Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Chùa Giác Linh tọa lạc trên một động cát cao thuộc ấp Nhứt A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Chùa Giác Linh còn gọi là chùa Dơi vì trước đây trong khuôn viên chùa có rất nhiều loài chim trú ngụ trên các cây cổ thụ trong đó có loài dơi quạ, cho nên bà con lấy đặc điểm này để gọi tên chùa. Bước vào cổng chùa, bên phải là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát khá lớn, đang mở lòng từ bi bát ái đem phép mầu nhiệm cứu độ chúng sinh. Đi thêm vài chục mét, ta sẽ gặp ngôi chùa. Chùa dựng trên một khoảnh đất cao, được bao quanh um tùm bởi nhiều loại cây: mã tiền, mù u, nhọc, tre tạo nên nét u tịch, linh thiêng. Vào trong chùa, ta sẽ nhận thấy được nét khác biệt của chùa Giác Linh với những chùa Phật khác. Bàn thờ Phật không bố trí tượng thờ theo thứ tự: Tam Thế Phật, Di Đà, Tam Tôn như ở những chùa Phật Đại thừa (Mahayana) thường có. Chùa không chỉ thờ Đức Phật cùng những vị liên quan đến Phật giáo: Bồ Tát, La Hán mà còn thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, và dung hợp cả tín ngưỡng dân gian: Bà Chúa Xứ, Táo Quân, Cậu Tài, Cậu Quí. Chính từ cách nghĩ của những nhà tu, cho nên phật tử không chỉ chú trọng việc đạo mà cả việc đời. So với những ngôi chùa khác về qui mô xây dựng, giá trị kiến trúc, điêu khắc thì chùa Giác Linh quả khiêm tốn. Chùa chỉ có bộ bao lam bằng gỗ sơn son thiếp vàng với đề tài tứ linh là đáng nói. Tuy nhiên, ngôi chùa thật giàu thành tích cách mạng. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, Linh Sơn Điện đã là tụ điểm hội họp, sinh hoạt của những nghĩa sĩ yêu nước chống Pháp trong tổ chức Thiên Địa Hội. Năm 1922, tổ chức Thanh Niên Đỏ của tỉnh được thành lập nơi đây, trong đó có đồng chí Dương Quang Đông. Rồi một trong ba Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Trà Vinh – Chi bộ Mỹ Long cũng chọn địa điểm này hội họp thường xuyên trong những năm đầu thành lập. Và trong cuộc biểu tình của 300 nông dân năm 1931 đòi dân sinh, dân chủ băng rôn, cờ búa liềm bay trên rào chùa. Đến năm 1934 – 1935, chùa lại được chọn làm trụ sở của cơ quan Liên Tỉnh uỷ Vĩnh – Trà – Bến. Giai đoạn cận Cách mạng Tháng 8 năm 1945, để nắm bắt thời cơ khởi nghĩa giành thắng lợi, ngôi chùa lại chứng kiến một cuộc họp trù bị nhằm củng cố lại Xứ uỷ, do đồng chí Dương Quang Đông triệu tập. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ni cô Phụng – một bậc chân tu của chùa đã dùng tiếng mõ làm tín hiệu triệu tập hoặc giải tán cán bộ cách mạng khi hội họp hay lẩn tránh lúc có động. Sang giai đoạn chống Mỹ cứu nước, ni cô Phụng trở thành ni sư trụ trì chùa, dưới sắc áo nhà tu đã che mắt bọn địch bằng những chuyến hành hương, để vận chuyển vũ khí cho tổ chức cách mạng. Những năm 1966 – 1967 chiến tranh ác liệt, mặt phía tây nam trong khuôn viên chùa có một hệ thống chiến hào dài hơn 300m được đào nhằm chống lại các cuộc hành quân, càn quét của địch. Cũng trong giai đoạn này, dựa vào sự tĩnh mịch của chốn tu hành, sự um tùm của cây cối, hàng chục hầm bí mật được đào trong khuôn viên chùa để cán bộ ẩn tránh. Đặc biệt, cả đại hồng chung cũng được nhà chùa hiến cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc. Năm 1970, địch đến đóng đồn sát rào chùa, nhằm khống chế cách mạng vùng Mỹ Long và cũng để theo dõi các nhà tu hành. Dù vậy, ni sư Phụng vẫn một lòng một dạ bám trụ chùa, để một năm sau ta đã công kích bọn chúng phải bỏ đồn rút chạy. Chùa Giác linh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 24/01/1998. Chốn Thiền môn bất cấm vô duyên khách này giờ đây luôn rộng cửa đón chúng ta đến suy ngẫm về đạo về đời. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh
Trà Vinh 1564 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6794 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6160 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4153 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4115 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4047 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3809 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3735 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3629 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3544 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3357 lượt xem
Nằm cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 5 km, Ao Bà Om hiện là một trong những địa điểm nổi tiếng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, khám phá. Mang trong mình nét đẹp thiên nhiên hoang sơ, mộc mạc - Ao Bà Om đem đến cho bạn cảm giác gần gũi, thân quen vô cùng. Với chiều dài 500m, chiều rộng 300m, ngạc nhiên và bất ngờ là những ấn tượng đầu tiên mà Ao Bà Om mang lại cho du khách khi đến thăm nơi này. Nghe đến ao, hầu hết các bạn sẽ nghĩ nó nhỏ bé, nhưng thật sự Ao Bà Om rộng như một cái hồ. Bốn bề xung quanh là những rặng cây cổ thụ lâu năm như cây dầu, cây sao. Mặt hồ yên ả, nước trong veo kết hợp với màu xanh mướt của cỏ cây tạo nên một bức tranh phong cảnh quê hương bình lặng, hữu tình. Những cây sao, dầu sống lâu năm có một phần rễ đã bén sâu trong lòng đất, một phần rễ nổi lên trên tạo thành nhiều hình thù khác nhau. Rất nhiều rễ to lớn trở thành ghế ngồi của khách dừng chân, hay những cái hang để trẻ con vui đùa. Chiều về, khi hoàng hôn dần buôn xuống, Ao Bà Om thực sự là nơi dạo chơi lý tưởng ở Trà Vinh. Những cây cổ thụ cao vút che mát cả một vùng trời, tựa lưng vào thân cây hay nằm dưới bãi cỏ ngắm nhìn cảnh quan, đất trời. Nhìn bọn trẻ con tung tăng nô đùa, đạp xe vòng quanh lòng bỗng yên bình đến lạ. Vào các dịp lễ, khi màn đêm bao trùm, những chiếc đèn được thả đầy mặt nước, biến Ao Bà Om lung linh, huyền ảo mà đẹp đến nao lòng. Nhiều loại đèn với đủ đầy các kích cỡ được thả tung lên trời mang theo ước mong vạn vật yên bình, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Ngoài thăm thú cảnh vật, dạo mát thì đến với Ao Bà Om du khách còn được thưởng thức những món ăn ngon như bánh thốt nốt, bánh canh, bún mắm, … ở khu chợ nhộn nhịp hai bên đường dẫn vào ao, hoặc những món ăn, thức uống mang đầy hương vị tuổi thơ như đá bào, cá viên chiên, … qua những gánh hàng rong, xe bán đồ ăn vặt quanh đó. Những món ăn bình dị với giá cả phải chăng là điều mà nhiều khách tham quan thích thú khi đến đây. Để lại sự ồn ào, tấp nập của phố thị, để lại tiếng người, tiếng còi xe chen chúc nhau trên đường, cùng tìm về với Ao Bà Om để cảm nhận sự thanh bình nơi làng quê, hít thở không khí trong lành, hòa mình với thiên nhiên. Đây sẽ là một trải nghiệm đáng nhớ với mỗi du khách.
Trà Vinh 1940 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm riêng một góc bên bờ Đông của tỉnh Trà Vinh, giữa hai cửa biển Cung Hầu và Định An, cầu nối giữa đất liền và biển Đông rộng lớn, biển Ba Động được xem là một trong những bãi biển đẹp nhất Đồng bằng sông Cửu Long. Bãi biển là khu vực trực thuộc xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Sở dĩ vùng biển này được gọi là Ba Động vì khi thủy triều lên xuống, trên bãi biển hình thành ba cồn cát, người dân ở đây gọi cái tên thân thương là Ba Động, tức động cát. Ba Động có bờ biển trải dài hơn 10km cùng bầu không khí trong lành, mát mẻ đặc trưng của miền biển Nam Bộ. Là một trong những bãi biển hiếm hoi của vùng Tây Nam Bộ vẫn giữ được màu nước trong vắt dù thượng nguồn sông Mê Kông hằng năm đổ về lượng phù sa rất lớn, du lịch biển Ba Động hiện đang là lựa chọn số 1 của bà con miền Tây khi có nhu cầu đi chơi biển trong phạm vi gần. Đặc biệt, nơi đây ngày càng thu hút được nhiều du khách phương xa trong hành trình tìm hiểu và khám phá xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh. Với những vẻ đẹp khác biệt mà thiên nhiên ưu ái ban tặng, không có gì ngạc nhiên khi biển Ba Động được khai thác du lịch và nghỉ dưỡng ngay từ thời thuộc địa. Người Pháp sau khi sang Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động du lịch phục vụ người bản xứ như xây dựng khu nghỉ mát ven biển (nay là địa danh Nhà Mát), mở sân golf (nay là địa danh Cồn Cù). Sau giai đoạn chiến tranh ác liệt, người Pháp rút khỏi Việt Nam, tỉnh Trà Vinh được thành lập, các quan chức của tỉnh tiếp tục cho triển khai và đẩy mạnh du lịch tại đây, đưa Ba Động trở thành điểm nghỉ dưỡng lý tưởng bậc nhất miền Tây. Vốn có bãi biển kéo dài cùng bờ cát nhấp nhô sóng gợn, hai bên là hàng phi lao xanh mát, đi dạo dọc bờ biển vào các thời điểm bình minh hay hoàng hôn sẽ là một trải nghiệm thật chill. Khác với màu trong xanh khi trời đứng bóng, hoàng hôn và bình minh tại biển Ba Động lại khoác lên mình bộ áo đỏ rực, quyến rũ và ấm áp. Xa xa ngoài khơi tô điểm thêm một vài tàu thuyền đánh cá giữa mênh mông sóng nước sẽ khơi gợi lên cảm giác bình yên trong lòng người lữ khách. Du lịch biển Ba Động mà không hòa mình vào dòng nước trong vắt nơi đây thì xem như chưa đặt chân đến. Bãi biển này có ưu điểm là bờ cát nông, những con sóng rất nhỏ, lăn tăn, không có sóng lớn và hiệu ứng chảy ngược ra ngoài khơi nên rất an toàn. Du khách có thể thỏa sức đắm mình vào thiên nhiên tươi mát mà không cần lo lắng về sự cố. Do đặc tính bãi biển bình yên nên các môn thể thao dưới nước khá được ưa chuộng tại đây. Du khách có thể dễ dàng tìm các dịch vụ cho thuê mô tô nước và trải nghiệm cảm giác thú vị mà bộ môn này mang lại. Dù là mô hình mới xuất hiện khoảng thời gian gần đây nhưng chất lượng dịch vụ thì hoàn toàn không thua kém các bãi biển xinh đẹp khác. Sẽ thật thiếu sót khi du khách bỏ qua việc ghé thăm cánh đồng Điện gió Hàn Quốc. Đây được xem là biểu tượng hot nhất của biển Ba Động và của cả tỉnh Trà Vinh. Du khách có thể diện những bộ cánh thật đẹp, mang theo máy ảnh, đi dọc theo cầu vàng nối liền các nhịp tua-bin gió và mang về bộ hình sống ảo siêu xịn. Vẻ đẹp hòa hợp giữa tự nhiên và nhân tạo nơi đây tạo nên khung cảnh siêu ấn tượng mà du khách nhất định không thể bỏ lỡ. Loại hình du lịch mạo hiểm này đang được giới trẻ cực kỳ yêu thích. Với hoạt động này, du khách sẽ theo tàu đánh bắt ra biển, nơi đóng các đáy hàng khơi, trải nghiệm cuộc sống của một ngư dân thực thụ. Ngoài việc giúp du khách có được cái nhìn mới mẻ hơn về cuộc sống khơi xa, giải tỏa mọi căng thẳng, lo âu ở thành phố, hoạt động này còn giúp mọi người hiểu thêm về hiện thực cuộc sống gian khổ của ngư dân, biết trân quý thêm những thành quả lao động có được từ việc đối mặt với đầu sóng ngọn gió.
Trà Vinh 2079 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cù lao Tân Quy có một phần diện tích thuộc huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh và một phần thuộc huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long nổi tiếng là cù lao xanh, cây trái trĩu cành tạo nên nét đẹp rất đặc trưng của miệt vườn sông nước Miền Tây. Cù lao Tân Quy nằm ở xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, cách thành phố Trà Vinh khoảng hơn 45 km về phía Tây Bắc. Để đến với cù lao Tân Quy bạn chỉ mất khoảng 10 phút để đi đò ngang từ vàm Bến Đình. Tuy nhiên, nếu bạn muốn được nhìn ngắm toàn cảnh thiên nhiên và chiêm ngưỡng cảnh đẹp hai bên bờ cù lao Tây Quy, có thể chọn xuất phát từ vàm Bến Cát. Ngoài ra, du khách đến thăm Cù lao có thể ngồi trên những chiếc canô lướt trên dòng sông Hậu để tận hưởng không khí mát lành, sảng khoái. Cù lao Tân Quy được hình từ nửa đầu thế kỷ 19 khi những cư dân đầu tiên vượt sông đến đây để dựng làng, lập ấp. Sau đó, đã đặt tên cho nơi này là làng Tân Vinh. Đến đầu thế kỷ 20, khoảng sau năm 1920 thì nơi đây lại được đổi tên mới là cù lao Tân Quy cho đến tận ngày nay. Cù lao Tân Quy nằm trong vùng đầu nguồn nên quanh năm có nước ngọt, màu mỡ phù sa… trở thành một vùng chuyên canh cây ăn trái với đủ loại trái cây đặc trưng của Nam Bộ như: măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, dâu, nhãn tiêu da bò… Đặc biệt măng cụt Tân Quy đang được ưa chuộng trên thị trường trong và ngoài nước bởi chất lượng cao và sản lượng ổn định. Măng cụt Tân Quy chứa đầy đủ vị chua, ngọt thanh, như cân bằng được tất cả các vị giác trên lưỡi người thưởng thức. Bất cứ ai ăn trái măng cụt này rồi sẽ hiểu vì sao nó được mệnh danh là “nữ hoàng trái cây”. Mùa trái cây chín từ tháng 4 – 6 âm lịch, cả dải đất cù lao trở thành khu trưng bày các loại trái cây đặc sản khổng lồ, du khách dễ dàng tìm gặp bên đường hay vào tận vườn tham quan những loại trái cây đặc sản xứ này. Người dân cù lao nổi tiếng hiếu khách. Đến nhà nào, khách cũng được mời những đặc sản có trong vườn nhà. Đi dạo dưới những tán lá vườn cây trĩu quả thơm lừng trái chín, du khách sẽ vô cùng thích thú khi thấy những trái sầu riêng đang đong đưa trên cành, những hàng chôm chôm, nhãn thẳng tắp với tán xòe rộng đang trĩu quả, cùng những hàng măng cụt nghiêng mình soi bóng. Đến đây sự mệt mỏi dường như tan biến bởi không khí mát mẻ, gió sông nhè nhẹ, bóng cây râm mát tạo cảm giác thư thái dễ chịu. Không chỉ biết tạo thu nhập từ vườn cây ăn trái, những năm gần đây, khi nhận thấy khách du lịch Trà Vinh đến tham quan, tìm hiểu về xứ Cù lao ngày càng đông, một số hộ dân đã cải tạo lại khu vườn để mở thêm dịch vụ du lịch miệt vườn, trở thành điểm đến ghé thăm, vui chơi của nhiều du khách gần xa. Các khu du lịch sinh thái cù lao Tân Quy đã dựng sẵn những căn chòi lá hay những chiếc võng được thiết kế độc đáo tại một góc vườn để du khách ngồi nghỉ ngơi sau khi đi dạo và thưởng thức trái chín. Sau đó, du khách còn được biết đến nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng ở Cù lao như: lẩu cá bông súng, lẩu gà nấu lá giang, mực xào cải, tôm sú nướng… Ngoài được tận hưởng một không khí trong lành, thơ mộng, thưởng thức hương vị thơm ngon của trái cây miệt vườn. Du lịch Trà Vinh, đến đây bạn còn sẽ thích thú hơn khi được tận hưởng với cảm giác đi xe đạp, tắm sông, chèo thuyền ngắm sông nước, vườn cây trái nối tiếp nhau xanh ngút ngàn hay xuống thuyền phiêu lưu một chuyến “săn cá Bông lau” cùng với người dân xứ vườn nhiệt tình, hiếu khách.
Trà Vinh 1910 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu du lịch sinh thái Rừng Đước thuộc địa phận xã Long Khánh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Địa điểm du lịch miền Tây này nằm trong hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển Tây Nam Bộ. Đây là nơi bảo tồn, sinh sống của nhiều loài động, thực vật hoang dã cùng các loài thủy sản đang có nguy cơ tiệt chủng cao. Người dân địa phương gọi là rừng đước vì loài cây này bao quanh toàn bộ khu sinh thái với hơn 20 năm tuổi đời và trải rộng trên diện tích khủng lên đến hơn 200 hecta. Rừng đước nằm không quá xa trung tâm tỉnh Trà Vinh, chỉ cách khu du lịch Ba Động nổi tiếng chỉ khoảng 7 km nên khá thuận tiện cho việc đi lại của du khách. Khu rừng này có nhiều loại cây đặc trưng của hệ sinh thái ngập mặn như đước, mắm, chà là gai, vẹt... trong đó chiếm số lượng nhiều nhất là cây đước. Đây là loại cây vừa có tác dụng ngăn chặn sự xâm nhập của nước biển vào đất liền vừa là nơi sinh sống của nhiều loại động vật đặc trưng của rừng ngập mặn. Vì vậy mà khu du lịch kiêm khu bảo tồn này có giá trị sinh thái cao. Hơn thế nữa, cánh rừng đước rộng khoảng hơn 200 ha còn nằm trong hệ thống rừng ngập mặn ven biển Tây Nam Bộ nên được nhà nước chăm sóc và bảo tồn khá cẩn thận. Trà Vinh chỉ nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 170k nên du khách có thể đi đến khu du lịch Rừng Đước thuộc địa phận tỉnh này bằng xe máy hoặc xe khách. Cách di chuyển cụ thể như sau: Đi bằng xe máy: Xuất phát từ Sài Gòn, bạn đi tới Bình Chánh rồi rẽ vào Quốc lộ 1 và tiếp tục đi theo hướng đi qua cầu Bến Lức đến thành phố Tân An của tỉnh Long An. Từ đây, du khách đi tiếp đến thành phố Mỹ Tho, dọc theo quốc lộ 60 qua cầu Hàm Luông là sẽ đến với huyện Mỏ Cày. Tiếp tục rẽ vào Quốc lộ 53 và đi thẳng là sẽ tới thành phố Trà Vinh rồi đấy. Từ trung tâm thành phố, bạn chỉ cần đi khoảng 51km nữa là tới được khu du lịch Rừng Đước. Đi bằng xe khách: Hành trình khá đơn giản vì bạn chỉ cần ra bến xe miền Đông, chọn mua vé xe đi Trà Vinh với giá vé trên dưới 100.000đ/người. Khi đến bến xe thì bạn chọn cách di chuyển bằng taxi hoặc xe ôm là sẽ đến được địa điểm du lịch Trà Vinh hấp dẫn mang tên Rừng Đước rồi đấy. Trà Vinh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên cũng có khí hậu nhiệt đới ôn hòa đặc trưng của vùng này. Cũng như các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Trà Vinh quanh năm mát mẻ nên du khách có thể đến với khu sinh thái Rừng Đước, ao Bà Om, cù lao Long Trị, khu du lịch cồn Hô vào bất kỳ khoảng thời gian nào trong năm cũng được. Tuy nhiên, lời khuyên mà người bản địa thường dành cho du khách là nên lựa chọn đi vào mùa mưa vì đây là khoảng thời gian cây cối phát triển, khí hậu dễ chịu, các loài động vật cũng đa dạng hơn mùa khô. Cụ thể là từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, với lượng mưa lớn cùng mùa nước nổi kéo về thì thảm thực vật ở Rừng Đước phát triển mạnh mẽ thu hút rất nhiều loài động vật về đây sinh sống, kiếm ăn và sinh sản. Khi check in Rừng Đước Trà Vinh, du khách tha hồ trải nghiệm vui chơi, tham quan, khám phá mà nổi bật nhất là các hoạt động sau: Du ngoạn rừng Đước bằng đường bộ hoặc đường thủy: tùy vào sở thích và lịch trình mà bạn có thể chọn một trong hai cách tham quan nhưng khám phá sông nước và khu rừng bằng đường thủy thường được khách du lịch lựa chọn nhiều hơn vì nếu đi theo cách này bạn sẽ được len lỏi vào các bụi đước lớn, nhỏ, có cây đã hàng chục năm tuổi, mọc đan xen nhau phía dưới nhưng phía trên vẫn chừa lại khoảng không tạo thành một khoảng trời xanh ngát. Du khách tha hồ tận hưởng cảm giác thú vị và mới lạ khi từng chiếc xuồng máy lướt bồng bềnh giữa không gian trong lành của bạt ngàn cây cối, chim chóc và nhiều loài sinh vật đặc trưng khác của rừng cây - sông nước. Rừng Đước Trà Vinh cũng có sự đa dạng các loài động, thực vật như rừng ngập mặn Cần Giờ hay Năm Căn Cà Mau vì có nhiều nét tương đồng về khí hậu, thổ nhưỡng. Hệ động vật nơi đây thật sự phong phú với nào là kỳ đà, sóc,... rồi chồn, rắn hổ mang, vọp,... cùng nhiều loại tôm cá, thủy sản và nhiều loài chim đặc trưng của rừng ngập mặn. Đến với khu sinh thái, bạn sẽ cảm thấy như đang sống chậm lại, trải nghiệm cảm giác hòa mình hoàn toàn vào thiên nhiên, đất trời, tha hồ hít thở bầu không khí trong lành, mát mẻ của miền quê. Ngoài những hoạt động trên thì khi đến với khu du lịch Rừng Đước Trà Vinh, bạn còn có cơ hội nghe những câu hò đậm chất sông nước, thấm đẫm dư vị thôn quê của người dân địa phương. Khi ngồi trên những chiếc xuồng nhỏ lướt đi, đừng quên dành chút thời gian, trò chuyện và tìm hiểu về cuộc sống của người dân địa phương nữa nhé. Cảm giác được nghe những giai điệu mộc mạc, những lời nói chân quê, câu chuyện sinh hoạt đời thường của người dân vùng đất này giữa thiên nhiên mát mẻ và trong lành quả thật rất thú vị đấy. Có rất nhiều món ăn ngon, các đặc sản trứ danh đã làm nên tên tuổi của ẩm thực Trà Vinh. Vì vậy khi ghé thăm khu du lịch Rừng Đước nói riêng và Trà vinh nói chung bạn đừng bỏ lỡ trải nghiệm ăn bún nước lèo, bún suông, cháo ám, bánh canh Bến Có, các món làm từ con chù ụ, cá nướng mọi trên lửa đốt bằng đước khô, tép bạc tái chanh, cá nâu nấu lẩu chua với trái giác, nước mắm rươi,... Các món ăn được bán ở rất nhiều nơi nhưng du khách hãy ghé các quán ăn ngon ở Trà Vinh để thoải mái lựa chọn thưởng thức nhé.
Trà Vinh 2097 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh tọa lạc tại Phường 8, thành phố Trà Vinh, cách trung tâm tỉnh lỵ hơn 5 km về hướng tây nam, nằm trong quần thể khu văn hóa – du lịch, liên hoàn với di tích danh thắng Ao Bà Om, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Âng và Trung tâm Văn hóa – Thể thao tỉnh, rất thuận tiện cho học sinh sinh viên, người nghiên cứu văn hóa dân tộc và khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu. Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh là một khối nhà hai tầng, có diện tích sử dụng hơn 1.700 m2, được thiết kế xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hòa phong cách kiến trúc truyền thống dân tộc Khmer và hiện đại trong khuôn viên rộng 01 ha, có nhiều cây xanh rợp mát quanh năm. Bảo tàng hiện đang lưu giữ, trưng bày, giới thiệu hơn 800 hiện vật, hình ảnh, tài liệu phản ánh đời sống văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc Khmer Trà Vinh, từ truyền thống đến đương đại. Từ cổng bước vào là một khoảng sân rộng nhiều cây xanh, tạo cho khuôn viên Bảo tàng luôn có không khí yên tĩnh, tách biệt hẳn với sự ồn ã, huyên náo bên ngoài. Đây là sự chuẩn bị cần thiết cho khách tham quan, nhất là các nhà nghiên cứu sự tĩnh tâm cần thiết, trước khi tập trung tìm hiểu một cách toàn diện, sâu sắc về bản sắc văn hóa Khmer, thông qua các hiện vật, hình ảnh, tư liệu được trưng bày và giới thiệu. Trong khuôn viên, ở góc phía bắc là ngôi tháp an vị di cốt của một nhân sĩ, trí thức, nhà hoạt động cách mạng tiêu biểu của dân tộc Khmer Trà Vinh nói riêng, Khmer Nam bộ nói chung là Maha Sơn Thông (1910 – 1997). Sau khi du học và nhận bằng Maha (tương đương Cử nhân Phật học), ông tham gia cách mạng giai đoạn tiền khởi nghĩa, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Maha Sơn Thông trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Phó Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh; Khu ủy viên, Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng kiêm Trưởng Ban Khmer vận Khu Tây Nam bộ; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Phần lớn diện tích tầng trệt của tòa nhà Bảo tàng là sảnh trống dưới các chân cột có nhiều ghế đá để khách tham quan có thể ngồi nghỉ chân hoặc đi lại trao đổi những vấn đề văn hóa cần quan tâm. Cầu thang lên lầu được đặt ở vị trí chính giữa sảnh và bên dưới cầu thang là một hồ nước hình bán nguyệt xinh xắn, có nhiều cá cảnh tung tăng bơi lội, tạo cảnh quan vui tươi nhẹ nhàng. Một phần diện tích tầng trệt được chia thành các phòng làm việc của cán bộ, nhân viên Bảo tàng. Ở các vị trí này, người có trách nhiệm dễ dàng quan sát mọi hoạt động cũng như sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu hướng dẫn, giới thiệu đối với khách tham quan. Phần còn lại là Phòng Trưng bày truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Khmer Trà Vinh giai đoạn tiền khởi nghĩa, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trà Vinh 1836 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đến Trà Vinh không thể không nhắc đến những ngôi chùa Khmer độc đáo của đồng bào nơi đây. Trong đó nổi bật nhất là chùa Vàm Ray được xây dựng lại từ nền ngôi chùa cũ hơn 600 năm tuổi bị tàn phá trong chiến tranh. Dù xây mới nhưng vẫn mang nét cổ kính truyền thống của Phật giáo Nam tông Khmer. Chùa Vàm Ray tọa lạc tại ấp Vàm Ray, xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh cách thành phố Trà Vinh khoảng 35km. Du lịch Trà Vinh, để đến chùa Vàm Ray từ thành phố Trà Vinh đi theo quốc lộ 54 đến Tập Sơn rẽ trái vào quốc lộ 53 đi Trà Cú. Đi quá Trà Cú chừng 3km, qua cầu Hàm Giang, lập tức rẽ phải, vào đường nhỏ là vào đến chùa Vàm Ray. Ngay từ ngoài nhìn vào, sự kỳ vĩ của ngôi chùa này khiến cho bất kỳ ai cũng có cảm giác choáng ngợp, như lạc vào một cung điện vàng nguy nga, rực rỡ. Màu vàng lấp lánh tỏa ra mọt nơi trong chùa từ vòm mái, tường, các cột trụ chống, đến cả những bức phù điêu, các bức tượng. Chùa Vàm Ray mang phong cách kiến trúc Angkor, một kiến trúc đặc trưng của người Campuchia. Chùa có bốn cổng và theo truyền thống của chùa Khmer, cổng chính và tòa chính điện quay về hướng Đông, tượng trưng cho con đường tu hành của Phật tử từ Tây sang Đông. Lối vào chùa Vàm Ray là chiếc cổng hoành tráng sơn màu mạ vàng, đỉnh cổng tạo hình những ngọn tháp nhọn chất chồng nhiều tầng, ẩn mình không gian cây xanh bao quanh khiến cổng chùa càng nổi bật. Giữa sân chùa Vàm Ray có một cột hình trụ cao vút được nâng đỡ bởi những cái cột cách điệu hình rắn thần Naga có 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ hội, tượng trưng cho việc Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn đã được đức Phật thuần hóa theo quan niệm của người Khmer. Giữa sân chùa Vàm Ray có một cột hình trụ cao vút được nâng đỡ bởi những cái cột cách điệu hình rắn thần Naga có 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ hội, tượng trưng cho việc Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn đã được đức Phật thuần hóa theo quan niệm của người Khmer. Bên trong chính điện được trang hoàng lộng lẫy với những bức tranh tường nhiều màu sắc, đậm chất văn hóa Khmer. Chủ để xuyên suốt của các tác phẩm là cuộc đời Đức Phật và giáo lý của nhà Phật. Không gian chính điện rộng cao thanh thoát và mát mẻ tạo sự thoải mái cho du khách khi đến tham quan cũng như các tín đồ đến hành lễ. Nhìn chếch về hướng Đông Nam của chính điện là tượng đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn có chiều dài 54m được đặt trên bệ tương đương một ngôi nhà 2 tầng. Toàn bộ tượng và bệ cũng được sơn phủ sơn son thiếp vàng. Đỉnh cao nghệ thuật của chùa Vàm Ray thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, như tượng đầu vị thánh bốn mặt Maraprum, nữ thần Kayno nửa người nửa chim, chim thần Marakrit… Không chỉ riêng chùa Vàm Ray, mà tất cả những ngôi chùa Khmer nói chung từ ngàn đời nay vẫn luôn là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư trong khu vực. Từ những ngày lễ thuần túy của Phật giáo đến những ngày Lễ, hội đặc biệt của người Khmer như: ChôlChnămThmây, Sêndôlta, Okombok, Lễ dâng y…đều được diễn ra tại chùa và gắn liền với các hình thức văn hoá truyền thống của dân tộc và các trò chơi dân gian, thu hút đông đảo du khách tới tham quan.
Trà Vinh 1836 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Trà Vinh là một trong những tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều người dân tộc Khmer sinh sống. Người Khmer rất sùng đạo Phật với các lễ hội phong phú, đa dạng, tạo nên một bản sắc đặc trưng cho văn hóa Khme. Khắp các làng xã, phum, sóc ở Trà Vinh đều có chùa chiền; mỗi ngôi chùa Khmer đều là một công trình nghệ thuật, trong đó không thể không nhắc đến Chùa Cò. Chùa Nodol – chùa Cò là một trong những địa điểm du lịch Trà Vinh nổi bật mà du khách không nên bỏ qua. Chùa Cò có tên thật là chùa Nodol, hay chùa Giồng nhưng người Khmer gọi là Wat Phnô Đôn vì chung quanh có nhiều dừa (tiếng Khmer Wat là chùa, Phnô là giồng cát, Đôn là cây dừa). Người dân quen gọi là chùa Cò vì hơn một trăm năm nay nơi này đã trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con chim cò các loại như: cò, cồng cộc, bồ câu… trong đó đông nhất là họ nhà cò với rất nhiều loại: cò trắng, cò quắm, cò đầu đỏ, cò đầu vàng, cò mỏ vàng, cò mỏ đen… Chùa Cò tọa lạc tại ấp Cây Da – xã Đại An – huyện Tà Cú, nằm cách Tp.Trà Vinh khoảng 40km về hướng Nam. Để đến với chùa Cò, từ trung tâm Tp.Trà Vinh, bạn chạy theo đường QL.54 đến với huyện Trà Cú, di chuyển tiếp về phía cảng Định An (một nhánh của sông Hậu) đến cổng chào xã Đại An, rẽ phía bên trái bạn sẽ bắt gặp cổng Chùa Cò bề thế với hoa văn, họa tiết sặc sở. Lịch sử chùa Cò ghi lại, chùa được xây dựng từ năm 1677. Trải qua hơn 300 năm tồn tại và phát triển, chùa Cò đã được trùng tu vô số lần lớn nhỏ. Cổng chùa được trùng tu vào năm 1968 và chánh điện được trùng tu năm 1944. Sau lần trùng tu gần nhất năm 2009 và 2012, chùa được hoàn thiện đưa vào sử dụng cho tới ngày nay Giống như những ngôi chùa Phật giáo khác trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, Chùa Cò có quần thể kiến trúc mang đặc trưng của chùa Khmer Nam Bộ. Bao gồm những công trình như cổng chùa, chánh điện, tháp đựng cốt, nhà tăng, nhà hội… được bài trí hài hòa trên một khuôn viên rộng lớn. Cổng chùa được trang trí với nhiều nét hoa văn trang trí khá độc đáo và nổi bật, thu hút ánh mắt ngay từ lần đầu tham quan. Khu chánh điện của chùa có lối thiết kế khá độc đáo với những mái uốn cong theo mô hình đuôi rồng, bên trên có những đỉnh tháp nhọn hình ngọn núi Xôme và những hình tượng quen thuộc với người Khmer như thần: thần bốn mặt Mohabrom, chim thần Kâyno, Riehu (Reahu), Mahaknốt… Không gian bên trong chính điện được bài trí rất trang nghiêm, vị trí cao nhất đặt bức tượng đức Phật Thích Ca có kích thước lớn, phía dưới là các tượng nhỏ hơn. Các vách tường trong điện được trang trí bằng nhiều bức tranh rất lộng lẫy, nhiều màu sắc, thể hiện các chủ đề Phật giáo khác nhau. Khuôn viên chùa Cò đều được bao bọc bởi những rặng tre xanh, những hàng cây sao, sầu đâu, cây dầu, rợp bóng, xa hơn nữa là những cánh đồng lúa xanh trải dài bất tận,… Ghé thăm chùa Cò vào lúc sáng sớm hay xế chiều, du khách được tận mắt chiêm ngưỡng cảnh từng đôi, từng đàn cò sải cánh bay đi kiếm ăn và về tổ sau một ngày vất vả kiếm ăn tạo ra một khung cảnh tuyệt đẹp trên bầu trời. Đến thăm chùa Cò bạn sẽ cảm thấy tâm hồn mình thư thái, tĩnh lặng, nhẹ nhàng hơn mọi vất vả, khó khăn, áp lực của cuộc sống đều tan biến hết. Khi tham quan chùa, bạn nên ăn mặc lịch sự, có thể thuê trang phục Khmer để vào chùa – đúng nghi thức của người Khmer và cũng là để có những bức hình sống ảo độc đáo.
Trà Vinh 1690 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc tới Trà Vinh, người ta nghĩ đến miền đất của những ngôi chùa Khmer cổ kính cùng những di tích lịch sử mang nhiều huyền thoại, gắn liền với hành trình khai phá phương Nam. Toàn tỉnh Trà Vinh có rất nhiều ngôi chùa Khmer, trong đó chùa Âng được xem là một trong những ngôi chùa lớn, tiêu biểu cho các ngôi chùa Khmer trong tỉnh. Chùa Âng, gọi theo ngôn ngữ Paly là Wat Angkor Raig Borei, tọa lạc tại Phường 8, thành phố Trà Vinh. Ngôi chùa nằm trong cụm danh thắng Ao Bà Om và bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer, là điểm nhấn nổi bật không thể bỏ qua trong bản đồ du lịch Trà Vinh. Từ xa nhìn vào, bạn sẽ thấy những tòa nhà trong chùa với lối kiến trúc hình tháp vươn thẳng lên trời, mang nét đẹp nguy nga, tráng lệ nhưng cũng không kém phần trang nghiêm. Theo sử sách thì chùa Âng được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 (năm 990) và được xây dựng qui mô như hiện nay vào năm Thiệu Trị thứ 3, tức năm 1842 theo dương lịch. Từ đó đến nay, ngôi chùa được trùng tu, sửa chữa nhiều lần, trong đó xây dựng mới các công trình phụ như nhà tăng xá, trai đường… nhưng ngôi chánh điện cơ bản vẫn giữ được nguyên trạng như buổi đầu mới hình thành. Như bao ngôi chùa Khmer khác trên địa bàn Trà Vinh, chùa Âng là một quần thể các công trình kiến trúc bao gồm tăng xá, giảng đường dạy chữ Paly và chữ Khmer… bao quanh ngôi chánh điện uy nghi. Ngôi chùa quay mặt về hướng đông, thể hiện tư tưởng Phật giáo là Phật Thích ca ở tây phương nhìn về hướng đông để độ trì chúng sinh. Cổng chùa Âng được trang trí bằng nghệ thuật điêu khắc rất kỳ công, tinh xảo với những tượng chằn, tiên nữ, chim thần theo mô típ truyền thống Khmer. Từ cổng chính vào là một lối đi rộng giữa hai hàng sao cổ thụ thân to, cao vút tạo ra thế uy nghiêm cho ngôi chùa. Lối đi ngang qua hào nước rộng bao quanh làm cho bầu không khí trong lành, dịu mát. Khuôn viên chùa rộng 4 ha với nhiều chủng loài thực vật đặc hữu trên đất giồng cát như sao, dầu, tre, trúc… trong đó có hàng trăm gốc sao, dầu cổ thụ quanh năm che mát ngôi chùa cổ kính. Trung tâm của ngôi chùa Khmer là ngôi chánh điện (Preah Vihea) thờ Phật, nơi hội tụ và phản ánh trình độ của các nghệ nhân đương thời về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc… Toàn bộ chánh điện được trụ đỡ bởi hệ thống 18 chiếc cột bằng gỗ quý. Bên trong chánh điện là một không gian rộng với 12 trụ cột được trang trí hình rồng, sơn son thếp vàng. Mái chánh điện chùa Âng được cấu tạo độc đáo, bao gồm ba cấp mái có màu sắc đẹp và hài hòa, trong đó hai mái trên cùng rất cao và dốc, tạo ra cảm giác linh thiêng mà người phật tử phải hết sức khiêm cung khi ngước nhìn. Hai đầu hồi được đóng kín bằng hai tấm gỗ hình tam giác chạm khắc rất công phu. Các gò mái có thần rắn Naga với mào cong vút, tượng trưng cho cầu nối giữa trần gian và cõi Niết bàn. Bốn bức tường chánh điện là những bức bích họa đặc sắc thể hiện tư tưởng Phật giáo, thông qua con đường tu hành của Phật Thích Ca. Trên trần là bốn bức bích họa hoành tráng thể hiện bốn giai đoạn trong cuộc đời Phật Thích Ca là Phật đản sanh, Phật xuất gia, Phật thành đạo và Phật nhập niết bàn. Bệ thờ Phật trong chánh điện chùa Âng cũng được các nghệ nhân thời ấy tập trung công sức thể hiện. Toàn bộ bệ là là một tòa sen với nhiều cánh đặt sau một lớp võng bằng gỗ chạm khắc rất tinh xảo với nhiều hình hoa lá, muông thú được sơn son thếp vàng. Cũng như các ngôi chùa Nam tông Khmer khác, chánh điện chùa Âng chỉ thờ duy nhất Đức Phật Thích Ca ở tư thế ngồi thiền định. Phía trước ngôi chánh điện là ngôi tháp chứa di cốt các vị sư cả trụ trì chùa qua các thời kỳ. Điều đặc biệt, đây là ngôi tháp năm ngọn duy nhất trong các ngôi chùa Khmer Trà Vinh. Tháp năm ngọn là sự ảnh hưởng tư tưởng Ấn Độ giáo về vũ trụ, thiên nhiên và con người. Trải qua gần hai thế kỷ vững vàng, uy nghi tồn tại trước tác động của thời tiết, mưa gió và thời gian, chùa Âng là niềm tự hào của đồng bào Khmer nói riêng, của cộng đồng các dân tộc Trà Vinh nói chung bởi các giá trị độc đáo mang tính đỉnh cao về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc đậm đà bản sắc văn hóa Khmer, có sự giao lưu nhất định với văn hóa Việt, Hoa, Ấn Độ, Thái Lan… Trong đời sống tinh thần của người Khmer, ngôi chùa không chỉ là nơi tu hành, thực hiện các lễ thức Phật giáo mà còn là nơi bảo tồn, truyền thừa các giá trị văn hóa truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với những giá trị vật chất, tinh thần lớn lao đó, Chùa Âng được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1994.
Trà Vinh 1832 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Trà Vinh nằm ở cuối cù lao, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là đất bằng phẳng với độ cao dưới 1m so với mực nước biển. Vì nằm ở vùng đồng bằng ven biển, có nhiều giồng cát chạy dọc theo bờ biển, tạo thành các đường cong song song. Các giồng càng gần biển càng cao và rộng hơn. Với sự chia cắt bởi các giồng và mạng lưới đường lộ, kinh rạch, địa hình Trà Vinh khá phức tạp. Có các vùng trũng xen kẹp giữa các giồng cao, và độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng. Đặc biệt, phần nam tỉnh có đất thấp, bị chia cắt bởi các giồng cát hình cánh cung thành nhiều vùng trũng nhỏ, với độ cao chỉ từ 0,5-0,8m. Do đó, hàng năm, vùng này thường bị ngập mặn trong khoảng thời gian từ 3-5 tháng. Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển, tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình từ 20 - 27 °C, độ ẩm trung bình 80 - 8000%/năm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. Mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, mùa khô từ tháng 12 - tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600mm, có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư sản xuất, kinh doanh và du lịch[4]. Hàng năm, hạn hán thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục từ 10 đến 18 ngày, trong đó các huyện như Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ khoảng tháng 6 và tháng 7 là quan trọng, trong khi các huyện còn lại như Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ nhưng tháng 7 và 8 thường nghiêm trọng hơn. Trà Vinh cũng gặp một khó khăn hiện nay đó chính là bị ngập mặn vào một số mùa khô trong năm.
Trà Vinh 3243 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cồn Chim là điểm du lịch Trà Vinh đề cao tinh thần bảo vệ môi trường và thu hút du lịch với nét đẹp văn hóa đậm chất miền Tây. Với khẩu hiệu “Về Cồn Chim, người quê chỉ có tấm lòng”, cách tiếp đón và đãi khách nơi đây khiến ai đã từng trải nghiệm qua đều không khỏi ấm lòng, trân quý.Cồn Chim là một trong những điểm du lịch Trà Vinh nổi tiếng, được ví như ốc đảo xanh yên bình. Nơi đây sở hữu mô hình thuận thiên góp phần bảo vệ môi trường, song song đó gìn giữ văn hóa mộc mạc, chân chất. Với khẩu hiệu “Về Cồn Chim, người quê chỉ có tấm lòng”, ốc đảo sinh thái mang lại trải nghiệm khám phá sông nước, miệt vườn đầy thú vị, thu hút khách du lịch gần xa. Tên gọi của cồn đất này khá đặc biệt, khi nhắc đến khiến người ta tưởng tượng ra một dải đất nằm giữa con sông lớn với đủ các loài chim. Trên thực tế, người dân thường đặt tên cho địa danh bằng vị trí địa lý và đặc điểm nổi bật. Và đúng như tên gọi, cù lao này là vùng đất mà các đàn chim bay về trú ngụ vào lúc chiều tối sau một ngày đi kiếm ăn. Vào ngày 9/1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh chính thức ra mắt điểm du lịch cộng đồng Cồn Chim, giúp cuộc sống kinh tế của người địa phương có sự cải thiện rõ rệt. Cồn đất ôm ấp hương vị thiên nhiên và giữ gìn nền văn hóa “sạch”, do đó thỏa mãn những đôi chân mỏi mệt muốn tìm về cuộc sống bình dị, an yên.Dù có kinh nghiệm du lịch Cồn Chim hay chưa, cách tiếp đón nồng hậu mà thân thiện, gần gũi của người dân địa phương vẫn khiến bạn cảm thấy ấm lòng như lần đầu ghé đến. Điều này đúng như câu khẩu hiệu tại Trung tâm sinh hoạt cộng đồng của ấp, đó là “Về Cồn Chim, người quê chỉ có tấm lòng”. Sau khi di chuyển qua cổng, khách du lịch sẽ được nhận một chiếc xe đạp để thuận tiện cho việc tham quan, ngắm cảnh. Đây là phương tiện giúp dễ dàng di chuyển trên con đường nhỏ, với hai bên là luống hoa mười giờ đua nhau khoe sắc. Dọc theo đó là cánh đồng lúa đang thì mạ non xanh rì, thoang thoảng hương thơm. Cho đến khi nhìn thấy những nếp nhà làm bằng lá dừa nước, hàng lu khạp da bò, sàn rửa chén cạnh bờ ao, chiếc xuồng ba lá neo đậu dưới gốc dừa… bạn biết ngay mình đã có mặt tại một làng quê Nam Bộ nào. Vì tất cả sự mộc mạc, chân phương và bình yên đến lạ này chỉ có thể tìm thấy tại nơi đó.Ngoài tham quan ngắm cảnh, hành trình du lịch Cồn Chim còn mang bạn trở về tuổi thơ với những trò chơi dân gian thú vị như u, ô ăn quan, chọi lon, nhảy dây… Tuy những trò này đều không mấy xa lạ đối với thế hệ 9X trở về trước, nhưng việc thỏa sức trải nghiệm chúng trong cuộc sống hiện đại là rất hiếm hoi. Bên cạnh đó, tại Cồn Chim còn có các hoạt động như câu cua, đua cua có thưởng giúp bạn hóa thân thành người nông dân của làng quê miền Tây. Cồn Chim là điểm du lịch Trà Vinh giúp tìm hiểu thêm về con người và nét đẹp văn hóa của vùng đất này.Hành trình khám phá miền Tây sông nước sẽ không thể trọn vẹn nếu bỏ qua cơ hội tham quan và vui chơi tại ốc đảo sinh thái Cồn Chim.
Trà Vinh 685 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04