Đình Vĩnh Khê thuộc làng Vĩnh Khê, xã An Đồng, huyện An Dương, ngoại thành Hải Phòng. Đình Vĩnh Khê có bố cục mặt bằng hình chữ Công gồm: 5 bái đường, 2 gian nhà cầu, 3 gian hậu cung. Mặt chính ngôi Đình hướng Nam, nơi có dòng sông Lạch Tray uốn khúc qua địa phận Kiến An, An Lão. Đình thờ ba vũ phúc thần là Vũ Giao, Vũ Trọng (hai anh em sinh trưởng từ mảnh đất Vinh Khê) và Phạm Tử Nghi, những người có công với dân, với nước, được các vương triều phong kiến tặng phong mỹ tự, nhằm tôn vinh tài trí, thao lược, anh dũng, quả cảm của họ. Thăm Đình Vĩnh Khê, những điều đọng lại trong tâm trí du khách lần đầu có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó chính là bộ khung gỗ có kiến trúc hoàn toàn thuộc loại gỗ tứ thiết, đậm màu thời gian. Trang trí, chạm khắc ở đây không nhiều và dầy đặc như Đình Hàng Kênh, Đình Dư Hàng, nhưng những đề tài quen thuộc được các nghệ nhân nơi thôn dã thể hiện khá sáng tạo, uyển chuyển trong bộ tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng; và các loại hoa thơm, quả lạ, ẩn chứa bao khát vọng sống thanh bình nơi làng xóm. Các nghệ nhân dựng hình còn thể hiện thành công trong các mảng đề tài mang nét đặt trưng của vùng sông nước: sóng nước dập rờn, bên cạnh bóng cây tùng, cây bách hiên ngang. Có thể nói những mảnh chạm dân gian trên gỗ cùng với nhiều di vật bằng đá, kim loại, đồ tế tự bằng gỗ phủ sơn son thiếp bạc... đã tạo ra sự bề thế của ngôi đình hôm nay. Lễ hội Đình Vĩnh Khê mở hàng năm vào ngày mồng 7 tháng giêng, kỷ niệm ngày sinh của hai vị thành hoàng họ Vũ. Hội làng gắn liền với hội thi đấu vật, chỉ diễn ra một ngày nhưng cũng thu hút nhiều đô vật của nhiều lò vật nổi tiếng ở Vĩnh Bảo, Tiên Lãng tới so tài. Một chi tiết cần làm rõ là vì sao Đình Vĩnh Khê lại phối thờ Phạm Tử Nghi một danh tướng thời Mạc quê ở Vĩnh Niệm (An Dương). Do là một lần đi qua làng Vĩnh gặp lúc mở hội, ngài xin dự và giật giải cao, sau khi ngài mất dân làng phối thờ. Theo các cụ, hội làng Vĩnh Khê ngày trước rất đông vui, bởi ngoài lễ rước thành hoàng còn có đấu vật, thi bơi thuyền trên khúc sông chảy từ sông Sái (Lai Vu - Hải Dương) qua huyện lỵ Rế về mãi tận cầu An Dương bây giờ. Đình Vĩnh Khê được nhà Nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1991. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hải Phòng
Hải Phòng 1254 lượt xem
Đình làng Hải Châu được coi là một trong những địa điểm du lịch ở Đà Nẵng được nhiều du khách trong và ngoài nước ghé thăm rất nhiều vào mỗi năm. Đình làng Hải Châu được coi là ngôi đình cổ nhất ở thành phố biển Đà Nẵng. Di tích này được nhà nước chính thức công nhận vào năm 2001. Đình làng Hải Châu khi xưa được biết đến với cái tên chùa Phước Hải. Đây là nơi khi mà chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm Kỷ Hợi (1719) đã vào Quảng Nam, dừng chân và nghỉ lại tại đây. Dân làng Hải Châu sau đó đã lập bàn thờ vua Nguyễn Phúc Chu tại đây. Đình làng Hải Châu nằm ngay trung tâm thành phố Đà Nẵng về phía tả ngạn sông Hàn (hẻm 48 đường Phan Châu Trinh, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu). Theo gia phả tộc Nguyễn Văn, một trong 43 tộc họ của làng Hải Châu, các bậc Tiền hiền khai khẩn, Hậu tiền khai canh làng Hải Châu vốn có nguồn gốc từ làng Hải Châu, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Trong quá trình theo vua Lê Thánh Tông khai phá đất đai, họ lập nên làng Hải Châu và cư ngụ tại vùng đất này vào cuối thế kỷ 15. Ghi chép của các bậc cao niên cho thấy, vào năm Gia Long thứ 5 (1804), các hương chức làng Hải Châu xin vua Gia Long cho lập đình thờ Thành Hoàng làng và các vị Tiền hiền, Hậu hiền của làng tại khu đất Nghĩa Lợi bên bờ sông Hàn. Đến năm 1858, đình bị hư hại nặng do chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Hai năm sau, nhân dân dựng lại đình tại khu đất nay là Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng (99 đường Hùng Vương). Đến năm 1903, người Pháp chiếm dụng ngôi đình, sử dụng làm nơi điều trị bệnh nhân trong nạn dịch đậu mùa. Một năm sau, ngôi đình được trả lại theo đơn xin của dân làng. Tuy nhiên, nhân dân Hải Châu cho rằng ngôi làng bị ô uế nặng nên làm đơn thỉnh nguyện dâng lên vua Thành Thái xin cho xây dựng lại ngôi đình tại vị trí hiện nay (tổ 3, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu) và tồn tại cho đến ngày nay. Đình làng Hải Châu là một trong những di tích lịch sử và văn hóa cấp quốc gia ở Đà Nẵng, là một trong những điểm tham quan Đà Nẵng để lại nhiều ấn tượng trong lòng du khách ghé tới đây. Cổng chính của đình làng này vẫn còn giữ nguyên vẹn 4 chữ “Hải Châu Chính Xã”, được viết toàn bộ bằng chữ Hán. Đình làng Hải Châu là một quần thể kiến trúc, nằm trong một khuôn viên rộng tới 3.500 mét vuông, bao gồm: Đình Hải Châu, Nhà thờ Tiền Hiền, nhà thờ Chu phái tộc và miếu Bà. Phía trước đình làng là một hồ nước nhỏ với hòn non bộ rợp bóng và cây si đã có tuổi thọ hàng trăm năm tuổi. Nhà thờ bên trái là nhà thờ của gia tộc họ Nguyễn Văn, nhà thờ bên phải là nhà thờ chung bao gồm 42 bài vị của 42 tộc họ, 42 tộc họ này đều đến từ Thanh Hóa, theo chân vua Lê Thánh Tông vào Nam từ năm Tân Mão (1471). Vua Lê Thánh Tông đã lập ra ấp Hàn Giang (ngày ngay là Đà Nẵng) và các tộc họ ấy sống quây quần với nhau trở thành làng Hải Châu, được triều Nguyễn sắc phong là “Chính xã”. Phía bên trong đình, người ta lưu giữ nhiều bức hoành phi, câu đối, liễn đối sơn son thếp vàng được viết hoàn toàn bằng chữ Hán và đã có niên đại lên đến hàng trăm năm. Trong đó, có 9 bức hoành phi và 2 cặp liễn đối được làm bằng gỗ, tất cả được chạm khắc rất đẹp, có giá trị nghệ thuật cao. Trên gác chuông của đình làng Hải Châu, có 1 chiếc chuông được đúc bằng đồng, trên thân chuông có những câu văn, thơ được viết bằng chữ Hán. Những câu văn, thơ này ghi lại những mốc lịch sử hào hùng của ngôi đình. Đại ý của những chữ này như sau: Năm Minh Mạng thứ 5 (1842) đã trùng tu chùa, năm 1825 vua đã ban chỉ sắc tứ cho chùa, đặt chùa mang tên “Chùa Phước Hải”, năm Minh Mạng thứ 13 (1832) nhằm ngày tốt, xã Hải Châu Chánh Đồng tạo lập quả chuông này. Nguồn: Báo điện tử Đà Nẵng
Đà Nẵng 1674 lượt xem
Đình Đại Nam (dân địa phương có nơi gọi là Nại Nam) là di tích văn hóa - lịch sử tiêu biểu của thành phố Đà Nẵng. Với những ai yêu thích khám phá về các giá trị văn hóa cổ xưa thì đây là điểm đến không thể bỏ lỡ khi đến với “thành phố đáng sống”. Đình Đại Nam – ngôi đình có tuổi đời hơn 100 năm, gắn liền với nhiều câu chuyện, sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngôi đình được xây dựng từ năm 1905, vào năm 1999, đình Đại Nam ở Đà Nẵng được công nhận là di tích cấp quốc gia. Địa chỉ của di tích này nằm ở địa phận phường Hòa Cường (nay là phường Hòa Cường Bắc) , quận Hải Châu, TP Đà Nẵng. Vào thời gian năm 1946, đình Nại Nam nằm trong làng Hòa Bình (thuộc phạm vi xã Nại Nam). Làng Hoà Bình lúc bấy giờ là nơi cư trú của bà con có quê ở Hoá Sơn và Khuê Trung. Đến năm 1949, làng Hòa Bình sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng và được đổi tên thành khu Nam trực thuộc thành phố nơi này(tách khỏi huyện Hoà Vang). Khu Nam gồm có làng Nại Nam, Hòa Bình, Khuê Trung và một phần của xã Liên Trì. Đình hướng về phía Đông Nam, được xây dựng hoàn toàn bằng vật liệu gạch ngói và gỗ, mái lợp ngói âm dương. Đình có sân rộng và tường xây bao bọc, cổng đình có bốn trụ vuông, mỗi trụ cao khoảng 5m. Hai trụ chính giữa tạo lối đi chính vào đình, trên đỉnh trụ có đúc hình hai con lân, hai trụ tả hữu gắn liền với tường thành, đỉnh trụ được tạo hình búp sen. Trên các trụ giữa có cặp câu đối ghép bằng sành sứ. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ác liệt, đình Đại Nam Đà Nẵng là một trong những cơ sở, địa điểm hoạt động của cách mạng. Ngôi đình trở thành căn cứ hoạt động bí mật, giai đoạn năm 1960- 1965, đình là trạm giao liên, liên lạc ra vào thành phố. Rất nhiều những sự kiện lịch sử trọng đại đã được diễn ra tại đây như lễ kết nạp Đảng viên, triển khai lực lượng quân sự, chính trị ở nhiều thời điểm từ năm 1850 – 1975. Theo lịch sử, rất nhiều những anh hùng, chiến sĩ đã sống, chiến đấu hết mình, hy sinh tại địa điểm này. Nguồn: Trang thông tin điện tử Đà Nẵng
Đà Nẵng 1725 lượt xem
Miếu Thủy Tú thuộc thôn Thủy Tú có tên cũ là làng Ngọc Phương, thuộc xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Miếu Thủy Tú cùng các di tích khác của Thủy Đường như: đình Thượng, đình Hạ, đền Lương Đường, đình Chiếm Phương ( xã Hòa Bình) hợp thành một cụm di tích lịch sử ghi nhớ công tích của 4 người con họ phạm, tham gia đánh giặc Tống ở thế kỷ thứ X ( năm 981) dưới sự lãnh đạo của Lê Đại Hành. Xã Thủy Đường ngày ấy có gia đình họ Phạm sinh được 4 người con. Đó là Phạm Quang, Phạm Nghiêm, Phạm Huấn, Phạm thị Cúc Nương. Họ là 2 cặp anh em song sinh. Khi ông Quang, ông Nghiêm 18 tuổi; ông Huấn và người em gái Cúc Nương 15 tuổi, thì cả cha lẫn mẹ đều mất. Bốn anh em họ Phạm chôn cất cha mẹ tại cánh đồng Mả Thuyền, Phía đông của trang. Khi quân Tống theo sông Bạch Đằng vào xâm lược nước ta, nhà vua đem quân đi dẹp giặc. Quân đội triều đình đến một gò đất cao thuộc huyện Thủy Đường, được dân làng đón tiếp chu đáo. Đặc biệt là các cụ già trong thôn cho vua biết có 4 anh em trai, gái nhà họ Phạm đều là những người hiếu lễ, võ nghệ tài giỏi. Nhà vua cho gọi cả 4 anh em họ Phạm đi đánh giặc. Vâng lệnh vua, cả 4 anh em đều vui mừng làm lễ tổ tiên, cha mẹ rồi tới bái yết nhà vua. Thấy cả 4 anh em họ Phạm diện mạo khác thường lại giỏi võ nghệ, nhà vua cả mừng, ban chức tước và sai cùng đi đánh giặc. Sau ngày chiến thắng, 4 anh em họ Phạm đều được phong chức tước rồi xin vua cho về thăm phần mộ cha mẹ, tổ tiên, khao thưởng quan sĩ và dân làng. Bốn người mời các vị phụ lão dự tiệc, tặng 300 quan tiền để tỏ nghĩa ân tình. Sau khi 4 anh em họ Phạm mất, nhân dân các trang lập miếu thờ. Trang Ngọc Phương ( nay là thôn Thủy Tú, xã Thủy Đường) thờ người anh cả là Phạm Quang, trang Chiếm Phương thờ Phạm Nguyên, trang Trường Sơn thờ Phạm Huấn và Cúc Nương. Nhân dân 3 trang đều tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3 âm lịch. Miếu Thủy Tú được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1991. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hải Phòng
Hải Phòng 1417 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2234 lượt xem
Đền Lăng Sương nằm trong hệ thống di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh vùng ven sông Đà và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Đền có từ thời Thục An Dương Vương, đến đời Lê thì được trùng tu lại (981-1009), thời Nguyễn vào năm Thiệu Trị thứ 7 (19/6/1847) tu sửa lớn. Đền tọa lạc tại xã Trung Nghĩa, Thanh Thủy, Phú Thọ. Tản viên Sơn Thánh được biết đến là vị thần đứng đầu “tứ bất tử” của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ, nhân dân đã suy tôn Tản Viên là vị thần “Thượng đẳng tối linh”, “Đệ nhất phúc thần” trong tín ngưỡng cổ truyền người Việt. Đền Lăng Sương tự hào là mảnh đất đã sinh ra Đức Thánh Tản. Đây có thể coi là mảnh đất “chôn rau, cắt rốn” của vị thần tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cùng với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản, đền Lăng Sương còn thờ Thánh Mẫu - người có công sinh ra Thánh Tản. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây đã hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như Mẹ Âu Cơ, Đất Mẹ, Mẹ Nước… Đền Lăng Sương có mặt bằng khá rộng, có kiến trúc mang nhiều đường nét cổ kính, thâm nghiêm. Trải qua mưa nắng và giặc giã, ngôi đền bị hư hỏng nhiều. Năm 1991, chính quyền và nhân dân địa phương đã tôn tạo đền Lăng Sương trên khu đất rộng với diện tích 3.000 mét vuông, bao gồm các công trình: Cổng đền, miếu Hai Cô, giếng Thiên Thanh, nhà bia, nhà võng, tả mạc, hữu mạc đền thờ và lăng thánh Mẫu. Đây là ngôi đền duy nhất của Việt Nam thờ cả gia đình Đức Thánh Tản và cũng là nơi thờ gốc trong hệ thống di tích thờ Tản Viên Sơn ở Việt Nam. Bãi Trường Sa - Trung Độ nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau nên duyên vợ chồng - sinh ra nòi giống con Lạc, cháu Rồng - Nguồn cội dân tộc Việt Nam. Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc Đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 12 tháng 7 năm 2005. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1217 lượt xem
Đình Lâu Thượng được xây theo kiểu chữ Đinh, gồm một tòa đại bái 5 gian 2 dĩ và phần hậu cung 3 gian, có chiều dài là 28m và chiều rộng là 22m theo hướng Đông Nam. Toàn bộ đình có 60 cột cái lớn có đường kính 0,75m liên kết với các xà ngang, dọc tạo thành bộ khung có kết cấu chắc chắn hình tứ trụ lũng thuyền. Hậu cung có kết cấu độc đáo, được chạm khắc tinh xảo. Trên khoảng xà thượng là lưỡng long chầu nguyệt với bố cục chặt chẽ, kết hợp hài hoà giữa đường nét và hình khối hình rồng quyện vào mây, được chạm khắc theo phong cách thời Nguyễn. Phía dưới là hai đầu dư chạm khắc công phu.Toàn bộ gian giữa hậu cung được dành làm khám thờ. Kết cấu chính của khám thờ được sàm đóng với bốn cột mái, phía ngoài là cửa khám chạm trổ tinh vi sơn son thếp vàng. Phía ngoài cửa cấm trên ban thờ cũng có tượng Hai Bà Trưng, tượng tạc trong tư thế ngồi. Đình cũng giữ được một cỗ kiệu bát cống khám mui luyện sơn son thếp vàng đục chạm tinh xảo theo phong cách thời hậu Lê. Đình Lâu Thượng hiện lưu giữ được một số hiện vật có giá trị như 4 cỗ ngai và bài vị sơn son thếp vàng được gia công từ thời Nguyễn đặt tại khám thờ chính. Bên cạnh đó, nhiều điển tích như: "Tiên sinh dạy học", "Song phượng hàm thư", "Lưỡng long chầu nguyệt", "Quần long hội tụ", "Mẫu long huấn tử"… được khắc họa bằng các bức chạm công phu trên các cấu kiện kiến trúc . Mỗi bức chạm là một tác phẩm độc đáo, vừa thể hiện sinh động nét đẹp bình dị, phóng khoáng, sự tài hoa, khéo léo, sức sáng tạo và óc thẩm mỹ của cha ông ta thuở xưa. Lễ hội làng Lâu Thượng được diễn ra vào ngày mùng 9 tháng Giêng hằng năm để thực hiện các nghi lễ cúng tế và tham gia các hoạt động văn hóa thể thao dân gian. Trước ngày diễn ra hội chính, nhiều hoạt động giao lưu thể dục thể thao giữa các khu dân cư trong xã đã diễn ra.Vào ngày mồng 9 tháng Giêng nhân dân tổ chức nghi thức rước kiệu từ Đình Ngoại vào Đình Nội tế lễ, sau đó rước kiệu ra trước miếu của Đình Ngoại và tiếp tục làm lễ tế. Lễ hội của làng Lâu Thượng được duy trì hằng năm có ý nghĩa lớn trong việc kết nối cộng đồng và giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc. Với những giá trị văn hóa cũng như nghệ thuật quý giá, đình Lâu Thượng đã được công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 21-2-1975. Giờ đây khi tới thành phố Việt Trì, du khách ngoài đi chiêm bái các đền Thờ vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, ghé đình cổ Hùng Lô nghe Hát Xoan, vãn cảnh tại Thiên Cổ Miếu… còn có thể tới thăm đình Lâu Thượng, cảm nhận nét cổ kính, trầm mặc của công trình kiến trúc điêu khắc quý giá này, lắng lòng mình lại sau cuộc sống bộn bề để hiểu và trân quý hơn những giá trị văn hóa lịch sử mà cha ông để lại. Nguồn: Trung Tâm Thông Tin Xúc Tiến Du Lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1189 lượt xem
Nằm tại ngôi làng cổ Hùng Lô với niên đại hơn 300 năm tuổi, đình Hùng Lô từ lâu đã đi vào tâm thức của người dân Việt Nam với những phong tục, tập quán gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Làng cổ Hùng lô (xã Hùng Lô, tỉnh Phú Thọ) nằm bên bờ sông Lô thơ mộng, cách trung tâm Thành phố Việt Trì khoảng 5km. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Đình Hùng Lô được xây dựng trên diện tích đất rộng 5000m2. Tương truyền, vào đời Lê Hy Tông (1967), người dân nơi đây đã dựng miếu để thờ phụng Vua Hùng đời thứ 18, hướng về núi Nghĩa Lĩnh, nơi đóng đô của Hùng Vương. Đình cổ Hùng Lô là quần thể di tích lịch sử văn hóa được xây trên dải đất rộng, gồm nhiều hạng mục công trình như: tòa Đại đình, Phương Đình, Lầu Chuông, Lầu Trống, Nhà tiền tế... Tất cả đều được xây dựng bằng những loại gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu... Tòa Đại đình được cấu trúc theo kiến trúc truyền thống ba gian, hai chái; cả ba gian đều có bàn thờ. Các gian tiền tế được xây theo cấu trúc năm gian, hai chái. Hai bên đình là nhà thờ Phật và bệ thờ Thần Nông. Khu sân đình được bài trí thoáng rộng với hòn non bộ, cây si, cây đa rủ bóng. Nơi đây cũng còn lưu giữ được hệ thống các đồ thờ tự phục vụ cho nghi lễ thờ cúng đầy đủ nhất; đặc biệt là hệ thống câu đối cổ rất phong phú với 43 câu đối ca ngợi cảnh trí quê hương và công đức vua Hùng. Phần lớn những đồ thờ cổ đều có niên đại trên 300 năm, tiêu biểu là 5 cỗ kiệu sơn son thiếp vàng, những khí tự lễ hội. Một điểm đặc sắc đáng lưu ý nữa, đình Hùng Lô rất nổi tiếng về truyền thống trong lễ hội rước kiệu Đền Hùng từ xưa đến nay. Năm Mậu Ngọ (1918), đình Hùng Lô đã được thưởng “Kỷ niệm Hùng Vương đệ nhất hội”; hiện nay, biển thưởng này vẫn được trang trọng lưu giữ trong đình. Vào dịp lễ hội Đền Hùng hằng năm, đến đình Hùng Lô, du khách sẽ được hòa mình trong lễ rước kiệu quy mô rất hoành tráng của trên 200 nam trung, đi đến đâu náo động cả một vùng đến đó. Cuộc rước sẽ đi từ đình làng đến Đền Hùng; trở về từ Đền Hùng, các lễ tế tại đình làng mới được tiến hành, sau cùng là thụ lễ tại nhà Yến lão. Nguồn: Trung Tâm Thông Tin Xúc Tiến Du Lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1284 lượt xem
Tượng đài chiến thắng Sông Lô tọa lạc trên núi Đồn thuộc xã Chí Đám, huyện Đoan Hùng. Phía dưới chân núi, hai dòng sông Lô - sông Chảy hợp lưu tại đây, tạo nên một vùng địa thế non nước hữu tình, đất đai trù phú. Đứng ở khu vực tượng đài, phóng tầm mắt ra xa sẽ thấy bát ngát dòng sông xanh, san sát những mái nhà, chòm xóm. Tượng đài chiến thắng Sông Lô được xây dựng từ năm 1987 với tổng diện tích quy hoạch lên tới 2.537 m2; bao gồm hai phần: tượng và đài. Hai bên tượng đài là hai biểu tượng thân tàu và những đợt sóng vút cao nhằm thể hiện hình tượng lịch sử: Con tàu chiến thắng chở sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam đang rẽ sóng ra khơi theo dòng chảy của lịch sử. Đài cao 26m bên cạnh nhóm tượng cao 7m được làm bằng chất liệu bê tông, cốt thép, bên ngoài sơn màu giả đồng. Đài chiến thắng mang hình tượng ngọn lửa, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt và sự tồn tại trường tồn của chiến thắng sông Lô; thân đài được thiết kế góc cạnh đồ sộ và được ốp đá ghép khít với nhau. Trên 4 mặt xung quanh của đài tưởng niệm có trang trí 8 bức phù điêu bằng gốm miêu tả chiến thắng Sông Lô và khái quát một số nét đặc trưng trong đời sống của con người vùng đất Đoan Hùng. Mỗi bức phù điêu kể trên đều là một tác phẩm nghệ thuật được điêu khắc tinh tế, công phu. Nhóm tượng chiến thắng sát ngay chân đài, mặt tượng hướng về dòng sông Lô trong xanh gồm 5 nhân vật tiêu biểu cho các thành phần, lực lượng đã anh dùng tham gia chiến đấu làm nên chiến thắng Sông Lô. Mỗi pho tượng lại được khắc họa dáng đứng và có thần thái khác nhau; có pho tượng chiến sĩ trong tư thế hiên ngang giơ cao khẩu súng, trên mình mặc áo trấn thủ, sau lưng vác bao gạo, chân đi dép cao su; có pho tượng người chiến sĩ hai tay nắm chắc khẩu súng trường trong tư thế sẵn sàng chiến đấu; pho tượng ở giữa là hình ảnh một nữ du kích người dân tộc, đầu chít khăn, tay cầm gậy, tầm mắt nhìn ra xa sẵn sàng chiến đấu; cũng có pho tượng người chiến sĩ đứng bên khẩu pháo, giơ cao mũ vẫy chào, áo phanh trần bay trong gió để lộ lồng ngực trần khoẻ mạnh tràn đầy sức sống… Những pho tượng kể trên đã khắc hoạ sinh động dáng hình lịch sử của những con người đã làm nên chiến thắng Sông Lô, mang hơi thở của những năm tháng chiến đấu hào hùng truyền lưu lại cho hậu thế một cách trọn vẹn, chân thực. Bao nhiêu năm đã trôi qua, những thế hệ người dân sinh ra và lớn lên, gắn bó với mảnh đất oai hùng này đều mang trong mình một niềm tự hào to lớn mỗi khi nhắc tới chiến thắng vang dội của cha ông xưa kia. Trong ánh mắt của họ, tượng đài chiến thắng Sông Lô không chỉ là công trình vinh danh và ca ngợi chiến thắng Sông Lô mà còn là minh chứng cho sự kiên cường của cha ông đã hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ quốc. Tượng đài chiến thắng Sông Lô được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 27 tháng 9 năm 1997; Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1257 lượt xem
Di tích lịch sử Chiến khu Rừng Sác Cần Giờ (trước đây tên gọi là Lâm viên Cần Giờ) với diện tích 2.215,45 ha, trong đó có 514 ha đã và đang được khai thác để phục vụ du lịch. Ở đây có đầy đủ các loài và sinh cảnh của một tiểu vùng mang tính đặc trưng nhất của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nơi đây còn khoanh nuôi được nhiều đàn khỉ với tổng số khoảng hơn 1.000 con, sống hoàn toàn trong điều kiện tự nhiên và rất dạn dĩ với con người. Nằm bên trong Di tích lịch sử Chiến khu Rừng Sác Cần Giờ là Khu căn cứ Cách mạng Rừng Sác, nơi đây được công nhận là Khu di tích lịch sử cấp Quốc gia, Khu căn cứ này đã được nhiều người biết đến qua quá khứ hào hùng của Đội Đặc công Rừng Sác. Căn cứ đã được xây dựng và tái hiện lại gần như toàn bộ quang cảnh sinh hoạt và chiến đấu của các anh hùng khi xưa như: Nhà cảnh vệ, nhà đón tiếp, hầm trú ẩn, hội trường, nhà hậu cần, nhà quân y, nhà quân giới, nhà cơ yếu; cảnh chỉ huy Đoàn 10 đang nghe báo cáo tình hình thực địa và hạ quyết tâm tổ chức tập kích phá hủy kho xăng Nhà Bè, cảnh chiến sĩ Đoàn 10 tiêu diệt cá sấu, cách chưng cất nước mặn thành nước ngọt, cảnh đưa tiễn chiến sĩ vào trận đánh, trận địa súng DKZ pháo kích vào Dinh Độc lập… Khu di tích Rừng Sác (huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh) ngày ấy được xem là căn cứ nổi, sát nách Sài Gòn – Gia Định về hướng đông nam, nơi có con sông Lòng Tàu là “cổ họng” vận chuyển, tiếp tế hậu cần cho bộ máy chiến tranh khổng lồ với hàng triệu quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 15/4/1966, Bộ Chỉ huy Miền thành lập đặc khu rừng Sác với mật danh T10, sau đổi thành Đoàn 10 với nhiệm vụ án ngữ cửa biển, hướng dẫn Nhân dân và xây dựng cơ sở, nắm tình hình địch. Trung đoàn 10 - Bộ đội Đặc công rừng Sác, có nhiệm vụ thọc sâu áp sát, bám trụ bằng mọi giá chiếm giữ khu rừng Sác để tiến công liên tục vào kho tàng, bến cảng, cơ quan đầu não, sào huyệt bộ máy chiến tranh Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Để bảo vệ sông Lòng Tàu, Mỹ tuyên bố "làm cỏ Rừng Sác" bằng “mưa bom bão đạn". Một trong những trận đánh tàu nổi tiếng là trận đánh tàu Victoria vào tháng 8/1966. Thời điểm này, Mỹ đưa tàu Victoria chở khoảng 100 xe tăng, thiết giáp; 2 máy bay trực thăng, 20 tấn lương thực thực phẩm…cung cấp cho một sư đoàn Mỹ, chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô lần thứ nhất 1966-1967. Dưới sông tàu địch tuần tiễu liên tục, trên trời máy bay quần thảo; trên bộ biệt kích phục dày đặc. Các chiến sĩ đặc công Rừng Sác phải ngâm mình dưới nước, chôn mình ngụy trang dưới bùn. Sau hơn một tháng chuẩn bị và lên kế hoạch, sáng 23/8, khi tàu Victoria đi qua, 2 quả thủy lôi đã làm nổ tung con tàu với trọng tải hơn 10 nghìn tấn cùng khí giới chìm nghỉm xuống lòng sông. Chín năm chiến đấu (1966-1975), Đoàn 10 kiên cường bám trụ đứng vững trên thế trận phòng ngự và tạo thế chủ động tiến công, đánh sâu vào bến cảng, kho tàng hậu cứ địch theo mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Miền, xây dựng phong trào cách mạng địa phương, hướng dẫn nhân dân trong các ấp chiến lược đấu tranh với địch, xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm, phát triển chiến tranh du kích phá thế kìm kẹp của địch, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác đã vượt lên chính mình, biết dựa vào dân xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng tư tưởng kiên định vững vàng, ý chí quyết tâm chiến đấu sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng để chiến thắng kẻ thù, truyền thống của đơn vị: “Rừng Sác là nhà, bến cảng, kho tàng là trận địa, sông Lòng Tàu là quyết chiến điểm – có lệnh là đánh – hoàn cảnh nào cũng đánh – đã đánh là thắng”. Truyền thống ấy như một bài ca ra trận, theo người chiến sĩ đặc công xung trận và làm nên những chiến tích oai hùng. Ngày 21/1/2000, UNESCO đã công nhận rừng Sác là Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cần Giờ với hệ động thực vật đa dạng độc đáo điển hình của vùng ngập mặn. Ngày 15/12/2004, Căn cứ rừng Sác đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến tham quan Di tích lịch sử chiến khu Rừng Sác hôm nay, chúng ta không chỉ vừa để thưởng ngoạn thiên nhiên hoang sơ mà còn tìm về cội nguồn như một cách để nhắc nhớ, ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc. Theo cục di sản văn hoá
TP Hồ Chí Minh 1961 lượt xem
Đình Thạch Khoán được xây dựng từ lâu đời, lúc đầu có kiến trúc nhỏ và đơn sơ với vật liệu xây dựng chủ yếu là gỗ, tranh, tre, nứa, lá cọ. Năm 1905 đình được xây mới, đến năm 1914 đình bị đốt cháy. Năm 1925 Đình được trùng tu. Năm 1967, đình được Nhà nước và nhân dân địa phương tu sửa lại. Sau lần trùng tu đó Đình tồn tại cho đến ngày nay. Đình Thạch Khoán được xây dựng theo hình chữ “Nhất” gồm 5 gian theo hướng Tây Nam. Gian giữa nhìn chính diện về phía núi Ba Vì (núi Tản) gọi là cung chính, đặt bài vị thờ Thần Tản Viên Sơn. Tả cung đặt bài vị thờ các Mị Nương công chúa con Vua Hùng thứ 18. Hữu cung thờ bài vị Đại tướng quân Đinh Công Mộc và các vị thổ tù họ Đinh, những người có công giúp Lê Lợi chống giặc Minh. Lễ hội làng Thạch Khoán được tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng Giêng. Lễ hội được tổ chức thành 2 phần gồm: phần Lễ với hoạt động tổ chức rước kiệu, tế lễ, dâng hương theo nghi lễ truyền thống. Và phần Hội vớiTổ chức cắm trại văn hóa của các khu dân cư, tổ chức các hoạt động văn hóa: Thi gói, nấu bánh chưng, thi giã bánh giầy, diễn tấu cồng chiêng, đâm đuống; liên hoan văn nghệ quần chúng, các trò chơi dân gian như đu trà, kéo co, ném còn...và các hoạt động thể thao quần chúng. Đây là một Lễ hội truyền thống tiêu biểu đồng bào dân tộc Mường, là nét đẹp trong cách giáo dục truyền thống lịch sử, văn hoá của quê hương, đất nước, ghi nhớ công đức của các bậc tiền nhân đã khai sơn, phá thạch hình thành nên mảnh đất này. Từ đó góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá tinh thần của cộng đồng các dân tộc, cổ vũ, động viên nhân dân hướng về cội nguồn, phát huy truyền thống văn hoá của địa phương, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tôn vinh văn hoá truyền thống, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1202 lượt xem
Đền Tam Giang - Chùa Đại Bi thuộc phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngôi đền nằm bên tả ngạn nơi hợp lưu của ba dòng sông: sông Hồng, sông Lô, sông Đà mà xưa nay nhân dân vẫn quen gọi là ngã ba Hạc. Đây là cụm di tích hoàn chỉnh, thống nhất, gồm: đền Tam Giang, đền Mẫu, chùa Đại Bi, vết chân Thổ lệnh Cao quan Bạch Hạc Đại Vương, bến bơi chải, tượng đài Chiêu Văn Vương Tả Thánh Thái Sư Trần Nhật Duật và bức phù điêu 18 ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo Việt Nam. Đền Tam Giang thờ thần Thổ Lệnh. Tương truyền ông là thần làng - thần sông Bạch Hạc đã có công chu du thiên hạ tìm phương thuốc quý chữa trị tật bệnh cho muôn dân, khi mất lại linh ứng giúp cho các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước. Ngôi đền còn thờ Đức Thánh Bà Quách A Nương - một nữ tướng tài của Hai Bà Trưng và thờ Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, con trai thứ 6 của Trần Thái Tông đã có công thu phục chúa đạo Đà Giang trấn giữ vùng Tây bắc, lập phòng tuyến Bạch Hạc suốt 30 năm. Chùa Đại Bi là ngôi chùa cổ do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và cháu gái là công chúa Thiên Thụy xây dựng từ đời Trần (năm 1328), đến nay đã có gần 700 năm tuổi. Đền Tam Giang, chùa Đại Bi đã và đang trở thành một điểm du lịch hấp dẫn đón tiếp hàng nghìn lượt du khách đến tham quan mỗi năm. Đặc biệt gắn với di tích nơi đây có Lễ hội bơi chải truyền thống được tổ chức vào mùng 9 tháng 3 âm lịch đúng dịp Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng. Bên cạnh Lễ hội bơi chải truyền thống du khách đến với nơi đây còn được thưởng thức các hình thức diễn xướng dân gian với âm nhạc, ca hát, nhảy múa, các hình thức trang trí phong phú, hấp dẫn của tín ngưỡng thờ Mẫu. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1209 lượt xem
Miếu Lãi Lèn là một ngôi miếu cổ nằm ở làng Phù Đức, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì. Theo truyền thuyết, miếu Lãi Lèn là nơi Vua Hùng truyền dạy điệu Hát Xoan cho người dân. Miếu Lãi Lèn là sự tổng hòa tương đối của một di tích vừa liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đồng thời cũng là di tích gốc liên quan đến nguồn gốc ra đời của một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ. Trải qua thời gian thăng trầm của lịch sử, ngôi miếu cổ đã bị đổ nát. Năm 2011, tỉnh Phú Thọ đã quyết định khôi phục miếu Lãi Lèn trên nền móng cũ với tổng diện tích gần 3.000m2, tạo cảnh quan nơi đây trở thành một điểm đến tham quan cho khách du lịch và thưởng thức di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại là Hát Xoan Phú Thọ và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Kiến trúc miếu Lãi Lèn được làm theo kết cấu kiến trúc truyền thống kiểu chữ Đinh (丁) gồm tiền tế và hậu cung, nhìn theo hướng Đông Nam, mái lợp ngói mũi hài. Hai tòa nhà Tả Vu và Hữu Vu được xây dựng theo kiểu nhà 5 gian truyền thống. Trước miếu là bức bình phong bằng đá nguyên khối với chiều dài 7,6m, hai mặt trang trí quấn thư, hổ phù. Trong khuôn viên khang trang của di tích có Nhà trưng bày nghệ thuật Hát Xoan khá hiện đại với đầy đủ tiện nghi và trưng bày khoa học, được coi là một bảo tàng duy nhất về Hát Xoan Phú Thọ. Đây được coi là nơi vừa giới thiệu, vừa có thể trình diễn về Hát Xoan phục vụ du khách. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1198 lượt xem
Đền Tiên là ngôi đền thiêng, tọa ngự trên địa bàn phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì. Đây là ngôi đền thờ Thủy Tổ Quốc Mẫu, hay còn gọi là Bạch Tổ Mẫu, là người mẹ đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Mẫu là Hoàng hậu của Vua Kinh Dương Vương, người sinh thành dưỡng dục của Vua Lạc Long Quân, là bà nội của các vua Hùng trong bọc trăm trứng. Đền Tiên là di tích quý giá nổi bật trong quần thể di tích thuộc kinh đô Nhà nước Văn Lang. Theo ngọc phả cổ truyền, trước kia có khuôn viên 7000m2, nhìn về hướng Tây Nam, trước mặt là quốc lộ 2, phía ngoài đê có sông Thao chảy về ngã ba Bạch Hạc, nơi hội tụ của 3 dòng sông lớn: Sông Hồng Hà, Sông Đà, sông Lô. Ngôi đền có vị thế địa lý đắc địa về phong thủy, trước mặt là sông, sau lưng là núi, hội tụ đầy đủ khí thế sông núi để ban phát muôn đời cho con cháu đất Việt. Tháng 7 năm 2003, đền Tiên đã được UBND tỉnh Phú Thọ công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hàng năm vào dịp ngày sinh 5 tháng 5 âm lịch và ngày hóa 10 tháng 10 âm lịch của Mẫu, Đền đều tổ chức lễ tế long trọng để nhân dân khắp nơi về phúng bái tưởng niệm. Là một ngôi đền, thờ tự người mẹ đầu tiên của dân tộc Việt Nam, đền Tiên cũng là biểu trưng cho truyền thống Uống nước nhớ nguồn muôn đời của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1196 lượt xem
Vườn Cau Đỏ bao quanh là các xã Nhị Bình, Quới Xuân, Thạnh Lộc, Tân Thới Hiệp và Đông Thạnh. Đây là nơi có nhiều vườn cau, cây trái xum xuê, xưa kia là vùng đất đầm lầy, kênh rạch chằng chịt như mạng nhện, cỏ dại mênh mông, rắn rết, muỗi, đỉa, bò cạp,… nhiều vô tận. Tên gọi Vườn Cau Đỏ ra đời cách đây khá lâu, không ai còn biết chính xác nguồn gốc ra đời của nó. Theo các đồng chí lão thành cách mạng đã từng hoạt động trên địa bàn này, trong chiến tranh ở đây cau mọc thành từng đám nên gọi là “Vườn Cau”, còn màu “đỏ” của địa danh “Vườn Cau Đỏ” không chỉ đơn thuần là màu sắc của thân cau bị ngả màu do tàn phá ác liệt của chiến tranh mà còn mang ý nghĩa là những hy sinh xương máu của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, Nhân dân đã ngã xuống mảnh đất này. Vị trí của Vườn Cau Đỏ ở sát cạnh và bao quanh là các cơ quan quân sự của địch chiếm đóng. Nó được ví như một chiếc túi chứa đựng tất cả những mối liên hệ từ bên ngoài, và là một căn cứ nối liền rừng với thành phố. Mất Vườn Cau Đỏ là mất liên lạc với thành phố. Chính vì vậy, Vườn Cau Đỏ trở thành bàn đạp giữa thành phố và căn cứ. Nơi đây vừa có địa hình thuận lợi về tầm che khuất, giữ được yếu tố bí mật để triển khai đội hình chiến đấu. Đối với ta, Vườn Cau Đỏ trấn giữ một vị trí trung chuyển không thể thay thế trên hướng Tây Bắc Sài Gòn. Từ một “vành đai an ninh” thô sơ ban đầu, về sau Vườn Cau Đỏ phát triển thành một khu “căn cứ lõm”, một mật khu cách mạng, là nơi đứng chân, che giấu lực lượng cách mạng. Căn cứ gồm nhiều “Lõm” khác nhau giàn trải trên một địa bàn rộng, là bàn đạp xuất phát của các lực lượng kháng chiến tấn công vào Sài Gòn trong kháng chiến chống Mỹ. Từ tháng 3 năm 1945, cả dân tộc ta hăng hái chuẩn bị cho một cuộc Tổng khởi nghĩa. Vườn Cau Đỏ trở thành địa điểm tập hợp lực lượng quần chúng hằng đêm luyện tập võ nghệ để chuẩn bị nổi dậy cướp chính quyền, đánh đuổi quân xâm lược. Cách mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu, ngày 23 tháng 9 năm 1945, Pháp nổ súng tấn công trụ sở các cơ quan của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn. Sau 3 tháng, tỉnh ủy Gia Định quyết định rút lực lượng ra vùng ngoại thành để bảo toàn lực lượng tiếp tục chiến đấu. Ngày 25 tháng 12 năm 1945, tại Vườn Cau Đỏ, đồng chí Phạm Văn Khung - Bí thư Tỉnh ủy Gia Định đã chủ trì Hội nghị cán bộ chủ chốt. Hội nghị đã quyết định chọn 3 xã: An Phú Đông, Thạnh Lộc, Quới Xuân để thành lập căn cứ kháng chiến với tầm vóc một chiến khu vì nơi đây cách trung tâm Sài Gòn không xa, diện tích tuy nhỏ hẹp nhưng rất thuận lợi cho kháng chiến, có thể bám trụ lâu dài... Vườn Cau Đỏ được chọn là một trong những địa điểm tập trung cán bộ và chiến sĩ ta. Tại đây, ta đã thành lập một “Trạm đón tiếp công nhân” của Tổng Công đoàn Nam bộ để đón tiếp công nhân kỹ thuật từ Sài Gòn ra. Trên cơ sở đó, Ban chỉ huy chiến khu đã thành lập một xưởng quân khí để sản xuất vũ khí, khí tài trang bị cho các lực lượng cách mạng. Để thực hiện chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”, thực dân Pháp tổ chức nhiều cuộc càn quét dữ dội vào Vườn Cau Đỏ, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Sài Gòn - Gia Định. Ngày rằm tháng 7 năm Bính Tuất 1946, Pháp đưa lính Ma Rốc, Miên và bọn Việt gian bao vây xung quanh, bất ngờ tấn công Vườn Cau Đỏ. Do bị đánh bất ngờ, lực lượng của ta không kịp chống trả. Lính Pháp đàn áp rất dã man, giết hại nhiều người dân trong đó có cả người già và trẻ em. Từ cuối năm 1946, Pháp thiết lập một hệ thống dày đặc lô cốt, tháp canh xung quanh và dọc các con đường dẫn tới chiến khu An Phú Đông, tổ chức nhiều cuộc càn quét, bắn phá dữ dội. Nhưng quân dân ta vẫn kiên cường bám trụ, các lực lượng cách mạng đã tổ chức nhiều trận chống càn, trừ gian diệt ác, tiếp tục phát triển phong trào “Bình dân học vụ”. Nhờ ý chí kiên cường và sự bao bọc nghĩa tình của đồng bào, chiến khu vẫn đứng vững, góp phần đánh bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”, khiến thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn và tổn thất. Tháng 01 năm 1950, trong phong trào đưa tang trò Trần Văn Ơn, Vườn Cau Đỏ trở thành trạm trung chuyển những học sinh, sinh viên vào chiến khu. Dưới chế độ Mỹ - Diệm, Vườn Cau Đỏ bị liệt vào danh sách “Vùng trắng” được tự do oanh kích. Chúng liên tiếp tổ chức các cuộc hành quân càn quét nhằm tìm diệt cán bộ ta. Quận ủy Gò Môn vẫn nêu cao quyết tâm tiếp tục bám trụ chiến đấu. Vườn Cau Đỏ được chọn để xây dựng “lõm” căn cứ kháng chiến của xã Thạnh Lộc lúc bấy giờ. Từ những lõm căn cứ này, chúng ta đã xây dựng một khu căn cứ liên hoàn làm nơi trú chân của nhiều đơn vị bộ đội cấp Tiểu đoàn và Trung đoàn. Để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, lực lượng bộ đội về ém quân tại Vườn Cau Đỏ, Nhân dân địa phương đã cung cấp khoảng 2 tấn gạo, hơn 250 ổ bánh mì, hàng trăm bánh tét… Ngày 10 tháng 3 năm 1968, lực lượng bộ đội địa phương do đồng chí Sáu Thẹo chỉ huy đóng quân dọc theo bờ sông để phục kích hai đại đội lính ngụy chuẩn bị càn quét tại Vườn Cau Đỏ. Trong trận này, quân ta đã dùng B40, B41, AK liên tiếp bắn trả, tiêu diệt 26 tên Mỹ, Ngụy. Trong giai đoạn 1969 - 1973, chính quyền Nich-xơn đã chủ trương thực hiện chiến lược mới “Việt Nam hóa chiến tranh”. Chúng đẩy mạnh càn quét, đặc biệt là tại các vùng căn cứ của ta. Quân dân ta đóng tại Vườn Cau Đỏ đã quyết liệt chống trả nhiều trận càn lớn nhỏ của chúng. Năm 1971, tại đây bộ đội ta đã tiêu diệt tiểu đoàn dù 11 của Ngụy. Năm 1973, một tiểu đội du kích phối hợp với trung đoàn Gia Định đã đánh chặn 1 biệt đội quân nhảy dù, thu một số chiến lợi phẩm. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh Lịch sử, Vườn Cau Đỏ là nơi dấu quân của các đơn vị như E115, Trung đoàn Gia Định, Bộ đội Gò Môn... chuẩn bị tiến đánh vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Mặc dù đã nhiều lần địch dùng pháo binh, máy bay ném bom để càn quét và đánh phá ác liệt nhằm tiêu diệt Vườn Cau Đỏ nhưng cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Thạnh Lộc - Thạnh Xuân đã dũng cảm chấp nhận hy sinh, gian khổ bảo vệ khu căn cứ đến cùng. Nguồn: Trang thông tin điện tử quận 12
TP Hồ Chí Minh 1294 lượt xem
Đền Du Yến, xã Chí Tiên tọa lạc nơi miền đất địa linh trên đồi cao, cây cối um tùm xanh tốt; dưới chân là hồ nước trong xanh quanh năm. Đền hướng ra sông Thao đêm ngày êm đềm bồi đắp phù sa. Dải đê dài này chính là đường tỉnh lộ, là huyết mạch giao thông quan trọng của huyện Thanh Ba. Năm 1993, đền Du Yến được Nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2003, đền Du Yến được trùng tu lại bao gồm tòa tiền tế 5 gian, hậu cung 3 gian như hiện nay. Trong đền còn giữ được nhiều hiện vật quý như: Ngai thờ, kiệu bát cống, đồ chấp kích, bát bửu, bản thẻ đồng, ghi chữ nôm ở hai mặt ... Các pho tượng đều được tạc bằng chất liệu gỗ. Ngoài các sắc phong của các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, đây là ngôi đền duy nhất giữ được gia phả ghi lại hai nghìn năm phát triển của một dòng tộc trên đất Thanh Ba. Theo Ngọc Phả truyền lại xưa kia ở vùng Thao Giang, tại trang Bổng Châu nay là thôn Tiên Châu, xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ có một gia đình họ Nguyễn sống hiền từ phúc hậu và chịu khó làm ăn nên có uy tín lớn trong vùng. Nhờ phúc trời phù hộ, ông bà đã sinh hạ được một người con gái đặt tên là Hạnh Nương. Ngay từ nhỏ Hạnh Nương đã luôn được cha mẹ chăm sóc chu đáo nuôi dạy nên người. Bà là người con gái thông minh kỳ lạ, nhan sắc tuyệt trần, tính tình hiền dịu nết na, ham học văn chương, say mê võ nghệ. Trai tài trong làng nhiều người ướm hỏi nhưng bà đều từ chối không muốn vương bụi trần để giữ mình trong sạch. Bà đã dựng cờ tụ nghĩa, ngày đêm luyện tập cung kiếm, xa gần nức tiếng gọi là nữ thần giáng thế. Bấy giờ vào những năm 40 sau công nguyên, giặc Đông Hán đứng đầu là Thái thú Tô Định ngang nhiên bạo ngược đem quân sang chiếm nước ta. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Mê Linh, bà đã chọn 92 nghĩa binh từ trang Bổng Châu về cùng với Hai Bà Trưng. Thấy Hạnh Nương thông minh tài sắc văn võ song toàn, lại cầm quân đánh đâu thắng đấy nên Hai Bà Trưng đã tặng phong cho bà là Ngọc Loan công chúa và phong chức là Trưởng lĩnh Tiền quân. Sau khi đánh tan giặc Tô Định, nữ tướng Nguyễn Thị Hạnh trở về thăm quê hương, chính tại nơi đây bà đã mở yến tiệc khao quân, ban thưởng cho dân làng. Hội mừng công được mở trên một mỏm đất hình con hổ trắng đang nằm uống nước bên bờ sông Thao. Nơi đây về sau dân làng lập đền thờ gọi là hành cung Du Yến (ngày nay là đền Du Yến xã Chí Tiên). Từ đó, cứ vào dịp rằm tháng Giêng hàng năm dân làng lại mở hội cầu tế để tưởng nhớ đến công ơn của bà và cầu xin mưa thuận gió hoà nhà nhà được ấm no hạnh phúc. Lễ hội đền Du Yến là một trong những sự kiện văn hóa tiêu biểu của Thanh Ba, mỗi năm thu hút hàng chục ngàn du khách trong và ngoài nước. Lễ hội được mở với phần lễ và phần hội được tổ chức rất long trọng. Những đồ thờ dâng Mẫu chủ yếu là các loại bánh chay và hoa quả... được chia thành 6 giáp, mỗi giáp 2 mâm, được 2 thanh niên khiêng vào đặt lên ban thờ để các cụ cầu tế. Trong lúc cầu tế có xen lẫn những điệu múa tiên, múa sinh tiền. Tương truyền rằng vào ngày Mẫu ra đời ngoài bãi dâu Thao Giang có tiên sa giáng trần múa hát như ngày hội nên ngày tế Mẫu bắt buộc phải có đội múa tiên bao gồm 4 cô gái dưới 16 tuổi, chưa có chồng, múa những điệu múa bay bổng đẹp như tiên phục vụ tế lễ. Nghi thức này hiện nay đã được phục dựng và có đôi chút điều chỉnh cho phù hợp với không gian lễ hội. Sau đó đến phần rước kiệu, đi đầu là đội cờ, tiếp đến là phường bát âm, sau đến đội bát biểu, múa sư tử, tiếp đến là múa tiên rồi đến kiệu. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1241 lượt xem
Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng - quần thể đền, chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, (Việt Trì, Phú Thọ), gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi nàng Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu (trong dân gian gọi là mộ tổ) từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó. Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác… Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê thì từ thời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của Đấng Thánh Tổ xưa… Văn học dân gian Việt Nam nói về lễ hội đền Hùng như sau: "Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng ba". Nguồn: Trung tâm Thông tin xúc tiến Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 1265 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3224 lượt xem
Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng nằm trong khuôn viên Liên hiệp xí nghiệp Ba Son ngày nay là một xưởng sửa chữa và đóng tàu lớn, địa chỉ tại số 2 đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một di tích lịch sử mang nhiều ý nghĩa. Xưởng cơ khí mang số 323 đường số 12 trong khuôn viên xí nghiệp là nơi người thợ máy Tôn Đức Thắng (sau này là Chủ tịch nước Việt Nam - từ 1969 đến 30/08/1980) đã từng làm việc và hoạt động cách mạng trong những năm 1915 - 1928. Năm 1861 Pháp hạ Đại Đồn Chí Hòa, chiếm lĩnh Sài Gòn. Ngày 28/4/1863 chính phủ Pháp đã ký nghị định chính thức thành lập Thủy xưởng (Arsenal) Ba Son, đặt trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Vì tầm quan trọng đó, năm 1884 chính phủ Pháp cho xây dựng thêm một ụ tàu lớn nữa để làm căn cứ sửa chữa tàu cho các hạm đội quân Pháp ở vùng Viễn Đông. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương, ngày 12/9/1956 Pháp chuyển giao Ba Son lại cho hải quân chính quyền Sài Gòn. Dưới chế độ Sài Gòn cũ, Thủy xưởng Ba Son được đổi tên là Hải quân công xưởng, đặt trực thuộc Bộ Quốc phòng. Sau tháng 4/1975, Hải quân công xưởng được chính quyền Cách mạng tiếp quản và được đổi tên thành Liên hiệp xí nghiệp Ba Son, trực thuộc Bộ Quốc phòng cho đến ngày nay. Thủy xưởng Ba Son là một xưởng lớn nhất Sài Gòn, là một trong những nơi tập trung số lượng công nhân đông nhất ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ. Nhằm đào tạo thợ cơ điện người bản xứ cung cấp cho các hãng, xưởng của người Pháp mở tại Sài Gòn, ngày 20/2/1906 chính phủ Pháp ký quyết định thành lập trường cơ khí Á châu tại Sài Gòn (Eécole des mécaniciens Asiatiques de SaiGon - tức trường Kỹ thuật Cao Thắng ngày nay). Xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son là xưởng được sử dụng học sinh của trường thực hành tại xưởng và tuyển trực tiếp học sinh học xong tại trường. Trường cơ khí Á châu Sài Gòn và xưởng cơ khí của Thủy xưởng Ba Son thời kỳ đó đã gắn liền với những hoạt động cách mạng đầu tiên của nhà cách mạng Tôn Đức Thắng. Học xong bậc tiểu học ở quê nhà: làng An Hòa, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang), người thanh niên Tôn Đức Thắng quyết định lên Sài Gòn tìm việc làm và định hướng cuộc đời mình vào tầng lớp thợ thuyền. Bác Tôn đã thi vào trường Cơ khí Á châu khóa học 1915 - 1917. Hiện nay tại Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh còn lưu giữ một cuốn sổ gốc ghi danh học sinh theo học các khóa ở trường này từ năm 1906 đến năm 1966. Tháng 8/1920 bác từ Pháp trở về Sài Gòn làm công nhân cho hãng KROFF và CIE. Chịu ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng 10 Nga và học được nhiều kinh nghiệm đấu tranh của công nhân Pháp, bác Tôn đã vận động thành lập Công hội đỏ đầu tiên tại thành phố. Công hội bí mật phát triển trong công nhân xưởng Ba Son, hãng Faci, nhà đèn Chợ Quán... Từ năm 1920 đến 1925 số hội viên đã lên đến 300 người do bác Tôn làm hội trưởng. Đây là tổ chức Công hội đầu tiên của Việt Nam có mục đích tương trợ và đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, chống đế quốc tư bản. Dưới sự lãnh đạo của Công hội đỏ, phong trào đấu tranh của công nhân thành phố trong thời kỳ này bùng nổ mạnh mẽ. Tiêu biểu là cuộc bãi công đòi tăng lương, đòi nghỉ nửa ngày vào ngày lãnh lương của công nhân Thủy xưởng Ba Son nổ ra ngày 4/8/1925 kéo dài đến ngày 12/8/1925. Cuộc bãi công thắng lợi, nhưng để ủng hộ phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Trung Quốc bằng cách "kìm chân" chiến hạm J. Mi-Sơ-Lê theo lệnh chính phủ Pháp cần sửa chữa gấp để đưa sang Trung Quốc đàn áp phong trào cách mạng. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son tiếp tục bằng hình thức lãn công, kéo dài việc sửa chữa chiến hạm đến 4 tháng. Như vậy ở cuộc đấu tranh này ngoài việc đòi quyền lợi kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc, còn mang tính chất chính trị, đặc biệt là khởi động ý thức đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân Việt Nam. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son dưới sự lãnh đạo của tổ chức Công hội đỏ đã mở đầu cho giai đoạn đấu tranh mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Giai đoạn đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo và được sự ủng hộ của toàn thể công nhân và nhân dân lao động. Phong trào đấu tranh đã đi từ tự phát sang trình độ tự giác là cơ sở tốt để tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày 19/11/1975 trên cương vị Chủ tịch nước, bác Tôn đã về thăm lại xưởng Ba Son và ghi lại trong sổ lưu niệm của nhà máy. Ngày 12/8/1993 Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận Ba Son là di tích lịch sử. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1872 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2308 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2291 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4367 lượt xem
Nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70 km về hướng Tây Bắc, Địa đạo Củ Chi là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa và sáng tạo của quân và dân Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Với tầm vóc chiến công của mình, địa đạo Củ Chi đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Chỉ từ những dụng cụ thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất đã tạo nên một kỳ quan đánh giặc độc đáo có một không hai với khoảng 250 km đường hầm tỏa rộng như mạng nhện trong lòng đất, có các công trình liên hoàn với địa đạo như: Chiến hào, ụ, ổ chiến đấu, hầm ăn, ngủ, hội họp, sinh hoạt, quân y, kho cất dấu lương thực, giếng nước, bếp Hoàng Cầm … Những sự tích có thật từ địa đạo đã vượt quá sức tưởng tượng của con người. Ðường hầm sâu dưới đất từ 3 đến 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Giếng sâu 15m, trong vắt. Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường "xương sống" toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8 đến 10m hết sức an toàn. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ. Cũng từ địa đạo này, cuộc hành quân Crimp (cái bẫy) của Mỹ với 3.000 quân bộ, cuộc hành quân Sedarfall gồm 12.000 lính, có xe tăng, máy bay yểm trợ tối đa, nhằm biến Củ Chi thành "khu tự do hủy diệt" đã bị đập tan. Củ Chi thật xứng danh "đất thép thành đồng" qua 20 năm bền bỉ chiến đấu. Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Từ ngày hòa bình trở lại, đã có hàng chục ngàn đoàn du khách với hàng triệu người đủ màu da, sắc tộc trên thế giới đến viếng thăm địa đạo Củ Chi. Từ các vị Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản, Nguyên thủ Quốc gia, đến các chính khách, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ...đã đặt chân xuống địa đạo với tất cả niềm xúc động và kính phục đối với vùng đất anh hùng. Một chính khách ở Cộng hòa Liên Bang Đức đã phát biểu: “Đã nhiều năm tôi nghi ngờ về cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Làm sao một nước nhỏ và nghèo lại có thể đánh thắng một nước lớn và giàu có như nước Mỹ. Nhưng khi tới đây, chui qua 70m đường hầm, tôi đã tự trả lời được câu hỏi đó”. Nguồn: Di tích lịch sử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1928 lượt xem
Bến Nhà Rồng là một trong những di tích lịch sử gắn liền với con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bến Nhà Rồng hay Bảo tàng Hồ Chí Minh khởi đầu là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Thương cảng này nằm bên sông Sài Gòn và được xây dựng từ năm 1863, và hơn 2 năm sau, vào năm 1864, Nhà Rồng này được hoàn thành, trên khu vực gần cầu Khánh Hội. Nhà Rồng được khởi công xây dựng vào ngày 4 tháng 3 năm 1863, do “Công ty vận tải biển” xây dựng một cửa hàng để làm nơi ở cho Tổng giám đốc và là nơi bán vé tàu. Mái nhà được trang trí hình rồng, ở giữa thay vì trái châu thì là chiếc phù hiệu mang hình “Đầu ngựa và chiếc mỏ neo”. Phù hiệu “Đầu ngựa” hàm chỉ thời trước bên Pháp, công ty này chuyên lãnh chở đường bộ với ngựa kéo xe, trong khi biểu tượng “Mỏ neo” tượng trưng cho tàu thuyền. Năm 1919, công ty được phép xây cầu cảng bằng xi măng cốt thép nhưng không thực hiện được. Phải đến tháng 3/1930 mới hoàn thành bến mới, chỉ có một bến nhưng dài 430m. Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam, Thương mại Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam nước ta quản lý. Chính phủ đã khôi phục lại mái nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác có đầu hướng ra ngoài. Với diện tích xây dựng công trình gần 1.500m2, diện tích còn lại là khu vườn xanh mát không khí mát mẻ, khung cảnh thơ mộng gồm hơn 400 cây quý từ khắp mọi miền đất nước quy tụ về đây khoe sắc tỏa hương, đặc biệt là cây đa tân trào của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và cây bồ đề của Tổng thống Ấn Độ. Năm 1965, Nhà Rồng được quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan tiếp nhận viện trợ quân sự Mỹ. Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, Nhà Rồng, biểu tượng của cảng Sài Gòn, do Cục Đường biển Việt Nam quản lý. Bến Nhà Rồng hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chi nhánh TP HCM, một trong những chi nhánh bảo tàng và di vật lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Bởi vì, tại đây, vào ngày 5/6/1911, chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) đã lên tàu đi làm phụ bếp để có dịp sang châu Âu. Tiếp theo là ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ở Việt Nam. Bến cảng nhà Rồng là nơi lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật vô giá giúp thế hệ mai sau hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của người Cha già dân tộc. Bảo tàng được xây dựng thành 12 phòng trưng bày với khoảng 170 dữ liệu, hình ảnh và hiện vật. Không chỉ vậy, đây còn là địa chỉ để mọi người đến học tập tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ. Bến Nhà Rồng còn là điểm đến thu hút hàng triệu du khách trong nước và quốc tế. Từ những giá trị, ý nghĩa to lớn trên, Bến cảng Nhà Rồng xứng đáng là di tích lịch sử cấp quốc gia mà chúng ta cần bảo tồn, tôn vinh cũng như tuyên truyền, quảng bá tới bạn bè năm châu. Bến Nhà Rồng sẽ mãi là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Nguồn: Cục di sản văn hoá
TP Hồ Chí Minh 2001 lượt xem
Dinh độc lập ngày nay được gọi là Dinh Thống Nhất hay hội từ trường Thống Nhất. Đây từng là nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam cộng hòa. Dinh Độc Lập hiện nay được chính phủ Việt Nam xếp hạng vào di tích quốc gia đặc biệt. Năm 1962 Ngô Đình Diệm đã cho xây dựng công trình với thiết kế của tòa nhà là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Năm 1868 sau khi chiếm xong Lục Tỉnh Nam Kỳ thực dân Pháp cho xây dựng ở đây một dinh thự. Ban đầu ding là nơi ở của thống đốc nam kỳ. Từ năm 1887 khi tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương thì dinh độc lập trở thành phủ toàn quyền Pháp tại Đông Dương. Năm 1954 với thất bại ở Điện Biên Phủ và Theo hiệp định Giơnevơ quân viễn trinh Pháp đã phải rút khỏi Việt Nam. Ngày mùng 7 tháng 9 năm 1954 cao ủy Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đã thay mặt cho nước Pháp trao trả Dinh Độc Lập cho đại diện nhà cầm quyền Sài Gòn đó là thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 27 tháng 2 năm 1962 đã diễn ra đảo chính, hai viên phi công quân đội Sài Gòn Lái hay máy bay ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của Dinh, do không thể khôi phục lại nên Ngô Đình Diệm đã quyết định khởi công xây dựng lại dinh ngày mùng 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng dinh mới gia đình Ngô Đình Diệm đã chuyển đến sống tại Dinh Gia Long. Khi công trình đang được xây dựng thì Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính giết chết ngày mùng 2 tháng 11 năm 1963. Do vậy tới ngày khánh thành dinh người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn Văn Thiệu - Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo Quốc gia. Người có thời gian sống lâu nhất ở Dinh Độc Lập là Nguyễn Văn Thiệu. Đây là cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn, là nơi được chứng kiến biết bao sự can thiệp của quân sự nước ngoài tác động vào chiến tranh tàn khốc ở Việt Nam và là nơi ra đời nhiều chính sách phản lại nhân dân của tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu. Với chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975 Chiếc Xe Tăng mang số hiệu 390 đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập để tiến thẳng vào dinh. 11 giờ 30 cùng ngày Trung úy Bùi Quang Thận Đại đội trưởng chỉ huy xe 843 đã hạ lá cờ 36 xuống và kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Lá cờ phất phới tung bay trên nóc dinh độc lập đã kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Vào giờ phút này Tổng thống cuối cùng của chế độ Việt Nam cộng hòa là Dương Văn Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng Nhân dân hai miền Nam Bắc đã sum họp 1 nhà. Dinh độc lập đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Ngoài những tên gọi là dinh độc lập thì còn có một số tên gọi khác như dinh toàn quyền, dinh tổng thống hay còn được gọi một tên khác đó là phủ đầu rồng. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống phương Đông. toàn thể Dinh làm thành hình chữ Cát có nghĩa là tốt lành và may mắn. Tâm của Dinh Độc Lập là vị trí phòng trình quốc thư lầu thượng là Tứ Phương. Cửa chính hình chữ khẩu đề cao giáo dục và tự ngôn luận. Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa lá mang hình dáng cách điệu. Đây là cải biến từ hình ảnh của cung điện Cố Đô Huế, điều này làm tăng vẻ đẹp của dinh. Diện tích sử dụng là 20.000 m², được chia làm 95 phòng. Mỗi phòng tại đây có một chức năng riêng có kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng. Sau năm 1975 khu nhà chính ngày tiếp tục được sử dụng một số vòng và để phục vụ du khách tham quan. Tại góc đường Huyền Trân công chúa - Nguyễn Thị Minh Khai trước năm 1975 là khu sinh hoạt của đội Cận Vệ phi hành đoàn lái máy bay cho Nguyễn Văn Thiệu. Hiện nay đã được cải tạo thành khu nhà nghỉ trưa và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên hội trường Thống Nhất. Khu nhà hai tầng với diện tích 160 m², dưới đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của Đảng Dân chủ sau năm 1975 là nơi làm việc của ban giám đốc. Hội trường Thống Nhất ngoài các khu nhà trên ở góc trái dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai còn có một nhà Văn Giáp Đường 4 m xây trên một gò đất cao. Dinh Độc Lập không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà nó còn là một minh chứng lịch sử. Dinh độc lập đã cùng đất nước ta trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với sự kiên cố của Dinh đã để lại cho con cháu một đời những bài học quý giá về tình yêu nước và sự kiên cường trong cuộc sống của ông cha ta. Nguồn: Cổng thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1515 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4367 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3224 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 3201 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2729 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2687 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2593 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2425 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2308 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2297 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2291 lượt xem