Di tích lịch sử

Việt nam

Lăng Dinh Hương

Lăng Dinh Hương, thuộc xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thị trấn Thắng chừng 1,5km về hướng Tây - Nam. Quần thể kiến trúc và điêu khắc đá độc đáo này có quy mô khoảng trên 300m2, xây dựng từ năm 1727, năm 1965 được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Lăng Dinh Hương là nơi an nghỉ của vị võ quan thuỷ chiến được phong tước Quận công, tên tự là La Đoan Trực. Ông sinh năm 1688. Năm 1730, triều đại Lê Duy Phường, ông được cử làm dịch quân Thị hầu, Thị đội, rồi làm Thái giám. Dưới triều đại Lê Y Tông, ông được cử hai lần đi sứ phương Bắc vào năm 1735 và 1739. Sang năm 1740, triều đại Lê Hiển Tông, ông cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Ông mất mùng 9 tháng 6 năm Kỷ Tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Năm 1754 vua phong ông là Phúc thần trung cẩn đại vương. Lăng được chính Quận công xây dựng tại quê nhà khi còn sống. Lăng nằm trên một quả đồi hình tròn, rộng khoảng một ha, có tường gạch bao quanh (ngày xưa là tường đá ong bao quanh). Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm ba phần chính: phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Tượng người và thú vật tại lăng làm bằng đá xanh, được chạm khắc rất sống động. Tượng có kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu. Qua cổng Lăng là vườn cây ăn quả, rồi đến cổng vào. Phần mộ có hai võ sỹ dắt ngựa hầu hai bên. Tường bao bằng gạch bao quanh một ngọn đồi hình tròn. Trước đây tường bao quanh làm bằng đá ong cao 2 mét, sau bị đổ nát, nay chỉ còn móng tường. Phía trước cổng, xưa có là một hồ nước xưa kia rất lớn, nhưng nay diện tích hồ bị thu nhỏ lại. Toàn khu lăng nằm trên một ngọn đồi rất hợp với phong thủy. Tượng quan hầu đứng bên trái cổng, được tạo tác công phu. Vào cổng, bên tay phải là khu sinh từ gồm hai voi nằm chầu, bàn thờ có hai con nghê ngồi chầu, tiếp theo là ngai thờ có hai quan hầu nữ đứng. Ngai thờ nhìn từ phía bên phải gồm những khối đá lớn. Có hai con nghê đá nhỏ nhắn nằm chầu, được chạm khắc tinh tế và sinh động. Lăng Dinh Hương có hai pho tượng quan hầu nữ. Hai tượng này nhỏ nhắn hơn so với các khối tượng có ở lăng, nhưng được khắc họa rất chi tiết như tượng chân dung. Hai tượng được bố trí đứng ở hai góc ngoài cửa đàn tế, quay mặt vào nhau. Đây là những tượng hầu nữ được nghệ sĩ tạo khắc có vóc dáng riêng như chép từ nguyên mẫu thật, rất sống động và ấn tượng. Quan hầu nữ bên trái bưng chiếc tráp khối hộp chữ nhật ngang bụng, bàn tay trái đỡ dưới hộp tráp, tay phải giữ ngang đầu hộp, để hở nửa bàn tay với những ngón thon dài, đẹp như vẽ. Quan nữ cầm quạt đứng hầu bên phải ngai thờ tay cầm quạt, đầu đội mũ ni có chóp nhọn như một chiếc nón nhỏ, nửa phía sau mũ có bốn lớp vải trùm kín chân tóc, phủ xuống kín tai và gáy. Phần mộ rộng khoảng 100 mét vuông, có tường đá ong dày bao quanh, là nơi lưu giữ thi hài Quận công La Đoan Trực, có hai võ quan dắt ngựa đứng canh. Cặp tượng quan hầu dắt ngựa được xem là những kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá. Tượng thú được coi trọng vào cách tạo khối trên thân, khiến con vật trở nên đậm chất hiện thực. Một số mảng chạm tỷ mỷ và mang tính cách điệu cao như phần yên cường, bờm con ngựa. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên phải có mặt to, hàm rộng. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên trái có râu dài, mặt nhỏ. Khu thờ tự gồm: hai voi nằm chầu, bàn thờ có hai con nghê to há mồm ngồi chầu, tiếp theo là ngai thờ làm từ hai khối đá lớn cùng hai quan hầu nữ và hai con nghê nhỏ chạm khắc tinh tế, sinh động. Bên trên có hệ thống đồ thờ đặc sắc, gồm: ngai thờ, nhang án, qua đường thần đạo. Phía bên phải khu mộ là nhà bia chỗ 4 cửa cuốn vòm, trong đặt bia đá ghi công trạng người được thờ được tạo vào năm 1729. Nhìn tổng quan, chất liệu tạo dựng công trình kiến trúc nghệ thuật lăng Dinh Hương chủ yếu bằng đá xanh, được đục đẽo, tỉa tót tinh xảo, là một công trình kiến trúc đồ sộ, được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện. Quần thể lăng mộ là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang. Các cổ vật trong lăng được giữ gìn tương đối nguyên vẹn. Điểm nổi bật, độc đáo của lăng Dinh Hương là các bức tượng đồ sộ, to hơn hẳn ở các lăng mộ khác, được chạm khắc tinh tế. Theo thống kê, ở Bắc Giang đã phát hiện và công nhận 46 công trình kiến trúc đá cổ, chủ yếu là lăng đá. Hệ thống lăng đá là minh chứng của một nền nghệ thuật điêu khắc lăng mộ phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc đá cổ trong các lăng tẩm Việt Nam. Nét độc đáo nhất trong hệ thống các lăng đá ở Bắc Giang là nghệ thuật điêu khắc được thể hiện qua các bức tượng, các hiện vật đá… được các nghệ nhân dân gian xưa chế tác, mà lăng Dinh Hương là một điển hình. Đây thực sự là những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc cổ, với những nét tinh xảo được thể hiện trong từng đường nét trên các bức tượng. Những hiện vật, tượng đá cũng góp phần tăng thêm giá trị lịch sử, giá trị văn hoá nghệ thuật của các lăng đá cổ. Lăng đá Dinh Hương là nơi tôn vinh truyền thống kiến trúc điêu khắc đá của dân tộc, thể hiện rõ ở nghệ thuật điêu khắc tượng người hay linh thú cùng đồ thờ, cũng như trang trí kiến trúc phong phú với nhiều mô típ, đồ án hoa văn sinh động thực sự điển hình cho nghệ thuật điêu khắc đá cổ Việt Nam. Với những giá trị về lịch sử văn hoá và nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu, lăng Dinh Hương đã và đang hấp dẫn du khách tới tham quan. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 55 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Bồ Dương

Đình Làng Bồ Dương, xã Hồng Phong xây dựng thời triều Lê niên hiệu Chính Hoà cách đây trên 300 năm. Đình có tên gọi là Đình Đông "Đình quay hướng đông" nằm ở trung tâm làng Bồ Dương, xã Hồng Phong, là một trong ba ngôi đình còn lại trong quần thể kiến trúc miếu cổ xưa của Làng. Đình được xây dựng từ năm Kỷ tỵ (1689) triều Lê, niên hiệu Chính Hoà, đình Đông có hình chữ Đinh (J), kiến trúc kiểu dáng đình đai truyền thống vùng đồng bằng Bắc bộ, kết cấu bằng hệ thống cột trụ, con đội, giường kèo, tàu bảy đồ sộ, gồm có hậu cung, cổ giải và 5 gian đại bái, mái hạ khoảng, lợp ngói mũi hài, đao đình đắp Long chầu Phượng mớm, chấn giữa khoảng bò mái là 2 con nghê, nóc đình là hai Lạc long thể hiện sức mạnh hùng vĩ của tạo hoá, từ xa trông mái đình thanh thoát như diều cất cánh; nội đình có nhiều mảng nghệ thuật khắc trạm tinh sảo trên gỗ: Long, Ly, Quy, Phượng, Thông, Mai, Cúc, trúc mang tính triết lý như rồng mẹ dạy con học; mô tả cảnh hội Làng như: múa rối nước, tễu giáo đầu, đấu vật, đua thuyền...và nhiều đồ thờ tự quý giá như: ngai ỷ, ngựa chiến, bát biểu, hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng, chuông đồng khánh đá và nhiều đồ thờ khác có liên đại lịch sử. Phía trước Đình là sân rộng, 2 bên gồm 14 gian giải vũ, tiếp giáp với đao đình phía trước là cổng đông trù, tây trù; bước vào sân đình qua tam quan gồm: đại môn, hai cổng tả hữu, cảnh góc song song với tam quan là nhị trụ cao vút, trên đỉnh đắp búp lá trông như cây bút khổng lồ đề thơ vào trời xanh. Khu kiến trúc quần thể đình miếu, văn chỉ, am tự làng Bồ Dương cổ xưa nguy nga tráng lệ vào bậc nhất vô nhị trong vùng. Nhưng do biến cố lịch sử, thời gian phong hoá công trình mất mát khá nhiều. Năm 1993 được nhà nước hỗ trợ về kinh phí cộng với sự đóng góp công đức của nhân dân địa phương, ngôi đình đã được trùng tu sửa chữa, đến năm 1995 Đình đông Bồ Dương, Hồng Phong được Bộ Văn hoá-thông tin quyết định xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hoá cấp Quốc gia. Năm 2010 được nhà nước hỗ trợ trên 10 tỷ đồng đình Bồ Dương tiếp tục được trùng tu, tôn tạo. năm 2011 sở Văn Hóa - Thể Thao tỉnh Hải Dương hỗ trợ địa phương, tiến hành phục dựng lại lễ hội truyền thống cổ xưa, từ đó làm cơ sở cho nhân dân làng Bồ Dương xã Hồng Phong gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá tại di tích. Theo truyền thuyết Đình thờ Vị Tướng Cao Xuân Hựu ở Làng Tam Hoàng, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành (tên cổ là Thuận An, đạo Kinh Bắc), Ông sinh ngày 13 tháng giêng năm Giáp Tý thuộc gia đình sống có đức có nhân. Ông Cao Xuân Hựu là bậc hiền tài, ngay từ tấm bé được cha mẹ cho theo đuổi chốn khoa trường, ông nổi tiếng là người thông minh, giỏi đường văn chương võ nghệ. Khi cha mẹ qua đời, lúc bấy giờ vào Triều Hùng Duệ thứ 18, tuổi đã cao vua sinh hạ được 20 Hoàng tử, 6 Công chúa đều tuyệt tính chốn tiên bồng, định nhường ngôi báu cho con rể là Sơn Thánh, trong triều có một vị Tướng Họ Thục làm phản loạn cầu viện nước láng giềng định cướp ngôi. Ông Cao Xuân Hựu đã ra phò Vua dẹp loạn tặc, ông là người tài giỏi, được Vua phong làm tiền đạo Tướng quân chỉ huy sứ. Ông và quân sỹ đồn trú tại Bồ Dương, Hồng Phong và từ đó toả đi khắp nơi dẹp giặc, quân đi đến đâu giặc tan đến đấy. Đất nước trở lại thanh bình, nhân buổi du ngoạn Ông về thăm chốn cũ Hồng Châu, vào ngày 13/3 âm lịch ông mở tiệc khao dân ăn mừng chiến thắng “Ca khúc khải hoàn” rồi viên tịch ở đất Bồ Dương, Hồng Phong vào ngày 12 tháng 11(âm lịch). Vị Tướng Cao Xuân Hựu được Vua ban sắc phong: "Linh ứng đại vương tặng phong là Đương đình linh ứng phổ hựu tuyên khánh hoằng trạch chiêu thông cương nghị anh liệt hộ dân hựu quốc hùng tài vĩ lược thượng đẳng tôn thần". Ban sắc chỉ cho phép làng Bồ Dương xã Hồng Phong được lập miếu thờ thần, hưởng phúc lành cùng Đất Nước làm nghi thức vĩnh viễn về sau. Từ xa xưa, cứ vào dịp mùa xuân thượng tuần 13 tháng 3 âm lịch nhớ ngày “Ca khúc khải hoàn” của Ông, dân Làng có tục lệ mở lễ hội mừng vui: rước kiệu, tế thần cầu mong cho Quốc thái, dân an, mưa thuận gió hoà, cỏ cây tươi tốt, mùa màng bội thu, nhà nhà êm ấm. Lễ hội làng còn có nhiều trò vui như: hát chèo, hát đúm, đốt pháo bông, đánh pháo đất, trọi gà....đặc biệt nhất là trò múa rối nước. Di tích Lịch sử Văn hóa đình Bồ Dương được xây dựng tại vị trí trung tâm giữa làng Bồ Dương với quần thể kiến trúc, khuôn viên là 1783,1m2. Đình quay hướng Đông. Phía trước có trục đường chính liên thôn chạy qua và có nhà Thủy đình Múa rối nước. Phía đông nam giáp nhà trưng bày các tích trò con rối và nhà Văn hóa trung tâm của làng. Phía tây giáp khu dân cư. Phía bắc là cái ao to song cũng là nơi để múa rối nước thời xa xưa. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 65 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Cả xã Tân Hương

Đình Cả nằm ở Trung tâm thôn 5, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Tân Hương là vùng đất được bồi tụ bởi phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, nên đất đai màu mỡ, thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp. Theo truyền ngôn trong Nhân dân, đình Cả từ khi khởi dựng đến nay vẫn tọa lạc tại vị trí cũ, tuy nhiên có sự thay đổi về quy mô cũng như không gian tồn tại của di tích. Trước đây, di tích được bao bọc bởi khu dân cư, phía sau có ao đình, phía trước là đường dân sinh. Ngày nay có sự thay đổi so với trước kia: Phía Đông giáp khu dân cư; phía Tây và phía Bắc giáp đường liên thôn; phía Nam giáp khu dân cư. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đình Cả là nơi diễn ra việc giao nhận quân phục vụ cho chiến trường niềm Nam. Những năm 1957 - 1958 nơi đây có tổ chức và thực hiện phong trào bình dân học vụ. “Bình dân học vụ” là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 08 tháng 9 năm 1945 (Sắc lệnh 19/SL và 20/SL). Ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập, phong trào này đã giải quyết “Giặc dốt” - một trong các vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam lúc bấy giờ. Căn cứ vào thần tích - thần sắc làng Nam bối xưa (ngày nay tách thành hai thôn: Thôn 3 và thôn 5), tổng Đông Bối, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, do Nguyễn Bính Phụng soạn vào năm Hồng phúc nguyên niên (1572), hiện lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho biết: Đình Cả, thôn 5, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương là nơi tôn thờ 7 vị Thành hoàng gồm: 4 vị là nhân thần, 2 vị là thiên thần và 1 vị là thổ thần. Các vị nhân thần gồm: Quý Minh Đại vương, Phan Trác Mai Vỹ, Pham Mai Chính Thiện và Phan Mai Khai Quốc. Các vị là thiên thần gồm: Thiên hóa Linh thông Đại vương, Thiên quan Hành đế Đại vương. Vị thổ thần là: Thổ địa Linh hựu Đại vương. Các vị Thành hoàng làng là những người có công giúp dân, giúp nước, trải qua nhiều triều đại phong kiến đều được ban thưởng sắc phong và được lập đình để thờ tự. - Trước Cách mạng tháng 8/1945: Tại di tích diễn ra hai kỳ lễ hội: Từ ngày mồng 5 đến ngày 15 tháng 11 (âm lịch): Đây là lễ hội chính trong năm - Ngày hóa của Thành hoàng; Mồng 2 tháng Giêng (âm lịch) và ngày rằm (âm lịch) hàng tháng, di tích mở cửa cho Nhân dân và du khách vào dâng hương. + Lễ hội chính - Ngày hóa của Thành hoàng: Diễn ra trong 10 ngày, bắt đầu từ mồng 5 đến ngày 15 tháng 11 (âm lịch), (trong đó ngày mồng 5, mồng 6 là trọng hội). Trong lễ hội diễn ra các hoạt động như: Tổ chức thi “Lợn Ông”, nghi thức rước bộ Thánh được tổ chức long trọng, trang nghiêm. Đoàn rước khởi hành từ đình Cả, rước đến miếu Bắc, sau đó tổ chức dâng hương tại đây, dâng hương xong đoàn rước tiếp tục rước đến miếu Đông, rước đến Đình Nam, sau đó rước trở lại đình. Trong những ngày tổ chức lễ hội, bên cạnh phần lễ linh thiêng, trang trọng. Phần hội thì sôi nổi, tổ chức nhiều hình thức tham gia các trò chơi như: Cờ tướng; Chọi gà; Cầu thùm, bắt vịt; Pháo đất; Đánh vật; Kéo co... + Mồng 2 tháng Giêng (âm lịch): Ngoài lễ hội chính ngày mồng 5, mồng 6 tháng 11 (âm lịch), thì hằng năm vào ngày mồng 2 Tết tại sân đình tổ chức phiên chợ - đây là sự kiện đặc trưng của người Tân Hương. Đã thành thông lệ, mồng 2 Tết người dân xã Tân Hương lại tập trung về đình Cả để họp chợ cầu may, mỗi năm chợ chỉ họp một phiên. Người dân đến chợ ngoài việc mua bán còn vào đình làng thắp hương để cầu may mắn, hạnh phúc trong một năm. - Lễ hội ngày nay: Những năm gần đây, việc tổ chức lễ hội tại đình Cả do Ủy ban nhân dân xã đứng ra tổ chức. Thời gian tổ chức lễ hội trong 3 ngày: Từ ngày mồng 5 đến mồng 7 tháng 11 (âm lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 69 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình làng Trần Xá

Đình làng Trần Xá, xã Nam Hưng (Nam Sách) có lịch sử lâu đời, là nơi thờ 3 vị Thành hoàng họ Phạm thời Lý và phối thờ danh tướng Trần Quang Khải - người có công lớn góp phần cùng quân dân nhà Trần giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược vào thế kỷ XIII. Ngôi đình đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh từ năm 2007. Tuy nhiên, do sự xuống cấp của công trình, được sự quan tâm của các cấp, đồng thời thể theo nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đình Trần Xá đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo khang trang. Trần Xá là một địa danh nổi tiếng trong lịch sử. Thời Lý, Trần Xá có tên gọi là Trần Xá trang, nằm tả ngạn ven sông Kinh Thầy tạo ra một vùng rộng lớn có tên là vũng Trần Xá. Thời Trần, trang Trần Xá đổi thành Trần Xá loan. Tương truyền năm 1282, vua tôi nhà Trần về vũng này mở hội nghị Bình Than bàn kế sách đánh giặc Nguyên Mông lần thứ 2. Ngày nay, tại đống Khoai Nợ của làng Trần Xá còn 2 cây duối, tương truyền đây là nơi vua quan nhà Trần buộc ngựa khi xuống thuyền họp hội nghị Bình Than. Hai cây duối này nhân dân bảo tồn, gìn giữ và được công nhận là cây di sản năm 2021. Trần Quang Khải (1241-1294) là con thứ ba của vua Trần Thái Tông, mẹ là Thuận Thiên hoàng hậu Lý Thị (con gái trưởng hoàng đế Lý Huệ Tông). Ông là em cùng mẹ với thái tử Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Năm 1258, vua Trần Thánh Tông phong ông làm Thái úy, tước Chiêu Minh Vương kiêm cai quản châu Nghệ An. Năm Thiệu Long năm thứ 14 (năm 1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần đầu triều nắm giữ việc nước. Năm Thiệu Bảo thứ 4 (năm 1282), vua Trần Nhân Tông thăng chức Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, nắm toàn quyền nội chính. Ông là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Tương truyền, khi vua Trần Nhân Tông về mở hội nghị Bình Than ở vũng Trần Xá, Trần Quang Khải được giao trọng trách tổng chỉ huy bảo vệ và giữ bí mật cho hội nghị. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ vị tướng tài ba, nhân dân trang Trần Xá (Trần Xá loan) lập miếu phụng thờ, hương hỏa muôn đời. Đình Trần Xá được xây dựng vào thời Hậu Lê trên gò đất cao giữa làng. Cùng thời gian này, nhân dân đã đưa Thái sư Trần Quang Khải phối thờ tại đình cùng với 3 vị Thành hoàng làng. Thời Nguyễn, đình được trùng tu, khang trang to đẹp gồm 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung chất liệu bằng gỗ tứ thiết. Năm 1953, tòa đại bái bị thực dân Pháp phá dỡ chỉ còn lại 3 gian hậu cung. Qua sự biến thiên của thời gian, hậu cung bị hư hại và được nhân dân khôi phục lại vào năm 1992. Năm 1999, 5 gian đại bái tiếp tục được phục dựng lại. Năm 2007, Đình Trần Xá được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Vượt qua sự biến thiên và thăng trầm của lịch sử, đình Trần Xá vẫn còn lưu giữ được một số cổ vật có giá trị như 1 bia đá Chính Hòa thứ 12 (1691); 1 ngai thờ, 1 kiếm thờ, 1 hòm sắc, 1 bát hương gốm Phù Lãng thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đến nay một số hạng mục như Nhà Tiền Bái, sân, tường bao Đình đã xuống cấp nghiêm trọng. Căn cứ tình trạng thực tế và thể theo nguyện vọng của nhân dân trong thôn, xã Nam Hưng đã đề nghị và được cho phép thực hiện tu bổ di tích. Đến nay, công trình trùng tu, tôn tạo Đình làng Trần Xá đã hoàn tất. Nét riêng, ấn tượng của Đình Trần Xá khi được tu bổ đó là bức phù điêu phục dựng bức tranh làng quê thời Trần thế kỷ thứ 13, với hình ảnh nhánh Lục đầu giang, Hội nghị Bến Bình Than, cây đa, giếng nước, sân đình, anh hùng Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân", hai cây duối - nơi vua quan nhà Trần buộc ngựa khi xuống thuyền họp hội nghị Bình Than… Đình làng Trần Xá được tu bổ, tôn tạo khang trang tố hảo đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân làng Trần Xá nói riêng và nhân dân xã Nam Hưng nói chung. Đây chính là sợi dây gắn bó đoàn kết cộng đồng, là nét đẹp trong văn hóa làng xã. Trong tâm thức của người con đất Việt, “cây đa, bến nước, sân đình" là hình ảnh thân thuộc, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân, là biểu tượng của quê hương, đất nước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 66 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Ngọc Lâm

“Người con gái Bến Ngọc” là tên gọi một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người có công lao to lớn giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc nhà Hán xâm lược, ngày nay lại được tôn vinh là danh nhân lịch sử dân tộc. Ở thành phố Bắc Giang có một tên đường phố mang danh Bà, Bà chính là Thánh Thiên công chúa. Đền Ngọc Lâm là di tích nằm cạnh Bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử) - nơi tôn thờ tưởng niệm Thánh Thiên công chúa. Bến Ngọc còn được gọi là Ngọc Lâm, thuộc thôn Ngọc Lâm, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng. “Người con gái Bến Ngọc” là tên gọi một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người có công lao to lớn giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc nhà Hán xâm lược, ngày nay lại được tôn vinh là danh nhân lịch sử dân tộc. Ở thành phố Bắc Giang có một tên đường phố mang danh Bà, Bà chính là Thánh Thiên công chúa. Đền Ngọc Lâm là di tích nằm cạnh Bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử) - nơi tôn thờ tưởng niệm Thánh Thiên công chúa. Bến Ngọc còn được gọi là Ngọc Lâm, thuộc thôn Ngọc Lâm, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng. Thánh Thiên công chúa là con một gia đình dòng dõi Lạc tướng thời Thục Vương - Vì bất hợp tác với nhà Hán nên đã trốn đi ở chùa. Thuở nhỏ, Thánh Thiên đã nổi tiếng thông minh, tài khéo. Lớn lên trong cảnh đất nước lầm than, tủi nhục dưới ách đô hộ của nhà Hán, từ đó người con gái này đã nuôi chí lớn rửa hận cho non sông xã tắc. Thế rồi bà tập hợp lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn tập binh mã, lập căn cứ chờ đợi thời cơ nổi dậy. Để tăng cường lực lượng, bà đã liên minh với những người yêu nước khắp vùng Hải Dương (quê bà). Một lần khi đến thăm người cậu ở Kỳ Hợp (Lạng Giang) bà đã dừng chân ở trang Ngọc Lâm, được nhân dân đón tiếp và hết lòng ủng hộ. Bà đã bàn với cậu về kế sách đuổi giặc và lập đồn trại ở Kỳ Hợp và Ngọc Lâm. Căn cứ thành lập, và nhiều cuộc đụng độ với giặc Hán đã xảy ra, quân giặc nhiều phen phải thất bại. Một lần căn cứ Kỳ Hợp bị bao vây, căn cứ Ngọc Lâm bị phong toả . Lúc ấy nghĩa quân của Hai Bà Trưng dựng lên, hào kiệt khắp nơi kéo đến và Thánh Thiên cũng theo ngọn cờ tụ nghĩa ấy. Dưới ngọn cờ nương tử: “Đền nợ nước, báo thù nhà” của Hai Bà, Thánh Thiên công chúa đã kiên cường kề vai sát cánh cùng nghĩa binh đánh đuổi giặc Hán giành lại độc lập cho đất nước. Điên cuồng vì thất bại, nhà Hán sai viên tướng nam chính lão luyện là Mã Viện đem quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa. Do thất thế, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng Hát Giang tự vẫn để giữ trọn trinh tiết. Còn Thánh Thiên công chúa đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng rồi, cùng theo Hai Bà tuẫn tiết ở Bến Ngọc, chứ quyết không chịu sa vào tay giặc Hán. Ngưỡng mộ trước tấm gương trung hiếu của bà Thánh Thiên, sau khi bà mất, nhân dân đã lập đền thờ cúng ngay cạnh Bến Ngọc - nơi bà trẫm mình tuẫn tiết. Xưa di tích có quy mô rộng lớn uy nghiêm, nhưng nay không còn giữ được nguyên vẹn. Hiện di tích còn đền Thượng và đền Hạ. Đền Thượng nằm trên doi đất cao giáp sông Chín Khúc, đối diện với khu Bãi Hán. Đền gồm hai toà: Tiền tế 3 gian, kiến trúc đơn giản, bên trong đặt ban thờ. Hậu cung 3 gian nằm ở phía sau. Ban thờ có khám, long ngai, bài vị và nhiều đồ thờ khác. Đây chính là nơi tôn nghiêm phụng thờ bài vị Thánh Thiên công chúa. Sân đền lát gạch vuông, phía trước có ban thờ lộ thiên. Cảnh quan đền Thượng có cây si cổ thụ soi bóng xuống dòng Bến Ngọc đã tạo nên cảnh trí đẹp mắt. Đền Hạ cổ kính hơn, xây dựng dưới thời Lê, bị phá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nay đền được nhân dân xây dựng lại khang trang, gồm 5 gian tiền tế cao rộng và 3 gian hậu cung. Cảnh quan đền Hạ cũng rất thoáng đẹp. Phía trước có hồ nước mênh mông, lại nằm bên bờ sông Chín Khúc quanh co, tạo nên sự hài hoà giữa cảnh quan nội và ngoại thất. Đền Ngọc Lâm đã được Bộ Văn hoá Thông tin ra Quyết định số 138/QĐ ngày 31 tháng 12 năm 1992 công nhận là Di tích Lịch sử và cấp bằng xếp hạng di tích cùng thời gian này. Từ khi được xếp hạng, di tích đền Ngọc Lâm càng được nhân dân địa phương quan tâm bảo vệ và tu tạo./. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 83 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Sinh từ Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc

Di tích lưu niệm Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc thuộc thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc thành phố Bắc Giang) bao gồm sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Đây là một trong những di tích tiêu biểu, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, là nơi thờ phụng, tưởng niệm một danh tướng đã được lịch sử và nhân dân các thế hệ ghi tạc. Danh nhân Hoàng Ngũ Phúc, còn gọi là Hoàng Đình Việp, ông sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống hiếu học và thượng võ ở làng Phụng Công, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc, nay là thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ông sinh năm 1713, làm quan phụng sự 2 đời chúa Trịnh Doanh (1740-1767), chúa Trịnh Sâm (1769-1782). Ông được nhà sử học Phan Huy Chú xếp vào một trong 19 bậc tướng tài giỏi thời Lê Trung Hưng. Di tích Sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc là di tích lịch sử văn hoá được xây dựng từ năm 1762, trước đây là nơi ở, sau khi Việp quận công mất là nơi thờ phụng và là di tích lưu niệm về Tướng quốc Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Mộ phần Phần mộ cơ bản vẫn còn giữ được nguyên trạng, đặt giữa cánh đồng phì nhiêu tươi tốt, trên một gò đồi có tên là Bãi Lăng. Diện tích khu đất khoảng 390m2. Mộ Hoàng Ngũ Phúc không xây cất, đắp thành gò cao. Trên tấm bia đá ghi: “Mộ của tướng công thời Lê được phong tặng là tĩnh trung… trị dương vũ đại vương”. Phía trước mộ, cách khoảng 10m có tấm bia đá đặt ở khu ruộng thấp hơn, tạc theo dáng bài vị, trong lòng bia có hàng chữ Hán: “Lê triều Hoàng tướng công chi mộ. Ngày 18 tháng 4 năm 1713 - Ngày 16 tháng 1 năm 1776”. Sinh từ Sinh từ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc nằm về phía đông nam thôn Tân Phượng. Cảnh quan, không gian của di tích rộng rãi, thoáng đạt, nằm kề bên đường làng, thuận tiện về mặt giao thông. Tổng thể khu sinh từ bề thế, uy nghiêm với trùng nghi môn ngoại gồm hai gian có 4 bậc đá xanh ghép, bậc dưới cách bậc trên 19cm, diện tích của trùng nghi môn ngoại là 3,50m2. Nhà bia có diện tích 3m2. Trùng nghi môn nội gồm ba gian với diện tích là 33,30m2, có 3 bậc tam cấp ghép đá xanh, bộ khung kiến trúc được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi. Đền thờ gồm 5 gian với diện tích là 166m2, kết cấu kiến trúc bằng gỗ lim, các vì mái làm theo kiểu tiền kẻ hậu bẩy, mái đền lợp ngói mũi hài, xây tường gạch bao quanh. Cụm di tích sinh từ và mộ phần Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc là một trong những di tích lịch sử đầy tự hào được nhân dân địa phương và tỉnh nhà trân trọng gìn giữ. Với những giá trị lịch sử to lớn, khu di tích sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ năm 1991. NGUỒN Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam

Bắc Giang 70 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Vẽ

Đình Vẽ (tên chữ là đình Nam Xương) - Di tích kiến trúc nghệ thuật, dân làng gọi là đình cả, vì ngoài đình cả còn có đình của các giáp; đình Hậu của giáp Bắc; đình Kẹm của giáp Tây; đình Diệc của giáp Nam. Đình cả nằm ở trung tâm làng, ở vị trí cao rộng, quay mặt về hướng Nam. Ðình được khởi dựng thời Lê Trung Hưng thế kỷ thứ XVIII. Kiến trúc của đình theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian 2 dĩ và 3 gian hậu cung. Trên nóc có lưỡng long chầu nguyệt, bờ giải có nghê chầu, kìm chạy vào góc đao cong vút. Bên trong hậu cung đặt khám thờ, tượng Thánh và long ngai sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngồi trên ngai thờ là tượng Thánh Quý Minh, to hơn người thật, mũ cao áo dài tay cầm hột ngọc. Đây là một hiện thực mà ta ít gặp ở các ngôi đình trong vùng. Bên phải đình là nơi đặt bia hậu và ban thờ hậu.Bên trái đặt 4 bộ kiệu và đồ thờ. Ngoài ra đình còn lưu giữ 10 đạo sắc phong của các triều đại cùng ngọc phả văn tế thần của làng. Chùa Vẽ (tên chữ là Huyền Khuê tự) - Di tích nghệ thuật, nằm ở phía đông đình Cả, quay mặt về hướng Nam. Xưa chùa Vẽ là chùa chung của cả hai làng Thành (Đông Nham) và Vẽ (Nam Xương), nay thuộc phường Thọ Xương. Nhưng đến thời Nguyễn thì các cụ làng Thành lập chùa riêng của làng, trên cơ sở am nhỏ của một vị quan thời Lê về hưu cúng hậu cho làng (Am Vân Tự) thì chùa Vẽ do dân làng Vẽ trông nom, thờ phật. Trong chùa còn lưu giữ hệ thống tượng phật đầy đủ, đẹp, một quả chuông lớn đúc từ thời Lê Cảnh Hưng, dáng đẹp tiếng trong, cao 1,5m đường kính rộng 66cm, và nhiều đồ thờ quý giá khác. Đình và chùa Vẽ còn giữ kiến trúc cổ kính ban đầu và đã được Nhà nước xếp hạng. Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia ngày 12-2-1994. Đình, chùa Hà Vị đều đã bị thực dân Pháp tàn phá thời kỳ chúng chiếm thị xã Bắc Giang 1949-1954. Vào những năm 90 của thế kỷ XX và năm 2002, bằng công sức, tiền của tự góp, nhân dân Hà Vị đã xây dựng mới ngôi đình, chùa khang trang kiên cố trên ngọn đồi phía Tây làng. Đình, chùa đều quay mặt về phía Tây nhìn ra sông Thương. Trên nền cũ của đình chùa Hà Vị (nay thuộc phường Trần Nguyên Hãn) năm 1994, nhân dân địa phương xây dựng một ngôi chùa mới, đẹp, chắc, bền và lấy tên là chùa Hồng Phúc. Hiện nay chùa Hồng Phúc là trụ sở của Hội Phật giáo tỉnh Bắc Giang. Đình, chùa Hoà Yên xưa tọa lạc theo hướng chính đinh, nằm trên tả ngạn sông Thương, là nơi linh địa, tại vị trí khu vực trạm bơm tiêu nước 420 của Công ty Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc. Đình Hoà Yên đã bị thực dân Pháp phá hoại năm 1952. Năm 1960, do yêu cầu xây dựng các công trình Nhà máy Phân đạm, chùa Hoà Yên được di chuyển về xây dựng ở khu đền thờ Đô thống Đại tướng quân như hiện nay. Chùa Hoà Yên là ngôi chùa cổ, được xây dựng vào thời Lê, có kiến trúc điêu khắc đẹp. Đền thờ Tướng công họ Lều (Di tích lịch sử), thuộc phường Thọ Xương. Xưa là đền đình chùa làng Hòa Yên, nằm ở vị trí cổng 420 của nhà máy Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc. Sau đó chiến tranh và việc mở rộng xây nhà máy nên dân chuyển vật liệu về xây dựng ở vị trí hiện nay thuộc xóm Mới, làng Hòa Yên; Nay là tổ dân phố Mới. Ngôi đền thờ làng Hòa Yên được nhân dân dựng lại thời gian gần đây, nhưng kết cấu kiến trúc vẫn giữ được thành phần cơ bản của thời Nguyễn. Đền gồm có 3 gian, 2 dĩ, quy mô nhỏ, được làm bằng gỗ lim chắc chắn, không có chạm khắc cầu kỳ. Cột cái cao 3,83m; cột quân cao 2,86m, từ nền đến nóc cao 4,5m, diện tích nhà 76,80m2. Kết cấu vì kèo đơn giản, thượng chữ đinh, hạ kẻ truyền. Ở gian giữa đền có ban thờ xây gạch cuốn vòm cao 1m, bên trên mặt tượng Lều Tướng công và các đồ thờ tự khác. Đền thờ và Lăng mộ Đô đốc Đại tướng quân Lều Văn Minh được Nhà nước xếp hạng. Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia ngày 28-6-1996. Đình Đụn, chùa Hướng. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Cung Nhượng thuộc tổng Thọ Xương có hai thôn Đụn và Hướng. Địa dư cư trú giữa hai thôn cách xa nhau. Do đó đình được xây ở thôn Đụn (đình Đụn), chùa được xây ở thôn Hướng (chùa Hướng). Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1949-1954, đình Đụn đã bị thực dân Pháp phá hoại; chùa Hướng vẫn còn không bị phá nhưng có quy mô nhỏ. Sau năm 1954, quê hương được giải phóng, thôn Hướng được tách khỏi Cung Nhượng là một đơn vị. Những năm 90 của thế kỷ XX, hai thôn Cung Nhượng và Hướng đều xây lại đình, chùa trên khuôn viên của đình, chùa cũ. Đình Cung Nhượng và đình Hướng đều thờ tướng quân Lều Văn Minh. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG THỌ XƯƠNG- TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 72 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nghè Chùa thôn Gia Cốc

Cụm di tích Nghè chùa Gia Cốc nằm trên khu đất bằng phẳng, cao ráo, chạy từ phía Tây Bắc sang Đông Nam, thuộc thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Theo bản thần tích chữ Hán do quan Thượng thư Bộ lễ Nguyễn Hiền theo lệnh vua sao lục bản chính vào năm Thuận Thiên tam niên bát nguyệt sơ tam nhật (3/8/1430) còn lưu lại tại di tích cho biết, xưa kia cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc (hiện cụm di tích nằm ở thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương) tọa lạc trên một khu đất có cảnh đẹp lạ thường, chạy từ Tây Bắc sang Đông Nam, phía trước có đống rùa vàng làm án; đằng sau nước triều hội tụ, bên tả có rồng, bên hữu có hổ chầu, phía sau có voi phục. Hiện nay, tuy phong cảnh của cụm di tích có thay đổi nhiều, song vẫn giữ được nhiều đặc điểm từ thuở xa xưa. Và theo quan niệm của dân gian, nhánh sông Neo chạy từ Tây Bắc xuống Đông Nam thôn Gia Cốc chính là hình ảnh của con rồng. Nhiều gò đống ở phía trước di tích chính là dấu vết của rùa vàng và hổ phục. Các nguồn tài liệu sử sách cho biết, vào thời Lý, thôn Gia Cốc gọi là trang Gia Cốc. Sau đổi thành xã Gia Cốc, tổng Phú Mễ, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Sau Cách mạng tháng 8/1945 đổi thành thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương như hiện nay. Cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc gắn liền với tên tuổi một vị quan Thái sư thời Lý tên là Lê Trung Hoa. Ông sinh ngày 10/3 mất ngày 10/8 (chưa rõ năm). Ngay từ nhỏ, ông đã có chí lớn, văn võ song toàn. Lúc bấy giờ giặc Tống cử tướng là Hoàng Phúc đem quân sang xâm lược nước ta. Triều đình phong cho Lê Trung Hoa làm Thái sư thống lĩnh một vạn quân để chống giặc Tống. Lúc này quân Tống đóng đồn ở trấn Hải Dương, Thái sư Lê Trung Hoa chỉ huy quân đánh bên Đông, đỡ bên Tây, quân giặc tan, đất nước thanh bình trở lại, ông đem quân về trang Gia Cốc khao thưởng quân sĩ. Tại trang Gia Cốc, thấy phong cảnh đẹp lạ thường nên ông đã quyết định lập trại và đóng quân tại đây. Sau khi ông mất, triều đình đã cấp tiền xây đình, miếu thờ phụng và được các triều đại phong sắc là “Thượng đẳng thần”, tự là “Đức Đại vương Thái sư”. Ông được nhân dân nơi đây tôn vinh là Thành hoàng làng và tạc tượng thờ. Hiện nay, tại cụm di tích còn lưu giữ được 5 đạo sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 6 (1853) phong ngày 10/11; vua Tự Đức năm thứ 31 (1878) phong lần 2; vua Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) phong ngày 1/7; vua Duy Tân năm thứ 3 (1909) phong ngày 11/8; vua Khải Định năm thứ 9 (1924) phong ngày 25/7. Nghè Gia Cốc được làm theo hình chữ Nhị, phần ngoài 5 gian và hậu cung 3 gian, các vì kèo đều được làm theo kiểu con chồng, đầu các con chồng đều được chạm khắc đề tài tứ linh, các đầu bẩy hiên được chạm khắc tứ quý. Bên trong hậu cung có 3 bệ thờ, bên trái thờ Trần Hưng Đạo, ở giữa thờ Lê Trung Hoa và bên phải thờ Phạm Ngũ Lão. Cạnh nghè Gia Cốc là chùa Gia Cốc có kiến trúc theo hình chữ Đinh gồm tiền đường 5 gian và tam bảo 3 gian… Với những giá trị về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật… độc đáo, cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ra quyết định số 281 cấp bằng công nhận cụm di tích Nghè chùa Gia Cốc là cụm di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 14/4/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 98 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đào Lâm

Đình Đào Lâm thờ 4 vị tướng là Phạm Vân, Hoàng Công Bỉnh, Vũ Công Tạo và Thái tử Lý Mạnh. Cả 4 ông đều có công giúp nhà Lý đánh đuổi giặc Lương. Theo thần tích còn lưu giữ tại đình Đào Lâm thì vào thế kỷ VI, nhà Lương bên Trung Quốc sai tướng Trần Bán Tiên mang quân sang xâm lược nước ta. Nhận được tin, vua Lý Nam Đế liền họp các quan trong triều tìm kế đánh giặc và chiêu mộ quân. Vì văn võ toàn tài, các ông Phạm Vân, Hoàng Công Bỉnh, Vũ Công Tạo cùng với Thái tử Lý Mạnh được nhà vua tin tưởng giao 2.000 binh lính lên đường đánh giặc. Khi đến làng Đào Tòng, huyện Gia Phúc, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Đào Lâm, xã Đoàn Tùng) thì được nhân dân hoan hỷ đón tiếp. Thấy nơi này đẹp cảnh, đẹp người, 4 vị bèn ra lệnh cho binh sĩ cùng dân làng lập hành cung, mở tiệc khao quân. Hôm đó, trong làng có 20 thanh niên trai tráng xin theo đánh giặc. Vài ngày sau, đoàn quân cấp tốc lên đường thẳng tiến tới bờ sông Tô Lịch giao chiến với quân thù. Bằng sự mưu trí, đoàn quân của 4 vị nhanh chóng đẩy lui quân giặc. Không chịu thua, quân Lương xin thêm tiếp viện. Ở trận đánh thứ 2, do chênh lệch về lực lượng và khí giới nên binh sĩ của 4 vị tử trận nhiều. Để vẹn tròn khí tiết với nước non, cả 4 vị tướng đã gieo mình xuống dòng sông Tô Lịch vào ngày 20 tháng 10 âm lịch. Sau trận đánh, một số binh lính còn sống sót trở về làng Đào Tòng và thuật lại chuyện. Để tưởng nhớ công ơn, dân làng Đào Tòng đã lập đền thờ 4 vị tại nơi hành cung mà nghĩa quân lập nên ngày trước (nay là hậu cung của Đình làng Đào Lâm). Với công lao to lớn, nhà Lý liền sắc phong Thượng Đẳng Thần cho cả 4 vị tướng. Vua Lý ra lệnh cho nhân dân làng Đào Tòng đến rước mỹ tự vua phong về đền thờ tứ vị. Năm 1288, Ô Mã Nhi và Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nhà Trần. Vua Trần Nhân Tông đã giao Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn đến đền thờ 4 vị ở làng Đào Tòng bái yết và cầu tảo. Sau đó đi đánh giặc giành được thắng lợi vẻ vang. Đến năm 1416, vua Lê Thái Tổ đánh đuổi nhà Minh cũng đi đến đền thờ 4 vị bái yết và cầu tảo quả nhiên cũng giành chiến thắng. Nhờ đó mà triều đại nhà Trần và nhà Lê đều có sắc phong Thượng Đẳng Thần cho 4 vị. Đình Đào Lâm nằm trên khu đất bằng phẳng, rộng rãi và được xây dựng với quy mô khá lớn. Đình gồm ba công trình chính: đình ngoài, đình giữa và hậu cung, ngoài ra còn có gác chuông. Trải qua thời gian, ngôi đình đã nhuốm màu rêu phong, có nhiều nét cổ kính. Đình ngoài có 5 gian 2 chái có diện tích trên 250 m2 với 4 hàng cột gỗ lim lớn. Kiến trúc các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen được chạm khắc hoa lá cách điệu. Đầu các con chồng được tạo dáng hình đầu rồng. Tại 8 đầu dư chạm khắc hình độc long ngậm ngọc tạo thế vững chắc và thể hiện sự linh thiêng. Mái đình ngoài được lợp bằng ngói mũi, trên các đao góc được tạo dáng hình đầu rồng uốn cong mềm mại. Trên các bờ mái bố trí tứ linh (long, ly, quy, phượng). Ở hai đầu bờ nóc đình là hai đầu rồng to khỏe với tư thế như kìm giữ cho mái đình vững chắc hơn. Đình giữa cách đình ngoài 2 m cũng gồm 5 gian 2 chái nhưng diện tích nhỏ hơn (khoảng 220 m2). Kiến trúc nổi bật nhất là nghệ thuật chạm khắc tại các đầu bẩy với đề tài bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Trên các bức cốn là long quần rất sắc sảo, sinh động. Trên xà ngang trung tâm treo bức đại tự “Đức phong thượng đẳng thần". Phía dưới bài trí 1 bộ kiệu bát cống, 2 bộ kiệu long đình. Hai bên là hai hàng long đao bát bửu. Tất cả mọi hiện vật đều sơn son thếp vàng. Cũng như đình ngoài, đình giữa được xây dựng vào thời Hậu Lê và tu sửa vào thời Nguyễn. Tiếp theo là đình giữa rộng khoảng 105 m2 gồm ba gian hậu cung. Gian đầu bài trí án thư, trên có các đồ tế. Phần sau hậu cung đặt một khám thờ lớn bên trong bài trí bốn ngai thờ bốn vị thành hoàng làng. Trên mỗi ngai có một bài vị ghi tên tuổi các vị... Tháng 3.1990, đình Đào Lâm được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 101 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Đông Nham

Đình làng Đông Nham hay làng Thành, thờ hai vị thần: Cao Sơn Đại Vương Thượng đẳng thần và Quý Minh Đại Vương Thượng đẳng thần. Hai vị là bộ tướng của Hùng Vương có công hộ quốc, an dân, đánh giặc Thục Phán mang lại cuộc sống yên lành cho Nhân dân. Đình làng Thành, tên chữ là đình Đông Nham, nằm ở trước làng quay theo hướng Nam ghé Tây. Đình được xây dựng trên vị trí cao thoáng nhìn xuống Dộc Đình nằm cận kề với đường Quốc lộ 1A, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và thành Xương Giang. Đình được xây dựng thời Lê, hiện vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu, đình gồm 3 gian, 2 dĩ bố cục theo lối chữ nhất. Được kết cấu các vì kèo theo kiểu thượng con chồng giá chiêng, hạ kẻ chống chạm khắc điêu luyện và tinh xảo. Ngoài việc phục vụ cho tín ngưỡng, đình làng còn là nơi tập trung hội họp để bàn và quyết định những công việc quan trọng của làng. Đình được trùng tu sửa chữa nhiều lần. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đình bị phá hai bên quán nhà hội đồng và tường xung quanh, những năm 60 của thế kỷ XX đình dùng làm kho thóc của Hợp tác xã (HTX), Thánh được đưa về thờ ở miếu, năm 1996 hậu cung được sửa chữa, Thánh lại được đưa về thờ tại đình. Bên tả gian đình thờ quan đại thần Triều Lê Nguyễn Tướng Công, tự Trung Chính, người làng Đông Nham hai lần đi Bắc Sứ, lập công lớn được Vua phong Thái Bảo quận công, Phủ Quân chi linh thần, ông không có con đã dâng hiến hết điền, địa cho làng Đông Nham và cả Am linh Tự tức Chùa Thành ngày nay. Đình Chung: là đình của hai làng Đông Nham và Nam Xương (hay làng Thành và làng Vẽ), đình được xây dựng từ thời nhà Lê năm 1629, tính đến nay đã có khoảng 390 năm tuổi trên khu đất giữa hai làng; phía Đông giáp làng Đông Nham, phía Tây giáp làng Nam Xương. Đình thờ thần Cao Sơn, một tướng giỏi đời Hùng Vương, việc lễ hội do hai làng tổ chức cùng với hội của các làng. Đình được sửa chữa và trùng tu nhiều lần, những năm 60 của thế kỷ XX đình được làm Trụ sở văn hóa xã và Trụ sở HTX mua bán xã Thọ Xương, đến nay được sửa chữa lại và chỉ để thờ Thần. Nghè Miễu: được xây dựng vào thế kỷ thứ XVII khoảng năm 1660, nghè được xây dựng trên khu đất Núi Miễu nhìn ra hướng Tây Nam, là ranh giới của hai làng Đông Nham và Nam Xương. Nghè thờ sắc tướng Triều Trần, một tướng giỏi có tên là Dương Hiển sắc phong Dương Quốc Công Đại Vương uy minh Á Thần, thống lĩnh quân sĩ chống giặc Nguyên, quê ở Nam Định đã có công đánh giặc, giữ nước mang lại cuộc sống yên bình cho Nhân dân. Điếm: được xây dựng khoảng năm 1929 trên khu đất của xóm Non giữa làng, tựa lưng vào núi nhìn ra Đầm Con theo hướng Bắc. Điếm có một bát hương thờ chung các vị thần Hoàng Làng, ngoài ra điếm còn để chứa đựng các đồ vật thờ, rước kiệu. Năm 1988 bị sụt đổ, năm 1994 được tu sửa lại. Đình làng Thành là một công trình kiến trúc cổ, có trên vài trăm năm tuổi mang đậm dấu ấn văn hóa của một làng quê. Do đó, đã được Nhà nước xếp hạng, Bộ văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích lịch sử văn hóa ngày 05 tháng 02 năm 1994. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG XƯƠNG GIANG - TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 85 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Vĩnh Ninh

Đình Vĩnh Ninh thuộc thôn Vĩnh Ninh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc xã Dĩnh Kế, tổng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang). Di tích đình Vĩnh Ninh nằm về phía Đông Bắc thành phố Bắc Giang và đầu đường quốc lộ 31 nên đường đi rất thuận lợi cho khách tham quan, đình Vĩnh Ninh cùng với các công trình tín ngưỡng văn hoá khác của xã Dĩnh Kế (nghè Cả và chùa Kế) tạo thành một quần thể di tích liên hoàn rất có giá trị. Nơi dựng đình là chốn "địa linh" của địa phương, truyền rằng làng Vĩnh Ninh xưa nằm trên thế đất hình con quy (Rùa) và đình làng được dựng trên đầu con quỷ, mặt ngoảnh nhìn hướng Tây. Đó là nơi đất đẹp và linh thiêng. Tương truyền ngày xưa bất cứ ai qua đình cũng phải ngả nón, quan lại đi qua đều phải "hạ mã", nếu không sẽ bị Thánh trừng phạt, người nào làm việc gì trái đạo lý sẽ bị thánh gieo tai hoạ bất ngờ… Đình Vĩnh Ninh xưa có quy mô kiến trúc to lớn, đồ sộ, là công trình kiến trúc cổ, được khởi dựng triều vua Lê cách ngày nay khoảng hơn 300 năm, được tu bổ mở rộng vào triều vua Lê niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) theo cấu trúc truyền thống, gồm 3 công trình chính: Tiền tế, trung đình và hậu cung. Từ xa, người ta có thể dễ dàng nhận ra công trình kiến trúc quy mô này bởi các công trình của đình nằm trên khu đất cao, bốn mặt có tường bao ngăn cách với bên ngoài. Từng toà kế tiếp nhau tầng tầng, tạo cảm giác nơi thờ tự thật sự thâm nghiêm, sống vẫn gần gũi thân thuộc bởi các hình khối, đường nét nhẹ nhàng thanh thoát. Tòa tiền tế: Liền với mái và cùng bờ chảy với toà trung đình và toà tiền tế, công trình này gồm ba gian hai trái, khung gỗ lim, với đao cong mái uốn mềm mại, thanh thoát, chạm khắc, đắp vẽ tài nghệ, tinh xảo, phía trước có cửa bức bàn. Tiền tế là nơi hội họp và sắm sửa đồ tế lễ của nhân dân địa phương. Toà trung đình: Cách hậu cung khoảng 1,50m, công trình này gồm năm gian hai dĩ, khung gỗ lim, mái lợp ngói, hai bên hai hồi đình không có đao. Toà này, là nơi tế lễ của nhân dân nên đồ thờ tự được bài trí đơn giản, gọn gàng gồm có tắc tải, sập thờ, đặt bộ "thất sự", đồng thời là nơi đặt lễ vật của nhân dân mỗi dịp sự lệ tuần tiết. Gian giữa toà trung đình (còn gọi là gian lòng giếng, có nơi gọi là gian lòng đám) thấp hơn hai gian bên. Đó là nơi tế lễ-hai bên là chỗ ăn ngồi của toàn dân theo tôn ty trật tự truyền thống của làng: “Triều đình trọng tước, hương đảng trọng xỉ”(Ở triều đình quí trọng chức tước, ở nhà quê trọng người rụng răng cao tuổi). Tòa trung đình cũng là nơi đặt chiêng và trống; trên mái các gian treo hoành phi, các cột treo câu đối sơn son thếp vàng rực rỡ. Tòa hậu cung: Gồm một gian hai chái, khung gỗ lim mái lợp ngói, có 4 đao thanh thoát, đỉnh nóc đắp đôi Rồng chầu mặt nguyệt. Tòa hậu cung là trung tâm thờ tự đức Thánh Cao Sơn-Quý Minh. Trong hậu cung, khám thờ được bài trí trang trọng ở gian giữa, trong khám đặt ngai và bài vị Đức Thánh. Hai bên khám là hai ngựa thờ (nhị mã thiên thần), trước là nhang án thờ, trên đặt bộ thất sự bằng đồng, hai bên là bộ siêu đao, bát biểu, trên cùng là bức hoành phi Thượng đẳng tối linh, hai bên cột treo câu đối. Trong hậu cung còn đặt kiệu bát cống (bộ đồ rước bài vị và nồi hương thờ đức Thánh mỗi khi cả xã cùng mở hội ở đình hàng xã và nghè Cả). Tất cả các đồ thờ tự ở đình đều được tạo tác bằng chất liệu gỗ, được chạm khắc, trang trí tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ, được sơn son thếp vàng rực rỡ thể hiện sự tài khéo của các nghệ nhân dân gian xưa. Tất cả là những sản phẩm nghệ thuật cổ đặc sắc mà ít nơi còn giữ được cho đến nay. Tòa hậu cung, có cửa bức bàn, ngăn cách với bên ngoài là nơi tối linh không ai được vào, trừ cụ thủ phiên. Ngoài các công trình chính, đình Vĩnh Ninh còn các tòa giải vũ ở hai bên sân đình, cửa toà tiền tế. Mỗi toà 3 gian gỗ lim, mái lợp ngói, tường xây gạch. Toà bên đông có sàn gỗ để đặt cỗ và lễ vật, toà bên tây không có sàn, thường được sử dụng làm nơi thịt lợn, làm cỗ việc làng. Đình Vĩnh Ninh là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu duy nhất của dân thôn, là nơi thờ hai vị Thánh Cao Sơn-Quý Minh (hai thuộc tướng thời Hùng Duệ Vương). Truyền tích về hai Đức Thánh vẫn được nhân dân địa phương lưu truyền lại qua nhiều thế hệ, truyện kể rằng: Cao Sơn và Quý Minh là hai anh em sinh đôi từ thời Hùng Vương thứ 18, trong một gia đình thi lễ, học hành thông mẫn, võ nghệ kỳ tài khó ai sánh nổi. Khi hai ông 2 tuổi thì cha mẹ đều mất cả. Thời đó, vua Hùng Duệ Vương hạ chiếu lệnh cho các châu, huyện, đạo để tuyển chọn những người có tài năng đức độ ra làm quan lãnh binh đánh dẹp giặc ngoại xâm. Hai ông thấy vậy bèn cùng xin về triều ứng tuyển. Vua thấy hai ông có tài văn võ hơn người, liền tuyển và lệnh cho hai ông giữ chức chỉ huy sứ. Tuy được đội ơn mưa móc của vua, nhưng hai ông không quên cha mẹ-việc tang gia thờ cúng đều rất chu đáo tâm thành. Lại nói: vua Hùng sinh được 4 người con (hai con trai và hai con gái). Nhưng sau đó hai người con trai đều yểu mệnh mất sớm, còn hai người con gái khi đến tuổi trưởng thành Hùng Duệ Vương gả một người cho Chử Đồng Tử, một người gả cho vị tướng họ Nguyễn tên Tùng và truyền ngôi cho. Cùng khi đó ở đất Ai Lao lại có người họ Thục tên Phán, vốn là dòng dõi nhà Hùng, sau khi phân nhánh được sang trị vì đất này và đổi họ, nghe tin Hùng Duệ Vương truyền ngôi cho con rể, Thục Phán đã sinh lòng ghen tức, bèn đem quân sang xâm lược. Hùng Duệ Vương lấy làm lo lắng, liền cho vời Sơn Thánh vào chầu, Cao Sơn-Quý Minh đến lĩnh mệnh và được phong làm tả-hữu tướng quân, tiên phong lên đường dẹp giặc Thục ở miền Đông Bắc. Hai ông Cao Sơn và Quý Minh vâng mệnh lên đường, trống dong cờ mở rợp trời. Khi tới miền Đông Bắc, lộ Bắc Giang thì trời đã sẩm tối, nên hai ông đã hạ trại đóng quân tại đây. Thấy vùng đất này có nhiều lợi thế cho việc quân cơ, hai ông truyền lệnh cho quân dân thiết lập lũy đồn để đánh giặc. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 79 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Đống Nghiêm

Chùa Đống Nghiêm hay còn gọi là chùa Kế, được xây dựng từ lâu đời (trước thời Lê). Chùa được xây dựng ngay bên Nghè Kế thuộc phường Dĩnh Kế. Chùa Đống Nghiêm là chi phái của chùa Vĩnh Nghiêm, là chốn nghỉ chân của các Sư tăng trước khi về chốn tổ Vĩnh Nghiêm ngồi hạ. Chùa Đống Nghiêm giữ vai trò Chánh giám viện của chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Vì vậy rất có thể chùa Đống Nghiêm được xây dựng từ thời Trần và là nơi sầm uất bởi các hoạt động truyền giáo của thiền phái Trúc Lâm tại chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Qua cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh, chùa Đống Nghiêm bị tàn phá đổ nát, vào thế kỷ XVII- XVIII được tu bổ mở rộng, trở thành một trung tâm sinh hoạt Phật giáo khá sầm uất của nhân dân. Các công trình kiến trúc xưa của chùa khá quy mô gồm nhiều tòa: Thượng điện, Tam bảo, tòa Cửu phẩm, gác chuông, gác khánh, nhà tổ, giải vũ tam quan, sân vườn. Rất đáng tiếc do chiến tranh nhiều công trình của chùa Đống Nghiêm nay không còn. Chùa Đống Nghiêm còn lưu giữ hệ thống tượng thờ khá đầy đủ tập trung ở tòa thượng điện. Hầu hết các pho tượng đều được tạc bằng gỗ, sơn thếp lộng lẫy, trong đó tượng Tam thế, a di đà, phổ hiền bồ tát, thế chỉ bồ tát là những pho tượng đẹp. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ quý khác. Đặc biệt chùa còn lại 3 tấm bia bằng đá giá trị. Chùa Đống Nghiêm đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 226/VH-QĐ, ngày 5/02/1994. NGUỒN TRUNG TÂM VĂN HÓA THÔNG TIN VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC GIANG

Bắc Giang 76 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nghè Dĩnh Kế

Dĩnh Kế là một xã nằm ở phía Đông thành phố Bắc Giang, giáp ranh với các xã Tân Tiến, Hương Gián (Yên Dũng), Dĩnh Trì, Tân Dĩnh (Lạng Giang), phường Thọ Xương, xã Xương Giang và hai đường Lê Lợi, Ngô Quyền thuộc nội thị. Nằm ngay bên quốc lộ 31, con đường nối thành phố Bắc Giang với miền Đông Bắc của tổ quốc. Công trình kiến trúc nhỏ nhắn, khiêm nhường này dựng đặt giữa bãi đất cao, cây trái xum xuê, trông thật sự tôn nghiêm cổ kính, giữa nơi phố chợ. Đường xá nơi đây tấp nập người xe qua lại, nhộn nhịp cảnh mua bán đổi trao, các hoạt động kinh tế khá phong phú sôi động và sầm uất lại càng chứng tỏ Dĩnh Kế từ xưa đã là nơi đô hội, làm ruộng, cấy lúa, trồng rau màu, trồng dâu chăn tằm vốn là nghề sống chính. Song các hoạt động thủ công, đặc biệt là nghề làm bánh đa có từ rất sớm và nổi tiếng gần xa, khiến cho đời sống của người dân Dĩnh Kế ngày một nâng cao - chợ Kế, một trung tâm buôn bán, sầm uất lên từ thời Lê đã chứng tỏ các hoạt động thương mại ở Dĩnh Kế xuất hiện khá sớm và phát triển liên tục đến ngày nay. Chính nhờ các hoạt động kinh tế đa dạng, phong phú mà làm cho miền quê Dĩnh Kế luôn sôi động, quan hệ của người dân rộng mở, làng xã không bị bó hẹp, đóng khung trong những luỹ tre. Dĩnh Kế là nơi hội tụ cư dân ở nhiều nơi đồng thời cũng là nơi giao lưu năng động về kinh tế, văn hoá với các vùng miền trong nước. Đó là những nhân tố, là môi trường lịch sử xã hội làm nên một Dĩnh Kế giàu truyền thống văn hiến. Truyền thống cộng đồng đoàn kết được thể hiện khá tập trung ở việc tôn thờ đức Cao Sơn- Quý Minh. Đây là hai vị tướng thời Hùng Vương, có nhiều công trạng trong việc phò vua giúp nước, nhân dân nhiều làng xã Việt Nam đã lập đình, đền thờ phụng. Các triều vua phong kiến Việt Nam ban sắc phong tặng hai vị tướng là thượng đẳng thần. Nghè Dĩnh Kế là một công trình kiến trúc có quy mô nhỏ với 1 gian 2 trái, hai dĩ làm trung tâm thờ tự (nhân dân địa phương quen gọi là toà hậu cung) và 5 gian tiền tế ở phía trước. Cũng như nhiều miền quê khác của tỉnh Bắc Giang, nghè Dĩnh Kế là trung tâm thờ tự, hành lễ và tổ chức hội lệ của nhân dân toàn xã. Hàng năm, vào dịp ngày Rằm tháng Ba âm lịch, ngày đại kỳ phúc của toàn dân, các thôn rước kiệu đặt bài vị đức thánh về nghè Cả, tổ chức hành lễ, biểu hiện lòng thành kính của mọi người đối với đức thánh. Hội lệ được tổ chức chu đáo, uy nghiêm. Để cho việc tiến hành lễ hội được chu đáo, xưa toàn xã còn dựng một đình chung (gọi là đình hàng xã hay đình Vĩnh Ninh). Đây là ngôi đình lớn bằng gỗ lim có đao cong mái uốn, trong sàn gỗ, cửa chấn song. Đây là nơi hội họp và tổ chức lễ hội của nhân dân toàn xã. Ngoài việc rước sách, hành lễ, tế, hội Kế còn có nhiều trò vui hấp dẫn như: Cờ tướng; chọi gà; đánh đu và các trò chơi cổ truyền khác….Đặc biệt, trong lễ hội Kế còn có trò chơi cờ người và kéo chữ: Trai gái trong làng được chọn vào làm quân cờ hoặc kéo chữ phải được tập trước hàng tháng. Trước ngày mở hội khoảng 3-4 ngày, những người này tập trung nhau lại để tổng duyệt. Người tham gia chơi trò chơi kéo chữ được mặc quần áo đẹp, đầu đội nón xếp hoặc nón chóp dứa, đi giày chín long, thắn lưng nhiễu điều, vác cờ ngũ sắc đi theo hiệu lệnh trống của ông Tổng cờ cho đến khi xếp thành hình chữ: “Thiên hạ thái bình-Trình quan đại hội”. Hội Kế tháng ba là sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá của nhân dân toàn xã, hấp dẫn và thu hút khách thập phương, trở thành lễ hội lớn của đời sống con người của vùng quê văn hiến, đi vào cuộc sống tự nhiên như hơi thở: “ Đồn rằng hội Kế tháng Ba Không đi xem hội cũng già mất thân” Vào dịp 20 tháng 7, còn diễn ra lễ Thượng điền của nhân dân toàn xã. Ngày này 7 giáp của các thôn mang lễ vật ra tế lễ ở đình hàng xã, biểu diễn sự sùng kính trời đất, thánh thần đã phù giúp mùa màng tươi tốt, dân an vật thịnh. Việc thờ phụng đức thánh của nhân dân Dĩnh Kế từ xưa đã rất tôn nghiêm sùng kính và được nhà nước phong kiến Việt Nam phong sắc, thừa nhận. Hiện nay tại nghè Cả còn lưu giữ được 10 đạo sắc của các triều vua nhà Nguyễn ban cho nhân dân trong xã phụng thờ theo lệ cũ từ trước. Nghè còn là nơi đặt thờ các vị tiên hiền khoa bảng của hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn, trong đó có những bậc đại khoa của Dĩnh Kế là Giáp Hải, Giáp Phong, Nguyễn Duy Năng. Các đồ thờ tự các tài liệu, cổ vật, nhất là bài vị, đức thánh, sắc phong của các triều vua, bia ghi các vị khoa bảng… là những nguồn tài liệu cổ vật có giá trị lịch sử cao. Mặt khác, di tích nghè Dĩnh Kế hiện đang phát huy tác dụng tích cực của một di tích lịch sử văn hoá: nơi thờ phụng tôn nghiêm các đức thánh Cao Sơn- Quý Minh và các tiên hiền khoa bảng, nơi trung tâm tổ chức hội họp và lễ hội của toàn dân với các hoạt động văn hoá tinh thần giàu chất nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 93 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa làng Thành

Đến đầu thời Tự Đức 1883 dân số hai làng phát triển đông, Chùa Vẽ trở nên chật chội. Dân làng Thành đã quyết định mở rộng Am thành chùa (Am của vị quan già người làng Đông Nham Nguyễn Tướng Công của Triều Lê đã hiến dâng cho làng). Do đó, chùa làng Thành có tên chữ là Am linh Tự, Chùa Thành thờ Phật Quan âm Bồ tát, chùa được xây dựng trên khu đất cao thoáng trước cửa làng theo hướng Nam ghé Tây. Trước mặt là khu Dộc Đình, sau lưng là khu bãi gò cao. Xét về phong thủy, chùa nằm trên thế hậu sơn tiền thủy, Chùa Thành tuy không lớn về quy mô kiến trúc nhưng được bố cục gọn gàng, chặt chẽ, hài hòa giữa cảnh quan kiến trúc ngoại thất với bài trí nội thất được điêu khắc tinh xảo. Hằng năm, chùa thường xuyên được tu bổ; đặc biệt từ năm 2005 đến 2009 với sự hỗ trợ của Nhà nước và sự hảo tâm đóng góp của Nhân dân, chùa được trùng tu và mở rộng. Đến nay Chùa Thành là một trong những ngôi chùa đẹp và khang trang trong vùng. Chùa Thành nằm gần đường Quốc lộ 1A và đường sắt từ Lạng Sơn đến Thủ đô Hà Nội nên rất thuận lợi cho du khách thập phương đến lễ hội và thăm quan. Chùa Thành là công trình kiến trúc cổ có trên vài trăm năm tuổi được nhà nước xếp hạng, Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích lịch sử văn hóa ngày 5 tháng 2 năm 1994. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG XƯƠNG GIANG - TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 74 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ và mộ Lều Văn Minh

Đền thờ và lăng mộ Nam Bình đô thống Đại tướng quân Lều Văn Minh là những công trình tín ngưỡng của nhân dân địa phương nhằm tôn kính, ngưỡng vọng và nhớ ơn một danh tướng thời Lý là Lều Văn Minh - người đã có công đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ quốc gia Đại Việt và đã anh dũng hy sinh. Trên tấm bia đá ở Lăng mộ Lều tướng công đã ghi rõ: "Phàm những người có công đức với nhân dân với nước đều được ghi chép để đời sau nhớ tới. Nay thấy Lều Đại Vương vì đời mà quên thân là trung, vì dân mà trừ hại là công. Trung với nước, công với dân đó là vị thần chính trực”. Ngày 28/6/1996, Bộ Văn hóa và Thông tin đã cấp bằng công nhận cấp quốc gia"Di tích lịch sử Đền thờ và mộ Lều Văn Minh”. Hiện nay Tướng quân Lều Văn Minh được nhân dân các TDP Hoà Yên, Hướng, Cung Nhượng 1 thờ phụng. Trong đó đền Hoà Yên là nơi lưu giữ được nhiều cổ vật nhất, được coi là Đền cả. Đền thờ Tướng quân Lều Văn Minh được thực hiện là công trình điểm tra cứu di tích lịch sử thứ 2 được ban thường vụ đoàn phường thực hiện trên địa bàn phường (trước đó đã thực hiện công trình điểm tra cứu di tích lịch sử cấp quốc gia Đình, chùa làng vẽ). Trong thời gian tới đoàn phường sẽ tiếp tục có nhiều hoạt động sáng tạo, ứng dụng chuyển đổi số trong công tác giáo dục, tuyên truyền lịch sử, truyền thống dân tộc, quê hương cho thế hệ trẻ phường nhà hôm nay; từ đó các bạn thêm yêu và tự hào về quê hương, đất nước, gắng sức rèn đức, luyện tài cống hiến xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. NGUỒN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TUỔI TRẺ THÀNH PHỐ BẮC GIANG

Bắc Giang 74 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Làng Lương Xá

Đình Lương Xá thờ ông Đào Nhã là người có công giúp nhà Trần chống quân xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ 13; Công lao của ông đã được ghi trong thần tích, sắc phong, câu đối hiện còn và lưu giữ tại di tích. Đình còn phối thờ bà Trần Thị Hường người ủng hộ phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19. Đình Lương Xá khởi dựng vào cuối thế kỷ 19, trùng tu lớn vào năm 1930. Di tích kiến trúc khá đồng bộ từ Đại bái, Hậu cung và Giải vũ, là một di tích có quy mô lớn, có nhiều mảng chạm khắc, phù điêu đạt trình độ nghệ thuật cao. Với lối kiến trúc này, giúp chúng ta nghiên cứu lịch sử điêu khắc cổ Việt Nam. Căn cứ vào những giá trị lịch sử, năm 2001, Đình Lương Xá được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đối với địa phương, đình Lương Xá không chỉ là nơi tôn thờ người có công với nước, nơi đây còn ghi dấu ấn trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Là nơi ghi dấu ấn văn hoá, tín ngưỡng làng xã khá đậm nét. Nghiên cứu lịch sử di tích đình Lương Xá là mang lại cho chúng ta nguồn tư liệu quý giá, trong việc tìm hiểu phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Lễ hội có tục rước tế thần theo phong tục lâu đời của nhân dân địa phương được tổ chức vào ngày 8 tháng 3 (âm lịch). Hiện nay Lễ hội đã được Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch hoàn thiện Hồ sơ, kịch bản Lễ hội điểm và đã tiến hành tổ chức Lễ hội theo đúng kịch bản từ năm 2014. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 105 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Kiên Lao

Đình Kiên Lao, hay còn gọi Đình Xuân Quang. Đình Kiên Lao thờ 02 vị thần hoàng là người có công với nước ở thế kỉ thứ X là Đào Công Chiêu và Đào Công Hiển. Đình Kiên Lao tọa lạc trên một khu đất thoáng mát có dáng rồng chầu hổ phục. Bao bọc bởi cánh đồng lúa rau màu xanh tươi và rặng cây xanh bóng mát, đình mang dáng vẻ cổ kính và trầm mặc. Kiến trúc Nguyễn, mặt chính hướng Nam, nhìn ra cánh đồng lúa ven làng. Tam quan bề thế (được chính quyền và nhân dân địa phương tôn tạo năm 1992), cổng chính dựa trên hai cột trụ, trên đắp đôi nghê, hai cổng phụ xây chồng diêm hai mái. Đình xây hình chữ Đinh (丁) gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung. Mái lợp ngói mũi, trên nóc đắp hai con kìm, giữa dựng hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu hồi tiền tế và hồi sau hậu cung đều đắp nổi hổ phù. Tại cửa phụ hậu cung còn ghi dòng chữ “Đồng Khánh nguyên niên tuế thứ Bính Tuất thập nhất nguyệt sơ lục nhật lương thời bản xã trùng tu" tỏ rõ đình được xây dựng năm 1886, trùng tu năm Bảo Đại thứ 3 (năm 1928). Chính cung trang trí cửa võng, hai bên treo các câu đối và đặt bộ bát biểu sơn son thếp vàng. Trong cung cấm có hai cỗ ngai bài vị và 2 cỗ bành kiệu tươi màu sơn đỏ thếp vàng của hai Thành hoàng làng. Đình còn có ban thờ Trần Hưng Đạo. Nơi đây còn lưu giữ được 2 cuốn thần phả và 12 đạo sắc phong thời Lê và thời Nguyễn phong cho hai vị Thần hoàng làng và nhiều cổ vật và đồ thờ có giá trị như: Khám thờ thời Nguyễn, 3 bức đại tự, 3 câu đối, 3 hương án thời Nguyễn….Trước cổng tam quan còn khoảnh sân rộng hơn trăm thước vuông, có trụ đá xanh làm cột cờ kề sát mặt hồ bán nguyệt rộng ước 500 thước vuông. Cảnh trí hài hòa mát mẻ, phong thủy tốt đẹp. Căn cứ vào những giá trị lịch sử, năm 1995, Đình Kiên Lao được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia theo quyết định số 2223- VH/ QĐ ngày 26 tháng 6 năm 1995. Lễ hội hằng năm được tổ chức vào ngày 15 tháng 11 (Âm lịch).Có tục tế thần, rước kiệu rất đặc sắc mang đậm nét văn hóa truyền thống được nhân dân và du khách ngưỡng mộ. Hiện nay Lễ hội đã được Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch hoàn thiện Hồ sơ, kịch bản Lễ hội điểm và đã tiến hành tổ chức Lễ hội theo đúng kịch bản từ năm 2012. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Đại Đức , huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 105 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Muống (Quang Khánh Tự)

Chùa Muống (Quang Khánh tự) ở xã Ngũ Phúc là trung tâm tôn giáo lớn của huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Ngôi Chùa đã trải qua 7 thế kỷ tồn tại, được ghi vào lịch sử của chế độ phong kiến Việt Nam. Ngoài bề dày lịch sử, chùa Muống còn được mệnh danh là ngôi chùa nhiều tháp nhất tỉnh Hải Dương. Trải qua chiến tranh tàn phá, chùa vẫn còn lưu giữ được hệ thống tháp đá thời Lê và thời Nguyễn khá đồ sộ. Chùa Quang Khánh là một ngôi chùa lớn của đất nước thuộc thiền phái Trúc Lâm. Chùa có từ thời Trần đầu thế kỷ 14 do Huệ Nhẫn Quốc sư Vương Quán Viên chủ trì, Huệ Nhẫn còn là một lương y có tài chữa mắt. Vua Lê Thánh Tông đã từng đến chùa, đề thơ tại di tích. Chùa là cơ sở cách mạng và kháng chiến của xứ uỷ và tỉnh. Đến năm 1947 chùa còn 120 gian, 32 tháp đá và gạch, khoảng 50 pho tượng phật và nhiều cổ vật. Đây là ngôi chùa nhiều gian nhất tỉnh. Đồng thời là trung tâm tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đạo phật lớn nhất của huyện Kim Thành. Chùa được xếp hạng di tích Quốc gia năm 1992. Hàng năm Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày là: ngày 24 ; ngày 25 và ngày 26 tháng Giêng (âm lịch) dân gian thường gọi là Lễ hội Non Đông. Do lợi thế giao thông thuỷ bộ và là một ngôi chùa cổ có tiếng ở khu vực do vậy hàng năm thu hút vài ngàn du khách tới Lễ hội Chùa. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 85 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Quỳnh Côi (Đình Gôi)

Ngôi đình ở thôn Ngọc Lâm (làng Quỳnh Gôi), xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Đình thờ thành hoàng là Cao Sơn Đại Vương, thời Hùng Duệ vương, có công chống giặc Thục, giữ yên bờ cõi. Đình được xây dựng từ thế kỷ XVII, trùng tu nhiều lần vào các năm 1686, 1692, 1750, 1756, 1772, 1838, 1899. Trong chiến tranh, đình bị hư hỏng nặng. Ngôi đình hiện nay gồm có Tiền bái 5 gian, Hậu cung 3 gian, 6 gian giải vũ. Trong đình, hiện còn nhiều cổ vật, trong đó có 9 tấm bia có niên đại từ thế kỷ XVII-XVIII, 15 đạo sắc thời Lê Trung Hưng và Nguyễn. Lễ hội hằng năm từ ngày 8 đến ngày 13 tháng 2. âm lịch. Đình đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 2001. Đình làng thôn Ngọc Lâm hiện nay do thời gian mà đã có phần không còn nguyên trạng nhưng với nỗ lực của chính quyền trong thôn xã cũng như nhân dân đã khôi phục hiện trạng và bảo tồn nét truyền thống và cổ kính của Đình Quỳnh Côi nét di tích mang đạm chất quê hương "Cây Đa-Giếng Nước-Sân Đình". Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tứ Kỳ , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 91 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khán Đài B (A cũ) sân Vận động Bắc Giang

Di tích quốc gia khán đài B (trước đây là khán đài A) sân vận động Bắc Giang thuộc địa phận phường Ngô Quyền (THÀNH PHỐ Bắc Giang) là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử và lưu giữ những kỷ niệm sâu sắc của Bác Hồ đối với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang. Nhằm phát huy giá trị lịch sử của di tích, Đảng bộ, chính quyền tỉnh và THÀNH PHỐ Bắc Giang dành nhiều sự quan tâm cho công tác tu bổ, tôn tạo. Niềm vinh dự, tự hào Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, từ năm 1946 đến năm 1963, dù bận rất nhiều việc, Bác Hồ đã 5 lần về thăm và làm việc tại tỉnh Bắc Giang. Trong những chuyến thăm ấy, THÀNH PHỐ Bắc Giang vinh dự được đón Bác 4 lần. Trong đó có 2 lần Bác gặp gỡ, nói chuyện với cán bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang tại khán đài A, sân vận động Bắc Giang. Đây là niềm tự hào, vinh dự lớn lao không phải địa phương nào cũng có được. Ngược dòng thời gian, ngày 6/4/1961, Bác về thăm và nói chuyện với hơn 3,5 vạn cán bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang tại sân vận động Bắc Giang. Trên khán đài A, vị lãnh tụ của Đảng, người Cha già dân tộc giản dị trong bộ quần áo nâu thân thuộc. Bác thân ái hỏi thăm đồng bào và cán bộ; các đồng chí bộ đội, công an, dân quân, tự vệ, công nhân; các cụ già, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và kiều bào mới về nước. Bác khen ngợi thành tích đạt được trong những năm kháng chiến; những cố gắng, tiến bộ của nhân dân và cán bộ tỉnh Bắc Giang từ ngày hòa bình lập lại. Đồng thời, Bác nhấn mạnh những nhiệm vụ quan trọng, chỉ ra những khuyết điểm cụ thể mà địa phương cần sửa chữa, khắc phục; nhắc nhở nhiệm vụ của các đoàn thể, mỗi người trong lúc này cần tập trung sức lực để phát triển sản xuất, đấu tranh thống nhất nước nhà. Hơn 2 năm sau, vào ngày 17/10/1963, Bác về thăm thị xã Bắc Giang. Đây là thời điểm lịch sử quan trọng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, từ khi hai tỉnh Bắc Giang - Bắc Ninh được sáp nhập thành tỉnh Hà Bắc. Đó là Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ I được tiến hành. Lần này cũng tại khán đài A sân vận động Bắc Giang, Bác đã nói chuyện với cán bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Bác căn dặn đồng bào, cán bộ và chiến sĩ phải đoàn kết, phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, trồng cây gây rừng, cần cải tiến việc quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật và thực hành tiết kiệm, góp phần vào công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Chính sự quan tâm, chỉ đạo của Bác Hồ đã tiếp thêm sức mạnh, trở thành nguồn động lực tinh thần to lớn giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt các nhiệm vụ được Đảng và Bác Hồ giao. Với ý nghĩa to lớn đó, ngày 21/6/1993, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có quyết định xếp hạng di tích lịch sử khán đài B (khán đài A cũ), sân vận động Bắc Giang là di tích cấp quốc gia. Xứng tầm với ý nghĩa, giá trị lịch sử Khán đài A sân vận động Bắc Giang được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1958-1960, cao hơn 10m, khung sắt mái tôn với hai cầu thang lên xuống, hai cánh gà hai bên, diện tích mặt bằng 350m2 ở phía Đông sân vận động, quay mặt ra quốc lộ 1A (nay là tỉnh lộ 295B). Nơi đây từng được chọn để tổ chức nhiều sự kiện lớn của tỉnh như: Kỷ niệm 110 năm thành lập tỉnh Bắc Giang (1895-2005); nhiều kỳ đại hội thể dục thể thao tỉnh Hà Bắc, Bắc Giang; giải thể thao quy mô cấp tỉnh, toàn quốc… Trải qua thời gian, công trình xuống cấp. Năm 2008, ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Bắc Giang đã tu bổ, tôn tạo di tích quy mô nhỏ với kinh phí 800 triệu đồng, tổng diện tích toàn bộ khu vực khán đài khoảng 1,4 nghìn m2. Tuy nhiên đến nay, một số hạng mục của khu di tích xuống cấp và là nơi phục vụ luyện tập môn võ thuật của Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao THÀNH PHỐ Bắc Giang. Qua đánh giá của chính quyền, ngành chức năng, thời gian qua, công tác quản lý và phát huy giá trị khu di tích khán đài còn hạn chế; chưa có sự quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo với quy mô lớn, đồng bộ và xứng tầm. Việc cắm mốc, khoanh vùng bảo vệ đất đai, dựng bia ghi dấu sự kiện lịch sử chưa được thực hiện. Tư liệu, hiện vật chủ yếu về khu di tích là hình ảnh Bác Hồ về thăm và nói chuyện với nhân dân Bắc Giang hiện trưng bày tại Bảo tàng tỉnh. Được biết, hiện nay trên cả nước còn rất ít công trình gắn với những lần về thăm, làm việc của Người ở các tỉnh được giữ gìn nguyên vẹn như công trình khán đài B sân vận động Bắc Giang, nơi đã in sâu vào tâm trí nhiều thế hệ cán bộ, nhân dân các dân tộc Bắc Giang. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 80 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Từ Vũ thôn Bùi Bến

Từ Vũ nằm trên xứ đồng Bãi Mô (xưa) thuộc thôn Bùi Bến, xã Yên Lư, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang được nhân dân địa phương xây dựng để ghi nhớ công ơn của vị tướng công họ Nguyễn tước Ngạn Trung Hầu có nhiều công trạng dưới vương triều nhà Lê thế kỷ XVIII. Quần thể khu di tích chia ba phần: Phần thứ nhất là cảnh quan ngoại thất gồm hồ nước, sân hội…có liên hệ chặt chẽ với nội thất và được ngăn cách bởi 4 bức tường vây bảo vệ phần nội thất. Phần thứ hai là cụm kiến trúc ngoài trời bao gồm các tổ hợp kiến trúc và các di vật được bài trí như sau: Cổng Từ Vũ kiểu cuốn vòm, tường xây đá ong. Qua cổng Từ Vũ theo đường thần đạo có một tấm bia hình trụ được khắc dựng vào niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 31 (1770). Bia có dáng độc đáo, mái nón cao 1,42m, chu vi 2,12m, giống như một “đại hồng chung”, thân được chia thành 4 ô, khắc kín chữ Hán - Nôm. Tấm bia độc đáo này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi kiểu dáng lạ và nội dung ghi công đức của một vị quan. Hai bên tả hữu tấm bia trụ là tượng võ sĩ bằng đá đứng hầu, tượng được tạc dáng đứng nghiêm cẩn, đầu đội mũ trụ, áo giáp, tay cầm binh khí đứng đối diện mỗi bên 2 vị. Phía sau hai hàng võ sĩ có hai tấm bia hậu bằng đá gan gà niên đại thời Nguyễn (thế kỷ XIX), ghi tên người công đức ruộng, tiền để tu sửa, xây dựng từ vũ ở địa phương. Khối kiến trúc thờ tự gồm tòa tiền tế ba gian nối liền với hậu đường bằng dải ống muống. Tòa tiền tế mới được tu sửa lại xây gạch kiểu bình đầu bít đốc, nền lát gạch vuông, to, dày. Chính giữa đường thần đạo bài trí một hương án đá. Hai bên đối diện đặt hai bàn đá giống nhau dùng để đặt đồ cúng lễ. Trước bàn đá đặt hai lư hương đá lớn và hai mâm bồng bằng chất liệu đá xanh hình bầu dục. Hậu đường còn tương đối nguyên vẹn dáng vẻ kiến trúc ban đầu: Tường xây đá ong, cuốn mái vòm bên trong, mái ngoài lợp bằng gạch dày 60cm. “Nhân dân chúng tôi rất lấy làm từ hào, bởi đây là vùng đất địa linh nhân kiệt với quần thể di tích văn hóa đặc sắc, thế hệ chúng tôi luôn luôn giữ gìn tôn vinh, tuyên truyền giáo dục cho các thế hệ con cháu với những công lao to lớn của vị tướng công họ Nguyễn trong chống giặc ngoại xâm để giữ gìn bờ cõi non sông của dân tộc” - ông Lĩnh chia sẻ. Nền hậu đường lát gạch vuông, chính giữa đặt tấm bia đá xanh lớn bốn mặt khắc kín chữ Hán - Nôm. Đây là tấm bia đẹp có giá trị lịch sử và mỹ thuật, đầu bia dáng long đình, chạm nổi họa tiết hình hổ phù, lá đề cách điệu. Diềm bia chạm khắc nổi các dải hoa văn đề tài hoa dây cách điệu. Nét chạm khắc, tinh tế mang giá trị điển hình của nghệ thuật chạm khắc đá thời Lê thế kỷ XVIII.

Bắc Giang 87 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm lưu niệm Bác Hồ

(BGĐT) - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) vừa xếp hạng di tích lịch sử Địa điểm lưu niệm Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) là di tích quốc gia. Tháng 2 năm 1955, Đoàn ủy Cải cách ruộng đất của 3 tỉnh Bắc Giang-Bắc Ninh-Thái Nguyên tổ chức hội nghị tổng kết cải cách ruộng đất đợt II tại thôn Cẩm Xuyên. Hơn 2 nghìn cán bộ cải cách đã về đây tham gia tập huấn, nhiều cán bộ cao cấp của Đảng về dự. Thật vinh dự cho xã Xuân Cẩm và huyện Hiệp Hòa, ngày 8/2/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự hội nghị, thăm hỏi, động viên nhân dân địa phương. Đây là mốc lịch sử, đánh dấu sự chuyển biến lớn lao của cách mạng Việt Nam: Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện người cày có ruộng và những mục tiêu lớn nhất mà cuộc cách mạng đề ra. Năm 2001, di tích lưu niệm Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh. Năm 2019, huyện Hiệp Hòa đã dành hơn 3 tỷ đồng xây dựng, cải tạo khu di tích, như: Khu tiếp đón, sân, cổng, đường vào, hệ thống đèn chiếu sáng, thoát nước... Di tích được xếp hạng góp phần tạo điểm nhấn trong hành trình về nguồn, giáo dục truyền thống lịch sử cho thế hệ trẻ huyện Hiệp Hòa nói riêng, tỉnh Bắc Giang nói chung đồng thời gắn với phát triển du lịch. NGUỒN Báo Bắc Giang

Bắc Giang 78 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình chùa thôn Am

Đình Am, nằm ở giữa thôn Am, xã Xuân Hương - huyện Lạng Giang - tỉnh Bắc Giang, tọa lạc trên khuôn viên có diện tích 1.460m2. Căn cứ vào các bài vị còn lưu giữ được tại Đình cho thấy đình Am là công trình tín ngưỡng của nhân dân địa phương được dựng lên để tôn thờ Ngọc Khanh Công chúa (công chúa Thiều Dương-con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông) đã có nhiều công lao với dân tộc. Đình được xây dựng với quy mô to lớn, bề thế mang đặc trưng của ngôi đình cổ xứ Bắc gồm: 3 gian 2 chái tòa đại đình và 1 gian 2 chái tòa hậu cung tạo cho bình đồ kiến trúc hình chữ Nhị. Trên các cấu kiện kiến trúc gỗ được chạm khắc với nhiều đề tài phong phú: Trên các đầu dư, nghé kẻ ở tòa đại đình được chạm rồng với các đảo mắt, râu có hình lưỡi mác tù; hệ thống kẻ hiên được chạm nổi đề tài tứ linh (Long, ly, quy, phượng), đặc biệt xen lẫn tứ linh là hình con cua, con cá, con nai, con ốc, mâm lửa mang đặc trưng phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVIII; trên 4 tai cột cái 4 góc tòa đại đình được gắn 4 bức tượng chạm khắc khá độc đáo: Tiên cưỡi cá chép, hình rùa trong đầm sen, hình mục đồng thổi sáo ngồi trên lưng chim phượng, vị quan che lọng ngồi trên lưng con lân...nét chạm khắc mềm mại, tinh tế mang phong cách thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII). Các nét chạm khắc trên bức cửa Võng tòa đại đình và hậu cung với hình tượng rồng hổ, mặt hổ phù...được chạm nổi thành những khối to, mập ở nhiều tư thế, dáng vẻ phong phú sinh động mang nét đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Nguyễn thế kỷ XIX. Trong đình hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật được chạm khắc tinh xảo, sơn thếp lộng lẫy có giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật cao như: Ngai thờ, bài vị, cửa võng, kiểu song hành, bát hương gốm…có niên đại thế kỷ XVIII-XIX. Qua nguồn di sản Hán Nôm hiện lưu giữ trong đình và các tư liệu cổ tại địa phương, đặc biệt dòng chữ Hán trên câu đầu tòa đại đình: "Cảnh Thịnh bát niên, tuế thứ Canh Thân, thất nguyệt, sơ bát nhật, Ngọ thời thụ trụ thượng lương đại cát" (Giờ Ngọ, ngày mùng 8, tháng 7 năm Canh Thân, niên hiệu vua Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) dựng thượng lương) tức là đình Am được tu bổ, tôn tạo vào năm 1800 (Cảnh Thịnh thứ 8), cuối thời Tây Sơn - đầu thời Nguyễn. Đình Am đã được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 2014. NGUỒN Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam

Bắc Giang 108 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Mỹ Lộc

Đình Mỹ Lộc thuộc địa bàn thôn Ngoài – Xã Mỹ Hà - Huyện Lạng Giang - Tỉnh Bắc Giang. Được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ XIX. Đình toạ trên một khu đất đẹp, rộng, thoáng nằm kề bên làng Mỹ Lộc cạnh dòng sông Thương hiền hoà, thơ mộng. Đình gồm 5 gian, 2 trái, quay hướng Đông Nam. Đình có quy mô lớn, bề thế, có kiến trúc cổ mang đậm phong cách kiến trúc cổ Việt Nam. Đình Mỹ Lộc thờ hai đức Thành Hoàng là Cao Sơn và Quý Minh. Đây là hai vị tướng có công lao rất lớn với dân, với nước thời vua Hùng. Sử cũ ghi: Dưới thời vua Hùng Duệ vương, Cao Sơn và Quý Minh là hai vị tướng tài được phong là tả, hữu tướng quân đã phò tá nhà vua, giúp vua dẹp tan giặc Thục. Khi giặc Thục đã bình xong, hai ông xin nhà vua được trở về nơi đóng quân lập đồn luỹ khi trước (Tức địa bàn Làng Mỹ Lộc ngày nay). Từ khi hai ông đóng quân ở đây, dân thôn được yên nghiệp làm ăn, ngày càng hưng thịnh, nhân dân trên mảnh đất này xin: Trước làm nơi đồn trú, sau xin cho lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của hai ông. Khi hai ông mất, nhà vua đã ra lệnh cho nhân dân trong thôn lập đền thờ cúng và tổ chức tế lễ đồng thời sắc phong cho hai ông. Phong cho đức Cao Sơn là: Thông Minh đại vương, tặng phong tế thế hộ quốc an dân phù vận dương vũ dực thánh bao cảnh hiển hựu, tôn thần nguyên tặng hiệu linh đôn tĩnh hùng lược trác vĩ dực báo trung hưng thượng đẳng thần . Phong cho Quý Minh là: Hiển ứng đại vương, tặng phong phụ kí uy dũng hộ quốc an dân, phủ kiến chiêu cảm trật ưu, tôn thần tặng thánh lãng cao diệu địch cát, cát tĩnh dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Chuẩn cho dân trong vùng kinh Bắc phụng thờ các ngài mãi mãi về sau. Từ đó về sau, nhân dân trong làng thờ phụng hai ông với một lòng thành kính sâu sắc và lòng biết ơn vô hạn. Cho đến ngày nay, con cháu đời sau của làng Mỹ Lộc vẫn luôn luôn khắc cốt, ghi tâm công ơn của hai đức Thành Hoàng. Hàng năm cứ mỗi độ tết đến xuân về, người dân trong làng lại nô nức chuẩn bị tổ chức lễ hội đình làng Mỹ Lộc. Lễ hội được tổ chức vào ngày 14 và 15 tháng giêng âm lịch với nhiều nghi lễ tôn nghiêm thể hiện sự thành kính, biết ơn đối với hai đức Thành Hoàng. Theo quan niệm dân gian thì lễ hội chính là dịp để người dân trong làng báo cáo lại kết quả lao động của năm cũ, cảm tạ công ơn, sự che chở của hai vị Thành Hoàng làng trong năm qua và cầu mong một năm mới bình an, may mắn cho cả gia đình. Với ý nghĩa như vậy, lễ hội đình làng Mỹ Lộc không chỉ thu hút sự quan tâm của các thành viên trong làng mà còn cả du khách thập phương. Ngoài những giá trị mang ý nghĩa lịch sử, nhân văn sâu sắc nói trên, đình Mỹ Lộc còn được biết đến như một công trình kiến trúc cổ đầy tính nghệ thuật. Trong đình, từ mái đình đến cột đình đều có những hoạ tiết được trạm trổ, điêu khắc rất tinh xảo. Theo nghiên cứu đây là những họa tiết điêu khắc có từ thời nhà Lê. Trải qua biết bao thăng trầm, biến cố lịch sử, đình Mỹ Lộc đã có những thay đổi do sự tàn phá của chiến tranh nhưng sau đó đã được nhân dân trong làng và du khách thập phương công đức, trùng tu, tôn tạo, đến nay đình Mỹ Lộc vẫn giữ được dáng vẻ ban đầu, giữ được sự cổ kính tôn nghiêm và những giá trị nghệ thuật kiến trúc lâu đời. Trong đình hiện nay còn lưu giữ rất nhiều di vật, vật cổ và đặc biệt còn giữ được 15 đạo sắc phong từ thời nhà Lê và thời nhà Nguyễn cho đức thánh Cao Sơn, Quý Minh. Đình làng Mỹ Lộc được xem là bảo tàng lịch sử, văn hoá địa phương. Năm 1995, đình Mỹ Lộc đã được Bộ Văn Hoá thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam

Bắc Giang 85 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thờ Đặng Thế Công

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, cuộc nội chiến giữa các thế lực vua Lê - Chúa Trịnh với nhà Mạc kéo dài khiến đời sống nhân dân khổ cực. Khi quân sĩ, tượng binh nhà Lê truy kích nhà Mạc qua địa bàn Kép- Cần Trạm gặp núi non hiểm trở khó bề tiến quân, nhiều lần bị Nhà Mạc phản công lại làm cho quân tướng Nhà Lê hao mòn đáng kể. Lúc khó khăn suy yếu Nhà Lê ra sắc dụ tuyển mộ dân binh “phù Lê diệt Mạc”, nhờ am hiểu địa hình lại sẵn lòng dũng cảm, mưu trí hai Anh em Đặng Thế Công, Đặng Thế Lộc hưởng ứng ra đầu quân và lập nhiều công lớn giúp Nhà Lê đánh bại Nhà Mạc. Năm Bính Ngọ 1566 triều đình khao binh, thưởng tướng, đãi ngộ người có công, do công lao to lớn phù Lê diệt Mạc, vua Lê đã phong chức cho 2 ông Đặng Thế Công- sắc phong: “Dương vũ uy dũng công thần, Thái bảo trà quận Công, mang quốc tính là Trịnh Văn An”; Đặng Thế Lộc- Sắc phong “Dương vũ uy dũng công thần tả đô đốc, thị phủ sự nhai quận công, mang quốc tính là Trịnh Văn Lộc”. Đặc biệt, Đặng Thế Lộc không những lập công lớn đánh đuổi nhà Mạc mà còn biết chiêu tập yên dân, đã đem lại niềm vinh hạnh cho dòng họ, nhờ đó mà con cháu sau này nêu gương và đều được trọng dụng trong các triều vua Lê. Triều Đình Cũng phong cho cha đẻ của 2 ông là Cụ Đặng Chân Tính- sắc phong “ Tham đốc thần vũ, tứ vệ quân vụ sự, Đẳng trung hầu”, cụ Đặng Chân Tính mất ngày 14 tháng Giêng năm năm 1547, mộ cụ thiên táng tại rừng Nỉ (thuộc tổ dân phố Tân ngày nay). Ghi nhớ công lao của 2 ông Đặng Thế Công và Đặng Thế Lộc, nhân dân địa phương đã xây dựng ngôi đền thờ tưởng niệm các ông trên quê hương mình. Ngôi đền được xây dựng từ thế kỷ XVI gồm 7 gian lợp ngói, hai bên tả hữu có nhị ban, có tiền sảnh, hậu sảnh, nhà kho để quân lương, xưởng rèn vũ khí. Những năm 80 của thế kỷ XIX, giặc Cờ Đen tràn sang đốt phá làng mạc và tàn phá ngôi đền; Năm 1931 nhân dân địa phương phục dựng lại ngôi đền trên khu đất đã an táng cụ tổ Đặng Chân Tính ở đồi rừng Nỉ. Đền thờ hiện nay có bình đồ kiến trúc kiểu chữ nhất gồm 5 gian xây bít đốc, lợp ngói, Gian giữa đặt trang nghiêm hương án và hai bài vị đá khắc chữ Hán chìm, trên hương án đặt tượng thờ cụ Đặng Chân Tính và hai con trai là Đặng Thế Công và Đặng Thế Lộc. Đền thờ Đặng Thế Công lưu giữ nhiều di sản có giá trị lịch sử như sắc phong niên hiệu Long Đức 2 (1630), Chính Hòa thứ 4 (1683), hai bài vị đá, bát hương sứ thời Lê (thế kỷ XVIII), tượng thờ, hương án… Ngôi đền là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi thờ phụng tưởng niệm võ quan Đặng Thế Công, Đặng Thế Lộc có nhiều công lao với dân với nước. Hằng năm vào ngày 14 tháng Giêng, nhân dân địa phương chức Lễ hội để tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, những người có công với dân với nước. Từ bao đời nay, đền thờ Đặng Thế Công đã là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng dân cư trong vùng. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị trấn Kép luôn trân trọng, tự hào và tạo mọi điều kiện để Lễ hội diễn ra trang trọng, vui tươi, an toàn, tiết kiệm, thực sự trở thành nơi sinh hoạt văn hóa giàu bản sắc văn hóa dân tộc, là chốn đi về của đông đảo nhân dân và bạn bè mọi miền tổ quốc”. NGUỒN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ DOANH NGHIỆP VÀ THƯƠNG HIỆU

Bắc Giang 87 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật