Nhà lưu niệm và tượng đài anh hùng Võ Thị Sáu nằm ở ngã tư Đất Đỏ, thuộc xã Phước Long Thọ - Huyện Đất Đỏ. Ngôi nhà vách gỗ, mái ngói cổ xưa nơi mà chị đã từng sống thời niên thiếu cùng gia đình có các kỷ vật, vật dụng đơn sơ, có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ chị đặt ở gian ngoài. Năm 1980 ngôi nhà được ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ tu bổ lại khang trang như ngày nay. Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong Chiến tranh Việt-Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem cô như một biểu tượng Liệt nữ Anh hùng tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993. Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, mẹ buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, chị phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ, cuối năm 1945, các anh trai của chị Sáu đã thoát li gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Chị đã bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa. Năm 1946, chị theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất uân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỉ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang lớn ở vùng Đất Đỏ. Năm 1947, chị chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi. Từ đó, chị tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan người Pháp và Việt gian cộng tác với Thực dân Pháp tạo được tiếng vang và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân trong vùng. Vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, chị Võ Thị Sáu đã bị quân Pháp bắt được. Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi chị và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ. Trong ngục giam những người bị án tử hình, Chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ Quốc. Dù các luật sư biện hộ cho chị đã phản ánh với lý do chưa đủ 18 tuổi nhưng thực dân Pháp vẫn ngoan cố tuyên án tử hình. Trước khi bị đưa ra thi hành án, Chị bị đày qua các nhà tù Chí Hòa, Bà Rịa và Côn Đảo. Vì quân Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với Chị, chúng đã lén lút đem cô đi thủ tiêu. Chuyện vẫn kể rằng, khi nhóm đao phủ bảo chị quỳ xuống, Chị đã quát lại bọn chúng với một câu đã đi vào huyền thoại, Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ. Chị bị xử bắn năm 1952 tại Côn Đảo khi chưa đủ 18 tuổi. Cách đó chừng 100m là công viên tượng đài và đền thờ anh hùng Võ Thị Sáu. Tượng chị được đặt ở đó, một nơi thoáng mát, bốn mùa ngát hương với hoa sứ, hoa ngọc lan, hoa lekima. Một nơi đẹp , yên bình và tĩnh lặng. Tượng được đúc bằng đồng, cao 7m, tạo theo thế chị Sáu ung dung ra pháp trường, tà áo vẫn tung bay trong gió. Một con người hiên ngang, bất khuất, kiên cường, và không bao giờ đầu hàng trước gian khó, hiểm nguy. Đền thờ là nơi cho dân chúng đến phúng viếng, tưởng niệm anh hùng và là nơi trưng bày hiện vật, giới thiệu hình ảnh về cuộc đời hoạt động của anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu cùng một số hình ảnh về quê hương Đất Đỏ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu 444 lượt xem
Hầm thủy lôi trên Núi Lớn (thuộc địa bàn phường 5, TP Vũng Tàu ngày nay) do phát xít Nhật xây dựng vào năm 1944. Đây là nơi làm kho chứa vũ khí đánh thủy của quân Nhật. Tuy nhiên, với tinh thần chiến đấu gan dạ, quân ta đã nhiều lần đột nhập vào hầm thủy lôi, lấy vũ khí của địch để chế tạo vũ khí đánh địch. Tháng 7/1941, Nhật buộc Pháp phải ký hiệp ước “Cam kết phòng thủ chung Đông Dương” với Nhật. Với hiệp ước này, Nhật đã chỉ huy Pháp hoàn toàn về mặt quân sự. Đến tháng 10/1941, Nhật đổ bộ vào Vũng Tàu, nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trên Núi Lớn án ngữ cửa biển Vũng Tàu – Cần Giờ. Từ năm 1941-1945, quân phát xít Nhật cho xây dựng nhiều lô cốt, hầm ngầm, hầm chứa đạn, thủy lôi ở lưng chừng Núi Lớn ven theo bờ biển nay thuộc phường 5, TP.Vũng Tàu. Tuy hầm thủy lôi đơn thuần chỉ là kho dùng để cất giữ vũ khí quân sự của quân Nhật, nhưng cũng không kém phần công phu trong quá trình xây dựng. Hầm thủy lôi được xây dựng vào năm 1944, sau 4 tháng thì hoàn tất. Hầm được xây dựng dưới một thung lũng núi kín đáo, xây theo hình vòm, bên trong hầm là vách bê tông cốt thép dày 1m, cao 2,7m. Mặt trước cửa hầm xây đá cao 7m, dài 20m. Các hầm được bố trí thông nhau theo hình chữ U. Hầm chủ yếu tích trữ mìn, thủy lôi để phòng thủ bờ biển, tạo nên một trận địa dưới nước án ngữ cửa biển Vũng Tàu-Cần Giờ. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Nhật đầu hàng quân đồng minh nên đã gỡ những quả thủy lôi dưới biển đưa lên núi cho vào hầm cất giữ và gài chất nổ bên ngoài. Sự thất thế của Nhật trên chiến trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam từng bước giành thắng lợi. Trong những năm kháng chiến chống Nhật, chống Pháp lâu dài và gian khổ, quân dân Vũng Tàu đã cùng với quân dân Biên Hòa, Bà Rịa không những đánh bại những cuộc càn quét dài ngày của địch vào chiến khu Đ, rừng Sác mà còn tiến sâu vào hậu địch đánh thắng nhiều trận oanh liệt. Trong thời kỳ chiến tranh, những trận đột kích thành công vào hầm thủy lôi Núi Lớn là những chiến công của quân dân Vũng Tàu. Từ vùng Bà Trao (núi Nứa - xã đảo Long Sơn), lực lượng vũ trang và an ninh của ta dựa vào dân đã nhiều lần đột nhập vào hầm đạn và hầm thủy lôi núi Lớn, chiếm lấy khí tài quân sự, vũ khí của địch để trang bị cho quân ta. Việc lấy thủy lôi trở thành một chiến dịch với sự tham gia của hàng trăm người, diễn ra vào buổi tối và hết sức bí mật. Lực lượng ta chia thành các tổ: ám hiệu, canh gác, tháo gỡ lựu đạn, chuyển tải thủy lôi, nuôi quân… Theo kế hoạch, khi có ám hiệu khói lửa, các chuyến ghe của quân dân ta ở Bà Trao từ từ cập sang cảng Bến Đá -Vũng Tàu để tiếp nhận và vận chuyển vũ khí lấy được của địch từ hầm thủy lôi. Tổ canh gác chia làm 2 nhóm cảnh giới từ đầu dốc Bến Đá và gần khu vực tượng Phật Bà Quan Âm bây giờ. Tổ tháo gỡ lựu đạn sẽ cùng với đặc công, du kích, cảm tử quân Thắng Nhì vào hầm thủy lôi, người soi đèn, người gỡ lựu đạn mở cửa, khi lấy xong gài lựu đạn lại như cũ. Nhóm chuyển tải thủy lôi ra ngoài gồng gánh nhau trèo lên sườn núi trong đêm tối mịt mù, khiêng thủy lôi xuống núi, chuyển thẳng ra ghe về bến an toàn. Tổ nuôi quân gồm các bà, các chị lo vận chuyển thức ăn và dầu đốt đèn cho mọi người tham gia các trận đột kích. Cuối tháng 6/1947, sau khi quân địch (quân Pháp tái chiếm lần thứ 2) rút khỏi bốt Bến Đình, các hoạt động đột kích hầm thủy lôi của quân dân ta dễ dàng hơn. Lực lượng của ta đã vận chuyển trung bình một lần 2 trái thủy lôi ra khỏi hầm, mỗi trái nặng hơn 100kg. Trong khoảng thời gian từ năm 1945 - 1954, quân ta đã bí mật lấy khoảng 60 trái thủy lôi để chế tạo bom, mìn làm vũ khí tiêu diệt địch. Ngày 4/8/1992, hầm thủy lôi Núi Lớn được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử.
Bà Rịa - Vũng Tàu 673 lượt xem
Khu di tích lịch sử Côn Đảo (Nhà tù Côn Đảo) thuộc huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, gồm hệ thống nhà tù ở Côn Đảo và các nghĩa trang thuộc hệ thống nhà tù này. Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt lập - “chuồng cọp” tại khu vực Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể. Năm 1979, Khu di tích lịch sử Côn Đảo đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, với 17 di tích thành phần. 1. Nhà Chúa Đảo Khu vực này từng là nơi ở và làm việc của 53 đời Chúa Đảo, trong khoảng thời gian hệ thống nhà tù ở Côn Đảo duy trì hoạt động. Sau ngày giải phóng (1975) đến nay, nhà Chúa Đảo được sử dụng làm nơi trưng bày của Khu di tích lịch sử Côn Đảo. 2. Cầu Tàu Cây cầu được khởi dựng từ năm 1873. Đây cũng là nơi chứng kiến nỗi cực nhục đầu tiên của những người bị đưa ra đảo tù đày. Con số 914 được đặt tên cho cầu cũng là số tù nhân đã bị “ngã xuống” vì lao dịch, tai nạn trong quá trình lao động khổ sai để xây cầu. 3. Trại 1 Trại 1 còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 3, Lao 3, Trại Bác Ái, trại Phú Thọ. Trại được xây dựng năm 1928, trên tổng diện tích khoảng 12.700m2. Trong đó, diện tích phòng giam là 1.200m2, bao gồm 3 dãy khám giam, nhà y tế, nhà bếp và nhà ăn, phòng giam tập thể và phòng biệt lập, dãy nhà cầm cố (giam cầm). 4. Trại 2 Trại còn có các tên gọi khác, như Banh 1, Lao 1, Trại Cộng Hòa. Đến tháng 11 năm 1974, trại này được gọi là trại Phú Hải. Trại 2 được xây dựng từ năm 1862 và được chỉnh trang kiên cố vào năm 1896, với diện tích 12.040m2, gồm 02 dãy khám giam, 20 xà lim, bệnh xá, nhà nguyện, giảng đường, khu đập đá, câu lạc bộ, nhà Giám thị... , được bao bọc bởi bốn bức tường cao hơn 4m, xung quanh bố trí nhiều bốt gác. Đây là trại giam lớn và cổ nhất ở Côn Đảo. 5. Trại 3 Trại còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 2, Lao 2, Trại Nhân Vị, Trại 3, Trại Phú Sơn. Trại được xây dựng năm 1916, nằm cạnh Banh 1, với diện tích 13.228m2, gồm 13 khám lớn, 14 xà lim, 1 phòng hớt tóc, miếu thờ, phòng y tế, nhà bếp, phòng Giám thị, câu lạc bộ và khuôn viên cây xanh, bao quanh là hệ thống tường đá (cao 4m) và nhiều bốt gác. 6. Trại 4 Có tổng diện tích 5804m2, gồm 8 phòng giam, nhà bếp, nhà kho, bệnh xá, có tường đá dày, cao bao quanh. 7. Trại 5 Có tổng diện tích 3.594m2, với 12 phòng giam tập thể, được chia làm 3 dãy (mỗi dãy 4 phòng), khu nhà bếp, có tường đá dày, cao khoảng 4m bao quanh. 8. Trại 6 Tức Trại Phú An, có diện tích 42.140m2, gồm khu A và khu B. Mỗi khu đều có hai dãy, gồm 10 phòng, 4 xà lim, nhà bếp, bệnh xá, nhà kho. Khu trại này được bao bọc bởi hai lớp rào, có cổng ngoài và cổng trong. 9. Trại 7 Còn có tên gọi khác là Trại Phú Bình, hay Chuồng cọp kiểu Mỹ. Trại có diện tích 25.788m2, với 8 khu trại giam (A, B, C, D, E, F, G , H), mỗi khu đều có 48 chuồng cọp, nhà kho, nhà bếp, văn phòng Giám thị, bệnh xá. Quanh trại được bao bọc bởi hàng rào dây thép gai và tường bê tông. 10. Trại 8 Còn được gọi là Trại Phú Hưng, gồm 10 khám giam, được chia thành 2 dãy, cùng các công trình phụ, như nhà Giám thị, vọng gác. Bao quanh trại là hệ thống hàng rào dây thép gai. 11. Trại 9 Khi Mỹ - Ngụy đang cho đổ bê tông nền, đúc cột dựng trại, thì Hiệp định Paris được ký kết nên trại này đã bị bỏ dở. 12. Phòng điều tra Đây là nơi làm việc và lưu trữ hồ sơ hỏi cung. Mọi tù nhân trước khi được nhập giam, đều bị hỏi cung tại phòng này. 13. Cầu Ma Thiên Lãnh Từ năm 1930 - 1945, thực dân Pháp đã cho mở một nhánh đường đến Sở Ông Câu để tiện cho việc kiểm soát tù vượt ngục. Cầu mới xây dựng được 2 mố, mỗi mố cao khoảng 8m. Tên cầu do tù nhân lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên để đặt. 14. Khu biệt lập Chuồng Bò Khu vực này là nơi tù nhân lao động khổ sai, đồng thời là nghĩa địa của tù nhân. “Bãi sọ người” tại đây chính là nghĩa địa đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo, tiếp đến là nghĩa địa Hàng Keo, nghĩa địa Hàng Dương. 15. Lò Vôi Đây là chứng tích điển hình về chính sách bóc lột sức lao động một cách dã man, cùng với chế độ nhà tù hà khắc, thâm độc, nhằm dập tắt ý chí của những người Việt Nam yêu nước bị tù đày tại Côn Đảo. 16. Nhà Công Quán Xây dựng cuối thế kỷ 19, diện tích 850m2, là nơi dừng chân của nhạc sĩ người Pháp: Charles Camille Saint Saens - Danh nhân văn hóa thế giới. Tại đây Ông hoàn tất 3 chương cuối vở nhạc kịch bất hủ Brunchida. 17. Nghĩa trang Hàng Dương Có diện tích khoảng 20 ha. Đây là nơi yên nghỉ của hàng vạn chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Nam yêu nước đã lần lượt hy sinh dưới ách tù đày, khổ sai tàn bạo của bọn thực dân và đế quốc. Năm 1992, di tích này đã được đầu tư tôn tạo và chia thành 4 khu: - Khu A: gồm 688 ngôi mộ (có 7 mộ tập thể), với 86 mộ có tên và 602 mộ khuyết danh. - Khu B: gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể), với 275 mộ có tên và 420 mộ khuyết danh. - Khu C: gồm 372 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể), với 329 mộ có tên và 43 mộ khuyết danh. - Khu D: gồm 148 ngôi mộ, với 11 mộ có tên và 137 mộ khuyết danh. Nhà tù Côn Đảo là một di tích đặc biệt (di tích nhà tù). Đây là nơi tập trung nhất hệ thống cai trị tù khét tiếng của Pháp và Mỹ, điển hình về chế độ cưỡng bức, giam cầm, hành hạ và tàn sát các chiến sỹ cách mạng, tù nhân lao động khổ sai đến kiệt sức; là nơi mà kẻ thù hung bạo phải run sợ trước khí phách, khí tiết cách mạng và niềm lạc quan của người tù yêu nước. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 10/5/2012. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bà Rịa - Vũng Tàu 686 lượt xem
Nằm trên đường Trần Phú, con đường vòng quanh ôm Núi Lớn, lên Bến Đá và Bến Đình. Di tích Thích Ca Phật Đài gắn liền với vẻ đẹp của Bến Đá và cảnh quan thiên nhiên hướng Đông bắc Núi Lớn. Nếu Bến Đá là cảng cá sầm uất, nhộn nhịp thì Thích Ca Phật Đài là nơi tịch liêu, đượm vẻ huyền diệu của chốn thiên thai. Vùng núi Thích Ca Phật Đài trước đây cây cối tươi tốt không có người sinh sống. Khoảng năm 1957, ông Lê Quang Vinh, một công chức thời Pháp thuộc, bất đắc chí lên đây dựng chùa để tu hành, gọi là Thiền Lâm Tự. Năm 1962, Giáo hội Phật giáo nhận thấy Thiền Lâm Tự toạ lạc ở một vị trí có khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, là vùng đắc địa tụ kết khí thiêng, lại thuận tiện giao thông đi lại cho chư Tăng, Phật tử thập phương hành hương nên đã lập đồ án xây dựng quy mô Thiền Lâm Tự thành Thích Ca Phật Đài. Sau hơn 19 tháng xây dựng, ngày 15 tháng 2 năm Quý Mão (1963), Thích Ca Phật Đài được khánh thành với những công trình kiến trúc như ngày nay. Thích Ca Phật Đài là một quần thể kiến trúc điêu khắc tạo dựng theo sự tích cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gắn với cảnh quan thiên nhiên hài hòa, sống động thành khu danh thắng đẹp mang nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử tôn giáo, là một trong những danh thắng thu hút nhiều khách du lịch nhất của Vũng Tàu. Vào Thích Ca Phật Đài, du khách đi qua tam quan, trên có bánh xe luân chuyển đạo lý nhà Phật gọi là Pháp luân với tám căm biểu tượng Trung đạo. Vòng ngoài có bốn núm biểu tượng cho Tứ diệu đế. Trên bốn cột của tam quan là bốn búp sen biểu tượng cho sự trong sạch, tinh khiết, thanh cao của nhà Phật. Toàn bộ khuôn viên Thích Ca Phật Đài được thể hiện trên triền núi như nửa vầng trăng, được chia thành ba cấp theo một hình tháp cao dần từ dưới lên. Bảo tháp mà du khách bắt gặp đầu tiên, sau khi bước lên hết cấp thứ nhất, là nơi ghi nhớ và tưởng niệm người đã có công dựng Thiền Lâm Tự: Nhà sư Giác Pháp tức quan phủ Lê Quang Vinh. Lối lên bậc thứ hai theo đường vòng cung nhỏ nhắn, bên trái là vách đá kỳ vĩ. Bên phải dõi tầm mắt đến tận Núi Nứa - Long Sơn và xa xa là cảng Dầu khí với những cần cẩu vươn cao nối liên với phố xá, nhà cửa và làng cá Bến Đình, Bến Đá ngay dưới chân núi. Thích Ca Phật Đài được bao phủ bởi màu xanh của nhiều loài cây cao vút. Gió biển thổi rì rào. Đi hết đường vòng cung, du khách tới độ cao 25m, không gian trải rộng ra trước mặt. Đây là khu vực của những công trình điêu khắc được xây dựng dựa theo những sự tích cuộc đời Đức Phật Thích Ca, từ khi Người ra đời đến khi nhập cõi Niết bàn. Bảo tháp Thích Ca Mâu Ni ở đây có tôn trí 13 viên Xá lợi Đức Phật, được đựng trong một hộp bằng vàng. Đây là niềm đại hạnh cho các Phật tử Việt Nam nói chung và Phật tử Vũng Tàu nói riêng. Bảo tháp ngọc Xá Lợi ở Thích Ca Phật Đài cao 17m vươn lên giữa sân hành lễ rộng khoảng 300m2, trên có búp sen. Lối lên Bảo tháp có đắp hình rồng, hai bên có đôi sư tử chầu tượng trưng cho Đại hùng - Đại lực. Dưới chân tháp có một thích án để thờ, trên khắc chữ: Nam mô Bồn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, (Hết lòng tôn kính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Dưới bốn cạnh chân Bảo tháp bát giác đặt bốn cái đỉnh lớn trong đặt bốn nắm đất thiêng được thỉnh từ nơi Ngài Đản sanh), nơi Ngài thành đạo), (nơi Ngài truyền đạo) và (nơi Ngài nhập Niết bàn) về đây. Thích Ca Phật Đài là một quần thề kiến trúc, điêu khắc với ý đồ diễn tả lại sự kiện chính trong cuộc đời Đức Phật. Nguồn: Giáo hội phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu 779 lượt xem
Linh Sơn cổ tự còn có tên gọi khác là chùa Phật Vàng (người Pháp gọi là Golden Buddha Statue) được khởi dựng trên sườn Núi Nhỏ từ những năm đầu của thế kỷ 20. Năm 1919, người Pháp xây dựng các công trình hoa tiêu và hải đăng phục vụ cho công cuộc chinh phục thuộc địa, buộc nhà chùa phải di dời xuống chân Núi Nhỏ. Viện chủ Thích Minh Thường, nguyên hòa thượng trụ trì lâu năm ở Linh Sơn cổ tự kể rằng, ban đầu chùa được xây dựng bằng tre nứa, vách cót, lợp ngói âm dương. Khoảng cuối những năm 40 của thế kỷ trước, hương chức Đình Thắng Tam cung thỉnh hòa thượng Thích Trí Tịnh về trụ trì và quản lý chùa. Sau này, hòa thượng Thích Trí Tịnh đảm đương chức vụ Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài giao cho đệ tử là cố hòa thượng Thích Tịnh Viên (viên tịch năm 1995) trụ trì. Linh Sơn cổ tự được di chuyển về vị trí gần Đình Thắng Tam và xây dựng khang trang như hiện nay. Ngôi chùa tọa lạc tại địa chỉ 104, Hoàng Hoa Thám, phường 2, TP. Vũng Tàu, cách Bãi Sau khoảng 500m. Hai bên cổng chùa là bức tượng đôi rồng chầu theo phong cách lưỡng long tranh châu. Tiếp đến là những bậc tam cấp dẫn lên chính điện có 100 pho tượng Phật phết vàng. Trong đó, đặc sắc nhất là pho tượng Phật thờ trong chánh điện, cao 1,2m, được tạc bằng đá sa thạch, điêu khắc công phu, khéo léo với những chi tiết sống động, tạo nên khuôn mặt hiền từ, nhân ái của đức Phật, có thể coi là bảo vật. Hòa thượng Thích Tịnh Định, hiện đang tu tập tại chùa, cho biết pho tượng này đã được các nhà khảo cổ thẩm định là tượng Phật của người Chăm, có niên đại từ thế kỷ thứ VII sau công nguyên. Nguồn gốc của pho tượng cũng vô cùng kỳ bí. Người ta kể rằng cách đây khoảng 100 năm có đoàn thuyền ghe chài từ miền Trung vào đánh bắt cá ở vùng biển Bãi Trước. Trong một lần lên núi kiếm củi, lấy nước ngọt, họ phát hiện 2 pho tượng Phật bằng đá trên sườn Núi Lớn, gần Bãi Dâu. Dân địa phương biết tin vội kéo đến xem và cương quyết đòi giữ lại. Sau khi đàm phán với người dân địa phương, những người đánh cá miền Trung chấp nhận giao lại pho tượng lớn cho dân làng Thắng Tam rước về thờ ở Linh Sơn cổ tự, còn pho tượng nhỏ họ đem về miền Trung. Hiện nay pho tượng nhỏ được thờ tại một ngôi chùa ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Một pho tượng khác đáng chú ý cũng đang được thờ cúng ở Linh Sơn cổ tự là pho tượng Phật Di Lặc bằng đồng, được thỉnh về từ Nam Lào năm 1972. Linh Sơn cổ tự chia thành nhiều không gian khác nhau, với kiến trúc cổ xưa, có nhiều tranh, tượng điêu khắc, chạm trổ tinh tế, mô tả các câu chuyện trong kinh Phật. Xen giữa những bức tượng Bồ Tát, La Hán đặt trong khuôn viên chùa là hồ sen và những cây hoa sứ đại thụ tỏa hương thơm dịu nhẹ. Hàng năm, chùa thường tổ chức các lễ cầu an, cầu siêu vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội Quan Âm, Đản sinh, lễ Vu Lan, lễ cúng siêu cho các vong linh thai nhi - ấu nhi đến năm 13 tuổi, lễ truyền tam quy ngũ giới. Từ nhiều năm nay, Linh Sơn cổ tự đã trở thành nơi tham quan chiêm bái ưa thích của người dân Vũng Tàu và khách thập phương. Ngôi chùa cũng đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử.
Bà Rịa - Vũng Tàu 625 lượt xem
Đình thần Thắng Tam tọa lạc trên đường Hoàng Hoa Thám, Phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, đây là một quần thể gồm Đình thần Thắng Tam, miếu Ngũ Hành và lăng Cá Ông. Đình thần Thắng Tam được xây dựng từ đời vua Minh Mạng, ban đầu đình chỉ được làm bằng tre lá, đến năm 1835 nhân dân đã đóng góp tu sửa, lợp mái ngói cho đình và đến năm 1965 đình được trùng tu, xây dựng kiên cố và giữ nguyên bố cục kiến trúc như ngày nay. Đình thờ chung cả ba người đã có công xây dựng nên ba làng ở Vũng Tàu, đó là Phạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc và Ngô Văn Huyền. Vào thời vua Gia Long, bọn hải tặc thường hay đột nhập cửa sông Bến Nghé đón đường cướp bóc tiền bạc, hàng hoá. Để bảo vệ thương thuyền của người Việt, vua Gia Long liền phái ba đội quân đi trên ba chiếc thuyền bảo vệ sự thanh bình của bờ biển cửa ngõ, và khai hoang lập ấp, làm ăn sinh sống. Khoảng năm Minh Mạng thứ 3 (1822), tình trạng hải tặc không còn nữa, nhà vua ban chiếu khen thưởng chức tước, phẩm hàm và phần đất mà ba đội quân có công khai phá cho họ. Từ ba vị trí của ba đội quân dần dần hình thành nên ba làng. Làng thứ nhất gọi là làng Thắng Nhất do ông Phạm Văn Dinh cai quản, làng Thắng Nhì do ông Lê Văn Lộc cai quản, làng Thắng Tam do ông Ngô Văn Huyền cai quản. Sau này, ba ông trở thành Tiền Hiền được thờ tại ba ngôi đình của ba làng nói trên. Đình có kiến trúc theo lối nối tiếp gồm bốn ngôi nhà nối liền nhau bằng một lối đi bên hông, đó là Tiền Hiền – Hội Trường – Đình Trung – Sân khấu võ ca. Trong đình bài trí nhiều đồ lễ chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngôi Tiền hiền được lợp bằng ngói âm dương, trên mái có “lưỡng long chầu nguyệt” đắp nổi. Đầu các đòn tay, xà gồ, cột đều chạm khắc hình rồng. Nội thất nhà Tiền Hiền bày 4 bàn thờ gồm bàn thờ Thổ Công, Tiền Hiền, Hậu Hiền và Tiền Vãng - Hậu Vãng. Hội trường là nơi sinh hoạt của các hội viên. Tiếp sau phần hội trường là ngôi Đình Trung có cấu trúc tương tự ngôi Tiền Hiền, bày 10 bàn thờ gồm bàn thờ Thần Nông, Thiên Y A Na, Ngũ Đức, Thánh Phi, Hậu Hiền, Hội Đồng, Phụ Án - Cao Các, Thiên Sư, Ngũ Thơ và Ngũ Tự - Tiền Hiền. Còn sân khấu võ ca là nơi diễn tuồng, hát bội khi đình có lễ. Miếu Bà Ngũ Hành Phía bên tay trái cổng khu di tích là Miếu Bà Ngũ Hành. Miếu được xây dựng vào cuối thế kỉ 19 thờ năm bà nữ thần: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngoài ra miếu còn thờ 2 vị hộ quốc được vua thăng Thượng Đẳng Thần là bà Thiên Y A Na và Thủy Long Thần Nữ. Miếu Bà Ngũ Hành được xây dựng theo lối kiến trúc một gian hai chái, trên mái có lưỡng long chầu nguyệt. Trong Miếu có 8 bàn thờ: giữa chính điện là bàn thờ 5 bà Ngũ Hành và hai vị Thượng Đẳng Thần; hai bên là bàn thờ 5 cô và 5 cậu; bên trái thờ Quan Công, Quan Bình và Châu Xương là những bậc trung nghĩa sẵn sàng cứu hộ những người đi biển khi họ gặp chuyện không may; Bên phải là bàn thờ Ông Địa – Thổ Công; phía sau là bàn thờ Tiền Hiền và những người giàu lòng nhân ái, độ lượng trong làng. Lăng Cá Ông nằm bên phải của khu di tích được xây dựng cùng thời kỳ với Miếu Bà ngũ Hành. Trong lăng hiện nay có một phần bộ xương của Cá Ông khổng lồ do ngư dân Vũng Tàu vớt được từ khoảng 100 năm trước. Lăng có kiến trúc theo lối cổ xưa, bên trong trưng bày tủ kính lớn chứa xương của Cá Ông và tương xứng với ba bàn thờ. Hai bên có thêm hai bàn thờ của Bà Sáu (Thần Rùa) và tổ nhạc. Hiện nay, khu di tích Đình thần Thắng Tam còn lưu giữ 12 sắc phong của vua Thiệu Trị và Tự Đức, trong đó có 6 sắc phong cho Đại Càn Quốc Gia Nam Hải (Cá Ông), 3 sắc phong cho Thiên Y A Na diễn Ngọc Phi và 3 sắc phong cho Thủy Long Thần Nữ. Hàng năm, đình thần Thắng Tam có 3 lễ hội lớn là cầu an (từ 17 đến 20 tháng 2 âm lịch), Nghinh Ông (từ 16 đến 18 tháng 8 âm lịch) và miếu Bà (từ 16 đến 18 tháng 10 âm lịch). Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu 709 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng Đồn nhà máy nước Vũng Tàu tọa lạc trên đường 30 tháng 4, phường 9, TP Vũng Tàu, nằm giữa Trường THPT Trần Nguyên Hãn và Công ty Cổ Phần Cấp nước Bà Rịa – Vũng Tàu. Đồn nhà máy nước tuy chỉ là một di tích có quy mô khiêm tốn, nhưng để lại những giá trị lịch sử đấu tranh cách mạng với nhiều trận đánh ác liệt, nêu cao tinh thần vì độc lập của quân và dân ta. Di tích Đồn nhà máy nước Vũng Tàu nằm cách nút giao đường Nguyễn An Ninh – Phạm Hồng Thái – 30 tháng 4 (ngã tư Giếng nước) khoảng hơn 50m. Di tích này có chiều dài khoảng 5m, rộng 3,7m, cao gần 4m, được xây dựng bằng đá, gạch, vôi, xi măng, sắt thép và gỗ. Đây là một công trình quân sự nhỏ, chia làm hai tầng, ngăn cách bằng một bức sàn gỗ, có các lỗ châu mai hướng về bốn phía. Thời kỳ chiến tranh, địa thế Vũng Tàu (Ô Cấp) có ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự, nên quân Pháp chiếm đóng đã bắt tay xây dựng bến cảng và sân bay ngay từ khi đặt chân đến Vũng Tàu. Khi đó, tại vùng đất được biển bao bọc này, nước ngọt là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nên người Pháp đã xây dựng hệ thống cấp nước (giếng khoan, nhà máy lọc nước…) ngay tại vị trí gần ngã tư Giếng nước TP Vũng Tàu ngày nay. Để bảo vệ sân bay, bến cảng và hệ thống đầu nguồn cấp nước cho cả Vũng Tàu, quân Pháp lập một đồn lính nằm ngay bên cạnh nhà máy nước, nên gọi là Đồn nhà máy nước. Đồn này do lực lượng bảo an chiếm giữ với quân số khoảng một đại đội, được trang bị hỏa lực mạnh, án ngữ cửa ngõ Vũng Tàu lúc bấy giờ. Thời ấy, địch kiểm soát gắt gao việc đi lại của người dân ở khu vực này, khiến cho hoạt động của quân dân ta gặp khó khăn. Vì vậy, Đồn nhà máy nước trở thành mục tiêu cần phải tiêu diệt của lực lượng vũ trang cách mạng. Năm 1948, Ban hành động Cấp, Công an xung phong, Đội trinh sát 51 và lực lượng của Thị đội Cấp đã 2 lần tấn công vào Đồn nhà máy nước, phá đồn, thu 150 súng các loại. Các trận đánh tiến công Đồn nhà máy nước đều rất ác liệt, góp phần tiêu hao sinh lực và hỏa lực địch, ghi dấu chiến công trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu năm xưa. Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, chính quyền đặc khu đã cho xây dựng bức phù điêu trước Đồn nhà máy nước kỷ niệm chiến thắng 2 trận đánh đồn năm 1948. Đồng thời, gắn biển khắc nội dung giới thiệu giá trị lịch sử tiến công địa điểm quân sự này. Ngày 4/8/1992, Bộ Văn Hoá-Thông Tin đã công nhận Đồn nhà máy nước Vũng Tàu là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
Bà Rịa - Vũng Tàu 669 lượt xem
Di tích cấp Quốc gia nhà 86 Phan Chu Trinh (hiện nay là số 5 Phan Chu Trinh, phường 2, TP Vũng Tàu) từng là nhà của viên quan tư người Pháp Pierre Chappus nằm trên đường Phan Chu Trinh, dưới chân Núi Nhỏ. Ngôi nhà được xây dựng theo lối kiến trúc cũ đầu thế kỷ 20 của Pháp. Trong thời kỳ chiến tranh, ngôi nhà này từng là nơi nuôi giấu cán bộ hoạt động cách mạng. Ông Pierre Chappus có cha là người Pháp, mẹ là người Việt Nam. Ông là quan tư của chính quyền Pháp, chủ Sở Hải Đăng Vũng Tàu. Ngôi nhà của ông Pierre Chappus lúc đó tường xây bằng đá xanh, mái lợp ngói tọa lạc trên mảnh đất chiếm khoảng 100m mặt tiền đường Phan Chu Trinh và sâu vào 80m. Chung quanh nhà có nhiều cây ăn trái như dừa, xoài, mãng cầu, vú sữa, ổi, chanh… Phía sau nhà có hồ sen rất lớn và một cây vải thiều cỡ hai người ôm. Ông Pierre Chappus tuy là quan chức của Pháp, nhưng ông lại có cảm tình với cách mạng Việt Nam, đặc biệt rất kính trọng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trong lúc điều kiện vật chất, đời sống vô cùng khó khăn, ông ủng hộ cho Việt Minh tiền của, lúa gạo, cùng 50 con bò. Ông đã sử dụng ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh của mình làm nơi nuôi giấu, bảo vệ cán bộ hoạt động bí mật, trong đó có đồng chí Nguyễn Hoài Đức, Thị đội trưởng Vũng Tàu. Thời bấy giờ, nhà ông Pierre Chappus luôn nuôi 5-7 con chó, mỗi con đặt một cái tên, mỗi khi nghe tiếng người lạ tới thì bầy chó sủa đánh động ở cửa trước, các đồng chí cán bộ liền len lỏi theo vườn cây ăn quả thoát ra bằng cửa sau. Những trường hợp là người quen (cán bộ) vào cổng, chó sủa, ông chỉ việc kêu tên từng con một là chúng nằm im không sủa. Thời kỳ chống Mỹ, ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh được ông Pierre Chappus đồng ý cho cách mạng đặt làm Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh, thể hiện tấm lòng đầy thiện cảm đối với cách mạng Việt Nam. Ông cảm động nói với các cán bộ: “Các chú cứ lấy nhà tôi mà làm việc, rủi khi tôi có bị địch bắt mà chết thì đó cũng là một vinh dự cho tôi được chết cho cách mạng Việt Nam”. Năm 1957, Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh chính thức đặt tại nhà ông Pierre Chappus. Thường trực Văn phòng gồm đồng chí Trịnh Phong Đán và đồng chí Hồ Sĩ Hành. Lúc này, nhà ông Pierre Chappus nuôi 10 con chó, đây là “lực lượng” quan trọng trông giữ nhà rất hữu hiệu, bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Tới cuối năm 1958, Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh phải chuyển đi nơi khác để bảo đảm bí mật, nhưng ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh vẫn là cơ sở để cán bộ lui tới nhờ sự giúp đỡ, vận động tiền và vật chất cho cách mạng. Ông Pierre Chappus mất vào năm 1959 ngay tại căn nhà 86 Phan Chu Trinh, thọ 81 tuổi. Ngày 4/8/1992, ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh được Bộ Văn Hoá –Thông tin Thể thao –Du Lịch công nhận là di tích cấp Quốc gia. Theo đó, vào những dịp lễ, Tết, Trường Trung Học Đoàn Kết thường tổ chức cho các em học sinh đến dọn dẹp vệ sinh và tham quan nhà 86 Phan Chu Trinh, đồng thời giới thiệu cho các em về lịch sử đấu tranh giữ nước trường kỳ và hào hùng của dân tộc. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
Bà Rịa - Vũng Tàu 699 lượt xem
Di tích lịch sử “Nhà cao cẳng” tọa lạc ở số 18, đường Lê Lợi, TP Vũng Tàu là nơi diễn ra nhiều cuộc họp bí mật của Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh trong những năm tháng kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Nhà cao cẳng rộng 160m2, và sở dĩ có tên gọi như vậy vì phía dưới ngôi nhà là hàng 4 dãy cột đá, mỗi cột cao 2,2m, cạnh vuông 40cm như đôi chân chống đỡ ngôi nhà. Nhà được xây dựng theo kiến trúc kiểu nhà nghỉ biệt lập, có hàng rào, sân vườn bao quanh. Nhà được chia thành 2 khu: khu nhà chính và khu nhà phụ. Khu nhà chính gồm 2 tầng, tầng trệt là dãy cột trụ chống đỡ cả ngôi nhà. Tầng lầu là nơi ở chính của ngôi nhà, được thiết kế 2 mặt trước và sau có cầu thang lên xuống, xây thoai thoải từ phía ngoài trời dẫn lên lầu. Bên trong có một sảnh lớn dùng để tiếp khách và các phòng nhỏ dùng để nghỉ ngơi. Ở các phòng đều có cửa sổ hướng ra khu vườn, tạo nên một không gian tĩnh lặng. Mái nhà được lợp bằng ngói tây, tương tự mái nhà của dân tộc Thái, mái dốc xuống ở 4 phía, 2 phía đầu hồi đều có tam giác nhỏ để đón gió chống nóng. Khu nhà phụ là gian nhà rộng 2,25m, mái ngang 6m dùng làm nhà bếp và lối dẫn lên nhà chính. “Nhà cao cẳng” được ông Deloudet, Công chức, Sĩ quan người Pháp làm việc ở Sài Gòn cho xây dựng hoàn thành vào khoảng năm 1949. Ngôi nhà được xây để ông cùng vợ là bà Chau Chon làm nơi nghỉ mát ở Vũng Tàu. Xung quanh khu vực “Nhà cao cẳng” có nhiều biệt thự và khu nghỉ mát, hướng ra bãi biển, an ninh được kiểm tra rất nghiêm ngặt. Năm 1950, ông Deloudet về Pháp, ngôi nhà trở thành tài sản của bà Chau Chon. Đến năm 1951, bà bán ngôi nhà này cho kỹ sư nông nghiệp Nguyễn Văn Chiến. Năm 1952, ông Ba Trà, công nhân một nhà máy nước ở Bà Rịa được giao trọng trách trông coi “Nhà cao cẳng”. Ông là một người nhiệt tình tham gia vào các phong trào cách mạng của Đảng bộ; ông nhiều lần bị giặc bắt, được thả và luôn nằm trong tầm ngắm của quân địch. Với tinh thần yêu nước, tại Vũng Tàu, ông nhanh chóng kết nối với Đảng và tiếp tục làm cơ sở bí mật cho các cán bộ hoạt động cách mạng. Lợi dụng sự lơ là, thiếu cảnh giác của địch, trong thời gian từ năm 1956-1959, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh đã biến “Nhà cao cẳng” và các biệt thự xung quanh thành cơ sở cách mạng, làm nơi ăn, chốn ở, nơi đi lại sinh hoạt hội họp của các đồng chí lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại đây, dưới sự chỉ dẫn dắt của đồng chí Năm An Chi, phong trào cách mạng trong quần chúng nhân dân phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Trong các năm 1956, 1957, nhiều cuộc họp bí mật diễn ra tại “Nhà cao cẳng”. Trong cuộc họp, nhiều chủ trương của Đảng được triển khai, kịp thời bám sát tình hình, thúc đẩy phong trào cách mạng địa phương phát triển. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1959, chính tại nơi đây, Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức cuộc họp với Huyện ủy Vũng Tàu nhằm kiểm tra công tác học tập Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và triển khai những Chỉ thị của Đảng bộ liên tỉnh miền Đông; chương trình vận động phong trào quần chúng nhân dân chống luật của chính quyền Ngô Đình Diệm . Hiện tại di tích lịch sử cách mạng “Nhà cao cẳng” nằm trong khuôn viên của Cục Hải quan TP Vũng Tàu và do đơn vị này quản lý. Phần lớn kiến trúc ngôi nhà vẫn được giữ nguyên vẹn. Do chỉ tồn tại trong thời gian ngắn của thời kỳ đầu kháng chiến chống đế quốc Mỹ nên các hiện vật không được lưu lại. Năm 1991, “Nhà cao cẳng” được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử cách mạng. Nguồn: Báo Bà Rịa – Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu 725 lượt xem
Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu (số 1, Ba Cu, TP Vũng Tàu) trước đây là trụ sở Ủy ban Việt Minh. Trải qua các thời kỳ chiến tranh, nơi đây vẫn còn lưu giữ nguyên vẹn các hình ảnh về ký ức lịch sử đấu tranh hào hùng của quân dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu được xây dựng từ năm 1908-1913 với diện tích đất rộng 6.580m2. Nhà được xây dựng theo kiến trúc công sở thời Pháp thuộc, vốn là văn phòng chỉ huy quân sự khu vực Vũng Tàu từ thập niên đầu của thế kỷ 18 đến khi Nhật đảo chính Pháp. Đó là một ngôi biệt thự xây cất đồ sộ có hai tầng thoáng mát, đủ tiện nghi, nằm sát biển ở Bãi Trước. Trong khu biệt thự còn có văn phòng tham mưu trực thuộc, nơi thường xuyên có sĩ quan Pháp làm việc. Các đồng chí lãnh đạo Ủy ban Việt Minh đã nhanh chóng bắt liên lạc với xứ ủy Nam kỳ qua đồng chí Dương Bạch Mai, nhận Chỉ thị chuẩn bị cướp chính quyền. Qua đó trích “Chương trình Việt Minh”, viết truyền đơn rải khắp thị xã kêu gọi nhân dân Vũng Tàu nổi dậy và chuẩn bị lực lượng vũ trang làm bạo lực cách mạng cho cuộc khởi nghĩa. Trong những ngày khởi nghĩa, các đồng chí lãnh đạo cốt cán cùng lực lượng bảo vệ, cảm tử quân hơn 40 người ngày đêm túc trực, làm việc tại trụ sở. Ngày 28/8/1945, tại sân vận động Lam Sơn cách trụ sở Ủy ban Việt Minh 300m, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Việt Minh Thị Xã Vũng Tàu, cuộc mít tinh khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân địa phương giành thắng lợi. Trong những năm tháng đấu tranh gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Ủy ban Việt Minh đóng vai trò là lãnh đạo nòng cốt bám trụ Vũng Tàu, Bà Rịa và các tỉnh miền Đông Nam bộ. Cuối năm 1945, Vũng Tàu-Bà Rịa sát nhập thành 1 tỉnh, các đồng chí lãnh đạo trong Ủy ban Việt Minh và chi bộ Đảng được điều về Bà Rịa, trụ sở cũng được di dời. Sau khi đất nước được giải phóng, di tích trụ sở Ủy ban Việt Minh đã có những đóng góp không nhỏ vào công tác du lịch của thành phố biển Vũng Tàu. Năm 1978, di tích đã được xây dựng thêm một số công trình phụ như nhà trệt ở phía sau, lắp đặt máy điều hòa nhiệt độ ở bên trong, xây thêm phòng trên lầu, cải tạo mặt bằng ngoại thất… Tuy nhiên không làm ảnh hưởng nhiều đến cảnh quan xung quanh và thiết kế chính của ngôi nhà. Năm 1991, trụ sở Ủy ban Việt Minh được Bộ Văn Hoá-Thông Tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và đổi tên thành Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu. Hiện nay, để phục vụ nhu cầu tìm hiểu lịch sử, tham quan di tích của người dân địa phương, bên trong hai tầng nhà truyền thống được sử dụng làm thư viện, nơi trưng bày, triển lãm, tổ chức hội họp. Phía tầng lầu là phòng trưng bày hình ảnh, tư liệu lịch sử, hình ảnh lãnh đạo của thành phố qua các thời kỳ và nhiều những hiện vật khác... Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
Bà Rịa - Vũng Tàu 753 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng nhà má Tám Nhung (Hồ Thị Khuyên) số cũ 42 trên 11 đường Trần Phú, nay là số 1, Trần Xuân Độ phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nằm dưới chân núi Lớn, cách ngã tư Bến Đình phường Thắng Nhì, khoảng 100 mét về phía tây. Trước đây là một khu vườn rậm rạp, yên tĩnh gồm nhiều cây ăn trái do ông bà Tám Nhung khai phá, gây dựng. Tại ngôi nhà này vào những ngày cách mạng tháng Tám 1945 là nơi họp của Ủy ban mặt trận Việt Minh, trong 2 cuộc kháng chiến ngôi nhà là cơ sở nuôi dấu cán bộ hoạt động trong nội ô của Tỉnh ủy, Thị ủy Vũng Tàu…Với giá trị và ý nghĩa lịch sử tiêu biểu năm 1989 nhà má Tám Nhung (Hồ Thị Khuyên) được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích cấp quốc gia. Hiện nay ngôi nhà của má Tám Nhung đã được trùng tu, tôn tạo vào năm 2015, di tích trở thành điểm tham quan giáo dục truyền thống về một bà mẹ Việt Nam tiêu biểu, sáng người chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thành phố Vũng Tàu trong hai thời kỳ kháng chiến thật giản dị, nhân hậu mà trung kiên, bất khuất…đã hết lòng ủng hộ, bí mật nuôi dấu cán bộ cách mạng an toàn cho đến ngày miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất. Má Hồ Thị Khuyên sinh năm 1905, mọi người trong xóm thường gọi với tên thân mật là má Tám Nhung (vì chồng của má là ông Nguyễn Văn Nhung). Ông Nhung cũng là một người có tinh thần yêu nước, căm thù thực dân Pháp và bọn địa chủ cường hào, ác bá, sớm được giác ngộ cách mạng. Năm 1930 ông tham gia cướp chính quyền tại 18 thôn Vườn Trầu. Cuộc khởi nghĩa thất bại ông bị thực dân Pháp bắt. Chúng dùng mọi thủ đoạn mua chuộc tra tấn dã man nhưng ông không hề khai báo. Thân hình ông bị chúng đánh đập đến tàn phế, rồi lưu đày biệt xứ.. Khoảng năm 1941-1942 ông Nguyễn Văn Nhung từ Gò Công (Tiền Giang) đến khu vực Núi Lớn (Vũng Tàu) sinh sống sau đó ông xây dựng gia đình với bà Hồ Thị Khuyên. Hai ông bà chặt cây, khai hoang đất đai dưới chân Núi Lớn, phường Thắng Nhì để làm nhà, trồng cây ăn trái. Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại phong trào cách mạng ở nhiều tỉnh khu vực Nam Bộ tạm thời lắng xuống trước sự đàn áp dã man của thực dân Pháp. Tại Bà Rịa -Vũng Tàu các cơ sở cách mạng không bị vỡ, tiếp tục duy trì hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng tháng Tám 1945. Vợ chồng ông bà Tám Nhung đã kịp thời bí mật liên lạc với Ban Việt Minh và binh vận ở Vũng Tàu. Hình thành bộ phận cốt cán trong cuộc vận động giành chính quyền 1945. Ngôi nhà của ông bà Hồ Thị Khuyên là nơi thành lập Ủy ban khởi nghĩa, quyết định giành chính quyền tại Vũng Tàu. Trong suốt thời kỳ 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) ông bà Hồ Thị Khuyên tiếp tục bí mật tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1962 trước sự khủng bố khắt khe của kẻ thù má Hồ thị Khuyên chuyển về hoạt động tại xã Tân Điền, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, má tham gia trong Hội mẹ chiến sĩ, trực tiếp đi đặt chông, gài mìn tiêu diệt địch …Năm 1968 giặc bình định xã Tân Điền, huyện Gò Công, Tiền Giang má Tám bị địch bắt và giam giữ 2 tháng. Trong trại má Tám bị chúng dùng đủ mọi cực hình tra tấn, té nước, tra điện vào đầu ngón chân, ngón tay… nhưng má kiên quyết không khai báo. Cuối cùng không có chứng cớ má Tám được trả tự do và trở về Vũng Tàu. Vào thời gian này địch ráo riết lập thêm nhiều đồn bót, kiểm soát gắt gao. Nhiều cơ sở cách mạng tại Vũng Tàu phải chuyển sâu vào Rừng Sác, sang Núi Dinh, Thị Vải… Để lãnh đạo phong trào cách mạng Thị ủy Vũng Tàu quyết định bám trụ các cơ sở. Nhà má Tám được giao nhiệm vụ bí mật nuôi dấu các cán bộ cách mạng. Để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho anh em hoạt động má Tám nghĩ ra cách trú ẩn độc đáo bằng cách xây một căn hầm bí mật tại ngôi nhà của gia đình. Đến thăm ngôi nhà và căn hầm bí mật của gia đình má Hồ Thị Khuyên chúng ta càng thêm tự hào về tinh thần yêu nước, tấm lòng nhân hậu, cao cả của một người mẹ Việt Nam anh hùng trọn đời hy sinh vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Nguồn: Bảo Tàng Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu 680 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2507 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2402 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2024 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 1872 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 1800 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 1711 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 1684 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 1661 lượt xem
Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395 ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như: Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh. Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc. Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV. Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ. Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930. Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích. Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản… Thành cổ Thăng Long - Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/8/2009. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hà Nội 1610 lượt xem
Mộ Ông Ích Khiêm toạ lạc tại nghĩa trang xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 10km về phía tây - nam. Ông Ích Khiêm, tự là Mục Chi, sinh ngày 21/12/1829 tại làng Phong Lệ Bắc, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang. Ông thi đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và làm quan dưới triều vua Tự Đức. Nổi tiếng là người thông minh, chính trực, là một vị tướng khẳng khái và mưu lược, ông có công trong việc cầm quân bảo vệ Đà Nẵng khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta. Xuất thân từ một gia đình thuần nông, nhưng Ông Ích Khiêm đã sớm bộc lộ tài trí thông minh hơn người. Sau khi đỗ cử nhân vào năm 15 tuổi, ông về làm quan dưới triều vua Tự Đức, giữ chức Tiểu Phủ Sứ, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Trong sự nghiệp làm quan, ông từng đạt tước vị cao nhất là Tả thị lang Bộ binh. Với tính cách bộc trực, khảng khái và có phần nóng tính, lại sinh vào thời chính trị nhiễu loạn, con đường quan lộ của Ông Ích Khiêm gặp rất nhiều sóng gió, trắc trở. Ông thường đương đầu trực tiếp với bọn cường hào, ác bá, từng bị hại phải cách chức. Khi đó ông trở về quê nhà phát triển nông nghiệp, mua và phát đất cho bà con làm ruộng, hướng dẫn người dân làm đường, đào kênh mương, dẫn nước tưới. Vào năm 1858, khi thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng và xâm phạm chủ quyền nước ta, nhà vua gọi ông về nhậm chức mới, cầm quân bình định xứ sở. Xuất thân là quan văn nhưng thời thế đã khiến Ông Ích Khiêm trở thành quan võ. Trong quá trình làm tướng, ông nhiều lần bị cách chức rồi lại lập công lớn và phục chức nhờ tài năng quân sự không thể phủ nhận. Tuy nhiên đến năm 1884, khi hay tin vua Tự Đức qua đời, bản thân lại đang bị giam cầm tại nhà ngục Bình Thuận, triều đình rối ren, vị chí sĩ đã quyên sinh, hưởng thọ 55 tuổi. Đầu năm 1885, ông được truy phục hàm Thị độc. Cho đến nay, tài năng, phẩm giá và công lao của Ông Ích Khiêm vẫn lưu trong sử sách và được người đời ghi nhớ, ca tụng. Ông Ích Khiêm mất ngày 19/ 7/ 1884 tại Bình Thuận. Con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa thi hài ông về quê và mai táng tại làng Phong Lệ. Ngôi mộ được xây theo hình bát giác, có chiều dài từ cổng vào là 13,8m; chiều rộng 6,1m; tường bao xung quanh mộ cao 0,72m. Nấm mộ có chiều dài 4,75m; rộng 3,5m; cao 0,35m. Phía trước mộ có nhà bia, bên trong đặt một tấm bia bằng đá cẩm thạch cao 0,83m; rộng 0,54m được trang trí hình rồng, phụng và hoa lá. Mộ Ông Ích Khiêm được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích quốc gia vào ngày 12/7/2001. Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch
Đà Nẵng 1601 lượt xem