Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Khu di tích Tiểu khu Trọng Con ở xã Bằng Hành, cách trung tâm huyện lỵ Bắc Quang gần 30 km, có tuyến đường Quốc lộ 279 chạy từ huyện Bắc Quang (Hà Giang) qua xã Bằng Hành tới huyện Chiêm Hóa của tỉnh Tuyên Quang. Từ khoảng năm 1939, phong trào đấu tranh chống đế quốc đã nhen nhóm ở nơi đây khi đồng chí Phạm Trung Ngũ, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, được phân công tới tổng Bằng Hành, nay thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) để gây dựng cơ sở cách mạng thông qua việc dạy học. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí Phạm Trung Ngũ đã khơi dậy lòng yêu nước, ý thức cách mạng của đồng bào trong vùng, tố cáo ách thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, do bị thực dân Pháp phát hiện nên đồng chí Phạm Trung Ngũ đã phải rút khỏi Bằng Hành đến nơi khác hoạt động. Thực hiện Chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, ngày 1/6/1945, đồng chí Lê Quảng Ba (tức Lê Tâm), đồng chí Bế Triều (tức Hải Nam) chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền gồm 54 chiến sĩ xuất phát từ Cao Bằng về tổng Bằng Hành để tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng. Để đảm bảo bí mật và an toàn, các đồng chí trong Ban Chỉ huy chia nhỏ thành từng nhóm đi tuyên truyền, xây dựng cơ sở. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội vũ trang tuyên truyền đã mở được nhiều lớp đào tạo ngắn ngày, thành lập các đội du kích, tự vệ, các đoàn thể cứu quốc và đặt tên vùng hoạt động là "Tiểu khu Trọng Con" (tên anh hùng Lý Tự Trọng) bao gồm các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc, Vô Điếm, Hữu Sản. Ngày 24/6/1945, đại biểu chính quyền cách mạng các xã trong Tiểu khu Trọng Con đã tổ chức mít tinh tại Thác Vệ, xã Bằng Hành, để thành lập chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh tổng hội. Tại đây, nhân dân đã được chứng kiến việc chính quyền cách mạng đốt bằng sắc, ấn triện, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, tổ chức cho nhân dân sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, xây dựng đời sống mới. Từ đó, phong trào cách mạng ngày một phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng lan rộng trong toàn huyện Bắc Quang và các vùng lân cận. Tháng 8/1945, phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang đã lớn mạnh, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. 74 năm đã trôi qua, mỏm đá Thác Vệ còn đó bên dòng sông Lô, khắc ghi đóng góp của các chiến sĩ cách mạng, nhân dân các dân tộc vùng tả ngạn sông Lô thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) cho cách mạng, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. Năm 1996, Di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) được Nhà nước công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Hà Giang 1942 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6778 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6141 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4126 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4112 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4034 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3802 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3728 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3623 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3538 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3342 lượt xem
Là biểu tượng đánh dấu điểm cực Bắc của Việt Nam, cột cờ Lũng Cú được xây dựng trên đỉnh núi Rồng, thuộc một xã nhỏ ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Nằm ở độ cao 1.470m so với mực nước biển, đây là một trong những địa điểm check in của nhiều bạn trẻ, đồng thời còn là điểm chinh phục của hầu hết tất cả các khách du lịch đến với Hà Giang. Để đến được cột cờ Lũng Cú bạn cũng cần phải sắp xếp đến Hà Giang du lịch, và cần phải có một lịch trình cụ thể, sớm nhất để tham quan nơi này vì cột cờ cách khá xa so với đoạn đường núi gần 200km. Nếu bạn muốn đến Hà Giang du lịch và ngắm nhìn được khung cảnh xinh đẹp nơi này thì một số thời điểm thích hợp nhất mà bạn nên cân nhắc chính là: Từ tháng 1 đến tháng 3: Vào khoảng thời gian này hoa mận, hoa đào, hoa cải vàng sẽ nở rộ, bạn sẽ chiêm ngưỡng được biệt danh “miền đá nở hoa” là như thế nào, nên đến đây vào thời gian này bạn sẽ được tham quan và tận hưởng những cảnh hoa đua nhau nở cực đẹp mắt. Bạn cũng có thể đến vào tháng 5 mùa nước đổ hay tháng 6 - 8 là khoảng mùa hè với thời tiết khô ráo, dễ dàng di chuyển và thuận lợi hơn trong việc tham quan cột cờ Lũng Cú. Hoặc bạn cũng có thể đến Hà Giang vào tháng 10 - 12 để tham quan cột cờ đồng thời đây là khoảng thời gian mùa hoa tam giác mạch nở trên cao nguyên đá Đồng Văn, bạn sẽ ngắm nhìn được những khung cảnh tuyệt vời nhất vào thời gian này. Điều đầu tiên khi bạn muốn đến tham quan cột cờ Lũng Cú Hà Giang là phải có một tấm vé máy bay đi Hà Nội. Sau khi đã đến Hà Nội rồi thì việc bạn cần làm sau đó là tìm cho mình một chiếc xe khách để đến thành phố Hà Giang của tỉnh Hà Giang, từ đây bạn cũng có thể thuê cả xe máy hoặc ô tô để lên đến Lũng Cú. Còn nếu bạn đang ở khu vực các tỉnh miền Bắc, bạn có thể lựa chọn đi xe khách, xe máy hoặc ô tô để đến cột cờ Lũng Cú theo đường quốc lộ 4C để đến Quản Bạ sau đó từ đây sẽ lên đến Đồng Văn. Nếu đã đến Đồng Văn rồi bạn chạy thẳng sẽ đến xã Sà Phìn, tiếp tục đi đến bạn sẽ gặp một ngã ba nếu đi thẳng bạn sẽ đến phố cổ Đồng Văn còn nếu ngược lại sẽ hướng về Lũng Cú. Được xây dựng trên đỉnh núi Rồng, nên để lên được đỉnh núi bạn cần trải qua 839 bậc thang, được chia làm 3 chặng, ở mỗi chặng sẽ có khu nhà chờ để du khách có thể nghỉ chân hoặc ngắm cảnh phía dưới núi. Sau khi leo hơn 800 bậc thang, bạn chắc chắn sẽ sững người đến tự hào khi chứng kiến cột cờ Lũng Cú với lối kiến trúc được xây dựng theo hình bát giác, có chiều cao 33.15m và lá cờ Tổ quốc 54m2 luôn tung bay trên đỉnh núi Rồng. Xung quanh thân cột cờ là hình mặt trống đồng Ðông Sơn và dưới chân cột cờ là tám tấm phù điêu minh họa cho các thời kỳ lịch sử vẻ vang của đất nước. Từ trên cột cờ nhìn xuống, bạn sẽ có cảm giác như được ngắm nhìn bờ cõi nước Nam ta trong tầm mắt. Được cảm nhận được không khí se lạnh của núi rừng Đông Bắc. Đứng ở núi Rồng, cảm giác như núi rừng Đông Bắc hòa cùng mây trời cao rộng, không những vậy, chỉ cần ngước mắt nhìn lên là hình ảnh tự hào dân tộc lại càng nâng cao lên với màu sáng tươi của lá quốc kỳ thiêng liêng tung bay. Vừa tạo cảm giác tự hào vừa lại hưng phấn khi chinh phục được đỉnh cao của một cột mốc lớn.
Hà Giang 2139 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đèo Mã Pí lèng tại Hà Giang còn có tên gọi khác là Mả Pí Lèng hay Mã Pỉ Lèng có nghĩa “sống mũi con ngựa”. Mã Pì Lèng được mệnh danh là một trong những cung đường đèo tử thần của vùng núi đất Bắc, vì những đường cong hiểm trở, thách thức tay lái. Đèo tọa lạc trên quốc lộ 4C, xã Pả Vi và Pải Lủng, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, thuộc một trong những con dốc cao và hiểm trở nhất vùng núi Đông Bắc, cũng là cái tên nằm trong danh sách “tứ đại đỉnh đèo” của Việt Nam đáng để chinh phục. Nằm ở độ cao khoảng 1.200m so với mực nước biển, và dài khoảng 20km (nối liền thị trấn phố cổ Đồng Văn và thị trấn Mèo Vạc), Mã Pí Lèng uốn cong và quấn quanh ngọn núi như một con trăn trắng. Men theo cung đường này, bạn sẽ đi qua được thêm nhiều bản làng hay địa danh nổi tiếng như Pả Vi, Sín Cái… Hà Giang đẹp quanh năm. Mỗi mùa đều có một bản sắc riêng. Cũng như nước hoa, không có mùi hương nào là thơm nhất, chỉ có mùi hương phù hợp nhất. Và MIA.vn đã lập ra một danh sách liệt kê một số đặt điểm của Hà Giang qua từng tháng cho bạn rồi đây. Tháng 1-3 là mùa hoa mận, hoa đào. Nếu bạn yêu thích màu hồng của loài hoa này chắc chắn đừng bỏ qua. Tháng 4 là thời điểm chợ tình Khâu Vai diễn ra. Phiên chợ độc đáo mỗi năm đều chỉ tổ chức một lần vì thế, nếu thích thú với lễ hội này thì bạn cũng nên đến Hà Giang vào tháng 4. Tháng 9 chính là mùa mà những ruộng bậc thang ở Hà Giang nhuộm vàng ươm sắc vàng của lúa chín đẹp như tranh vẽ. Tháng 10, 11 mùa hoa tam giác mạch – Loài hoa lãng mạn chỉ có mặt ở vùng đất Đông Bắc. Tháng 12 mùa hoa cải, và nếu nhiệt độ đủ thấp thì còn sẽ có cả tuyết rơi đấy nhé. Dám cá rằng dù có là phượt thủ hay không thì bạn cũng đã từng nghe đến danh tiếng của con đèo Mã Pì Lèng này. Đây chính là một trong “tứ đại đỉnh đèo” mang vẻ đẹp vừa hoang sơ, hiểm trở nhưng lại quyến rũ và cuốn hút lạ kỳ. Mã Pì Lèng khó chinh phục. Vì vậy mà làm mọi người càng khao khát thêm để có thể một lần vượt qua được hết những cung đường ngoằn ngoèo, quanh co với xung quanh là núi đá tai mèo cao, dựng đứng và vực sâu thẳm. Nằm chênh vênh giữa ngọn núi, nên bạn cũng sẽ đi qua đến 9 khúc cua quanh co “rùng rợn” khi một bên tay lái sẽ là vực thẳm sâu hun hút. Cung đường lại hẹp, đôi khi chỉ đủ chỗ cho một chiếc xe. Ấy vậy mà trên đường đi bạn cũng có thể ngắm nhìn được con sông Nho Quế xanh và uốn lượn như một dải lụa. Sông biến đổi theo mùa cực kỳ đặc biệt. Đây cũng là một góc check-in huyền thoại cho giới trẻ ưa thích mạo hiểm. Ngoài ra, bạn cũng có thể đi đến mỏm đá nằm cheo leo giữa vách núi – Nơi sẽ bắt trọn được toàn cảnh núi rừng hùng vĩ và sông nước bạt ngàn. Trên đường lên đỉnh Mã Pì Lèng cũng sẽ còn có cả những thửa ruộng bậc thang mùa lúa chín sẽ trở nên vàng ươm, bát ngát cả một vùng núi đất Đông Bắc. Ngoài ra, tùy mỗi mùa mà không gian bên dưới sẽ là màu trắng tinh khôi của hoa cải, hoa mận hay màu đỏ nổi bật của các loại hoa khác. Ấm thực Đông Bắc có một sức lôi cuốn kỳ lạ và đặc biệt. Các món ăn có thể kể đến như thắng cố, thịt trâu gác bếp, lạp xưởng… đều là những đặc sản mà du khách không nên bỏ qua khi du lịch Hà Giang. Ngoài ra, bạn đã nghe đến rêu nướng chưa? Hương vị của món ăn này có 1-0-2, ăn xong đảm bảo sẽ gây nghiện nặng đó nha. Đa phần vì thời tiết giá rét nên các món ở Hà Giang cũng là món nướng và nhâm nhi thêm chút rượu cần để trải nghiệm được trọn vẹn nhất văn hóa ăn uống của vùng đất địa đầu Tổ quốc này.
Hà Giang 1996 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thị trấn Đồng Văn nằm lọt thỏm giữa bốn bề núi phủ mây phong của cao nguyên đá. Chỉ có khoảng vài chục ngôi nhà nằm rải rác quanh khu trung tâm và xen kẽ vào những vách đá dựng đựng ở giữa trời xanh. Vẻ đẹp của phố cổ Đồng Văn được nổi lên như một bức tranh thủy mạc, trữ tình với đủ những tông màu của thiên nhiên cùng hội tụ. Những ngôi nhà cổ được người dân địa phương dựng lên liền kề bên vách núi như một sự thử thách của sức mạnh, ý chí quyết tâm của con người trước tạo hóa. Phố cổ Đồng Văn được hình thành từ những năm đầu của thế kỷ XX, trải qua những biến thiên của lịch sử, thăng trầm của thời cuộc dường như khu phố vẫn như được nét quyến rũ, hoang sơ của buổi ban đầu. Phố được dựng lên bởi người Tày, người Mông và cả người Hoa. Ngày nay, khi đến du lịch Hà Giang bạn sẽ không khó để bắt gặp hình ảnh những ngôi nhà được thiết kế theo lối nhà dài, nhà mái lợp ngói âm dương. Qua thời gian, phố cổ Đồng Văn đón nhiều cư dân khác nhau đến sinh sống và làm ăn. Điều này đã làm cho khu phố có sự dung hòa, tổng hợp và tiếp biến nhiều hình thái văn hóa của các sắc dân khác nhau. Đến với phố cổ Đồng Văn, bạn không chỉ được xem những chiếc đèn lồng được giăng như mắc cửi trên các tuyến phố mà còn tận mắt chứng kiến những phiên chợ vùng cao với những tiếng khèn, điệu nhạc và sản vật tiêu biểu của vùng cao nguyên đá. Vào những đêm cuối tuần, không gian trong các quán chợ trở nên rộn rã bằng tiếng hát câu hò của những đôi trai gái. Họ trao nhau điệu múa, câu hò giao duyên bên ánh lửa bập bùng của phiên chợ tình vùng cao. Phố cổ Đồng Văn không chỉ là một địa chỉ giao thương của người dân trong vùng mà nó đã trở thành một “trung tâm thương mại” của một vùng cao nguyên rộng lớn. Không chỉ có người dân địa phương, người dân ở các vùng lân cận mà ngay cả những người đi buôn bán ở miền xuôi cũng muốn lên đây mua bán sản vật. Du lịch Hà Giang đến với phố cổ Đồng Văn cũng là địa chỉ tổ chức những lễ hội tryền thống của người Tày, Mông và đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi Tây Bắc. Trong những trang phục truyền thống các thiếu nữ người Mông, Tày, Pu Péo, Lô Lô… tay trong tay với điệu nhạc trao duyên. Điểm nhấn của khu phố cổ là chợ Đồng Văn, chợ được xây bằng nguyên liệu chủ yếu là đá từ năm 1920, qua gần một thế kỷ đến nay khu chợ vẫn còn giữ gìn nét văn hóa khá nguyên vẹn. Để ngắm phố cổ Đồng Văn từ trên cao bạn hoàn toàn có thể thu gọn toàn bộ khung cảnh của khu phố trong tầm mắt. Những dãy nhà được xếp thành hình chữ U lợp ngói âm dương chay dọc theo triền núi. Nếu hỏi thử xem du lịch Hà Giang mùa nào đẹp nhất? Thì hãy đến Hà Giang trong mùa hoa tam giác mạch, bạn hoàn toàn có thể đắm mình trong không gian của núi rừng và những triền đồi trắng dãy một màu, cùng mùi hương ngát dịu của loài hoa nức danh vùng Tây Bắc này. Ở phố cổ Đồng Văn khi đêm về, bạn có thể ghé vào một quán cafe để thưởng thức vị ngon của cafe và lắng nghe từng tiếng gió rít bên những triền đồi vang vọng lại. Mùi hương của loài hoa tam giác mạch sẽ ru bạn đắm chìm trong sự mê mẫn của tiếng khèn, tiếng sáo và những ánh lửa bập bùng trong tiếng nhạc du dương. Về tổng thể phố cổ Đồng Văn có kiến trúc theo kiểu người Hoa là khá phổ biến, chủ yếu lợp ngói âm dương, vì kèo được thiết kế chắc chắn. Đặc biệt, đá dường như là nguyên liệu chủ yếu và trở nên phổ biến trong xây dựng. Những cối đá, tường đá, cột đá được đầu tư xây dựng nên không gian cảnh quan các tuyến phố rất gần gũi với thiên nhiên, ít bị tác động của bàn tay con người. Hầu như mỗi ngôi nhà ở khu phố cổ điều có treo đèn lồng, có lẽ đây là nét văn hóa riêng có của đồng bào thiểu số và hình ảnh của ngọn lửa cũng giúp xua tan đi cái lạnh buốt của vùng cao nguyên đá về đêm. Theo kinh nghiệm du lịch Hà Giang, thì mỗi năm, tỉnh Hà Giang điều tổ chức nhiều lễ hội mang đậm dấu ấn truyền thống của đông bào thiểu số tại Đồng Văn, trong đó phải kể đến “Đêm phố cổ”. Đến với đêm phố cổ các bạn sẽ có cơ hội xem những chiếc váy thổ cẩm, những chiếc đèn lồng, những món ăn truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Hà Giang, một vùng đất du lịch ấn tượng với nhiều địa chỉ văn hóa, lịch sử vẫn còn khá nguyên vẹn. Đặt chân đến đây, cũng là đến với vùng đất của trời mây non nước trữ tình, mọi thứ điều rất hoang sơ. Vùng đất của những cánh đồng hoa Tam giác mạch, của món Thắng cố, của thổ cẩm thiêu tay và tiếng khèn của đôi lứa trao duyên trên phố cổ Đồng Văn – cao nguyên đá.
Hà Giang 2164 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đồng Văn từ lâu đã trở thành một địa điểm du lịch vô cùng hấp dẫn và nổi tiếng của du khách trong và ngoài nước khi nó sở hữu cho mình muôn vàn cảnh đẹp và đặc biệt hơn nữa là cột cờ Lũng Cú, một biểu tượng hết sức thiêng liêng của đất nước Việt Nam. Nhưng đó chưa phải là tất cả của Đồng Văn. Nằm ẩn sâu trong lớp lớp đất đá tai mèo có một thị trấn nhỏ mang tên phó bảng. Nơi đây là một vùng đất ít người biết đến, dù bị năm tháng lãng quên thế nhưng nó vẫn giữ trọn vẹn được nét hoang sơ, cổ kính và yên bình đến lạ thường. Trước đây khi nhắc tới Phó Bảng người ta thường nghĩ ngay đến một trung tâm buôn bán cần sa và ma túy sầm uất nhất Hà Giang nhưng sau khi được giải tỏa nơi này lại nằm thu mình và có một cuộc sống gần như khép kín với thế giới bên ngoài. Do vị trí địa lý ẩn sâu trong lớp đất đá chính vì thế đường lên Phó Bảng khá khó khăn và hiểm trở. Ta có thể bắt đầu đi từ phố cổ Đồng Văn ngược lại khoảng 17 km. Với những khúc đường đèo hiểm trở chênh vênh khi một bên là vực sâu, một bên là núi cao bạn hãy nắm vững tay lái chú ý biển báo và những chiếc gương lồi gắn hai bên đường. Nếu như chưa có một kinh nghiệm nào về du lịch đường đèo thì lớp học cho dân phượt có lẽ là một lựa chọn thích hợp nhất mà bạn phải chuẩn bị trước khi lên đường. Mặc dù cung đường khó khăn nhưng du khách cũng đừng quá lo lắng và sợ hãi bởi trên đường đi bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi non hùng vĩ duy nhất chỉ có tại Hà Giang hay như cứ coi đây là một thách thức mà bạn đặt ra cho bản thân mình để chạm đến những giới hạn cao hơn trong cuộc sống. Sau quãng đường dài di chuyển, thị trấn Phó Bảng mở ra trước mắt ta một khung cảnh tựa như đang lạc vào một miền quê của đất nước Hàn Quốc xa xôi. Vốn được mệnh danh là nàng thiếu phụ ngủ trên cao nguyên đá Đồng Văn, khi bước vào Phó Bảng bạn sẽ cảm nhận được một khung cảnh bình yên với nhịp sống nhẹ nhàng, thanh thản. Những ngôi nhà trình tường bên trên là mái âm dương với màu rêu cổ kính, bức tường đất vàng ngà pha chút nâu đỏ. Khung cửa sổ cũ kỹ, bức vách với những vết nứt tưởng như sắp sập xuống nhưng lại hết sức vững chắc trước phong ba bão tố của đất trời Hà Giang, treo trên đó là những câu đối đỏ và chiếc đèn lồng có khắc chữ của đồng bào dân tộc Hoa đã bạc màu theo năm tháng. Những thứ lâu đời tưởng như không sử dụng được giờ đây dưới bàn tay tài hoa của đồng bào dân tộc sinh sống ở mảnh đất này đã tạo nên một vẻ đẹp cổ kính, hoang sơ hiếm có tại vùng núi cao Tây Bắc. Với phó bảng bốn mùa đều có một nét đẹp riêng biệt nhưng có lẽ mùa thu là mùa mà nơi đây đẹp và hoàn hảo nhất. Thu sang thị trấn khoác lên mình một vẻ đẹp hoang tàn nhuốm màu ký ức nhưng ẩn chứa sâu bên trong là sức sống tràn trề, mãnh liệt. Tận hưởng bầu không khí trong lành tại một vùng đất bình yên, ngắm nhìn những đồi hoa tam giác mạch nồng nàn, đi lang thang du ngoại ở ven đường của thị trấn nhỏ cùng một chiếc máy ảnh trên tay chắc chắn bạn sẽ có những phút giây thật tuyệt vời trên mảnh đất ngủ quên này. Không chỉ có vẻ đẹp mới làm lay động lòng người, thị trấn Phó Bảng còn để lại một dấu ấn vô cùng sâu sắc trong lòng du khách bởi nét giản dị, chất phát của người dân nơi đây. Sống tại phó bảng chủ yếu là đồng bào dân tộc Hoa và người Mông. Đến với nơi đây bạn chắc chắn sẽ không thể kìm lòng được khi nhìn thấy ánh mắt sáng ngời của đồng bào dân tộc. Họ là những người dù sống trong nghèo khó, tối tăm nhưng cũng không bao giờ bị tha hoá, biến chất bởi đồng tiền và sự hào nhoáng xa hoa nơi thành thị mà sống một cách chậm rãi thong thả và cần cù lao động. Ngày này qua ngày khác dù trời đất và con người có biến động như thế nào nhưng nếp sống của đồng bào dân tộc vẫn đi trên một quỹ đạo nhất định. Những thanh niên trai tráng vẫn vác gùi đi làm rẫy, những người phụ nữ tần tảo địu con trên lưng mà không quên công việc của mình. Thi thoảng ta lại nhìn thấy mấy đứa trẻ nhỏ quần áo lấm lem nhưng trong ánh mắt lại toát lên sự trong trẻo, hồn nhiên hoang dại mà tràn đầy sức sống như những bông hoa tam giác mạch mọc trên triền núi đá khô cằn. Với một khung cảnh hoang sơ cổ kính ít người biết đến, một đồng bào dân tộc có nếp sống giản dị thanh tao tất cả đã tạo nên thị trấn nhỏ Phó bảng yên bình. Dù không nổi tiếng như những địa danh khác của Đồng Văn nhưng nơi đây đã giữ được những nét văn hóa truyền thống lâu đời. Đó là món quà vô cùng quý báu mà người dân Phó Bảng đã giữ gìn cho Hà Giang nói riêng và cả đất nước Việt Nam nói chung. Chính vì thế chúng ta hãy góp phần chung tay để bảo vệ một nét đẹp đang dần bị phai nhòa theo năm tháng.
Hà Giang 2006 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Yên Minh là thị trấn cách thành phố Hà Giang khoảng 100km về phía Đông Bắc, men theo quốc lộ 4C từ Cán Tỷ lên trung tâm phố huyện chạy qua 3 xã: Bạch Đích, Na Khê, Lao Và Chải. Cung đường Yên Minh kéo dài 50km từ Quản Bạ, hai bên đường thông mọc thẳng tắp, trải dài hàng chục km, đón chào những phượt thủ bằng những con đường quanh co, uốn lượn cùng làn sương mờ mờ ảo ảo phía xa xa. Khung cảnh rừng thông Yên Minh ngút trời, những trảng cỏ xanh và làn sương mù lãng đãng cùng bầu không khí trong mát khiến du khách có cảm giác tâm hồn trở nên thoải mái, tinh thần dễ chịu, như được đi vào một “Đà Lạt thứ hai”. Đi giữa rừng thông nghe tiếng rì rào, ngân nga vài câu hát khiến người ta yêu đời hơn, lòng thư thái cùng hoà vào thiên nhiên, tận hưởng cảm giác được ở một thiên đường xanh yên bình trên mặt đất. Ngắm nhìn rừng thông Yên Minh từ trên cao xuống, cảm giác như bạn vừa được đi trên mình một con sóng với những khúc uốn quanh, mềm mại. Đặc biệt là, bên cạnh những ngọn núi cao có những con sông trải dài lên tới thượng nguồn. Sự kết hợp hài hoà giữa sông núi mây trời sẽ giúp bạn có thêm nhiều những trải nghiệm hấp dẫn và cảm nhận vẻ đẹp trữ tình đặc biệt của mảnh đất nơi này. Theo như kinh nghiệm du lịch Hà Giang, xuôi về phía đồng bằng, cách trung tâm huyện Yên Minh khoảng tầm 12hm còn có một thảo nguyên xanh ở Lao Và Chải. Nơi này mang một nét đẹp lãng mạn, là một điểm dừng chân trên con đường phượt rừng thông Yên Minh, cũng chính vì lẽ đó mà thảo nguyên xinh xắn, thơ mộng này trở thành một địa điểm chụp ảnh cưới lý tưởng của bao cặp đôi. Là một điểm du lịch Hà Giang vừa độc đáo như khung cảnh Đà Lạt lại vừa thơ mộng, yên bình và êm ái đến nôn nao cả cõi lòng, rừng thông Yên Minh sẽ là một trải nghiệm khó quên với mỗi du khách.
Hà Giang 1965 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu đã một lần đến với Hà Giang, hay thậm chí là nhìn qua những bức ảnh trên Internet bạn cũng sẽ thấy được một Hà Giang với sức hấp dẫn không tưởng được. Không chỉ là bởi vì cảnh sắc núi rừng thiên nhiên nơi đây mà còn là vì con người với những nét đẹp của văn hóa. Thung lũng Sủng Là được biết đến là một thung lũng xinh đẹp nhất thuộc địa phận của cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Nằm trên quốc lộ 4C nối các thị trấn của tỉnh Hà Giang và Sủng là chỉ cách huyện Đồng Văn hơn 20Km, được biết với rất nhiều biệt danh như là “ốc đảo”, “thung lũng nơi đá nở hoa” hay là “đóa hoa rực rỡ đầy quyến rũ của cao nguyên đá”. Khi đến đây, bạn sẽ cảm nhận được sự hài hòa của thiên nhiên thơ mộng và con người địa phương, dường như hòa quyện vào nhau tạo nên bức tranh xinh đẹp giữa núi trời. Được hình thành trên địa hình chênh vênh của đá tai mèo đầy hiểm trở, nhưng với sức sống mãnh liệt, ý chí kiên cường của các chồi hoa đã vươn lên tạo cho thung lũng một cảnh sắc ngọt ngào mê hoặc lòng người. Hiện nay, thung lũng Sủng Là được xem là địa điểm du lịch nổi tiếng của Hà Giang không chỉ với người Việt mà còn là du khách nước ngoài. Hơn hết với sự xuất hiện trong bộ phim “Chuyện của Pao”, thung lũng Sủng Là trở nên ngày càng nổi tiếng và được nhiều người yêu thích. Khi đến với thung lũng Sủng Là, thứ bạn cảm nhận được đầu tiên đó chính là không khí vô cùng trong lành, dễ chịu, hơn hết là sự yên bình đến lạ của thung lũng. Thứ ấn tượng nhất đối với bạn có thể là sự hùng vĩ của những dãy núi đá tai mèo dựng đứng tạo nên sự hoang sơ của nơi đây. Xa xa bạn sẽ thấy được những cánh đồng lúa xen giữa những dãy núi và những người dân chân chất, mộc mạc đang trên đồng làm việc. Thung lũng Sủng Là với đá tảng lớn lại còn vút cao, đất đai chỉ toàn là sỏi đá nhiều nên rất khó khăn cho cây cối phát triển một cách toàn diện. Tuy nhiên, khi đến đây bạn sẽ choáng ngợp bởi không gian thiên nhiên đầy sắc màu của hoa cỏ. Đặc biệt là vào khoảng tháng 10 và tháng 11 bạn sẽ thật sự ấn tượng với vẻ đẹp của những đóa hoa tam giác mạch. Được biết đến là loài hoa đặc trưng của Hà Giang nên hầu như ở bất kỳ ở đâu cũng có rất nhiều loài hoa này, nhưng ngay tại Sủng Là bạn có thể ngắm nhìn những bông hoa tam giác mạch đua sắc rực rỡ. Ngoài ra bạn còn có thể đến thung lũng vào khoảng tháng 12 để có thể ngắm nhìn được vẻ đẹp của hoa cải trắng hay cải vàng. Đây chắc chắn là khung cảnh bắt mắt không kém gì tam giác mạch. Hay bạn cũng có thể đến vào những tháng đầu năm để ngắm nhìn những bông hoa đào rừng đua nở, ngập tràn hương thơm của thiên nhiên. Thiên nhiên đã ban tặng cho Sủng Là một cảnh sắc tuyệt vời giữa núi trời hùng vĩ và cỏ cây hoa lá mỏng manh, một sự đối lập nhưng lại vô cùng hài hòa. Đã đến với thung lũng Sủng Là thì bạn không nên bỏ qua việc ghé thăm làng văn hóa Lủng Cẩm - một ngôi làng nhỏ xinh bao gồm hơn 60 hộ gia đình đang sinh sống tại xã Sủng Là, huyện Đồng Văn của tỉnh Hà Giang. Ngôi làng có lịch sử hơn 100 năm và hiện nay là địa điểm du lịch văn hóa cộng đồng thu hút rất nhiều khách du lịch tìm đến trải nghiệm. Khi đã đến đây bạn sẽ được hòa mình vào những nét văn hóa đặc sắc của người dân nơi đây, bạn sẽ được mặc những trang phục dân tộc nhiều màu sắc và họa tiết hấp dẫn, bên cạnh đó bạn còn được trải nghiệm vào những điệu nhảy và những bài hát sôi động của bữa tiệc hoặc lễ hội. Đến đây bạn còn được tham quan và ngắm nhìn vẻ đẹp của các căn nhà của người H’Mông với lan can bằng gỗ, bức tường và mái ngói đã nhuộm màu rêu phong của thời gian. Nếu đã từng xem qua bộ phim “Chuyện của Pao” 2005 thì chắc chắn có 1 nơi mà bạn chắc chắn phải ghé thăm khi đến với thung lũng Sủng Là. Đó chắc chắn chính là nhà của Pao, nơi được sử dụng làm bối cảnh của bộ phim. Đây cũng chính là địa điểm check in mà rất nhiều bạn trẻ yêu thích khi đến Sủng Là. Căn nhà này được xây dựng rất mộc mạc, với khoảng sân trước nhà và hàng rào được làm bằng đá và chiếc ngói âm dương vô cùng đẹp mắt. Nơi đây còn trồng những cây mận và đào nên vào dịp đầu năm bạn sẽ ngắm được những đóa hoa rực rỡ trước cửa nhà. Nơi đây sẽ là địa điểm rất phù hợp cho bạn khi đã đến với thung lũng Sủng Là, nơi đây bạn có thể hóa thân vào không gian cổ kính, mộc mạc như trong phim, hoặc cũng có thể sử dụng bộ trang phục sặc sỡ tạo điểm nhấn cho bức ảnh của bạn. Điều bạn cần khi đến với Sủng Là là một tinh thần tốt nhất và một chiếc điện thoại hoặc máy ảnh dung lượng để bạn có được những bộ ảnh tuyệt vời có một không hai.
Hà Giang 1897 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Dinh thự Vua Mèo hay còn được biết đến với cái tên Dinh thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn, xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình (hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên. Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2. Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây dựng bởi và tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì. Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi những cánh cung núi gọi là thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn vẹn nguyên như ngày đầu, tạo sự kích thích với mọi người đến đây để khám giá ít nhất một lần trong đời. Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho lính canh và nô tì), trung dinh và hậu dinh (là nơi ở và làm việc) với 64 buồng nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng cho việc xây các mái ngói để tạo hình dễ hơn nhưng không kém phần chắc chắn. Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ mỗi khi có chiến sự xảy ra. Dù có sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận xét rằng dinh thự họ Vương vô cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy là công trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung vì nó được cấu tạo từ những phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng gần gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa. Nhìn chung, đa số nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ và bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ có một số ghế và đồ gỗ được làm bằng thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim và gỗ nghiến để không bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc… Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, là loại cây mà Vua Mèo kinh doanh để làm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh hưởng bởi phương tây có trong công trình này có thể kể đến như bồn tắm sữa dê bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp. Tồn tại cùng kiến trúc độc đáo của Dinh thự Vua Mèo là những câu chuyện xung quanh được lưu truyền từ khi nó được xây dựng đến mãi về sau. Tương truyền rằng, nơi ở ban đầu Vua Mèo Vương Đức Chính là trong một chân núi cao cạnh một hẻm núi lớn. Được sự gợi ý của một thuộc hạ về việc chỗ ở không hợp phong thủy, họ Vương nghe theo và tìm thầy am hiểu thiên văn, địa lý để nhanh chóng tìm nơi vừa có địa thế thuận lợi, vừa có phong thủy tốt. Ông đã sai lính sang tận bên đất Trung Hoa để mời Trương Chiếu, một người giỏi xem tướng để xây dựng nhà cửa, sang tìm địa điểm xây dựng dinh thự. Sau một thời gian suy xét kĩ lưỡng, thầy đã chọn Sà Phìn làm nơi ở mới cho Vua Mèo. Trương Chiếu quả quyết rằng thứ được thung lũng Sa Phìn bao quanh kia là một quả đồi hình con rùa, xây dựng trên lưng rùa sẽ giàu sang phú quý, cũng là mảnh đất mà anh hùng quy tụ. Một giai thoại bí ẩn khác liên quan đến Dinh thự Vua Mèo là vào thời người con Vương Chí Sình. cả nhà họ Vương đã bị yểm bùa bởi một thầy phong thủy người Hán, đến mức suýt chút nữa không có người nối dõi tông đường. Theo đó, Vua Mèo khi còn sống bị chứng đau lưng, đã thử qua rất nhiều thần y và phương thuốc tứ phương mà không khỏi. Một ông thầy người Hán phán rằng mộ của cha ông đang chôn trên lưng rồng, có tội nên bề trên quở trách. Tin lời, Vua Mèo di dời ngôi mộ đến một địa điểm khác mà ngờ rằng bị người Hán chơi xấu, bịa chuyện để hãm hại. Vì phạm chuyện cấm kỵ, những người vợ đầu tiên của Vua Mèo đều không thể sinh con. Đến người vợ thứ 4 mới sinh ra được một người con trai, đặt tên là Vương Duy Thọ.
Hà Giang 1760 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khi nhắc đến Hà Giang, chắc hẳn nhiều du khách sẽ nhớ đến thiên nhiên hùng vĩ, những con đèo bám núi uốn lượn tài tình, hay thung lũng bình yên, cùng các thửa ruộng bậc thang trải dài tít mắt. Đặc biệt, bạn sẽ không bỏ qua những điểm đến đặc sắc, đẹp nhất Hà Giang, nào là Cột mốc Km số 0 Hà Giang, Cổng trời Quản Bạ, Đèo Mã Pì Lèng, Cột cờ Lũng Cú, Dinh thự Vua Mèo (Dinh thự họ Vương)... Trong đó, hình ảnh núi đôi xanh mượt, độc nhất vô nhị, nằm ở phía Tây Nam của Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn - Núi Đôi Quản Bạ dường như có sức hấp dẫn kỳ diệu, khiến bất kỳ lữ khách nào đến Hà Giang đều không quên dừng chân check-in và xuýt xoa ngắm nhìn. Núi Đôi Quản Bạ còn có tên gọi khác là Núi Đôi hoặc Núi Cô Tiên, có niên đại cách đây khoảng 1,6 triệu đến 2 triệu năm. Hai quả núi có hình dáng tròn trịa, đầy quyến rũ, trông giống như đôi gò bồng đảo căng tròn của nàng tiên đang say giấc nồng giữa núi rừng kỳ vĩ. Sở dĩ gọi là Núi Đôi Quản Bạ bởi vì hai quả núi gần như bằng nhau, xếp song song, được hình thành từ quá trình vận động của thềm lục địa vỏ Trái Đất, sự đứt gãy của các khối núi đá vôi, là nơi chuyển tiếp của địa tầng đá vôi với núi đất. Núi Đôi Quản Bạ cách trung tâm thành phố Hà Giang khoảng 52 km về phía Bắc. Do đó, du khách có thể di chuyển đến tọa độ du lịch này bằng nhiều phương tiện như xe máy, ô tô… chạy dọc qua Quốc Lộ 4C. Tuyến đường nhanh nhất gợi ý cho bạn tham khảo là Nguyễn Trãi - Quốc Lộ 2 - Quốc Lộ 4C. Sau đó, du khách di chuyển qua khu vực dốc Bắc Sum tầm vài cây số nữa là sẽ nhìn thấy ngay phía trước hai quả núi nằm sát nhau, có hình chóp nón, đó chính là Núi Đôi Quản Bạ. Vào mỗi mùa, Núi Đôi Quản Bạ đều sẽ mang một vẻ đẹp khác nhau, lúc nào cũng tràn trề sức sống, làm xao xuyến biết bao trái tim của du khách gần xa: Vào mùa xuân thì cây trái đâm chồi nảy lộc, vạn vật sinh sôi sau thời gian ngủ đông. Núi Đôi Quản Bạ trông như trái tim thiếu nữ đang e ấp độ xuân thì. Đến mùa hè là khoảng thời gian mà những đồng lúa xanh thẳm trải dài trên khắp các triền đê trông như dải lụa mềm mại đang uốn lượn. Đặc biệt là khi hoàng hôn buông xuống, cả đất trời nhuộm một màu đỏ rực, vạn vật như dừng lại, núi sông bao la cũng trở nên tĩnh lặng. Khi sang thu cũng là lúc Núi Đôi Quản Bạ vào thời điểm đẹp nhất. Bởi vì đây là mùa lúa chín, mùi thơm lan tỏa khắp nơi. Màu vàng ươm của cánh đồng lúa, kết hợp với màu xanh mướt của rừng cây và bầu trời tạo nên khung cảnh bình dị, nên thơ. Hơn nữa, những vườn hoa tam giác mạch cũng đang mùa nở rộ, đua nhau khoe sắc đẹp đến nao lòng. Mùa đông thì địa điểm này lại mang một vẻ đẹp khác biệt giữa tiết trời băng giá. Lúc này, du khách sẽ chỉ thấy những làn sương khói giăng kín khắp lối, bao trùm hết lên cả hai ngọn núi. Đến khi bình minh lên, những tia nắng nhỏ nhoi sẽ làm sương mù tan bớt đi, và trả lại nét đẹp vốn có của Núi Đôi Quản Bạ. Theo kinh nghiệm của các “fan ruột” thì du khách nên tham quan Núi Đôi Quản Bạ từ tháng 1 đến tháng 3 và từ tháng 8 đến tháng 9. Vào thời điểm này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng màu sắc rực rỡ của hoa tam giác mạch cùng vàng ươm rực của cánh đồng lúa chín. Không chỉ bị mê hoặc bởi kiến tạo hình hài độc đáo của hai quả núi, điểm nhấn ấn tượng khác tại Núi Đôi Quản Bạ chắc chắn nằm ở không gian xung quanh như một bức tranh tuyệt tác của tạo hóa. Khi đặt chân đến đây, du khách sẽ có cơ hội được chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang xanh trải tít tăm tắp, xen lẫn trong các dãy núi nhấp nhô, như đang tô vẽ cho bức tranh thiên nhiên thêm phần sinh động. Và tùy từng thời điểm, cả một vùng trời của Núi Đôi Quản Bạ sẽ khoác thêm chiếc áo mới lộng lẫy, kiêu sa, khiến ai cũng phải ngước nhìn.
Hà Giang 1866 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhiều người khi nghe đến cái tên Chợ Lùi sẽ thường liên tưởng ngay đến những hình ảnh cực kì thú vị và có chút ngộ nghĩnh: có thể là phiên chợ được họp ở nơi miền núi và người dân khi tham gia đều phải đi lùi. Nhưng thật ra không phải như vậy đâu bạn ơi. Xem thêm: Chợ phiên Hoàng Su Phì - Nét đẹp văn hóa độc đáo nơi cao nguyên đá Sở dĩ những phiên chợ này được đặt tên như thế là do chính cách tính ngày họp chợ mà người đồng bào các dân tộc sinh sống nơi vùng cao nguyên đá sử dụng trong suốt những năm qua. Gọi là chợ lùi là bởi vì các phiên chợ này sẽ được họp lùi lại một ngày so với phiên chợ trước đó mà thôi. Hoặc nói theo cách đơn giản hơn thì lịch họp của các phiên Chợ Lùi Hà Giang sẽ thường diễn ra cố định 6 ngày một lần. Nhưng bởi vì một tuần có bảy ngày nên phiên chợ diễn ra sau đó sẽ tự động được lùi lại một ngày theo cách tính của lịch dương. Ví dụ như nếu như trong tuần này, phiên chợ được tổ chức vào ngày Chủ nhật thì sang tuần tiếp theo, chợ sẽ được họp vào ngày thứ Bảy và cứ thể xoay vòng mãi. Tuy nhiên, đối với người đồng bào dân tộc H’Mông và người Hoa thì họ sẽ tính lịch họp Chợ Lùi Hà Giang theo cách riêng của mình. Thay vì tính theo lịch dương, đồng bào H’Mông và Hoa sẽ tính theo 12 con giáp, tức là họ sẽ họp chợ vào những ngày được cho là xung khắc với nhau. Có thể là cặp Tý – Ngọ, Dần – Thân, Tị - Hợi đại loại vậy. Khác với những phiên chợ khác tại vùng cao nguyên đá sẽ được tổ chức tại một điểm cố định, chẳng hạn như Chợ tình Khâu Vai, Chợ phiên Mèo Vạc, v.v, những phiên Chợ Lùi Hà Giang sẽ không có điểm tổ chức cụ thể nào cả. Nếu những phiên chợ khác ở vùng biên viễn này thường họp cố định vào những ngày thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần thì chợ lùi có đến tận 8 chợ cơ, bao gồm chợ Phó Bảng, chợ Phố Cáo, chợ Sà Phìn, chợ Lũng Phìn, chợ Lũng Cú, chợ Sủng Trái, chợ Tráng Kìm và chợ Ma Lé. Các chợ này sẽ lần lượt được tổ chức vào những thời điểm và các địa điểm như: Chợ Phó Bảng, Chợ Phố Cáo, Chợ Sà Phìn, Chợ Lũng Phìn,... Nói những phiên chợ lùi là đặc sản của vùng cao nguyên đá cũng chẳng sai tí nào. Vì tính cho đến thời điểm hiện tại, chỉ duy nhất nơi cao nguyên đá Đồng Văn mới là nơi tổ chức những phiên chợ đặc biệt này. Đây là phiên chợ mang đậm đà nét văn hóa đặc sắc trong đời sống văn hóa, đồng thời là món ăn tinh thần không thể thiếu của các đồng bào dân tộc H’Mông, Dao, Lô Lô và người Hoa sinh sống tại những bản làng khắp vùng cao Hà Giang. Trong hành trình khám phá Hà Giang, nếu như bạn muốn cảm nhận được trọn vẹn nếp sống thường ngày cũng như hơi thở đặc trưng của vùng biên viễn, vậy thì bạn không nên bỏ qua những phiên chợ lùi đặc biệt này. Đi dạo khắp phiên chợ, bạn sẽ nhìn thấy trên gương mặt của bà con là sự háo hức và hồ hởi trong mỗi lần xuống chợ. Ngoài ra, khi đến Chợ Lùi Hà Giang, bạn sẽ được nhìn thấy rõ hơn sự thật thà, chất phác của những người mua kẻ bán nơi này và cả tình người hào sảng, thân thiện và hiếu khách của họ nữa. MIA.vn tin rằng những điều đó sẽ làm nên những dấu ấn khó quên trong lòng bạn khi đến với vùng biên viễn xa xôi và hẻo lánh này. Không chỉ được trải nghiệm nếp sống bình dị, thật thà chân chất của người dân nơi đây, khi đến tham dự những phiên chợ lùi Hà Giang, bạn sẽ có thể tìm thấy vô vàn đặc sản của vùng cao nguyên đá mà chẳng thể tìm thấy ở bất kì nơi nào. Các loại đặc sản thường được người dân mang ra buôn bán, trao đổi ở các phiên chợ lùi có thể là gà đen, hạt tê, cải méo, lợn mán, v.v. Ngoài ra, trong suốt phiên chợ, mọi người sẽ cùng nhau tổ chức những tiết mục múa khèn ngẫu hứng nhưng đặc biệt đến lạ cùng một loạt những chương trình giao lưu văn hóa và các trò chơi dân gian khác.
Hà Giang 1872 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hoàng Su Phì là vùng đất trải dài gồm 6 xã là Bản Luốc, Hồ Thầu, Sán Sả Hồ, Bản Phùng, Thông Nguyên và Nậm Ty thuộc vào địa bàn của Hà Giang. Sở hữu vị trí địa lý đặc biệt nằm ở cực Bắc Việt Nam, Hoàng Su Phì gây thương nhớ bởi các cánh đồng ruộng bậc thang vào độ tháng 9, 10 khi lúa chín vàng. Hãy thử đến đây và khám phá nhiều điều ý nghĩa nhé. Hoàng Su Phì là huyện vùng núi có địa hình bị chia cắt mạnh do đó ở đây có rất nhiều vùng khí hậu, thổ nhưỡng cũng như cảnh quan thiên nhiên khác nhau. Chính vì lý do đó mà khi du lịch tới địa điểm này thì bạn nên lựa chọn thời điểm phù hợp: Mùa xuân là khoảng thời gian lý tưởng dành cho những ai yêu thích khám phá các lễ hội độc đáo của Hoàng Su Phì. Đây cũng là cơ hội dành cho các tín đồ sống ảo được check-in cùng các vườn đào, lê, đồi chè. Khoảng từ giữa tháng 4 đến tháng 6 là mùa cấy lúa. Đến Hoàng Su Phì vào mùa này bạn sẽ được chiêm ngưỡng những cánh đồng lúa bạt ngàn nối đuôi nhau từ dãy núi này sang dãy núi nọ. Từ giữa tháng 9 hàng năm là bắt đầu vào mùa lúa chín các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và ruộng bậc thang Hoàng Su Phì nói riêng. Đây là giai đoạn tuyệt vời nhất dành cho những ai yêu thích chụp ảnh nghệ thuật, sống ảo trên những cánh đồng ruộng bậc thang vàng ươm. Cuối năm, khi bước sang mùa đông miền Bắc. Nếu không ngại cái lạnh, các bạn có thể lên Hoàng Su Phì khám phá Tây Côn Lĩnh, Chiêu Lầu Thi để săn mây, săn tuyết cũng hứa hẹn rất thú vị đấy nhé. Bản Phùng là một xã nằm gần biên giới với Trung Quốc. Để đến được địa điểm này bạn cần men theo một con đèo dài gần 30km vắt ngang qua núi mới đến được trung tâm xã. Không chỉ có những thung lũng rộng lớn, tại Bản Phùng còn có rất nhiều cánh đồng ruộng bậc thang nằm cheo leo trên sườn núi dốc. Cùng với Bản Luốc, đây là nơi có những thửa ruộng bậc thang cao nhất Việt Nam. Đến du lịch Hoàng Su Phì, bạn có thể đến thăm các địa điểm sau. Đầu tiên, Bản Phùng là một xã nằm gần biên giới với Trung Quốc. Để đến được địa điểm này bạn cần men theo một con đèo dài gần 30km vắt ngang qua núi mới đến được trung tâm xã. Không chỉ có những thung lũng rộng lớn, tại Bản Phùng còn có rất nhiều cánh đồng ruộng bậc thang nằm cheo leo trên sườn núi dốc. Cùng với Bản Luốc, đây là nơi có những thửa ruộng bậc thang cao nhất Việt Nam. Tam giác mạch là loài hoa đặc trưng của xứ đá tai mèo với vẻ đẹp miên man, hoang dại. Lên Hoàng Su Phì vào thời điểm cuối thu, bạn sẽ được chìm đắm trong sắc tím biếc của những bông hoa tam giác mạch. Nằm dưới chân đỉnh Tây Côn Lĩnh hùng vĩ, Chợ phiên Hoàng Su Phì họp vào ngày Chủ nhật hàng tuần. Tại đây người dân có thể trao đổi hàng hóa trong sinh hoạt hằng ngày như rau quả, vải vóc, thêu thùa… Tuy không quá sầm uất nhưng không khí tại đây lúc nào cũng rất vui tươi. Người dân đi chợ nhưng náo nức như đi hội. Vì thế, có những chàng trai, cô gái chuẩn bị xuống chợ từ đêm hôm trước để kịp giờ họp chợ. Hiện nay, trên các sườn núi của huyện Hoàng Su Phì có hàng trăm ngôi mộ cổ nằm rải rác theo một đường vòng cung trong một khu vực hàng ngàn km2 theo sườn núi với kích cỡ mỗi ngôi cao khoảng 1,5 mét, rộng từ 15 – 25 mét vuông. Đền Vinh Quang nằm tại trung tâm thị trấn Vinh Quang huyện Hoàng Su Phì, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh việc thờ một số vị thần thánh khác theo tín ngưỡng tâm linh của người dân địa phương thì đền Vinh Quang còn thờ Hoàng Văn Đăng là Chánh tổng của Hoàng Su Phì. Một số lưu ý khi du lịch Hoàng Su Phì tự túc, để hành trình khám phá Hoàng Su Phì thêm phần trọn vẹn thì bạn cần lưu ý một số điều bên dưới đây: Bạn cần mang theo đầy đủ các loại giấy tờ cần thiết như CCCD/CMND, giấy phép lái xe và kiểm tra chất lượng xe, mang theo đồ phản quang, kiểm tra đèn, phanh xe kỹ lưỡng trước khi xuất phát. Thời tiết tại Hoàng Su Phì khá lạnh nên khi đi du lịch tại đây bạn cần mang theo áo ấm và các trang phục giữ nhiệt tốt nhé. Ngoài ra bạn cũng nên mang theo đồ ăn nhẹ như bánh, kẹo, nước uống tại vì trên đường đi có khá ít quán bán đồ ăn. Đặc biệt là bạn nhớ mang cả quần áo, sách vở và bánh kẹo để tặng cho các em nhỏ ở đây đấy nhé. Trên đây là toàn bộ những kinh nghiệm đi du lịch Hoàng Su Phì Hà Giang tự túc mà MIA.vn muốn gửi gắm đến bạn. Hy vọng chỉ với một vài thông tin vừa rồi cũng đã có thể giúp bạn ít nhiều trong chuyến du lịch đến Hoàng Su Phì trong thời gian sắp đến.
Hà Giang 1930 lượt xem
Tháng 9 đến tháng 10
Quốc Lộ 2, Cầu Mè Phương Thiện, Quốc Lộ 2, Thành Phố Hà Giang, Hà Giang, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Hà Giang
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
Tổ 2, Quang Trung, Thành Phố Hà Giang, Hà Giang, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Hà Giang
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
SN 102, Tổ 7, Thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, Tỉnh Hà Giang
Hiệp hội du lịch Hà Giang
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ