu còn là cơ sở hoạt động cách mạng của Chi bộ làng Long Thạnh quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu do đồng chí Nguyễn Văn Đàng làm bí thư từ 1930 đến 1954. Với những giá trị đó, chùa được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2000. Hàng năm tại Phước Đức cổ miếu đều có tổ chức các lễ hội lớn như: Vía Ông Bổn; Lễ Vu Lan; Lễ Kỳ Yên… Lớn nhất là lễ hội Vía Ông Bổn được tổ chức vào ngày 29 tháng 3 âm lịch; và lễ Vu Lan được tổ chức vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Phước Đức cổ miếu không chỉ là chốn tâm linh của người dân địa phương mà còn trở thành nét đẹp thuộc về bản sắc văn hóa của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Du Lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 1073 lượt xem
Được Bộ Văn Hoá – Thể Thao và Du Lịch công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 2001, Thành hoàng cổ miếu (còn có tên gọi chùa Vĩnh Triều Minh) là một di tích thể hiện văn hóa tín ngưỡng Thành hoàng của người Việt ở Bạc Liêu, một nét văn hóa kế thừa tín ngưỡng Thành hoàng của người Hoa ở Bạc Liêu… Chùa Vĩnh Triều Minh nằm trên đường Điện Biên Phủ thuộc địa phận phường 3 (TP Bạc Liêu) được xây dựng năm Ất Sửu 1865. Đây là nơi thờ phụng các bậc tiền hiền đã có công khai phá và mở mang vùng đất này từ nhiều thế kỷ trước. Tuy không phải là nơi thờ Phật nhưng trước đây người dân quen gọi là chùa Vĩnh Hương, do người Minh Hương thành lập. Về sau, người địa phương gọi là chùa Minh, và hiện tên gọi chính thức là Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh. Nguồn gốc thờ Thành hoàng cũng là của người Minh Hương, thừa kế tín ngưỡng Thành hoàng ở Trung Quốc. Theo phong tục ở đây, thời gian tổ chức chánh lễ Thành hoàng đản hàng năm thường kéo dài suốt 3 ngày đêm (24, 25 và 26 tháng 7 âm lịch) với các nghi lễ như: chiêm bái, cúng cô hồn và phát gạo… Chùa xoay mặt về hướng sông Bạc Liêu, cửa chính vào chùa được lắp ghép từ những cột đá xanh được chạm khắc rất công phu và tinh xảo hình ảnh rồng, hạc, mây… Toàn bộ kiến trúc chùa xây dựng theo hình chữ “Quốc”, một mô hình kiến trúc cung đình thời Minh (Trung Quốc). Mái hiên được lợp bằng mái ngói âm dương ba lớp, các góc mái đều có trang trí hoa văn hình sóng uốn lượn. Ngoài ra, trong chùa còn chạm khắc các hoa văn như thú, cây cảnh, lá và các vị tiên… Phía trước khánh thờ Thành hoàng là một chiếc bàn dài bằng gỗ quý, chính giữa bàn để một chiếc lư đồng cao khoảng 70 cm, đây là loại lư mắt tre quý hiếm ở Việt Nam… Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh vốn là một di sản vô giá thể hiện một nét văn hóa tín ngưỡng độc đáo của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Báo Bạc Liêu online
Bạc Liêu 1172 lượt xem
Đình An Trạch tọa lạc tại ấp An Trạch, xã Vĩnh Lợi, tổng Thanh Hòa (nay thuộc khóm 2, phường 5, thị xã Bạc Liêu - tỉnh Bạc Liêu). Đình được Tri huyện Phạm Thành Mậu khởi công xây dựng vào ngày 6.4.1877 (năm Đinh Sửu) trên phần đất rộng 4.000m2 và đích thân làm Chánh bái; Tri huyện Hồ Vạn Thành làm Bồi bái. Do điều kiện xây dựng thời bấy giờ còn nhiều hạn chế, nên đình An Trạch đơn giản trông giống như một mái nhà ba gian, vật liệu được dùng cũng rất thô sơ. Sau này, qua nhiều giai đoạn, đình được xây dựng rộng hơn, kiên cố và bề thế hơn với kiến trúc đa phương, nhiều hướng theo kiến trúc đình Huế. Các công trình kiến trúc của đình gồm: Ngôi đình chính, sân đình trước, sân đình sau, nhà hậu đình, bốn góc có miếu nhỏ, hai dãy nhà Đông Lang và Tây Lang. Ngôi đình chính có nền cao 0,75m, 4 hiên, 8 mái, đỉnh nóc có “Tứ long tranh châu”. Hiên đình có 4 mái: trước, sau, Đông Lang và Tây Lang đều lợp ngói hình ống. Đầu mái chảy gắn gạch men màu xanh có hoa văn và hình răng cưa. Mỗi mái hiên có 4 cột vuông chịu lực, được xây dựng bằng gạch thẻ và có đắp chỉ gờ theo hình bát đấu. Bốn cột hiên phía trước, đầu cột đắp hoa văn hình lá cúc sơn màu xanh nhạt, trên mỗi cột có ghi câu đối. Thời vua Khải Định (1916 - 1925) đình An Trạch được sắc phong “Bổn Cảnh Thành Hoàng”. Theo dân gian truyền tụng, khi xưa đình An Trạch thờ danh sĩ Nguyễn Công Trứ, một người làm quan thời vua Tự Đức, có tinh thần yêu nước, thương dân và có công khai hoang phục hóa, mở mang bờ cõi. Hằng năm, cứ vào ngày 14 tháng 11 âm lịch, đình đều tổ chức giỗ Ông. Trong các ngày lễ chính, như: Kỳ Yên, Vu Lan đều có văn tế Nguyễn Công Trứ, cầu nguyện Ông giúp dân, cầu cho mưa thuận gió hòa, an khang thịnh vượng... Sự tôn kính ấy đã đi vào cõi tâm linh của người dân địa phương như một dòng chảy tự nhiên. Đây còn là một biểu hiện đạo lý tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc ta. Trong những năm kháng Pháp, đuổi Mỹ, đình là nơi tổ chức các buổi hội, họp của cách mạng, nuôi chứa những người cộng sản... Ghi nhận giá trị văn hóa, lịch sử, năm 2000, đình An Trạch được công nhận là Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hiện nay, UBND tỉnh Bạc Liêu đang có dự án kiến trúc, trùng tu lại đình khang trang hơn, vững chắc hơn, nhằm nâng cao vai trò và ý nghĩa của đình trong đời sống tinh thần nhân dân không chỉ trong tỉnh. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 1089 lượt xem
Tháp cổ Vĩnh Hưng tọa lạc tại ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Đây không chỉ là một kiến trúc tháp thuộc nền văn hóa Óc – Eo còn sót lại duy nhất ở Tây Nam bộ, mà trong cuộc khai quật tại tháp Vĩnh Hưng, các nhà khảo cổ học còn thu được nhiều hiện vật hết sức quý giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá quý … đánh dấu một giai đoạn tồn tại và phát triển khá dài (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 13 sau công nguyên) của tháp cổ Vĩnh Hưng. Tháp Vĩnh Hưng đã trải qua nhiều lần khảo sát, năm 1911 học giả người Pháp Lunet de Lajonquiere đã phát hiện ra dưới tên gọi là tháp Trà Long. Năm 1917 Henri Parmentier đã đến khảo sát khu vực này. Trong báo cáo này (dưới tên gọi là tháp Lục Hiền) ông thống kê một số hiện vật được phát hiện trong và ngoài tháp. Đặc biệt, trong số ấy có tấm bia tìm thấy trong ngôi chùa Phước Bửu Tự ở cạnh tháp khắc chữ Phạn, ghi rõ tháng Karhila, năm 814, tương ứng với năm 892 sau công nguyên, và tên của vua Yacovan-Man (thế kỷ thứ 9). Các nhà khảo cổ đã xác định tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên để thờ vị vua tên là Khmer Yacovar – Man. Vào tháng 5/1990, các nhà khảo cổ thuộc Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Minh Hải đã đến khảo sát và đào một hố thám sát, phát hiện một số hiện vật như đầu tượng thần, minh văn, bàn nghiền, Linga – Yoni… Tiếp tục hành trình làm sáng rõ giá trị của một di tích cấp quốc gia, cũng như nhằm phục vụ công tác trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp di tích tháp Vĩnh Hưng, trong năm 2002 và tiếp sau đó là năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu khai quật xung quanh tháp. Những đợt khai quật này tiếp tục những việc như làm lộ diện chân móng tháp, giải quyết những vết tích chìm trong lòng đất để có những giải pháp trùng tu, tôn tạo ngôi tháp nhằm phát huy giá trị của di tích. Nhiều hiện vật có giá trị đã được phát hiện trong những đợt khảo sát như: tượng Nữ thần được tạc theo phong cách truyền thống tượng tròn Óc Eo Phù Nam, bàn tay phải của “Tượng thần”, một số Linga – Yoni, đồ gốm dùng trong sinh hoạt và đặc biệt là bộ tượng đồng được các nhà khảo cổ học đánh giá là bộ sưu tập tượng độc đáo, là “bảo vật quốc gia”, trong đó có một số tượng độc bản có giá trị rất cao. Năm 2011, di tích tháp Vĩnh Hưng được trùng tu tôn tạo gồm các hạng mục: nhà trưng bày, nhà bia, nhà bảo vệ, hàng rào và một số hạng mục khác nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Tháp cổ có kiến trúc khá đơn giản và mộc mạc trên một doi đất có diện tích khoảng 100m, cửa Tháp quay về hướng Tây, bình diện chân Tháp hình chữ nhật với hai cạnh là 5,6m và 6,9m. Chiều cao của Tháp là 8,2m (tính từ nền Tháp). Toàn bộ 3 mặt Đông – Nam – Bắc được xây bằng gạch. Tường của chân Tháp dày 1,8m, càng lên cao độ dày của tường càng mỏng, vách tường được dựng nghiêng dần lên phía đỉnh tạo thành vòm cuốn. Theo nhiều nhà khoa học, người Khơme cổ đã dùng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt, họ đã dùng một loại keo thực vật để kết dính các viên gạch với nhau, mà không cần dùng đến các chất liệu xây dựng như xi măng, hay vôi vữa như bây giờ. Tháp được xây bằng hai loại gạch có màu sắc khác nhau. Từ chân tháp đến độ cao 4m là gạch đỏ và từ 4m trở lên trên được dùng gạch trắng. Nhìn vào từ cửa chính là bộ Linga – Yoni tượng trưng cho âm dương hòa hợp được phục chế lại. Bộ Linga – Yoni nguyên gốc đang được gìn giữ tại bảo tàng. Từ những giá trị độc đáo được ghi nhận, Tháp cổ Vĩnh Hưng đã được công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1992. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 1098 lượt xem
Chùa Giác Hoa hay còn gọi là chùa cô Hai Ngó tọa lạc tại ấp Xóm Lớn, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. Chùa được xây dựng từ năm 1919 do bà Huỳnh Thị Ngó, sinh ra trong một gia đình điền chủ giàu có tiếng ở Bạc Liêu vào cuối thế kỷ 19 hiến tiền, đất để dựng nên dân gian thường gọi là Chùa Cô Hai Ngó. Tháng 10/1920 chùa hoàn thành sau 18 tháng thi công. Chùa Giác Hoa là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhất ở Bạc Liêu lúc bấy giờ. Sau khi xây dựng chùa xong, cô Hai Ngó luôn tham gia và thực hiện các công việc lợi ích xã hội như dạy học, giúp đỡ người nghèo… Chùa là tổng thể các công trình kiến trúc lớn nhỏ, được bố trí chặt chẽ, cân đối theo lối “nội công, ngoại quốc”, kết hợp hài hoà kiến trúc Đông – Tây. Phía trước là Chánh điện, phía sau là sân Thiên tịnh và ngôi nhà Hậu tổ (thờ gia tiên và cô Hai Ngó, người sáng lập ra ngôi chùa). Chính điện cơ bản giống một công thự thời thuộc địa, ngự trên nền rất cao, kiên cố, màu vàng trầm mặc, mái ngói, nền gạch thẫm màu.. như một kiệt tác nghệ thuật. Các khối công trình còn lại trung thành với mảng kiến trúc chung chủ đạo Đông – Tây, đậm dấu ấn Pháp, điểm xuyến bởi chút mái cong và những dòng ký tự Đông Phương ở phía trước, nối kết các công trình và trong không gian nội bộ từng công trình là các hành lang mát mẻ, bố trí khoa học, toàn bộ không gian Giác Hoa tự nhịp nhàng cứ như một bản nhạc hài hòa. Có thể nói, riêng về không gian sinh thái, thẩm mỹ, kiến trúc và sự cổ kính, Giác Hoa tự đạt mức độ khá cao. Vào bên trong chánh điện là một không gian trang nhã, thanh tịnh, thoáng mát, được thiết kế và xây dựng hoàn toàn bằng gỗ quý. Với kết cấu 20 cột gỗ tròn có đường kính 45 cm được chạm khắc rồng, phượng và nhiều họa tiết rất tinh xảo chia làm 5 hàng ngang, chống đỡ mái ngói. Những bức tượng Phật, các vật trang trí phía trong cũng được làm bằng gỗ tốt. Trong khuôn viên ngôi chùa còn có những công trình kiến trúc độc đáo như tượng bán thân Phật Quan Âm trên núi, thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, thác nước, tượng 12 con giáp, … tạo thêm nét đặc sắc cho ngôi chùa. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến Chùa Giác Hoa là cơ sở cách mạng, nuôi chứa nhiều chiến sĩ, cán bộ. Năm 1945 hưởng ứng lời kêu gọi “Hũ gạo nuôi quân” của Hồ Chủ Tịch, cô Hai Ngó đã ủng hộ cho cách mạng 2.000 giạ lúa. Với những giá trị đó, chùa đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2001. Ngôi chùa còn là nơi truyền dạy Phật học, mở lớp “an cư kiết hạ” đầu tiên cho hàng trăm tăng ni đến học miễn phí. Hiện nay, ngôi chùa còn có Trường trung cấp Phật học của Giáo hội Phật giáo tỉnh Bạc Liêu quản lý, cái nôi của giáo dục ni giới Nam Bộ. Chùa Giác Hoa ngày nay đẹp uy nghi, lộng lẫy, trở thành điểm du lịch tâm linh Bạc Liêu nổi tiếng đón tiếp hàng trăm ngàn khách thập phương mỗi năm. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 1043 lượt xem
Ngày 29/6/2022, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Bạc Liêu đã ký Quyết định công nhận di tích lịch sử văn hóa Chùa Xiêm Cán. Di tích lịch sử văn hóa Wotkomphisakoprekchru (chùa Xiêm Cán) toạ lạc tại ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Chùa Xiêm Cán được khởi công xây dựng tháng 3 năm 1887, do Hòa thượng Lâm Mau trụ trì xây dựng. Thượng tọa Dương Quân là vị trụ trì đời thứ tám. Chùa được xây dựng trên diện tích rộng gần 50.000m2, mang kiến trúc Angkor Khmer truyền thống, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, các mảng phù điêu, màu sắc hoa văn, đường nét chạm trổ cong lượn thể hiện đầy đủ, đậm nét đặc trưng cho một di tích văn hóa của dân tộc khmer. Bao quanh chùa là 1 hàng rào xây kiên cố, với nhiều hoa văn, phù điêu đắp nổi bánh xe luân hồi. Hai bên tường rào trước cổng tam quan được điêu khắc hình ảnh Thái tử Tất Đạt Đa và thiếu nữ múa rất ấn tượng. Cổng tam quan là một công trình kiến trúc đa dạng gồm nhiều phù điêu đắp nổi hoa văn tỉ mỉ hình khối mang ý nghĩa biểu trưng của con số 3 như: Phật – Pháp – Tăng; quá khứ - hiện tại - tương lai...) các mảng phù điêu trang trí được thể hiện theo dạng dưới là 01 hoa sen, trên là 2 cánh lớn, giữa 2 cành lá thêm 3 bộ kinh Tam Tạng, phía trên có thêm bánh xe luân hồi. Hai bên khoảng đất trống của lối đi vào có khoảng vài chục cột trụ tròn, trên cột ghi tên những phật tử có đóng góp xây dựng chùa. Vào bên trong sân chùa là bức tượng Phật trong tư thế nằm (nhập niết bàn) có phần mái che để khách thập phương dâng hương, cầu nguyện trước khi vào chánh điện. Chùa Xiêm Cán là nơi đồng bào Khmer thường tập trung để học chữ, học múa hát, học nghề. Nơi đây, hàng năm diễn ra nhiều lễ hội của người Khmer, thu hút rất đông đồng bào dân tộc Khmer về dự. Các ngày lễ hội lớn trong năm được diễn ra tại chùa như: - Chôl chnăm thmây (lễ vào năm mới) diễn ra 3 ngày (khoảng ngày 14, 15, 16 tháng 4 dương lịch). - Lễ Sen (lễ cúng ông bà) diễn ra một trong 3 ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch. - lễ dâng y cà sa diễn ra một trong những ngày từ 16/9 - 15/10 âm lịch. Ngoài ra, tại chùa còn diễn ra các lễ hội tôn giáo mang nét đặc trưng của phật giáo Nam tông. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, chùa Xiêm Cán còn là nơi phát động bổn đạo phật tử cùng sát cánh với nhân dân trong tỉnh tham gia hoạt động cách mạng. Điển hình cho phong trào đó là đại đức Trần Kin, đại đức Thạch Thươl, phó đại đức Dương Tha và nhiều vị sư khác. Đặc biệt vào năm 1966, thực hiện chủ trương của Đảng về việc biểu tình chống bầu cử . Các nhà sư và bà con phật tử của chùa đã đồng loạt đi biểu tình chống bầu cử như: đập phá thùng phiếu, chống bắt lính,… ngoài ra Chùa Xiêm Cán còn là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Ban Quản trị chùa Xiêm Cán cũng đã hình thành Câu lạc bộ biểu diễn nghệ thuật để phục vụ nhu cầu thưởng thức các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer thông qua các hoạt động biểu diễn nhạc cụ dân tộc, múa Áp sa ra…đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho du khách và được các doanh nghiệp lữ hành, nhiều đoàn khảo sát, các đoàn công tác tỉnh bạn đến tham quan. Hàng năm thu hút hàng trăm ngàn lượt người khách tham quan, nhất là dịp nghỉ hè và các ngày lễ, tết. Chùa Xiêm Cán là công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của dân tộc Khmer Bạc Liêu, đồng thời cũng là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử cách mạng của tỉnh. Đây là một địa chỉ tham quan du lịch đặc sắc của du khách khi đặt chân đến vùng đất Bạc Liêu. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bạc Liêu
Bạc Liêu 1074 lượt xem
Chùa Cỏ Thum (KosThum) là chùa Khmer Nam tông có truyền thống đấu tranh cách mạng qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Tên đầy đủ của chùa là Cơro-pum-meanchey KosThum, được xây dựng vào năm 1832, nhằm năm Phật lịch 2376, tại xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và tay sai giai đoạn (1945-1975),Chùa Cỏ Thum là cơ sở hoạt động của các đồng chí cán bộ cách mạng, các sư sãi cùng với nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị chống bắt người, di dời Chùa…Đặc biệt năm 1949, được sự chấp thuận của Trung ương và địa phương, chính phủ lâm thời Campuchia được thành lập tại Chùa. Để đảm bảo an toàn cho cán bộ cách mạng, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, nhà chùa tổ chức đào 2 hầm bí mật để cho cán bộ cách mạng trú ẩn. Hầm thứ nhất được làm dưới nền nhà tăng xá, hầm được thiết kế theo chữ “L” có một cửa lên xuống được làm ở nơi kính đáo, có lỗ thông hơi. Nóc hầm làm bằng cây, ở trên có ngụy trang đắp đất khít với đất làm nền nhà. Hầm thứ hai được làm cách hầm thứ nhất 30m về phía sau nhà ở của đại đức Trần Duyên, hầm cũng được làm theo hình chữ “L” chìm dưới đất, có một cửa lên xuống, có lỗ hơi, nóc hầm thả đà ngang bằng cây, trên phủ đất và được ngụy trang rất kỹ để tránh địch phát hiện. Chùa Cỏ Thum có một “hạng mục”: nhà bia ghi tên tuổi các liệt sỹ đã hy sinh ở đây, trong đó có các nhà sư Khmer. Di tích lịch sử Chùa Cỏ Thum không chỉ có ý nghĩa lịch sử cách mạng mà nó còn gắn với địa điểm, quần thể kiến trúc chùa Cỏ Thum. Ngôi chính diện có nền cao hơn mặt đất gần 1m. Chùa có hành lang bao quanh, cửa chính quay về hướng Đông, do quan niệm Phật ở phương Tây, nên quay sang hướng Đông để ban phước, phù hợp với hướng tượng Phật. Chùa có 3 cấp mái, mỗi cấp chia thành 3 nếp, nếp giữa được nâng cao hơn hai nếp bên. Đầu và các gấp mái đều có đắp một khúc đuôi rồng dài, cong vút. Trang trí bên ngoài có nhiều hình chạm, đắp như: Tượng Reahu, tiên, chằn, Garuda, keyno,…Ngoài ra, bên trong chùa các bức tường vẽ hình ảnh về cuộc đời Đức Phật (Jataka) bằng những nét vẽ vô cùng sinh động. Không gian rộng lớn cạnh dòng kênh, bao chắn kín đáo sau các bức tường, lấp lánh các khối công trình phủ màu sơn vàng và đỏ đặc trưng của hệ phái, cũng khó hình dung về hai cuộc chiến tranh khốc liệt đã trải qua, chùa đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Chính vị thế hẻo lánh, bao bọc bởi địa hình thuận lợi hình thành căn cứ bí mật đã duy trì ở đây một cơ sở nuôi chứa, đào tạo cán bộ cách mạng, của khu Tây Nam Bộ và cả cách mạng Campuchia. Với những giá trị về văn hóa cũng như về lịch sử cách mạng quan trọng đó, Bộ Văn hóa, Thể thao đã xếp hạng Chùa Cỏ Thum là di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2006. Hàng năm tại chùa tổ chức rất nhiều lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer như: Lễ hội năm mới(Chool chnăm thmây) vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch; lễ cúng ông bà vào các ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch; lễ cúng trăng; lễ cầu an; lễ Phật đản…thu hút rất nhiều khách thập phương đến tham quan, chiêm bái. Nguồn: Ban quản lý Di tích Bạc Liêu
Bạc Liêu 1064 lượt xem
Đền Thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Bà Chăng A, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm 1969, nghe tin Bác Hồ kính yêu mãi mãi đi xa, quân dân xã Châu Thới vô cùng bàng hoàng, đau đớn. Với tình yêu thương của Bác đối với nhân dân miền Nam ruột thịt nên nhân dân nơi đây có tâm nguyện chung là xây dựng Đền thờ Bác ngay tại quê hương để ngày đêm hương khói cho Người. Hàng ngàn cán bộ, nhân dân trong xã và huyện đã không sợ hy sinh, gian khổ, ngày đêm góp sức, góp công xây dựng Đền thờ Bác ngay chính mảnh đất đầy khói lửa, đạn bom Châu Thới anh hùng… Tháng 3/1970, Xã ủy Châu Thới thực hiện chủ trương của Huyện ủy Vĩnh Lợi tiến hành xây dựng Đền thờ Bác. Sau 2 lần Đền thờ bị địch đốt phá, nhân dân cũng như Xã ủy Châu Thới và Huyện ủy Vĩnh Lợi quyết tâm xây dựng đền kiên cố bằng xi măng, cốt sắt… Công việc mua vật liệu để xây dựng gặp nhiều khó khăn do phải đi qua nhiều đồn bốt của địch, nhưng với động lực là lòng kính yêu Bác, nhân dân xã Châu Thới xung phong đi mua vật liệu, mỗi người mua một ít, mua làm nhiều lần. Khi đã chuẩn bị xong, lúc 10h ngày 25/4/1972 Xã ủy Châu Thới đã làm Lễ khởi công xây dựng Đền thờ Bác. Sau 24 ngày đêm không ngại đạn pháo của địch, nhân dân và Xã ủy Châu Thới đã hoàn thành việc xây dựng Đền thờ. Sáng 19/5/1972 (ngày sinh nhật Bác), Lễ khánh thành Đền thờ Bác được tiến hành trong niềm hân hoan và trang nghiêm của trên một ngàn người trong Xã Châu Thới và các chiến sĩ huyện Vĩnh Lợi. Việc xây dựng đền thờ ngay trong lòng địch đã khó khăn, việc bảo vệ đền thờ càng khó khăn gấp bội. Sau khi đền thờ hoàn thành, địch thường xuyên huy động các phương tiện đánh phá nhưng bằng tất cả tình cảm của người con miền Nam đối với vị cha già kính yêu của dân tộc, các lực lượng du kích, lực lượng địa phương quân Vĩnh Lợi và Đội bảo vệ đền thờ một lòng quyết tâm bảo vệ Đền thờ Bác. Ghi ơn công lao to lớn, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhiều năm qua, tỉnh Bạc Liêu đã luôn quan tâm đến việc trùng tu, nâng cấp. Đến nay Đền thờ Bác Hồ Bạc Liêu được xây dựng trên một khuôn viên đất rộng 11.000m2 với các kiến trúc chính như: Ngôi Đền thờ Bác Hồ, Nhà bao che đền, Nhà trưng bày, Hội trường và phòng làm việc, khu dịch vụ và khu vườn được trồng nhiều loại cây xanh. Đặc biệt, trong khuôn viên di tích nổi bật với hồ sen thơm ngát. Đền thờ Bác Hồ ở Châu Thới được đánh giá là một trong những Đền thờ Bác đẹp nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài khu vực chính của Đền thờ còn có hoa viên và hội trường để chiếu phim tài liệu giới thiệu với du khách khái quát về thân thế và sự nghiệp của Bác. Đền được xây dựng bằng gạch, đòn tay gỗ dầu, phía trước có mái hiên và ban công đổ mái bằng. Khoảng hơn 300 tài liệu và hiện vật phản ánh quá trình nhân dân xã Châu Thới chiến đấu bảo vệ đền thờ và các tư liêu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch được lưu giữ tại nhà trưng bày. Đền thờ Bác Hồ ở Bạc Liêu đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1998. Đây là niềm tự hào của quân và dân Bạc Liêu, hàng năm vào các ngày lễ lớn, ngày nghỉ đặc biệt vào ngày sinh nhật Bác có rất đông du khách và nhân dân thăm viếng. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 1164 lượt xem
Địa danh đồng Nọc Nạng thuộc làng Phong Thạnh quận Giá Rai, ngày nay là ấp 4 xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Ngày xưa, nơi này là vùng sình lầy rộng lớn, nhiều rừng tràm, choại, lau sậy mọc chen chúc, quanh năm chỉ có chim muông và rắn độc trú ẩn. Người dân đi khai hoang đến sinh sống và khai phá vùng này, đã dựng lên những cái chòi lợp lá để có chỗ che mưa nắng và tránh rắn độc. Vì đất sình lầy không thể cất nhà như trên đất khô, người dân đã chặt cây làm nọc đóng xuống đất sình rồi gác nạng bên trên làm sàn để cất nhà. Địa danh đồng Nọc Nạng còn gắn liền với cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của người nông dân chống sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bọn địa chủ. Gia đình anh em ông Mười Chức đã đem bao mồ hôi công sức ra để biến đổi cánh đồng này thành ruộng lúa. Khi mọi người đang sống và lao động bình yên thì địa chủ đã cấu kết với bọn cường hào và thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt đến cướp lúa, cướp đất của gia đình ông Mười Chức. (trên thực tế, phần đất anh em ông Mười Chức làm là do ông cha khai phá để lại). Năm 1927, sau nhiều thủ đoạn xảo quyệt và thâm độc hòng chiếm đất của gia đình ông Nguyễn Văn Chức (Mười Chức) không xong, tên Mã Ngân, một địa chủ ở Cà Mau đã lừa bán đất cho vợ một quan huyện là Hồ Thị Trân. Sau khi mua đất mà không lấy được đất do gia đình ông Mười Chức phản đối kịch liệt, bọn chúng đã mượn thế lực của thực dân Pháp đến trấn áp nhằm lấy ruộng và lúa của gia đình ông Mười Chức. Thế là một cuộc đấu tranh của gia đình ông chống lại sự đàn áp của bọn thực dân Pháp đã xảy ra đẫm máu vào ngày 17/02/1928. Trong cuộc chống trả này, gia đình ông Mười Chức mất 4 người: ông Mười Chức , bà Mười Chức (cùng đứa con trong bụng), ông Năm Mẫn , ông Sáu Nhịn. Về phía bọn thực dân thì có 1 tên quan Pháp bị thương nặng qua ngày sau thì chết và vài tên khác bị thương. Mấy người còn lại trong gia đình ông Mười Chức đều bị bắt và kết tội là "dậy loạn, chống công quyền, giết người". Không vì thế mà chùn bước, gia đình ông lại tiếp tục gửi đơn khiếu nại… Báo chí cũng lên án mạnh mẽ. Trước dư luận của công chúng cuối cùng chính quyền Pháp phải trả đất lại cho gia đình ông Mười Chức. Sự kiện đồng Nọc Nạng là một bằng chứng tội ác của chế độ thực dân Pháp cướp nước và bè lũ quan lại tay sai, nói lên tinh thần chống áp bức của người nông dân thật thà chất phác. Tuy cuộc đấu tranh của nông dân vùng Nọc Nạng là một cuộc đấu tranh tự phát nhưng đã biểu hiện được sự đấu tranh của giai cấp nông dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long thời ấy, thể hiện tinh thần kiên cường và nghĩa khí của người nông dân Nam bộ, góp phần hun đúc cho truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ngày 30/8/1991, sự kiện lịch sử đồng Nọc Nạng được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa, di tích này nằm ở ấp 4, xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Đã trải qua hơn tám mươi năm, cánh đồng Nọc Nạng vẫn còn đọng lại khúc ca bi tráng ngày nào, sự kiện ấy đã đi vào lịch sử dân tộc với hình ảnh người nông dân Bạc Liêu chất phác thật thà mà đầy nghĩa khí. Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Giá Rai
Bạc Liêu 1258 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 5051 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4057 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3430 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2960 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2907 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2872 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2714 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2570 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2542 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2501 lượt xem