Đền Bà Kiệu

Đền Bà Kiệu

Đền Bà Kiệu tọa lạc tại số 59 Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo sử sách, đền Bà Kiệu có tên chữ là “Thiên Tiên điện” hay “Huyền Chân Từ”, trước đây thuộc thôn Tả Vọng, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội. Giữa thế kỷ XIX, đền thuộc thôn Hà Thanh, phường Đông Các, huyện Thọ Xương. Đầu thế kỷ XX, đền thuộc phố Bờ Hồ (Rue du Lac), tọa lạc theo hướng Nam, đối diện đền Ngọc Sơn. Đền thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Ngọc Nữ và Đệ tam Ngọc Nữ (Quỳnh Hoa và Quế Hoa). Theo Thăng Long cổ tích khảo thì đền xây vào thời nhà Lê triều Vĩnh Tộ (1619-1628), đến triều Cảnh Hưng thì mở rộng thêm. Vào thời Tây Sơn triều Cảnh Thịnh đền đúc quả chuông lớn. Triều vua Tự Đức ngôi đền được tu sửa lần nữa. Đền Bà Kiệu xưa kia khá khang trang trong một khuôn viên đẹp và rộng rãi. Năm 1891, do thực dân Pháp xây đường vòng quanh Hồ Gươm nên khu đền bị tách làm hai phần: Tam quan nằm sát ven hồ Gươm gồm ba gian xây gạch kiểu “tường hồi bít đốc”, mái lợp ngói ta với các bộ vì kiểu chồng rường đỡ mái, thân các con rường chạm nổi hoa văn thực vật, vân mây; Kiến trúc chính gồm đại bái, phương đình và hậu cung được xấp theo dạng chữ “công”. Nhà đại bái gồm ba gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, mái nhỏ đều như gợn sóng . Bộ mái gần gũi với phong cách kiến trúc của cố đô Huế. Bờ nóc có dạng bờ đình, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm hoặc men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa. Bộ khung được làm khá vững chắc với 8 cột trụ bằng gỗ lim, chu vi cột cái 115cm, cột quân 105cm. Các cột hiên nhỏ hơn được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh rộng 25cm. Nhà Tiền tế có 4 tượng cá chép hóa rồng đặt trên xà và dưới điểm của hai mái sau, trước. Các tường dẹt, được thể hiện khá sinh động, chau chuốt và đem lại hiệu quả đáng kể cho kiến trúc đến. Liền sau tiền tế là một kiến trúc nhỏ dựng trên bốn chân cột lớn kiểu phương đình, hai tầng bốn mái. Bốn mái chạm mảng hoa văn truyền thống phổ biến theo kiểu kiến trúc thời Nguyễn. Hậu cung là nơi tọa lạc của các vị thần được thờ với một nếp nhà ngang xây gạch kiểu “tường hồi bít đốc”. Các nữ thần được tọa lạc trong một khám thờ lớn, chạm khắc cầu kỳ. Lớp trên gồm ba pho trong tòa Thánh Mẫu. Lớp dưới có các tượng Công chúa Liễu Hạnh và hai tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa. Ngoài khám thờ còn có bốn tượng nhỏ (hai tượng cô, hai tượng cậu). Hai bên có hai khám thờ nhỏ, bên phải đặt tượng chầu thủ đền, bên trái là Bà Chúa Thượng Ngàn. Hai bên là nơi thờ những vị thần phổ biến trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Đền Bà Kiệu hiện còn giữ được bộ sưu tập di vật văn hoá lịch sử gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau trải dài qua ba triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Trong đó phải kể đến bốn tấm bia đá dựng năm Cảnh Thịnh 8 (1800), Tự Đức 19 (1866) cùng hệ thống 27 đạo sắc từ triều Lê, Tây Sơn đến Nguyễn phong thần cho Bà Chúa Liễu và hai vị tiên nữ. Di tích đền Bà Kiệu đã được Bộ văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 2/5/1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 261 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia

Mở cửa

Khám Phá Hà Nội

Hoàng Thành Thăng Long

Hà Nội 1938

Di tích quốc gia đặc biệt

Đình, chùa Đại Lan

Hà Nội 1741

Di tích cấp quốc gia

Đền Voi Phục Hà Nội

Hà Nội 1667

Di tích cấp quốc gia

Chùa Thanh Nhàn

Hà Nội 1644

Di tích cấp quốc gia

Đình Hoàng Xá

Hà Nội 1530

Di tích cấp quốc gia

Chùa Một Cột

Hà Nội 1472

Di tích cấp quốc gia

Đình Hạ Hiệp

Hà Nội 1389

Di tích quốc gia đặc biệt

Chùa Pháp Vân

Hà Nội 1381

Di tích cấp quốc gia

Chùa Láng

Hà Nội 1363

Di tích cấp quốc gia

Đền Đồng Nhân

Hà Nội 1267

Di tích quốc gia đặc biệt

Điểm di tích nổi bật