Đình Am, nằm ở giữa thôn Am, xã Xuân Hương - huyện Lạng Giang - tỉnh Bắc Giang, tọa lạc trên khuôn viên có diện tích 1.460m2. Căn cứ vào các bài vị còn lưu giữ được tại Đình cho thấy đình Am là công trình tín ngưỡng của nhân dân địa phương được dựng lên để tôn thờ Ngọc Khanh Công chúa (công chúa Thiều Dương-con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông) đã có nhiều công lao với dân tộc. Đình được xây dựng với quy mô to lớn, bề thế mang đặc trưng của ngôi đình cổ xứ Bắc gồm: 3 gian 2 chái tòa đại đình và 1 gian 2 chái tòa hậu cung tạo cho bình đồ kiến trúc hình chữ Nhị. Trên các cấu kiện kiến trúc gỗ được chạm khắc với nhiều đề tài phong phú: Trên các đầu dư, nghé kẻ ở tòa đại đình được chạm rồng với các đảo mắt, râu có hình lưỡi mác tù; hệ thống kẻ hiên được chạm nổi đề tài tứ linh (Long, ly, quy, phượng), đặc biệt xen lẫn tứ linh là hình con cua, con cá, con nai, con ốc, mâm lửa mang đặc trưng phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVIII; trên 4 tai cột cái 4 góc tòa đại đình được gắn 4 bức tượng chạm khắc khá độc đáo: Tiên cưỡi cá chép, hình rùa trong đầm sen, hình mục đồng thổi sáo ngồi trên lưng chim phượng, vị quan che lọng ngồi trên lưng con lân...nét chạm khắc mềm mại, tinh tế mang phong cách thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII). Các nét chạm khắc trên bức cửa Võng tòa đại đình và hậu cung với hình tượng rồng hổ, mặt hổ phù...được chạm nổi thành những khối to, mập ở nhiều tư thế, dáng vẻ phong phú sinh động mang nét đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Nguyễn thế kỷ XIX. Trong đình hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật được chạm khắc tinh xảo, sơn thếp lộng lẫy có giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật cao như: Ngai thờ, bài vị, cửa võng, kiểu song hành, bát hương gốm…có niên đại thế kỷ XVIII-XIX. Qua nguồn di sản Hán Nôm hiện lưu giữ trong đình và các tư liệu cổ tại địa phương, đặc biệt dòng chữ Hán trên câu đầu tòa đại đình: "Cảnh Thịnh bát niên, tuế thứ Canh Thân, thất nguyệt, sơ bát nhật, Ngọ thời thụ trụ thượng lương đại cát" (Giờ Ngọ, ngày mùng 8, tháng 7 năm Canh Thân, niên hiệu vua Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) dựng thượng lương) tức là đình Am được tu bổ, tôn tạo vào năm 1800 (Cảnh Thịnh thứ 8), cuối thời Tây Sơn - đầu thời Nguyễn. Đình Am đã được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 2014. NGUỒN Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam
Bắc Giang 108 lượt xem
Đình Mỹ Lộc thuộc địa bàn thôn Ngoài – Xã Mỹ Hà - Huyện Lạng Giang - Tỉnh Bắc Giang. Được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ XIX. Đình toạ trên một khu đất đẹp, rộng, thoáng nằm kề bên làng Mỹ Lộc cạnh dòng sông Thương hiền hoà, thơ mộng. Đình gồm 5 gian, 2 trái, quay hướng Đông Nam. Đình có quy mô lớn, bề thế, có kiến trúc cổ mang đậm phong cách kiến trúc cổ Việt Nam. Đình Mỹ Lộc thờ hai đức Thành Hoàng là Cao Sơn và Quý Minh. Đây là hai vị tướng có công lao rất lớn với dân, với nước thời vua Hùng. Sử cũ ghi: Dưới thời vua Hùng Duệ vương, Cao Sơn và Quý Minh là hai vị tướng tài được phong là tả, hữu tướng quân đã phò tá nhà vua, giúp vua dẹp tan giặc Thục. Khi giặc Thục đã bình xong, hai ông xin nhà vua được trở về nơi đóng quân lập đồn luỹ khi trước (Tức địa bàn Làng Mỹ Lộc ngày nay). Từ khi hai ông đóng quân ở đây, dân thôn được yên nghiệp làm ăn, ngày càng hưng thịnh, nhân dân trên mảnh đất này xin: Trước làm nơi đồn trú, sau xin cho lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của hai ông. Khi hai ông mất, nhà vua đã ra lệnh cho nhân dân trong thôn lập đền thờ cúng và tổ chức tế lễ đồng thời sắc phong cho hai ông. Phong cho đức Cao Sơn là: Thông Minh đại vương, tặng phong tế thế hộ quốc an dân phù vận dương vũ dực thánh bao cảnh hiển hựu, tôn thần nguyên tặng hiệu linh đôn tĩnh hùng lược trác vĩ dực báo trung hưng thượng đẳng thần . Phong cho Quý Minh là: Hiển ứng đại vương, tặng phong phụ kí uy dũng hộ quốc an dân, phủ kiến chiêu cảm trật ưu, tôn thần tặng thánh lãng cao diệu địch cát, cát tĩnh dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Chuẩn cho dân trong vùng kinh Bắc phụng thờ các ngài mãi mãi về sau. Từ đó về sau, nhân dân trong làng thờ phụng hai ông với một lòng thành kính sâu sắc và lòng biết ơn vô hạn. Cho đến ngày nay, con cháu đời sau của làng Mỹ Lộc vẫn luôn luôn khắc cốt, ghi tâm công ơn của hai đức Thành Hoàng. Hàng năm cứ mỗi độ tết đến xuân về, người dân trong làng lại nô nức chuẩn bị tổ chức lễ hội đình làng Mỹ Lộc. Lễ hội được tổ chức vào ngày 14 và 15 tháng giêng âm lịch với nhiều nghi lễ tôn nghiêm thể hiện sự thành kính, biết ơn đối với hai đức Thành Hoàng. Theo quan niệm dân gian thì lễ hội chính là dịp để người dân trong làng báo cáo lại kết quả lao động của năm cũ, cảm tạ công ơn, sự che chở của hai vị Thành Hoàng làng trong năm qua và cầu mong một năm mới bình an, may mắn cho cả gia đình. Với ý nghĩa như vậy, lễ hội đình làng Mỹ Lộc không chỉ thu hút sự quan tâm của các thành viên trong làng mà còn cả du khách thập phương. Ngoài những giá trị mang ý nghĩa lịch sử, nhân văn sâu sắc nói trên, đình Mỹ Lộc còn được biết đến như một công trình kiến trúc cổ đầy tính nghệ thuật. Trong đình, từ mái đình đến cột đình đều có những hoạ tiết được trạm trổ, điêu khắc rất tinh xảo. Theo nghiên cứu đây là những họa tiết điêu khắc có từ thời nhà Lê. Trải qua biết bao thăng trầm, biến cố lịch sử, đình Mỹ Lộc đã có những thay đổi do sự tàn phá của chiến tranh nhưng sau đó đã được nhân dân trong làng và du khách thập phương công đức, trùng tu, tôn tạo, đến nay đình Mỹ Lộc vẫn giữ được dáng vẻ ban đầu, giữ được sự cổ kính tôn nghiêm và những giá trị nghệ thuật kiến trúc lâu đời. Trong đình hiện nay còn lưu giữ rất nhiều di vật, vật cổ và đặc biệt còn giữ được 15 đạo sắc phong từ thời nhà Lê và thời nhà Nguyễn cho đức thánh Cao Sơn, Quý Minh. Đình làng Mỹ Lộc được xem là bảo tàng lịch sử, văn hoá địa phương. Năm 1995, đình Mỹ Lộc đã được Bộ Văn Hoá thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam
Bắc Giang 85 lượt xem
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, cuộc nội chiến giữa các thế lực vua Lê - Chúa Trịnh với nhà Mạc kéo dài khiến đời sống nhân dân khổ cực. Khi quân sĩ, tượng binh nhà Lê truy kích nhà Mạc qua địa bàn Kép- Cần Trạm gặp núi non hiểm trở khó bề tiến quân, nhiều lần bị Nhà Mạc phản công lại làm cho quân tướng Nhà Lê hao mòn đáng kể. Lúc khó khăn suy yếu Nhà Lê ra sắc dụ tuyển mộ dân binh “phù Lê diệt Mạc”, nhờ am hiểu địa hình lại sẵn lòng dũng cảm, mưu trí hai Anh em Đặng Thế Công, Đặng Thế Lộc hưởng ứng ra đầu quân và lập nhiều công lớn giúp Nhà Lê đánh bại Nhà Mạc. Năm Bính Ngọ 1566 triều đình khao binh, thưởng tướng, đãi ngộ người có công, do công lao to lớn phù Lê diệt Mạc, vua Lê đã phong chức cho 2 ông Đặng Thế Công- sắc phong: “Dương vũ uy dũng công thần, Thái bảo trà quận Công, mang quốc tính là Trịnh Văn An”; Đặng Thế Lộc- Sắc phong “Dương vũ uy dũng công thần tả đô đốc, thị phủ sự nhai quận công, mang quốc tính là Trịnh Văn Lộc”. Đặc biệt, Đặng Thế Lộc không những lập công lớn đánh đuổi nhà Mạc mà còn biết chiêu tập yên dân, đã đem lại niềm vinh hạnh cho dòng họ, nhờ đó mà con cháu sau này nêu gương và đều được trọng dụng trong các triều vua Lê. Triều Đình Cũng phong cho cha đẻ của 2 ông là Cụ Đặng Chân Tính- sắc phong “ Tham đốc thần vũ, tứ vệ quân vụ sự, Đẳng trung hầu”, cụ Đặng Chân Tính mất ngày 14 tháng Giêng năm năm 1547, mộ cụ thiên táng tại rừng Nỉ (thuộc tổ dân phố Tân ngày nay). Ghi nhớ công lao của 2 ông Đặng Thế Công và Đặng Thế Lộc, nhân dân địa phương đã xây dựng ngôi đền thờ tưởng niệm các ông trên quê hương mình. Ngôi đền được xây dựng từ thế kỷ XVI gồm 7 gian lợp ngói, hai bên tả hữu có nhị ban, có tiền sảnh, hậu sảnh, nhà kho để quân lương, xưởng rèn vũ khí. Những năm 80 của thế kỷ XIX, giặc Cờ Đen tràn sang đốt phá làng mạc và tàn phá ngôi đền; Năm 1931 nhân dân địa phương phục dựng lại ngôi đền trên khu đất đã an táng cụ tổ Đặng Chân Tính ở đồi rừng Nỉ. Đền thờ hiện nay có bình đồ kiến trúc kiểu chữ nhất gồm 5 gian xây bít đốc, lợp ngói, Gian giữa đặt trang nghiêm hương án và hai bài vị đá khắc chữ Hán chìm, trên hương án đặt tượng thờ cụ Đặng Chân Tính và hai con trai là Đặng Thế Công và Đặng Thế Lộc. Đền thờ Đặng Thế Công lưu giữ nhiều di sản có giá trị lịch sử như sắc phong niên hiệu Long Đức 2 (1630), Chính Hòa thứ 4 (1683), hai bài vị đá, bát hương sứ thời Lê (thế kỷ XVIII), tượng thờ, hương án… Ngôi đền là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi thờ phụng tưởng niệm võ quan Đặng Thế Công, Đặng Thế Lộc có nhiều công lao với dân với nước. Hằng năm vào ngày 14 tháng Giêng, nhân dân địa phương chức Lễ hội để tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, những người có công với dân với nước. Từ bao đời nay, đền thờ Đặng Thế Công đã là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng dân cư trong vùng. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị trấn Kép luôn trân trọng, tự hào và tạo mọi điều kiện để Lễ hội diễn ra trang trọng, vui tươi, an toàn, tiết kiệm, thực sự trở thành nơi sinh hoạt văn hóa giàu bản sắc văn hóa dân tộc, là chốn đi về của đông đảo nhân dân và bạn bè mọi miền tổ quốc”. NGUỒN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ DOANH NGHIỆP VÀ THƯƠNG HIỆU
Bắc Giang 87 lượt xem
Nằm trong quần thể di tích lịch sử văn hóa độc đáo của xã Phượng Kỳ, chùa Khánh Linh ở thôn Tân Hợp (thôn Tứ Kỳ Hạ cũ) cách trung tâm thành phố Hải Dương khoảng 20km, cách trung tâm huyện Tứ Kỳ 5km về phía Nam, đã được xếp loại di tích lịch sử quốc gia từ năm 1999. Với có hệ thống tượng được tạc bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, có niên đại xác định vào thế kỷ XVIII, hệ thống bia đá được điêu khắc tinh xảo, chùa Khánh Linh được đánh giá là công trình mang đậm tính nghệ thuật cùng với giá trị lịch sử hào hùng. Theo văn bia lưu giữ tại chùa, chùa Khánh Linh được xây dựng vào thời Thiệu Long nhà Trần năm 1258. Lúc đầu chùa còn nhỏ, mái lợp cỏ tranh. Các triều đại sau, nhân dân đều góp tiền tu sửa, lợp ngói, sắm tượng, đúc chuông, tạo nên khung cảnh khang trang, lộng lẫy như bài minh đã mô tả: "Chùa Khánh Linh uy nghi cao vời vợi/ Đất thiêng người tài/ Phúc Khánh lâu dài/Tiền đường dựng trước/ Gác cao hưng vinh/Âm thanh chấn động/ Lễ phật kính sùng...". Qua tấm bia ghi lại việc trùng tu, tôn tạo này cho thấy tiền của dân đóng góp lên tới 1.838 quan, 27 cây cột đá, 8 cột và hoành gỗ. Trong đó, người đóng góp ít nhất là 1 quan tiền, người đóng nhiều lên đến 120 quan tiền và một cây cột đá. Trải qua chiến tranh và thiên tai khắc nghiệt, đến nay chùa còn 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Tòa tiền đường có kết cấu theo kiểu chồng rường đấu kê gồm 6 vì kèo, họa tiết hoa lá được chạm vào các đấu kê. Đỡ toàn bộ vì và mái là 12 cột cái bằng gỗ lim, đường kính 32 cm. Cột quân bằng đá gồm 2 loại tròn và vuông. Cột vuông bố trí phía trước cửa, cột tròn phía sau. Trên các cột đá đều ghi tên người cung tiến. Gian chính giữa được nối thông với 3 gian hậu cung bởi một vì kèo con chồng đấu kê. Tòa hậu cung có 6 cột cái bằng gỗ lim, đường kính 29 cm và 6 cột quân bằng đá. Bệ thờ đặt tượng ở ba gian hậu cung đều được xây cuốn bằng gạch. Hệ thống tượng Phật, văn bia, cây hương đá của chùa mang đậm nghệ thuật điêu khắc thể hiện tính chân, thiện, mỹ của Phật giáo. Hệ thống tượng ở đây đều được tạc bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, có niên đại xác định vào thế kỷ XVIII. Những pho tượng cổ trong chùa có nhiều kiểu dáng, ngồi, đứng không trùng lặp. Tượng cân đối, uy nghi, phản ánh sự dày công, tỉ mỉ trong tạo tác. Trong khuôn viên chùa có một số công trình kiến trúc bổ trợ khác, đó là nhà tổ 3 gian, trong đó có tượng của 2 vị sư đã tu ở chùa. Phía trước cửa chùa là một vườn phong lan với nhiều loài, đa dạng kích cỡ được sư trụ trì Thích Nữ Thông Nhân chăm sóc, vun trồng gần 10 năm qua. Khung cảnh ấy đã tạo nên sự tĩnh mịch cho ngôi chùa. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ các tấm bia "Tân tạo tiền đường thượng các" "Khánh Linh tự bi ký"; "Thập phương công đức bi ký" và 1 cây hương đá với họa tiết trang trí tinh xảo. Năm 1999, chùa Khánh Linh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Phượng Kỳ , huyện Tứ Kỳ , tỉnh Hải Dương .
Hải Dương 86 lượt xem
Đông Dương Tự là tên gọi theo cách dùng từ Hán Việt của chùa Đông Dương. Người dân nơi đây vẫn thường gọi tên chùa Lâm, bởi chùa nằm trên vùng đất thôn Phúc Lâm, xã Minh Đức. Nhân dân địa phương cũng thường gọi nôm bằng tên chùa Trong, để phân biệt với một ngôi chùa khác nhỏ hơn phía sau làng, tên là chùa Ngoài. Chùa Trong, tức Đông Dương Tự có nghĩa là ngôi chùa quay về hướng Đông, hướng mặt trời mọc lên. Và ngôi chùa Ngoài được gọi tên là Mãn Nguyệt Tự, ngôi chùa hướng về phía mặt trăng, khi trời chiều ngả bóng. Nói về tên gọi của nó để thấy được rằng, có một sự cân bằng và đối xứng trong cách đặt tên của ngôi chùa, trong lối kiến trúc hài hoà của người xưa. Cũng như các ngôi chùa khác của việt Nam, Đông Dương Tự là ngôi chùa thờ Phật dòng Đại Thừa. Chùa được xây dựng từ thời Lê (khoảng năm 1600) và có sự đóng góp tiền của, công đức của vị tướng thời Lê là Nguyễn Thế Mĩ, người có công khắc dựng bia công đức để tại chùa. Theo văn bia khắc năm Đức Long (1632) cho biết quận công Nguyễn Thế Mỹ tự là Vạn Phúc, văn võ song toàn được vua tin yêu giao cho nhiều trọng trách trong nội phủ. Khi giặc ngoại xâm sang xâm lấn, ông được vua phong làm nguyên soái cầm quân đánh thắng giặc, mang lại thanh bình cho đất nước, quê hương. Ông được vua phong thưởng rất hậu. Công danh tuy vinh hiển khắp nơi nhưng ông vẫn sống khiêm nhường, phú quý mà chẳng kiêu căng. Ông bỏ tiền của tu sửa lại chùa Đông Dương với 54 gian rất khang trang. Công lao của ông đã được khắc ghi vào bia đá, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hải Dương, ông được tạc tượng thờ tại khu vực chùa Đông Dương. Chùa Đông dương đã được nhà nước công nhận là di tích văn hóa lịch sử năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Minh Đức , huyện Tứ Kỳ , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 98 lượt xem
Người được liệt danh thứ 89 trong cuốn sổ vàng ấy là Lê Liêu (tức Phạm Văn Liêu, có tài liệu ghi là Phạm Đình Liêu), một danh tướng từ nhỏ đã theo cha tham gia nghĩa quân Lam Sơn, từng tham gia nhiều trận đánh ác liệt trên các chiến trường ở vùng núi rừng Thanh Hóa, Nghệ An, Tốt Động, Trúc Động…và đặc biệt có công đầu trong cuộc chiến công thành Xương Giang và tiêu diệt đại viện binh nhà Minh trên chiến trường Xương Giang lịch sử. Phạm Văn Liêu là con Phạm Văn Thánh, từng được tặng hàm Đô đốc đồng tri. Nguyên quán ở thôn Nguyên Xá, hương Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, xứ Thanh Hóa. Ông theo Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn gây dựng phong trào kháng chiến chống quân Minh từ những ngày đầu ở hội thề Lũng Nhai. Trong cuộc kháng chiến gian khổ chống giặc Minh xâm lược, ông từng lập nhiều công lớn trên chiến trường Nghệ An, Thanh Hóa. Trong đại chiến tiêu diệt viện binh nhà Minh trên chiến trường Xương Giang, Phạm Văn Liêu là vị tướng chỉ huy một đạo quân mật phục ven bờ sông Thương (vùng Xuân Hương, Mỹ Thái, huyện Lạng Giang ngày nay) rồi đồng loạt tổng công kích tiêu diệt và bắt sống hơn 7 vạn viện binh nhà Minh vào cuối năm 1427. Tiêu diệt xong viện binh xâm lược, Phạm Văn Liêu ông được Lê Lợi cử ở lại Kinh Bắc trấn giữ miền phên dậu phía bắc thành Đông Đô. Năm 1428, cuộc kháng chiến chống giặc Minh kết thúc, ông được phong chức Ngân thanh vinh lộc đại phu, Tà xa kỵ đại tướng quân tước Khang Vũ hầu, sau thăng tước Khang Quốc cụng. Do công lao trong cuộc kháng chiến chống Minh, khi xét phong thưởng ông được dự vào hàng “khai quốc công thần” (bề tôi có công mở nước), được mang quốc tính (Lê Văn Liêu) và được phong nhiều thực ấp ở xứ Kinh Bắc và sinh cư lạc nghiệp tại xóm Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang ngày nay. Năm Bính Tý (1456) Phạm Văn Liêu mất tại Kinh Bắc. Mộ phần đặt tại Rừng Cấm, thôn Chùa, xã Xuân Mãn, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang (Nay là thôn Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang). 3. Phạm Văn Liêu có hai người con, một trai, một gái. Người con gái được tuyển vào cung sau được phong làm Minh Phi. Sách Đại Việt thông sử, sử gia Lê Quý Đôn chép về bà như sau : "Phạm Minh phi (vợ vua Lê Thánh Tông) Minh phi họ Phạm là cháu của quan được tặng hàm Đô Đốc đồng tri tên là Thánh và là con của quan được tặng Đô Đốc đồng tri Tri Khang Vũ bá Phạm Văn Liêu. Bà được tuyển vào cung ngày Mậu Ngọ tháng 7 niên hiệu Quang Thuận thứ 2 (1461). Tháng 9 ngày Đinh Mùi được phong Tiệp dư. Ngày Nhâm Dần tháng ? niên hiệu Quang Thuận thứ 6 (1465) được thăng Tu viên. Ngày Quý Sửu tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (năm 1471) thăng làm Chiêu viên. Ngày Bính Dần tháng 11 năm 1477 tiến phong là Minh phi được ở cung Thụy Đức. Năm 1497 vua Thánh Tông mất. Năm Cảnh Thống thứ nhất (1498) vì bà là cung phi triều trước nên phụng sự ở cung Thiên An không bao lâu thì bị bệnh. Ngày Giáp Ngọ tháng 9 bà mất thọ 50 tuổi được vua ban số tiền an ủi là 27 vạn và sai quan dụ tế, mang về an táng ở cánh đồng Linh Hòa thuộc huyện Lạng Giang. Người con thứ hai của Phạm Văn Liêu là Phạm Đức Hóa, được vinh phong Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Tư Đô kiểm điểm, tước Hoa Phong bá (sau được tặng Hoa Phong hầu) được kén làm Phò mã. Phạm Đức Hóa lấy con gái thứ 8 của vua Thánh Tông Thuần Hoàng đế là Thiều Dương công chúa Lê Thị Ngọc Khanh. Như vậy, Phạm Đức Hóa vốn là em vợ, sau được kén làm con rể (phò mã) của đức vua Lê Thánh Tông. Còn người cha Phạm Đình Liêu vừa là bố vợ vừa là thông gia của vị hiền vương này. Khi an cư lạc nghiệp trên phần đất được phân phong gia đình họ Phạm đã trở thành một gia đình có thế lực ở xứ Kinh Bắc. 4. Với những bổng lộc của triều đình ban thưởng và hoa lợi của 2370 mẫu ruộng được phân phong, gia đình họ Phạm, nhất là công chúa Thiều Dương Phạm Thị Ngọc Khanh đã đem ban phát, công đức cho nhiều địa phương ở xứ Kinh Bắc xây dựng mở mang các công trình phúc lợi nên được nhiều địa phương tôn thờ. Theo tờ khai của Lý trưởng địa phương từ năm 1942, thì trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có 15 ngôi đình thờ cha con Phạm Văn Liêu và công chúa Thiều Dương làm Phúc thần/ Thành hoàng. Riêng tổng Tri Lễ, huyện Bảo Lộc xưa (nay thuộc 4 xã: Dương Đức, Xuân Hương, Tri Lễ, Tân Thanh của huyện Lạng Giang) có 8 làng/xã tôn thờ và vẫn lưu giữ sắc phong, bài vị tôn thờ ba vị, đó là các xã: Chuyên Mỹ, Chí Mỹ, Đại Mãn, Xuân Mãn, Hương Mãn… Phạm Văn Liêu đã trở thành thuỷ tổ của dòng họ Phạm ở làng Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang. Hiện ở làng Chùa vẫn còn di tích phần mộ và nhà thờ họ, nơi tôn thờ và lưu niệm danh tướng lịch sử Phạm Văn Liêu. Di tích đã được Bộ VHTT quyết định cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 99 lượt xem
Nằm cách trung tâm TP Bắc Giang 20km về phía Đông Bắc, xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang nổi tiếng về những cụm di tích văn hóa lịch sử. Đây là ngôi chùa cổ, được thành lập từ năm 1723 dưới thời vua Lê Cảnh Hưng, hướng chính Nam, được xây dựng bởi một vị sư có quê gốc ở Tiên Lục, Lạng Giang- ngài chính là Tổ sư đang ngự trên Tam bảo. Chùa có 35 gian, thiết kế theo lối kiến trúc “nội Công ngoại Quốc”. Toàn bộ phần tiền đường, hai dãy hành lang và gác chuông nối lại thành hình chữ Quốc, phần còn lại là tòa thiêu hương nối với thượng điện thành hình chữ Công. Trong chùa, hệ thống tượng phật được sắp xếp thứ tự từ thượng điện đến hai dãy hành lang và bên dưới gác chuông lớn, tất cả có khoảng 90 pho tượng cổ quý giá. Nếu đứng giữa chùa quan sát, chiêm ngưỡng các pho tượng cổ du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước nghệ thuật tạc tượng hết sức điêu luyện, tinh xảo của các tiền nhân. Với những giá trị quý giá ấy, năm 1989, chùa Phúc Quang được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Tuy nhiên, người dân xã Tiên Lục vẫn không ngừng thắc mắc lý do vì sao ngôi chùa có kiến trúc đẹp, uy nghiêm, cảnh quan thanh bình như thế mà vắng chủ, trước sau đều cửa đóng then cài. Ông Nguyễn Đình Thuấn, người trông nom chùa lâu nay cho biết, có vị sư Thích Huệ Cửu, tên khai sinh là Nguyễn Thành Chung (quê ở Ninh Thuận), về ở lâu nhất cũng không quá ba năm (trụ trì từ năm 2010 đến 2013). Dù không lý giải được nhưng người dân đều tin tưởng vào sự linh thiêng của ngôi chùa. Bằng chứng là suốt những năm tháng chiến tranh, mặc dù khu vực xung quanh bị bom đạn oanh tạc đến xơ xác, riêng chùa Phúc Quang và xã Tiên Lục vẫn được bảo vệ an toàn. Họ cho rằng chính ngôi chùa hơn 300 năm tuổi đã trấn giữ vùng đất này, giúp dân an cư lạc nghiệp. Cuối năm 2014, dự án Tu bổ, tôn tạo di tích chùa Phúc Quang chính thức được khởi công, gồm có 04 hạng mục chính. Sáng ngày 29/7/2016, đã bàn giao 02 hạng mục hoàn thiện theo kế hoạch, bao gồm Chùa chính (Tam bảo, Gác chuông, hai dãy Hành lang), diện tích 884,5 m2 và Nhà Thảo xá, diện tích 278,3 m2. Tổng giá trị quyết toán từ nguồn kinh phí mục tiêu quốc gia và ngân sách địa phương, ước thực hiện khoảng 23,5 tỷ đồng. NGUỒN BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY BẮC GIANG
Bắc Giang 102 lượt xem
Đình Sàn thờ thánh Cao Sơn - Quý Minh và Minh Giang Đô thống, đều là những vị tướng của Vua Hùng, đã có công đánh giặc giữ nước, trừ tai diệt họa và đã được các triều đại phong kiến Lê - Nguyễn ban sắc phong thần. Hiện nay, trong hai hòm sắc của đình Sàn còn lưu giữ được nhiều đạo sắc phong với các niên hiệu như: Tự Đức lục niên; Tự Đức thập niên; Tự Đức tam thập Tam niên; Khải Định cửu niên; Duy Tân tam niên… Qua cổng đình, bên phải là chùa Sàn, đi thẳng vào là Tòa Đại đình 3 gian 2 dĩ, 2 chái bề thế, uy nghiêm với 4 đầu đao cong vút. Bờ nóc đắp "Lưỡng, long chầu nguyệt", hai đầu có Kìm, bờ dải đắp nổi nghê chầu, phượng múa, sinh động vô cùng. Tất cả bờ nóc, bờ dải đều gắn hoa chanh, chạy suốt, tôn thêm vẻ đẹp uy nghiêm, to lớn, vượt trội hẳn lên, nhưng vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát bởi sự kết hợp hài hòa đến tinh xảo các đường ngang, nét thẳng với các đường cong vút lên mềm mại, sinh động. Đình Sàn làm kiểu chữ Công (I) gồm ba gian dải muống nối liền với ba gian hậu cung và ba gian hậu cung cũng có đao chầu kẻ góc rất đẹp, khiến cho toàn bộ ngôi đình đồ sộ này vượt trội hơn hẳn các ngôi đình khác ở Lục Nam. Với kiểu kết cấu: Thượng con chồng, giá chiêng, hạ con chồng- cốn, kẻ trường chắc khỏe, đẹp. Đặc biệt, đây là đình thời Lê còn khá nguyên vẹn, nhưng khung cột cái cao vượt hẳn lên và cột quân thấp hẳn xuống tạo cho lòng đình cao rộng mà rất thoáng đạt. Với kết cấu "Tứ hàng chân" này của hệ thống khung cột đã tạo cho mái đình có độ dốc nước lớn, mái xoải rộng làm cho ngôi đình vừa bền, chắc, vững vàng, đồ sộ, bên trong lại cao thoáng và rộng rãi mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Bức cửa võng "cửu trùng" lại là biểu trưng xuất sắc nhất của nghệ thuật chạm khắc, sơn son thếp vàng thời Nguyễn. Với 4 chữ lồng "Thánh cung vạn tuế". Trên gian giữa và suốt mái trước cửa đình đều là thiết trần, lòng giếng sơn son chạm nổi "Tứ linh", "Tứ quý", "Long Mã", "Lạc thư" và hoa văn kỷ hà kéo suốt qua dải muống vào đến hậu cung. Khám thờ trong hậu cung sáng lòa, rực rỡ bởi 2 long đình sơn son thếp vàng, 2 ngai thờ, trong có hai pho tượng thần lộng lẫy, bài vị sơn thếp thời Lê cùng kiệu bát cống và rất nhiều đồ thờ khác… Năm 1994, đình Sàn được Nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử-Văn hoá kiến Trúc nghệ thuật cấp quốc gia. NGUỒN SỞ SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Giang 111 lượt xem
Chùa Phú Lộc có tên nôm là chùa Ma Há, tên tự là Phú Lộc Tự là một trong sáu di tích của xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, cách Thành Phố Hải Dương khoảng 12 km về phía tây bắc. Là nơi có vị trí giao thông thuận lợi cho nên từ những thế kỷ trước Phú Lộc đã sớm trở thành trung tâm giao lưu kinh tế, văn hoá của khu vực, trên cơ sở xã hội đó nhiều thiết chế văn hoá cổ truyền đã ra đời và phát triển. Chùa được khởi dựng vào thời Lê Sơ (thế kỷ XV) đây cũng là thời kỳ kinh tế, văn hoá phát triển rực rỡ trong lịch sử địa phương, chùa được trùng tu lớn vào thế kỷ XIX ( năm 1898), với kiến trúc tương đối đồ sộ. Trải qua những năm tháng dãi dầu mưa nắng, chiến tranh và biến cố xã hội, chùa hiện còn có kiến trúc kiểu chữ đinh (J) gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung, bảo lưu kiến trúc cổ. Tọa lạc trên mảnh đất rộng rãi bằng phẳng ở trung tâm làng Phú Lộc, phía trước có ao lớn, ven ao nhân dân trồng nhiều loại cây ăn quả xanh tốt, mái chùa cổ kính ẩn hiện trong những lùm cây tạo nên phong cảnh u tịch, thâm nghiêm. Toà tiền đường xây bít đốc, bổ trụ, kết cấu khung vì kẻ chuyền chồng chóp, guốc nóc vát cạnh khắc chữ “Thọ” cách điệu, đấu hình chữ nhật, các con chồng chạm khắc đao hoả, phong cách thời Hậu Lê và hoa sen cách điệu. Các đầu bẩy toà tiền đường chạm kênh bong rồng lá quấn quanh, đao và râu tóc rồng kiểu mây cụm và đao hoả. Trên phần kẻ chuyền tạo hệ thống lá dong, được trang trí “ Rồng lá” “ Trúc hoá long” xen kẽ với các con chồn đang nô giỡn. Nhìn chung di tích trải qua nhiều lần tu sửa cho nên kiến trúc nguyên bản bị thay đổi đôi chút, hai vì đầu hồi kiểu giá chiêng xen lẫn chồng rường, các bức cốn chạm đề tài tứ linh. Nối liền với tiền đường là 3 gian hậu cung xây bít đốc bổ trụ, kiến trúc kiểu kèo cầu, trụ báng đơn giản. Chùa Phú Lộc thờ Phật theo phái Đại Thừa, trước cách mạng tháng 8 năm 1945, chùa có qui mô rất lớn, có tới 50 pho tượng và nhiều đồ tế tự, riêng hệ thống tượng thờ tại thượng điện có 6 lớp và hầu hết tượng được tạo vào thế kỷ XVIII – XIX . Ngoài ra ở các gian bên có tượng Quan Âm Toạ Sơn và Quan Âm Tống Tử, theo kinh phật đây là hai sắc tướng của Quan Âm. Ở toà tiền đường, tượng thờ được bố trí như sau: Ở gian bên trái là nơi thờ Đức Thánh Hiền và tượng Trừng Ác, bên phải thờ Đức Ông và tượng Khuyến Thiện. Ở hai bên đầu hồi thờ Bát Bộ Kim Cương, Thái Thượng Lão Quân và Bồ Đề Đạt Ma. Nhà thờ Mẫu mới được nhân dân xây dựng năm 1996, thờ Mẫu Thoải, Mẫu Thiên và Mẫu Thượng Ngàn theo tín ngưỡng thờ các siêu lực tự nhiên của người Việt cổ. Với 35 pho tượng các loại, phần lớn được tạo vào thế kỷ XVIII – XIX, chùa Phú Lộc không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà còn là nơi lưu giữ những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc dân gian có giá trị. Ngoài hệ thống tượng phật, chùa Phú Lộc còn giữ được nhiều cổ vật và đồ thờ tự khác như câu đối, đại tự, chuông đồng, cửa võng, bát hương... Lễ Phật cầu may là việc làm không thể thiếu của người dân theo đạo Phật ở Việt Nam. Vào những ngày rằm và mùng một đầu tháng, nhân dân Phú Lộc đến chùa lễ Phật, lễ vật dâng cúng Phật chỉ là sản vật quê hương nhưng tỏ rõ tấm lòng thành kính. Ngoài ra chùa Phú Lộc còn có một số các ngày lễ chính như sau: Đó là ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch - ngày Phật đản, ở Phú Lộc có lệ tụng kinh và làm lễ Mộc dục, tắm tượng bằng nước lá thơm và bao sái tượng bằng lụa đỏ, tấm lụa sau được xé ra làm nhiều mảnh nhỏ cho mọi người để cầu phúc. Ngày 15 tháng 7 âm lịch - ngày lễ Vu lan, làm lễ cúng cho các cô hồn phổ độ chúng sinh theo đạo Phật xá tội vong nhân. Những năm gần đây nhân dân địa phương còn tổ chức lễ “Quy phật” cho những người quá cố với ý nghĩa cầu mong cho linh hồn người đã khuất được siêu thoát theo quan niệm tín ngưỡng dân gian. Vì đình Phú Lộc có thờ Thành hoàng nên dịp hội đình, nhân dân làm lễ ở đình xong bao giờ cũng đến chùa cúng Phật và ngược lại, cho nên lễ đình, chùa Phú Lộc đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân nơi đây. Chùa Phú Lộc là di tích Phật giáo được xây dựng khá sớm trên mảnh đất có bề dầy lịch sử văn hoá, một công trình kiến trúc cổ mang đậm nét nghệ thuật thờ Hậu Lê, với những mảng chạm khắc điển hình về các hình tượng “ Tứ linh” được hoá thân cùng với “ Tứ quý”. Hình tượng hoa sen với nhiều góc độ khác nhau được cách điệu tạo sự phong phú đẹp mắt. Hệ thống tượng Phật là những tác phẩm điêu khắc độc đáo của thế kỷ XVIII – XIX. Chùa còn là cơ sở cách mạng kháng chiến của huyện Cẩm Giàng và xã Cẩm Vũ. Việc nghiên cứu, bảo vệ di tích có giá trị minh chứng cho truyền thống cách mạng của cán bộ và nhân dân địa phương và giáo dục cho thế hệ trẻ trách nhiệm tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với những giá trị lịch sử, văn hoá như đã nêu trên, chùa Phú Lộc đã được xếp hạng cấp quốc gia theo quyết định số 04/ 2001/Quyết Định – Bộ Văn Hóa Thể Thao, ngày 19/01/2001. Với cơ sở khoa học và pháp lý đó, cùng với ý thức giữ gìn di sản văn hoá của nhân dân địa phương, chùa Phú Lộc sẽ được bảo vệ và phát huy tác dụng tốt đáp ứng nguyện vọng của nhân dân địa phương. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 105 lượt xem
Đền Long Động xã Nam Tân thờ 3 danh nhân khoa bảng: Thủ khoa Minh kinh bác học Mạc Hiển Tích, đỗ đầu khoa thi năm Quảng Hựu thứ 2 (Bính Dần, 1086) tương đương Trạng nguyên; được chọn làm Hàn Lâm học sỹ, sau thăng lên Thượng thư Bộ lại, là một người có biệt tài về chính trị, từng đi sứ Chiêm Thành năm Hội Phong thứ 4 (1094). Tiến sĩ Mạc Kiến Quan (em ruột của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích) thi đỗ khoa thủ tuyển (năm Kỷ Tỵ 1089) làm quan đến chức Thượng thư bộ Công. Lưỡng Quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (đời thứ 5 của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích) thi đỗ Trạng nguyên năm Giáp Thìn (1304), đời vua Trần Anh Tông. Cuộc đời của các vị tiên hiền Mạc Hiển Tích, Mạc Kiến Quan ít được nhắc đến trong lịch sử, nhưng Mạc Đĩnh Chi thì đã có nhiều sách báo nói đến và cũng nhiều giai thoại. Theo đó, Mạc Đĩnh Chi là người vô cùng mẫn tiệp, thông tuệ, có tài kinh bang tế thế, làm quan đứng đầu triều, trải qua ba đời vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông. Tương truyền Ông từng hai lần đi sứ, với sự hiểu biết uyên bác, tài hùng biện và khéo léo ứng xử của một nhà ngoại giao tài ba, ông được vua quan nhà Nguyên vô cùng nể phục và phong làm Lưỡng quốc Trạng nguyên; “Lưỡng quốc Trạng nguyên danh bất hủ, Tam hiền Lũng động phúc trường lưu".... Với những giá trị lịch sử văn hóa, năm 1995, đền Long Động xã Nam Tân được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Năm 2019, Đền Long Động được công nhận là điểm du lịch cấp tỉnh. Lễ hội Đền Long Động được tổ chức vào mùa Xuân (từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 2 âm lịch) để tưởng nhớ ngày Mạc Đĩnh Chi qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm Bính Tuất (1346). Lễ hội mang đậm nét giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, thể hiện đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn", góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nam Sách , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 92 lượt xem
Chùa Bảo An (Minh Kính tự), thuộc xã Cương Sơn, huyện Lục Nam (Bắc Giang). Do nằm trong hệ thống di tích Tây Yên Tử, có vị trí gần bến sông Lục Nam, kề bên trục đường 293 nên chùa là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách trong hành trình du lịch về miền đất Phật Yên Tử. Chùa Bảo An được xây dựng từ thời Lê, năm 1710 đã được tu sửa. Trải qua hơn ba trăm năm, công trình đã qua nhiều lần sửa chữa, tôn tạo. Và hiện nay cơ bản mang nét kiến trúc thời Nguyễn thế kỷ XIX, một số pho tượng Phật, đồ thờ mang phong cách thời Lê thế kỷ XVIII. Là một trong những ngôi chùa cổ thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chùa Bảo An thờ Tam Tổ Trúc Lâm: Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang Sử sách chép rằng, sau khi rời bỏ ngai vàng, vua Trần Nhân Tông lập ra thiền phái Trúc Lâm. Khi đó, Trần Nhân Tông đã chủ trương chuyển đạo Phật về gần dân, với quan niệm “Phật tức Tâm - Tâm tức Phật”. Ngoài những mùa kết hạ, vua Trần Nhân Tông còn về nhiều nơi để truyền đạo và đi vân du hoàng đạo. Cùng với việc khẳng định vị trí vai trò của Thiền phái Trúc Lâm, thời Trần và các giai đoạn sau này trên các đỉnh núi cao thuộc địa phận Bắc Giang đã xuất hiện nhiều ngôi chùa cổ như: Am Vãi, Bình Long, Hồ Bấc, Mã Yên… Chùa Bảo An tuy xuất hiện muộn hơn (thời Lê) nhưng lại là sự tiếp nối liên tục cho sự hưng thịnh và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm ở Bắc Giang. Là chùa cổ có cảnh đẹp, phía trước chùa, hai ngọn tháp gạch cổ, nơi yên nghỉ của sư tổ được tán lá của hai cây đại cổ thụ tỏa bóng mát. Vườn chùa phủ màu xanh của lá, mùi hương hoa cỏ toả ngát bốn mùa. Nhiều cây cổ thụ trong khuôn viên chùa là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển lâu đời của ngôi cổ tự này. Chùa Bảo An hiện có các hạng mục công trình: Tòa Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà khách và 2 ngọn tháp gạch cổ, tất cả tọa lạc trên khuôn viên rộng 10.700m2, quanh chùa được bao bọc bởi tường đá rêu phong cổ kính. Toà Tiền đường và Phật điện có kết cấu liên hoàn theo kiểu chữ đinh. Tiền đường 5 gian xây bít đốc, kết cấu kiến trúc vì mái gỗ lim, liên kết theo kiểu thượng con chồng, hạ kẻ đón, các cấu kiện chạm khắc hình hoa lá mang phong cách thời Nguyễn thế kỷ XIX. Toà Thượng điện 3 gian, khung liên kết gỗ đã ngả màu thời gian, trong bài trí đầy đủ hệ thống tượng Phật. Nhà Tổ phía sau tòa Tam bảo, đây là nơi bài trí tượng thờ Tam Tổ Trúc Lâm. Cả ba pho tượng được tạo tác đẹp quy chuẩn, tượng Trần Nhân Tông ngồi tọa thiền trên bệ gỗ ở giữa, hai gối mở rộng, tượng được sơn thếp phấn hồng. Tượng Pháp Loa ngồi trợ thủ bên trái, tượng Huyền Quang ngồi bên phải. Ngoài hệ thống tượng Phật đẹp, kiến trúc cổ kính, chùa Bảo An còn lưu giữ được một số đồ thờ và di sản Hán- Nôm đã tồn tại hàng trăm năm như: Lư hương, chuông đồng “Minh Kính tự chung”, bia đá “Hậu Phật bi ký”, tháp cổ…. Hằng năm, hội chùa được tổ chức ngày 18, 19, 20 tháng 3 Âm lịch với nhiều nghi lễ và trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Cùng với nhiều điểm di tích khác bên sườn Tây Yên Tử ở Bắc Giang, chùa Bảo An sẽ là điểm đến hấp dẫn cho du khách gần xa. NGUỒN: TRUNG TÂM THÔNG TIN, VĂN PHÒNG UBND TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 92 lượt xem
Đình Thân là nơi thờ phụng tôn nghiêm những danh thần có công lao to lớn trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc; thời kỳ đầu nơi đây thờ Thành Hoàng là Đức Thánh Cao Sơn và Quý Minh Đại Vương là những vị tướng tài thời Hùng Vương, biểu tượng cao đẹp về lòng yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Thông qua nội dung các tư liệu còn lưu giữ ở đây, như: sự tích, sắc phong, câu đối, văn cúng tế… đã khẳng định được nơi đây thờ các vị tướng thời Hùng Duệ Vương và các công chúa của nhà Lý, xếp theo trình tự thời gian thì ở Đình Thân thờ các vị như sau: * Thời Hùng Duệ Vương có các vị: - Cao Sơn Đại Vương thượng đẳng Thần - Quý Minh Đại Vương thượng đẳng Thần - Phương Dung- Nữ Thần Âm Phù * Thời Lý có các vị: - Bình Dương Công Chúa - Thiên Thành Công Chúa - Thiên Cực Công Chúa Sang thời kỳ lịch sử cận hiện đại kể từ khi thực dân Pháp xâm lược, đình Thân đã là căn cứ của quân dân ta, nơi cơ sở hoạt động của tổ chức cách mạng và kháng chiến. Nơi đây là điểm căn cứ đi về hoạt động của các chiến sỹ cách mạng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và sau này là những năm tháng kháng chiến chống Nhật, Pháp. Cũng chính nơi đây tháng 3/1943 Đảng Cộng sản ở Lục Nam đã cử đồng chí Kiên về xây dựng cơ sở của đảng và giác ngộ những người con ưu tú của quê hương đi theo cách mạng đó là các ông (Ông Huyên, ông Tài, ông Tuy, ông Vượng, ông Thắng, ông Mốc, ông Mẫn, ông Cầm, ông Lưu...). Đồng thời cũng chính nơi đây ngày 25/7/1945 Đội du kích họp bàn và tổ chức nhân dân đánh đổ Nhật xây dựng ủy Ban cách mạng lâm thời. Thời kỳ chống Mỹ, Đình Thân là nơi tập trung đưa tiễn lớp lớp những người con quê hương lên đường đánh giặc cứu nước. Ngày 02/9/1969 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời Huyện uỷ - UBND huyện Lục Nam đã lấy nơi đây là nơi tổ chức lễ truy điệu Bác rất trọng thể, trang nghiêm. Rất đông cán bộ, các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong huyện đã về đây dự lễ truy điệu Bác. Thời kỳ sau năm 1975 giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước Đình Thân ngoài việc phục vụ văn hoá tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng của làng Thân, Đình còn là nơi cấp uỷ, chính quyền thôn bàn bạc thống nhất phương thức sản xuất thâm canh tăng vụ, đặc biệt thời kỳ đổi mới Đình là nơi Ban chủ nhiệm Hợp tác xã Thanh xuân bàn đưa ra quyết sách thâm canh tăng vụ, nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; giai đoạn 1986-1992 hợp tác xã Thanh Xuân là lá cờ đầu trong sản xuất, kinh doanh giỏi của 04 huyện miền núi Tỉnh Hà Bắc, thành tích đó được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động Hạng ba năm 1991. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi Đình vẫn giữ nguyên nét uy nghi cổ kính, độc đáo; Với những giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật nêu trên Đình Thân đã được xếp hạnh Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 502-QĐ/BT, ngày 28/04/1994 của Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Phát truyền thống dân tộc, cấp ủy chính quyền và nhân dân làng thân nay là tổ dân phố Thân Bình, Thân Phú, Thanh Tân, các công ty doanh nghiệp; các con em địa phương đang học tập và công tác trên mọi miền tổ Quốc hàng năm đã công đức, tôn tạo khu di tích ngày thêm khang trang, tố hảo. Nơi đây hàng năm cũng là nơi giáo dục truyền thống cho lớp lớp các thế hệ thanh, thiếu niên trên địa bàn. 2. Kiến trúc Đình Làng Thân còn là công trình kiến trúc văn hóa, nghệ thuật cổ thời Lê (thế kỷ XVII-XVIII) có giá trị độc đáo tiêu biểu về nghệ thuật. Hiện nay, đình có bố cục bình đồ hình chữ Đinh gồm tòa Tiền đình 03 gian 02 trái và tòa Hậu cung 2 gian. Giá trị về kiến trúc nghệ thuật chủ yếu được thể hiện ở tòa Tiền đình với quy mô kiến trúc đồ sộ, lối kẻ trường độc đáo tạo cho mái đình có độ dốc lớn, nghệ thuật chạm khắc tinh xảo trên khắp các đầu dư, đầu kẻ như chạm nổi, chạm lộng các đề tài hình lá lật, hình thú sinh động, hài hòa, các đường nét trạm trổ, đồ thờ thanh thoát tinh xảo đậm nét kiến trúc nghệ thuật thời Lê. Lịch sử xây dựng Đình Thân trên câu đầu Đình hiện còn rõ chữ khắc ghi rằng “Quý tỵ niên, nhị nguyệt, nhị thập, ngũ nhật cất nóc”. Nghĩa là Đình được khởi dựng ngày 25 tháng 02 năm Quý Tỵ (1713) dưới triều đại Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8. Ngôi Đình có kiến trúc cổ độc đáo, tiêu biểu về nghệ thuật đến nay đã trên 300 năm tuổi, đặc biệt những đường nét chạm khắc được thể hiện ở các đầu dư mõm kẻ là đề tài tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng) hình vặn xoắn, mây cuộn phong phú làm cho ngôi Đình thêm linh thiêng và đậm nét nghệ thuật. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ TRẤN ĐỒI NGÔ - HUYỆN LỤC NAM
Bắc Giang 108 lượt xem
Khu di tích lịch sử- văn hóa đình, chùa Thượng Lâm, thuộc thôn Thượng Lâm, xã Thanh Lâm, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang cách thành phố Bắc Giang 20km về phía Đông Bắc. Khu di tích lịch sử văn hóa đình, chùa thôn Thượng Lâm được xây dựng từ cuối triều Lê đầu triều Nguyễn, ở đời vua Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42 vào năm 1781 là nơi thờ cúng, tưởng niệm người anh hùng có công với dân, với nước. Vì rằng vào những năm 1516-1522 nghĩa quân do cha con Trần Cảo- Trần Cung lãnh đạo đã chiếm giữ một vùng rộng lớn từ phía Bắc Sông Cầu trở lên. Ngoài ý nghĩa lịch sử, khu di tích này còn có ý nghĩa về mặt kiến trúc nghệ thuật- có tác dụng giáo dục cho mọi thế hệ hôm nay và mai sau về truyền thống dựng nước và giữ nước của tổ tiên ông cha chúng ta. Khu di tích lịch sử Đình - Chùa thôn Thượng Lâm đã đón rước đạo sắc phong thần đầu tiên tôn thờ thần hoàng, đã có công giúp nước, trải qua nhiều triều đại cụm di tích đã được đón nhiều đạo sắc phong thần của các vua chúa nhà nguyễn, điều đó nói lên sự tôn kính phụng thờ, của nhân dân địa phương đối với các bậc công thần nghĩa sĩ, đã có công với nước với dân, Trong bài vị còn lưu giữ đến nay đã ghi (chính minh, an quốc, thái hoàng, đường hương, đại lễ, chi thần, vị tiền) cùng với chuông đồng, khánh đúc của long cốt tự , kiệu rồng, mũ thần, hia thần, tại đình làng vẫn còn lưu giữ đến nay đó là những di vật quý giá đã được bảo tồn qua nhiều thế kỷ đến nay vẫn dữ nguyên về lộng lẫy và trang nghiêm. Khu di tích gồm: 1) Đình: hướng nam thiết kế gồm 2 phần - Nhà tiền tế làm kết cấu bằng gỗ lim, lợp ngói mũi hài , làm theo kiểu chồng giường, có năm gian rộng 6,87 m, dài 13m. - Hậu cung đình gồm 1 gian 2 trái kết cấu kẻ trường, xà cộc, nguyên liệu làm bằng gỗ lim, ngói mũi hài tường xây gạch, dài 8,35m, rộng 6,10m. 2) Chùa Thượng Lâm (Long cốt tự) hướng nam gồm: Địa điểm cũ của chùa xưa kia là xây dựng ở trên núi Long Cốt tự, hướng phía Bắc. Đến năm 1940 chùa được rời về vị trí hiện nay. Vì lý do: để bảo vệ chùa. Địa điểm cũ hiện nay chỉ còn lại 3 tòa tháp. - Nhà tiền tế kết cấu kiểu chồng giường, dài 12,22m, rộng 7,65m. - Nhà thánh đường kết cấu kiểu giá chiêng, gỗ lim, ngói mũi hài, nền lát gạch vuông. Có chiều dài 7,5m, chiều rộng 5,91m. Trong khu di tích này hiện còn lưu giữ được nhiều tài liệu hiện vật quý hiếm ,có ý nghĩa nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống trực tiếp cho nhiều thế hệ hôn nay và mai sau . Đó là các bức đại tự, câu đối, chuông, khánh, văn bia, hương án, đồ thờ cúng hệ thống tượng (gồm 21 pho tượng Phật là) hiện vật gốc thời Lê, thời Nguyễn có giá trị về mặt kinh tế cũng như mặt nghệ thuật vừa là tài liệu hiện vật phục vụ cho nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống. Đó là những sưu tập đồ thờ quý hiếm thể hiện phong phú về loại hình, niên đại, chất liệu cầu thành. Khu di tích Đình – Đền – Chùa Thượng lâm là một trung tâm văn hoá tiêu biểu của xã Thanh Lâm nói riêng của tinh Bắc Giang nói chung. Nó có ý nghĩa là tư liệu rất quan trọng phản ánh sâu sắc về truyền thống yêu quê hương, đất nước và căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta. Đồng thời là nơi thờ phụng, tưởng niệm Trần Cảo – Trần Cung hai thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân đầu thế kỷ XVI chống lại áp bức, bóc lột, chèn ép, hà khắc của triều đình phong kiến Việt Nam thời kỳ hậu Lê. Điều đáng quý và trân trọng là những lần trùng tu, tu sửa đều do bàn tay khéo léo của những thợ mộc, thợ nề địa phương tạo lên công trình của làng của nước . Đó cũng là sự phản ánh về truyền thống nghề thủ công cổ truyền ở đây đã có từ lâu đời và ngày càng phát triển không ngừng làm đẹp cho làng cho xã Thanh Lâm thịnh vượng. 7. Hoạt động văn hóa và nghi lễ liên quan Lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng. Trong lễ hội, ngoài phần lễ tế thần, thành hoàng làng, còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống được tổ chức như: Cờ tướng, đấu vật, chọi gà, đập niêu, hát quan họ dưới thuyền…Ngoài ra các nghi lễ khác cũng được tổ chức tại di tích như ngày việc làng 11/4, ngày sự lệ (10/8), ngày tế miếu âm hồn 15/11 …Mỗi một nghi lễ lại có những quy định khác nhau. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NAM
Bắc Giang 102 lượt xem
Chùa Trăm Gian là di tích lịch sử - văn hóa thuộc thôn An Đông, xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Di tích được hình thành cách đây khoảng 1000 năm, tọa lạc ở vùng quê bình yên, nằm gần dòng sông Kinh Thầy thơ mộng, không gian thanh tịnh, mái ngói rêu phong, vườn tháp cổ kính và từng là một ngôi chùa lớn, trung tâm Phật giáo của cả nước, trường dạy kinh Phật cho nhiều phật tử. Chùa được gọi theo quy mô, kiến trúc của di tích. Đến nay vẫn giữ được bố cục, nét kiến trúc độc đáo và nhiều cổ vật có giá trị khoa học. Ngoài tên gọi Trăm Gian, chùa còn có tên là An Ninh, cách gọi theo tên địa danh của làng và tên tự là chùa Vĩnh Khánh. Từ thị trấn Nam Sách đi hướng cầu Bình theo Quốc lộ 37, đến ngã ba rẽ vào xã An Bình (cạnh trụ sở UBND xã Quốc Tuấn), du khách đi theo đường trục xã vào thôn An Đông (cách trụ sở UBND xã An Bình 400m) là đến di tích. Cũng như các ngôi chùa khác, chùa Trăm Gian được xây dựng để thờ Phật theo phái Đại thừa, với tư tưởng truyền bá đạo Phật cho mọi người để hướng đến những giá trị Chân -Thiện - Mỹ tốt đẹp, con người chung sống hòa bình, khởi tâm làm nhiều việc thiện, tránh xa điều ác, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đại thừa là “cỗ xe lớn” có thể chở được nhiều phật tử trong việc tu tập và cùng nhau để sớm đến được bến bờ giác ngộ. Chùa Trăm Gian ngoài thờ Phật theo phái Đại thừa còn thờ thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ (Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông (tổ 1), Pháp Loa Tôn giả (tổ 2) và Huyền Quang Tôn giả (tổ 3). Bên cạnh đó, chùa còn thờ các nhà sư đã quy y và trụ trì tại chùa, có công trùng tu, tôn tạo mở rộng di tích như: Thánh Tổ ni Phạm Thị Toàn (Toàn Nương) trụ trì 02 năm (xuất gia năm 1011, viên tịch năm 1013), là đệ tử của thiền sư Từ Đạo Hạnh dòng Tỳ ni đa lưu chi. Khi nhà Trần trị vì đã gia phong cho bà “Trinh Khiết Đoan Trực Trai Trang Hoàng Quý Phi Tối linh Thượng đẳng Công chúa”. Vị sư tổ tiếp theo trụ trì là người làng, học đạo theo thiền phái Trúc Lâm tên là Nguyễn Diệu Quang, được gọi là Tổ Rau (vì tu theo lối tịch cốc mỗi ngày chỉ ăn 1 bìa đậu phụ và 2 mớ rau vào lúc chính ngọ). Vua Lê Cảnh Hưng phong “Hòa thượng Đại nhân tăng lục thiền già”. Vị sư tổ tiếp theo là Viên Giác, người họ Nguyễn ở bản xã, quy y và viên tịch tại chùa vào ngày 14/9. Vị sư tổ tiếp theo là Viên Tịch, vốn trước tu ở chùa Bổ Đà (Bắc Giang) sau làm môn đồ tổ Viên Giác và viên tịch ngày 24/6 và một số nhà sư khác hiện có mộ tháp ở phía sau chùa. Không chỉ là danh lam cổ tích trong vùng, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngôi chùa là cơ sở cách mạng, nơi luyện tập, họp hành và trú ẩn của du kích, bộ đội địa phương. Năm 1965, chùa là nơi kho tán của phân viện 7 và Kho quân nhu của Quân khu III. Sau năm 1975, một phần chùa trở thành trụ sở UBND xã, thư viện, đài truyền thanh, nhà truyền thống xã... Hiện nay, ngôi chùa trở lại thành điểm sinh hoạt văn hóa tôn giáo tâm linh của nhân dân trong vùng. Tương truyền chùa Trăm Gian có từ thời Lý (khoảng thế kỷ XI). Đến thời Trần, tướng quân Nguyễn Huy Tĩnh đóng quân tại chùa để chặn quân Nguyên từ hướng sông Bạch Đằng đánh vào Thăng Long. Đến triều Lê, năm Chính Hoà (1691) đời vua Lê Hy Tông sửa thượng điện, năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705) đời vua Lê Dụ Tông vua tiếp tục sửa thượng điện; các năm 1740, 1809 tu sửa và tôn tạo khá nhiều công trình trong chùa. Thế kỷ XIX- XX, chùa Trăm Gian được trùng tu với quy mô khá lớn và độc đáo vào bậc nhất mang phong cách thời Nguyễn. Hiện nay, toàn bộ khuôn viên của di tích tọa lạc trên diện tích 17.977m2, với các công trình chính như: Từ phía Đông, mở đầu là công trình gác chuông (128m²), có quy mô lớn và độc đáo. Trên gác chuông ở gian trung tâm treo quả chuông đồng đúc vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), đây là quả chuông hiếm có của tỉnh Hải Dương. Gác chuông gồm 05 gian, trong đó 03 gian giữa có kiến trúc chồng diêm, cổ các. Hai đầu hồi kiến trúc theo kiểu bít đốc tạo dáng quai chảo. Bộ mái của phần chồng diêm là hai vì kèo, cột đặt trên xà thượng của công trình phía dưới. Phía trên mái chồng diêm có 4 đầu đao với phù điêu rồng chầu, phượng múa, bờ nóc đắp hạp long ở 2 đầu. Hệ thống bờ nóc, bờ chảy mềm mại, trang trí ô hoa chanh cách điệu. Phía sau gác chuông, qua một sân nhỏ là chùa chính gồm: Tiền đường 07 gian, có chiều dài 16m, rộng 8m. Kết cấu các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen. Các chi tiết như cột cái, cột quân, bẩy hiên, xà nách, các con thuận, câu đầu, trụ, con vành, đấu gòi được chế tác rất công phu. Các xà thượng, xà hạ, hoành, rui đều được soi chỉ. Kết cấu hệ thống giằng ngang và giằng dọc hợp lý, chặt chẽ. Thượng điện có chiều dài 11m, rộng 8m, phần mộc của thượng điện có kết cấu và chế tác giống tiền đường, nhưng các chi tiết phần mộc nhỏ hơn. Tường xây bằng gạch Bát Tràng, bên trong trát vữa, ngoài để mộc bắt mạch nõn dong, mái lợp ngói mũi. Bên trái thượng điện là 07 gian nhà thờ Mẫu, có chiều dài 14m, rộng 4m. Các vì kèo kết cấu theo kiểu kèo cầu, đơn giản. Bên phải là hai Nhà khách nối liền nhau như một hành lang. Sau thượng điện là nhà Tứ ân, kết cấu kiểu kẻ chuyền chồng chóp, các con chồng, đấu sen, các bức chạm lá lật chạm trổ tinh vi. Nhà tổ nằm phía sau nhà tứ ân. Phía bắc chùa có sân rộng chừng 1.000m² cùng một số công trình quay ra sân như: Nhà tháp, nhà tăng, am trong, am ngoài cùng nhiều công trình phụ khác. Phía sau chùa là một vườn tháp gồm 10 ngôi, trong đó có 9 ngôi được xây dựng vào thời Lê và Nguyễn, một ngôi được xây dựng năm 2003. Chùa Trăm gian là ngôi chùa thuộc thiền phái Trúc Lâm, có nhiều hạng mục công trình và nhiều gian nhất hiện còn trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Hằng năm, chùa Trăm Gian tổ chức lễ hội nhằm vào ngày 11 , ngày 12 tháng 9 âm lịch. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật điêu khắc, giá trị khoa học của di tích và cổ vật đang được lưu giữ tại chùa. Ngày 02/3/1990, di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia theo Quyết định số 168/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thể Thao. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nam Sách , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 137 lượt xem
Đình Quán Đào thuộc thôn Quán Đào , xã Tân Tiến, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương là nơi thờ Thiên Tác Đại Vương Lí Canh Tôn, là một danh tướng thời nhà Lí người có công phù giúp Nhà Lí đánh tan quân Tống xâm lược. Quán Đào xưa vốn là trang Quán Đào, là một xã của Tổng Mỹ Xá- Phủ Tứ kỳ. Từ năm 1925 đến 1944 là một xã của tổng Hội xuyên huyện Gia Lộc. Từ năm 1945 đến nay Quán Đào, là một thôn của xã Tân Tiến huyện Gia Lộc. Trước đây trong xã, thôn nào cũng có Đình, chùa . Đình thuộc thôn quán Đào nên có tên gọi là: Đình Quán Đào. Đình được xây dựng ở trung tâm thôn Quán Đào, nằm trên một gò đất cao gọi là đống con voi. Trước cửa đình là một cái ao lớn, trước đây thông ra sông cống câu, thuyền đinh có thể vào tận cửa Đình, còn xung quanh là đường làng. Ở phía Tây của Đình còn có một ngôi miếu cũng được xây dựng trên một gò đống còn được gọi là đống Con Xà. Phía Bắc Đình cũng có một gò đống cao gọi là Đống Rước Vua, nằm cách Đình khoảng 500m. Như vậy ngôi Đình được xây dựng ở giữa các gò đống tạo ra thế rồng chầu hổ phục. Cũng như mọi ngôi đình Việt Nam. Đình Quán Đào được xây dựng để thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân làng, mỗi khi có việc lớn. Đình được xây dựng từ thời Lý. Nguyên là nơi thờ cụ Thiên Tác quê chính ở Cao Xá Cẩm Giàng. Theo lệnh của chiều đình về Quán Đào để mộ quân đánh giặc Tống. Khi chiến thắng được vua phong là “ Tôn canh linh ứng” và được vua ban sắc phong khi chết được nhân dân Quán Đào tôn là thành hoàng thờ tại đình làng. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 hội làng được mở từ ngày 10 đến ngày 20 tháng giêng âm lịch, tại Đình được tổ chức nhiều hình thức như rước, tế, lễ, hát chèo….Đặc biệt ở đây có lệ thi lợn thờ mỗi giáp một con. Đình Quán Đào còn đặc biệt là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử gắn liền với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của địa phương. Nhân dân Quán Đào nói riêng và nhân dân Tân Tiến nói chung là những du kích đánh Pháp nổi tiếng kiên cường, dũng cảm, đã được lịch sử tỉnh, huyện ghi nhận. Ngôi đình là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp của địa phương. Tại đây những người chỉ huy luôn đưa ra những quyết định đúng đắn và đều giành thắng lợi. Tháng 8/1945 nhân dân Tân Tiến đã tập trung tại đình để lên huyện tham gia giành chính quyền. Trong những năm 1946 Đình còn là nơi nhân dân học bình dân học vụ, xóa mù chữ cho nhân dân trong xã. Đình cũng là nơi nhân dân đến ủng hộ vàng bạc trong tuần lễ vàng mà Bác Hồ và chính phủ kêu gọi. Đình còn là nơi thành lập xã Tân Tiến gồm ba thôn, Đông cận, Quán Đào, Tam Lương năm 1946. Ngày 06/1/1946, Đình còn là nơi chứng kiến cuộc bầu cử Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của xã. Liên tiếp các năm 1946 – 1947 Đình còn là nơi luyện tập võ trang của du kích, để chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp của địa phương. Ngày 23/12/1946 quân địch đi ca nô đổ bộ lên bến đò neo ( cách xã 2 km) bắn súng vào xã. Liền sau đó khoảng 40 người dân Tân Tiến tay cầm vũ khí đã xông lên đường 191 đánh trả. Trận ra quân lần đầu đã chứng tỏ tinh thần quyết tâm đánh giặc của nhân dân được huyện biểu dương khen ngợi. Ngày 23/2/1947. Địch càn thẳng vào xã đốt cháy 2/3 số nhà dân, bắn chết 4 người, bắt đi 20 người. Biến căm thù thành hành động. Chi bộ Tân Tiến đã họp tại đình Quán Đào và ra nghị quyết” Tổ chức biên chế quân du kích chặt chẽ, huấn luyện quân sự, mỗi đồng chí phải có một thứ vũ khí…Tuyên truyền nhân dân toàn xã chuẩn bị đánh giặc”. Từ đó tại đình du kích ngày đêm luyện tập, nhân dân đẩy mạnh sản xuất và tham gia bình dân học vụ. Từ năm 1947 địch tăng cường càn quét, 3 năm đầu kháng chiến từ 1946 đến 1948 chi bộ Đảng tiếp tục được phát triển, chính quyền được củng cố. Từ năm 1950 quân địch thua đau ở biên giới chúng quay về đồng bằng, đồn bốt được mọc lên như nấm. Quanh xã Tân Tiến có nhiều bốt địch như bốt Bỉnh di, Đông Quan, Xuân nẻo, Lũy Dương…Trước tình này chi bộ họp tại đình Quán Đào ra nghị quyết bám sát dân, giữ vững cơ sở, đấu tranh với địch trong thời gian khó khăn này, đình Quán Đào con che dấu hàng trăm cán bộ huyện, tỉnh và một số cán bộ xã bạn. Trong lúc khó khăn tình làng, nghĩa xóm càng đậm đà sâu đậm, mọi người nhường cơm sẻ áo.. Từ năm 1952 đến 1954 chiến trường chính ta mở rộng, tại xã được phát triển lên một bước gồm có 42 đồng chí có 6 súng trường, 1 súng liên, một tiểu liên và nhiều chông mìn, lựu đạn, luôn hoạt động quấy phá địch. Trong 8 năm kháng chiến chống Pháp nhân dân Tân Tiến cùng các xã bạn tham gia 105 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 241 tên địch, Với thành tích đó xã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Riêng thôn Quán Đào được tặng huân chương kháng chiến hạng 2, 4 du kích được phong là chiến sĩ thi đua. Trước đây di tích có rất nhiều đồ tế tự như Long đình, Luyện, Bát biểu, Cờ quạt, Tàn lòng, Quần áo tế lễ, Đồ thờ tự… Trải qua thời gian và đặc biệt là kháng chiến chống Pháp ác liệt đã diễn ra trên mảnh đất này đã tiêu hủy rất nhiều hiện nay chỉ còn: 1 Đỉnh đồng thời Nguyễn , 1 bức đại tự sơn son, 1 bát Hương bằng sứ, 8 lọ hoa sứ, 3 bộ thờ, 1 bức Y môn, 1 ngai thờ gỗ, 2 câu đối gỗ, 1 bàn thờ gỗ sơn son, 1 hòm sắc, 1 thần tích, 3 bức đại tự. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật điêu khắc, giá trị khoa học của di tích và cổ vật đang được lưu giữ tại chùa. Năm 1995 được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử văn hóa quốc gia . Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương .
Hải Dương 106 lượt xem
Đình Nội, xã Việt Lập, huyện Tân Yên là một trong số những ngôi đình cổ có quy mô to đẹp, nổi tiếng của vùng đất Tân Yên xưa cũng như nay. Căn cứ vào nguồn tư liệu Hán Nôm còn khắc ghi trên các cột gỗ trong đình cho biết, đình Nội được xây dựng vào đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 (năm 1775), trên một gò đất cao thoáng giữa làng Lý và làng Nội. Tuy nhiên, do đình được dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của làng Nội làm vì thế mà đình có tên là đình Nội. Ngoài ra khi đình làm xong, dân làng còn đặt tên đình là “Tiên Đình”. Hai chữ ấy được đắp nổi trên đỉnh bờ nóc đình để mọi người tới nơi chiêm ngưỡng. Muốn đến thăm di tích, du khách có thể đi theo đường từ thành phố Bắc Giang theo quốc lộ 1A (cũ), qua cầu Sông Thương, rẽ phải theo tỉnh lộ 398 tuyến Bắc Giang - Cao Thượng, qua cây số 11, rẽ tay phải theo đường cấp phối liên thôn khoảng lkm là tới đình Nội. Ngược dòng thời gian tìm về lịch sử khởi dựng của đình Nội được biết, khi đã chuẩn bị đủ nguyên vật liệu, dân làng Nội đón thợ mộc ở Bắc Ninh lên làm đình. Các hiệp thợ cùng đua nhau trổ hết tài năng của mình nên đã để lại ở đình Nội nhiều bức chạm gỗ rất đẹp. Trong đó, điển hình là bức chạm đề tài “chèo thuyền bắt cò” dựa theo điển tích: “bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”, diễn cảnh con cò thì mổ con trai, con trai cặp vỏ giữ chặt mỏ cò nhân thế ông lão đánh cá chèo thuyền ra bắt cả đôi. Lại có bức chạm hai quan viên ngồi uống rượu với nhau, nhưng sau lưng mỗi vị quan này lại có hai võ sĩ cầm kiếm đứng ngay bên cạnh. Người đời gọi bức chạm này là “vừa đánh vừa đàm”. Nghệ nhân như muốn nói rằng trong bất kỳ điều gì cũng cần phải bình tĩnh, bàn bạc kỹ, như vậy mới mong thành công. Cũng lại là những nét chạm khắc thô phác, nhưng lại thế hiện rõ mọi hàm ý. Lại có bức nữa miêu tả cảnh các kỵ binh ra trận trong tư thế vô cùng khỏe khoắn, rắn chắc. Ngoài ra, trong đình còn rất nhiều những bức chạm khắc với những đường nét tinh xảo mà mỗi bức, người nghệ nhân lại phản ánh một thực tế xã hội bây giờ cùng một hàm ý sâu xa khác. Đình Nội làm nên đế tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh là những thuộc tướng từ thời Hùng Vương đã có nhiều công lao trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ sự bình yên của đất nước. Trong đình còn bảo lưu đầy đủ các đồ thờ tự quý giá như: Long ngai, bài vị, bộ kiệu rước, bộ bát bửu gỗ mang phong cách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ XVIII). Trải qua thời gian, đình Nội cũng được trùng tu, tôn tạo lại qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt là trong những năm cuối thế kỷ XIX, đình đã được vị thủ lĩnh của nghĩa quân Yên Thế - Đề Thám quan tâm, xoay chuyển hướng cho phù hợp. Câu chuyện này được các cụ cao niên kể lại rằng: Đình Nội trước quay về hướng Tây Nam, mái đao chỉ thẳng vào xóm Nội. Dân thấy “góc đao ao đình” là điều không hay khiến dân trong làng thường xuyên lục đục mất đoàn kết. Vì thế, dân làng đã xin cụ Đề Thám chuyển hướng cho khi Hoàng Hoa Thám cầm quân đánh Pháp, có quan hệ thân thiết với làng Nội. Nghĩa quân thường xuyên qua lại nơi đây họp bàn với các cụ Đốc Tuân (làng Lý); Chánh Hoạch (làng Nội), Tống Lò (Văn Miếu). Biết được chuyện đó, Đề Thám với uy tín của mình đứng ra xoay lại hướng đình cho làng Nội. Từ đó, đình xoay về hướng Đông Nam. Cũng sau lần bắn đình này, dân cho xây trước đình 2 tòa tả vu, hữu vu và cổng nghi môn bề thế. Nhìn từ xa, đình làng Nội nổi lên sừng sững giữa khung cảnh thiên nhiên đẹp của một làng quê với lũy tre xanh xanh, với những cây cổ thụ vươn mình trong mưa nắng bên sân đình, cùng hồ sen xanh ngát tỏa hương thơm mát từ ao đình khiến tình quê càng thêm nồng đượm. Ngày nay trải qua những thăng trầm của lịch sử, đình Nội cũng không còn được nguyên vẹn như ban đầu. Một số hạng mục của công trình cũ đã bị mất đi như: Tòa giải vũ, cổng nghi môn, toàn bộ hệ thống sàn gỗ của đình và nhiều câu đối, hoành phi cũng không còn. Nhưng về cơ bản, đình Nội vẫn giữ được dáng vẻ của một ngôi đình cổ. Đình hiện có bố cục mặt bằng theo lối chữ nhất gồm 1 tòa đại đình 5 gian 2 chái. Phía trước đình là 1 dãy tả vu 3 gian. Bên trong, hệ thống khung gỗ được liên kết vì theo lối chồng rường, giá chiêng. Đình hiện còn bảo lưu một số nét kiến trúc truyền thống thế hiện ở các mảng hoa văn được chạm khắc trên các cấu kiện gỗ, với nghệ thuật chạm nổi, chạm chìm, chạm kênh bong rất công phu, tỉ mỉ. Các đề tài trang trí thể hiện phong phú như: Đề tài tứ linh, tứ quý, chèo thuyền bắt cò, cò lả,... mang đặc trưng phong cách thời Lê-Nguyễn. Hệ thống đồ thờ quý trong đình còn lại như: 1 bộ kiệu rước, 2 ngai thờ, 2 bát hương thời Lê, 2 quả thờ, 1 ống thư... Những hiện vật này đều là những hiện vật gốc rất có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử di tích cũng như vùng đất con người nơi đây. Hằng năm, vào ngày 10, 11 tháng Giêng, dân làng Nôi lai tổ chức lễ hội lớn tại trung tâm đình Nội. Trong lễ hội dân làng có tổ chức tế lễ, rước sách long trọng; có thi cỗ, làm công xôi năm mâm đắp thành 4 chữ “thiên hạ thái bình”, có lệ hát ca trù thờ Thánh, hát tuồng, hát chèo... đón dân kết chạ ở Lăng Cao cùng đến vui hội. Đồng thời, hội có tổ chức nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: Chơi cướp cầu, đu, chọi gà, vật... thu hút nhiều người từ các nơi về tham dự. Vì thế, người dân làng Nội vẫn có câu ca nói rằng: “Đình Nội có hội cướp cầu Tháng Giêng mười một đâu đâu cũng về”. Với những giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật và lịch sử, văn hóa đồng thời là một địa điểm có mối liên hệ mật thiết với cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), đình Nội đã vinh dự được nằm trong danh sách 23 di tích và cụm di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Quyết định này khẳng định vai trò, giá trị của di tích và chính là một sự tri ân của nhà nước đối với công lao to lớn của bậc tiền nhân đã tạo dựng cho các thế hệ con cháu ngày nay được sống trong thanh bình. NGUỒN Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Giang 95 lượt xem
Đền Hả thuộc thôn kép 2B, xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn là một di tích quan trọng và có giá trị cao về mặt lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Ngôi đền nằm giữa ngọn đồi Kỳ- Sơn từ xưa đến nay vẫn có tên gọi là đền Hả, Từ Hả. Dọc quốc lộ 31 từ ngã tư cao tốc Bắc Giang mới rẽ phải khoảng hơn 40km đến ngã ba Kép, Hồng Giang lên một đoạn rẽ phải hơn một cây là đến di tích. Đền Hả thờ Thân Cảnh Phúc ( tức Vũ Thành, Cảnh Nguyên, Cảnh Long hay Thân Đạo Nguyên) là phò mã nhà Lý lấy công chúa Thiên Thành. Ngoài ra, Đền Hả từ xưa đến giờ không phải chỉ thờ một tướng vũ thành, mà còn thờ 6 vị khác nữa đều là phò mã và công chúa nhà Lý là; thần thân tướng quốc Vũ Tỉnh; quốc mẫu Thiên Thành Vũ Thị Cảnh; Thuỵ Nhiên công chúa lý thị Dược; Bình Dương công chúa lý thị Giám; Yến Hoa công chúa lý thị Kiên và Thánh phi Giáp Thị Tuấn. Đền Hả xã Hồng Giang là loại hình di tích lưu niệm danh nhân để tưởng nhớ không chỉ 1 danh nhân là tướng quân Vũ Thành mà còn 6 danh nhân khác thời Lý. Ngôi đền Hả nằm ở phía đông nam làng Hả Hộ, trên một khu đồi rộng, bố cục theo kiểu chữ Tam gồm ba toà nhà không lớn lắm là đền hạ, đền trung và đền thượng. Bên cạnh là ngôi chùa cùng tên. Tất cả tạo thành một thể thống nhất về kiến trúc nằm bên bờ Lục Nam chừng nửa cây số. Ba ngôi đền này nằm song song với nhau, riêng hai đền trung và đền thượng được nối với nhan bằng ống muống. Nhà làm đơn giản, kết cấu giữa các vì kèo theo lối kẻ truyền độc trụ. Đền Hạ kiến trúc gồm 3 gian 2 vỉ với 6 vì kèo và 24 cột lớn nhỏ gián cách giữa các gian không đều. Phía sau ngôi đền Hạ là ngôi đền trung gồm 3 gian 2 dĩ và cuối cùng là đền thượng cũng được xây dựng gồm 3 gian 2 dĩ. Nằm trong một tổng thể kiến trúc của ngôi đền là chùa Từ Hả. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ đinh. Xung quanh khu vực đền là một số di tích khác gắn liền với ngôi đền và lễ hội hàng năm là ao rối, núi trống, núi chiêng, ruộng lá cờ, bãi Dược… đã làm cho di tích thêm phong phú và sống động NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NGẠN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 230 lượt xem
Đền Khánh Vân nằm kề bờ sông Lục Nam, thuộc đồi Tân Dã, thôn Hà Thị nay là tổ dân phố Trần Hưng Đạo, thị trấn Chũ huyện Lục Ngạn. Từ Bắc Giang đi theo đường quốc lộ 31 qua huyện Lục Nam vào đất Lục Ngạn với khoảng cách gần 40km tới thị trấn Chũ (trung tâm huyện). Từ đây rẽ phải gần 500m là tới đền. Đền Khánh Vân là tên chữ (Hán- Việt) được khắc trên mái đền hiện nay, đây là tên chính của đền. Còn tên đền Quan Quận là tên dân gian gọi theo nhân vật được thờ ở đền. Đền thờ Vi Hùng Thắng người Lục Ngạn một tướng thời Trần có công giúp Trần Triều chống giặc Nguyên – Mông ở thế kỷ 13. Vi Hùng Thắng là con cụ Phúc Tính và bà Từ Duyên của họ Vi ở làng vải Kim Sơn, huyện Lục Ngạn. Ông được sánh cùng Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão và các tướng khác. Sau được vinh phong tước quận công nên dân gọi là đền Quan Quận. Đền Khánh Vân thuộc loại hình lưu niệm danh nhân để ghi công Vi Hùng Thắng người con ưu tú của Lục Ngạn đã có công giết giặc cứu nước. Đền Khánh Vân nguyên xưa không còn. Ngôi đền hiện nay mới được tu dựng lại trên nền đất cũ theo các cụ nơi đây chính là mảnh đất chôn cất ông, chính là mộ của ông. Đền được bố cục theo kiểu chữ đinh, chính giữa đền có tượng Vi Hùng Thắng ở tư thế ngồi. Ngoài ra, trong đền còn thờ các tướng cùng thời ông có công như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão… Cạnh đền phía tay phải là chùa Khánh Vân và các kiến trúc khác phục vụ sinh hoạt, lễ hội, cúng bái… NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NGẠN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 191 lượt xem
Trước năm 1945, Đồng Tái là tên xã, trong xã có đủ đình, chùa, miếu. Năm 1946, Đồng Tái là một thôn của xã Thống Kênh (Gia Lộc), đình Đồng Tái từ đó gắn liền với tên thôn. Đình Đồng Tái được xây ở trung tâm của làng, trên một khu đất cao, rộng, mặt hướng tây nam, trông ra sông Nhị Hà (nay là sông Thưa). Theo ngọc phả còn lưu lại và qua lời kể của các cụ cao tuổi trong làng, đình Đồng Tái thờ 3 chị em họ Đào là: Đào Thị An, Đào Công Hải và Đào Công Thông, những người có công phò vua Duệ Vương đánh giặc Thục, giặc Lương bảo vệ đất nước... Những năm kháng chiến sau này, đình Đồng Tái là nơi gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương và của tỉnh. Tháng 4 - 1995, đình Đồng Tái được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. "...Tương truyền, Đào Công Bột, quê ở An Bang, phủ Hải Đông, là thiếu phó quan thời Hùng Vương thứ 18, được giữ chức bộ trưởng Châu Hoan (Thanh Hóa), sau được vua hạ chiếu điều đến phủ Thượng Hồng (trấn Hải Dương) làm quan thượng thư. Trong thời gian ở Thượng Hồng, ông kết duyên với một nữ anh thư họ Nguyễn, con gái một gia đình danh gia, lệnh tộc ở Kênh Triều, huyện Gia Phú (nay là Gia Lộc). Được khoảng 3 năm thì Thượng Hồng đột nhiên có trận nước lụt lớn, quan Thượng Thư và nhân dân phải làm chòi cao tránh nước. Trong cơn thủy hoạn, bỗng có 3 quả trứng từ đâu trôi đến trước chòi của quan thượng thư. Thấy lạ, ông vớt 3 quả trứng đó rồi cất đi. Không lâu sau, một trận mưa lớn, sấm chớp đùng đùng, 3 quả trứng nổ như tiếng sét và nước lũ tự dưng rút cạn. Quan thượng thư nửa mừng, nửa lo, cho rằng 3 quả trứng kia là chuyện bất thường, liền lệnh cho quân sĩ làm lễ tế đảo để tiễn 3 quả trứng thần kỳ. Ngay đêm đó, quan thượng thư nằm mơ thấy một người tướng mạo uy nghi, cỡi trên con Hoàng Long (rồng vàng) tặng cho mình một tấm gấm có đề thơ sẵn. Tỉnh dậy, ông thấy tấm gấm đặt bên mình thì rất đỗi vui mừng. Từ đó vợ ông mang thai, lần lượt sinh hạ được Đào Thị An, Đào Công Hải và Đào Công Thông. Cả ba chị em đều khôi ngô, tuấn tú, diện mạo khác thường, tính tình khoan hòa, văn võ kiêm toàn. Đặc biệt, Đào Công Hải và Đào Công Thông, thế và lực có thể bạt núi, ngăn sông, đi trên sóng nước như đi trên cạn. Nhân dân ở đây coi như ba vị thánh giáng trần. Sau khi cha mẹ tạ thế, 3 chị em họ Đào dựng một quán nước ở đầu làng Kênh Triều để mưu sinh. Lúc này nhà Thục đưa đại binh sang xâm chiếm nước Văn Lang. Vua Duệ Vương cùng quần thần trực tiếp ra đánh giặc, nhưng vì thế và lực không cân nên vừa đánh vừa rút lui. Tới địa phận xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc thì trời xế chiều, vua hạ chiếu cho quân thần dựng trại để nghỉ. Đêm đó, nhà vua ngự giá tại chùa Quang Minh, tổng Hậu Bổng. Trong giấc ngủ mơ màng, vua thấy một người cao to, áo mũ cân đai chỉnh tề tiến đến trước mặt nói rằng:” Thần vâng mệnh Thiên Hoàng giấy báo cho thời quân gặp nhân tài để diệt giặc. Giật mình tỉnh lại thì đó là giấc mộng và bên mình có tấm gấm, trên đề mấy vần thơ: Thiên Hoàng xuống báo giúp thời quân/ Tìm đến Kênh Triều gặp Thánh Nhân/ Huynh đệ một nhà Đào Thị đó là người giúp nước cứu nhân dân”. Lập tức vua cho quân thần đến Kênh Triều, mời 3 chị em họ Đào về hậu bổng yết kiến, rồi phong cho Đào Công Hải là quyền trưởng Trung Hoa quốc tể; Đào Công Thông là Thống trưởng tướng quân. Hai vị nhận chức, điều khiển toàn bộ 30 vạn binh mã, chia làm nhiều mũi tiến đến đồn giặc đánh phá. Chỉ một trận đánh, giặc Thục đã tan tác, những tên sống sót tranh nhau tẩu tán. Đất nước trở lại thanh bình, muôn dân an cư lạc nghiệp… 5 năm sau, mộng xâm lăng của giặc Thục lại nổi lên, chúng cho đại binh dồn rập sang đánh chiếm nước ta lần nữa. Đào Công Thông và Đào Công Hải xin vua cho xuất binh phá giặc. Nắm bắt được điểm yếu của địch, hai tướng quân bố trí đánh úp ban đêm, cho những thợ lặn xuống khoan thủng thuyền địch. Bị động, thuyền đắm, quân Thục một lần nữa đại bại, kinh hoàng chạy về nước. Sau khi toàn thắng, Đào Công Thông và Đào Công Hải không ở lại triều đình để hưởng vinh hoa phú quý, mà xin về về Kênh Triều cư trú. Trên đường về bỗng mây đen từ đâu kéo đến mù mịt, sấm chớp dữ dội, chỉ trong khoảnh khắc hai vị tướng quân đã hóa cùng mây nước. Nhà vua thương tiếc người tài, truyền cho nhân dân nơi đây lập đền thờ, cúng...” Từ những ngày đầu thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, đình Đồng Tái là bản doanh của nghĩa quân Thống Kênh, lãnh đạo nhân dân trong vùng anh dũng chống lại ách xâm lược của thực dân Pháp. Nghĩa quân Thống Kênh phát triển mạnh, hoạt động rộng lớn khắp các vùng Tứ Lộc, Kim Môn, Chí Linh, Châu Giang, thị xã Hải Dương, từng nhiều phen làm thực dân Pháp phải kinh hoàng. Những năm 1930 - 1945, khi phong trào cách mạng dâng cao và chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa, đình Đồng Tái là nơi hội tụ đại biểu trong vùng, bầu các cơ quan chính quyền từ lâm thời đến chính thức. Đình cũng là nơi thành lập chi bộ Đảng của xã, là địa điểm để chi bộ hội họp, chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể kháng chiến. Cũng tại đình Đồng Tái, các đơn vị bộ đội như Tây Sơn, Bảo Lộc, B42, 075 của tỉnh về tập luyện. Sau này, đình Đồng Tái vinh dự là nơi các đồng chí lãnh đạo tỉnh, trung ương về hội họp, phát động các phong trào chống mỹ cứu nước trên toàn tỉnh và là nơi lưu trữ các tài liệu quan trọng khi đó... Sau nhiều thăng trầm của lịch sử, nhất là những năm kháng chiến chống Pháp đình Đồng Tái bị hủy hoại nhiều, còn lại tiền tế và hậu cung. Trong đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật từ thời Nguyễn như: Long đình, khám, ngai, cửa võng, đại tự, cuốn thư, kiếm thờ... Tiếp nối truyền thống anh hùng của cha anh, ngày nay, nhân dân Đồng Tái ngoài việc đồng tâm, đồng sức bảo vệ di tích, còn không ngừng học tập, hăng say lao động, sản xuất, góp phần xây dựng làng quê ngày một giàu đẹp, văn minh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 133 lượt xem
Chùa Dâu có tên chữ Hán là Sùng Thiên tự thuộc thôn Thị Đức, xã Nhật Tân (Gia Lộc). Từ xa đã thấy ngôi chùa uy nghiêm hiện ra giữa cánh đồng cùng với một vùng cây cối um tùm. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, kiến trúc đặc sắc, mang đậm dấu ấn Phật giáo. Xung quanh chùa có ao sen và dòng sông Hàn uốn lượn. Theo ngọc phả, chùa Dâu thờ đức thánh bà húy Phạm Trinh Hiến hiệu Tiên Dung công chúa có công âm phù Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán. Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, chống lại nhà Hán. Một lần tiến quân tới đất này, hai bà cho đóng quân doanh tại đây, đêm nằm mộng có người xưng là Tiên Dung công chúa nguyện âm phù đánh giặc. Ngày hôm sau hai bà mang quân đánh trận trên sông Hàn và giành thắng lợi vang dội. Hai Bà Trưng cho tướng sĩ và nhân dân địa phương ăn mừng rồi ra chiếu chỉ cho dân làng lập miếu thờ Tiên Dung, gia phong mỹ tự là Diệu Quang Huệ Tĩnh Ý Phạm Trinh Hiến phu nhân Thượng đẳng thần. Qua thời gian nhân dân đã xây dựng nơi đây thành ngôi chùa uy nghi vừa thờ Phật vừa thờ thánh. Chùa Dâu xưa có quy mô hơn 100 gian. Niên đại khởi dựng chùa chưa xác định được nhưng căn cứ các dấu tích gạch, ngói tìm có thể xác định chùa được làm cuối thời Lý, đầu thời Trần. Tuy nhiên do chiến tranh và thiên tai, đến nay, chùa Dâu đã mất đi nhiều hạng mục kiến trúc cổ. Hiện tại, chùa có kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Mái chùa có nhiều bức phù điêu với hoa văn tản vân, nhật, nguyệt đẹp mắt. Trong chùa có 12 pho tượng, chất liệu gỗ, sơn son thếp vàng. Ngoài hệ thống tượng Phật cổ kính, hậu cung còn một khám lớn, chất liệu gỗ, chạm khắc tinh xảo, bên trong có tượng của công chúa Tiên Dung. Tượng được tạc ở tư thế ngồi, khoan thai, nét mặt phúc hậu. Theo những người cao tuổi địa phương, toàn bộ hệ thống tượng trong chùa đều được tạc bằng gỗ dâu. Tương truyền, dòng sông Hàn cạnh chùa thường xuyên xảy ra lũ lụt. Một lần nước lớn, lũ từ thượng nguồn đổ về cuốn theo một bè gỗ dâu lớn, thớ vàng óng như tơ. Mọi người cho là điềm lành bèn vớt lên lấy gỗ tạc thành tượng. Từ đó chùa có tên gọi là chùa Dâu. Viếng thăm chùa Dâu mới thấy nơi đây còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như 2 tấm bia thời Lê, một số mảnh tháp nung, mảnh đất nung đầu chim phượng, đất nung hình đầu rồng cùng gạch, ngói có hoa văn niên đại từ thế kỷ 13-14. Độc đáo và đặc biệt nhất là tấm bia thời Trần được bài trí ngay trước sân chùa. Bia được tạo dựng năm 1331. Nội dung của văn bia do hòa thượng Huệ Văn, một người tu hành tại đây soạn, có khoảng 1.180 chữ. Đây là một tác phẩm độc đáo về nghệ thuật điêu khắc. Bia cao khoảng 1,5m, được đặt trên lưng rùa đá khá lớn. Mái bia cong vừa phải, thân bia có một đường diềm chạm khắc hình rồng và hoa dây. Trán bia được trang trí bằng nhiều lá và hoa sen sống động, gần gũi với thiên nhiên. Nổi bật ở mặt trước bia khắc chữ Phật lớn dạng chữ thảo. Dưới chữ Phật có chạm hai hình, một bên là chim hạc đứng, đầu đội ngọn nến đang cháy. Một bên là con quỷ hình người đội đỉnh hương. Dưới chân bia có chạm khắc các hoa văn hình sóng nước, hình núi. Mặt sau bia có khắc 3 chữ Hán “Sùng Thiên tự”, dưới ghi họ tên những người cung tiến ruộng, tiền tu sửa chùa. Không chỉ độc đáo về kiến trúc và lễ hội, chùa Dâu còn là một trong những “địa chỉ đỏ” quan trọng. Chùa Dâu là nơi ghi dấu nhiều sự kiện cách mạng. Trước Cách mạng Tháng 8.1945, Mặt trận Việt Minh có một cuộc họp tại chùa bàn về cướp chính quyền, phá kho thóc của giặc Nhật ở huyện Thanh Miện chia cho dân nghèo. Năm 1945, khi giặc Pháp đánh chiếm thị xã Hải Dương, Hội Liên Việt tỉnh chọn địa điểm nhà chùa là nơi sơ tán. Đến năm 1945-1950, bộ đội Tây Sơn của huyện Gia Lộc đã chọn ngôi chùa làm địa điểm mở lớp huấn luyện. Từ đây, quân ta tỏa đi hướng đường 17, đường 20 tiến hành các trận phục kích đánh địch trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1949-1953. Các năm 1951-1952, cán bộ, du kích các xã Phạm Kha, Lam Sơn cùng bộ đội đã chọn chùa làm cơ sở bám dân tiêu diệt địch, phá tề diệt ác ôn ở chợ Chương, chợ Ba Đông. Hiện trong chùa vẫn còn hầm bí mật từ thời kỳ trước. Chùa Dâu là nơi vừa thờ Phật lại vừa thờ thánh. Lễ hội truyền thống của chùa được mở vào ngày 8 đến ngày 10 tháng 8 âm lịch. Vào dịp này, nhân dân, du khách thập phương về tham dự rất đông. Với kiến trúc, giá trị đặc sắc, chùa đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1992. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 132 lượt xem
Trong không gian văn hóa tỉnh Bắc Giang, chùa Khám Lạng là một di tích cổ hiện lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật, tiêu biểu nhất là chiếc Hương án đá hoa sen thời Lê Sơ. Chùa Khám Lạng, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 53/QĐ-BVHTT ngày 2/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch). Ngôi chùa tọa lạc ở thôn Bến nhìn ra sông Lục Nam và dãy núi Huyền Đinh hùng vĩ. Đây là ngôi chùa cổ hiện còn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật, hiện nay chùa Khám Lạng còn bảo lưu một số tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử, văn hoá tiêu biểu nhất là chiếc hương án đá hoa sen thời Lê sơ. Trên hương án khắc dòng chữ “Thuận Thiên ngũ niên - Nhâm Tý niên” (tức là năm Nhâm Tý, niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (đời vua Lê Thái Tổ - 1432). Nhìn tổng thể phần mặt bệ hương án như một tòa sen lớn. Tại Bắc Giang, ngoài chùa Cao chưa tìm thấy nơi nào có hương án độc đáo như vậy. Với giá trị lịch sử văn hóa, giá trị mỹ thuật và tính độc đáo quý hiếm, hương án đá hoa sen chùa Khám Lạng đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia tại Quyết định số 2382/QĐ-TTg ngày 25/12/2015. Được biết, chùa Cao là công trình kiến trúc nghệ thuật thời Trần, năm 1999 được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Năm 2013, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp cùng Bảo tàng tỉnh tổ chức khai quật và đã phát hiện nhiều di vật như: Ngói mũi sen đơn, ngói mũi lá, ngói bò... có niên đại từ thời Lý, Trần đến thời Lê, Nguyễn. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Giang 89 lượt xem
Đình Cao Thượng nằm ở phía Đông-Nam núi Yên Ngựa, làng Cao Thượng, xã Cao Thượng, huyện Tân Yên (Bắc Giang). Là một ngôi đình cổ to đẹp lộng lẫy, bề thế nhất vùng Tân Yên. Nơi đây đã in đậm dấu chân của người Anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế cách đây 130 năm. Đình Cao Thượng gồm toà đại đình 5 gian 2 dĩ, hậu cung 3. Đây là một công trình kiến trúc tiêu biểu, mang đặc trưng phong cách nghệ thuật của thời Lê thế kỷ XVII. Ngôi đình có kiểu thức kiến trúc: thượng con chồng-giá chiêng, hạ con chồng cốn-kẻ với toà đại đình 5 gian 2 dĩ cao rộng, bề thế, trang nghiêm. Khoảng gian giữa rộng tới 4,50, gian cạnh rộng gần 4m, cột cái có chu vi hơn 2m, đường kính hơn 70cm, đủ thấy quy mô kiến trúc đồ sộ của ngôi đình. Chiều dài của đình tới hơn 24m, chiều rộng tới hơn 14m, diện tích đại đình rộng đúng một sào Bắc Bộ, quả là một công trình kiến trúc gỗ có quy mô lớn nhất vùng này. Với 4 mái xoải rộng, 4 đao cong vút, bờ nóc gắn hoa chanh. Riêng đầu hồi đắp mặt hổ phù, vốn là của những lần tu sửa đình vào thời Nguyễn. Riêng về kết cấu khung chịu lực, gồm 6 hàng chân cột, tổng cộng 48 cột có 8 cột cái cực kỳ lớn, hầu như không thấy ở đình nào của tỉnh Bắc Giang hiện nay. Đây là nét nổi trội nhất về mặt kiến trúc của đình Cao Thượng là nhiều cột và cột to. Cả 8 cột cái có 8 đầu dư, 8 cột này cao hơn 5m, cột quân cao 3,5m, và cột hiên cũng cao tới 2,7m. Toàn bộ nền đình lát gạch bát to 40 x 40 x 5cm, cao hơn mặt sân đình 45cm. Bó toàn gạch chỉ, 4 góc có 4 cột gạch đỡ mái xoải ra tới gần 2m. Tạo nên nét nhẹ nhàng, thanh thoát cho cả mái đình vốn đường bộ, uy nghiêm. Thông thường đình làng kiến trúc theo kiểu chữ Đinh nhưng đình Cao Thượng lại kiến trúc theo kiểu chữ Nhị với một tòa hậu cung một gian 2 dĩ, 4 mái đao cong, 4 hàng chân cột lim chắc chắn, có cửa cấm thâm nghiêm, liền kề mái trước và mái sau đình lớn. Kiểu kiến trúc gỗ độc đáo này đã tạo cho ngôi đình vừa bền vững, chắc khoẻ, đồ sộ mà bên trong lại cao thoáng và rộng rãi mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát, đẹp uy. Hiện nay, trong đình còn lưu giữ được một số đạo sắc phong với các niên đại khác nhau, gia phong hai vị Cao Sơn - Quý Minh là: Thượng đẳng thần.Việc thờ phụng thánh thần được dân làng tổ chức rất trọng thể và tôn nghiêm với đầy đủ các tiết lệ: xuân thu nhị kỳ: 12 tháng giêng và 20 tháng tám (âm lịch) đều có rước sách, tế lễ tưng bừng. Từ 12 đến 14 tháng giêng, hai làng Cao Thượng và Đầu Cầu đến mở hội lớn rước thánh từ đình Chanh và đình Trên về đình Chợ (đình Cao Thượng gần chợ nên còn gọi là đình Chợ). Hai làng tổ chức lễ tế rất lớn và hát ca trù thờ thánh. Bên ngoài đình có nhiều trò vui: đánh vật, cờ bỏi, chọi gà, nhảy phỗng…Lễ hội có hát tuồng, hát chèo, dân chúng xa gần nô nức đến hội và đã trở thành hội lệ rất thiêng liêng. Trong những năm chống thực dân Pháp, Hoàng Hoa Thám thường xuyên đến dự hội đình Cao Thượng và cho nghĩa quân góp vui. Khi giặc Pháp đốt đình Trên, Đề Thám đã bỏ công quỹ và cho nghĩa quân cùng dân làm lại đình mới. Ngôi đình không chỉ có giá trị về kiến trúc mà còn mang đậm dấu ấn lịch sử khi mà nghĩa quân cụ Đề Thám, bộ đội chủ lực của ta thời chống thực dân Pháp đã từng đóng quân tại ngôi đình này. Đặc biệt trong thời gian có phong trào khởi nghĩa Yên Thế, nghĩa quân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã có mối liên hệ rất mật thiết với làng Cao Thượng và đình Cao Thượng. Bởi thế, Đề Thám đã cho lập căn cứ trên núi Yên Ngựa thuộc khu vực đình Cao Thượng. Năm 1890, thực dân Pháp dò biết ở núi Yên Ngựa có quân của cụ Đề nên đã tổ chức lực lượng tấn công đánh nghĩa quân. Bị thất bại, chúng điên cuồng đốt phá đình, chùa và núi Yên Ngựa. Trong thời kỳ hòa hoãn lần thứ 2 giữa Pháp và Đề Thám (1897-1909), Đề Thám đã giúp dân tu sửa lại đình và dựng lại ngôi chùa trên nền chùa xưa. Những chứng tích lịch sử và quá khứ hào hùng của di tích đình Cao Thượng đã là niềm tự hào của cán bộ và nhân nơi đây. Ngoài những nét độc đáo về kiến trúc, chứng tích lịch sử, Đình Cao Thượng còn được biết với phiên chợ đặc biệt vào mùng 2 Tết hàng năm đó là "Phiên chợ Âm dương”. Theo người dân thôn Cao Thượng, xã Cao Thượng (Tân Yên) thì nói là đặc biệt bởi lẽ "Phiên chợ Âm dương” mỗi năm chỉ họp một lần ấn định vào ngày mùng 2 Tết. Người đi chợ đều vui vẻ, thoải mái về tinh thần, họ quan niệm rằng đó là dịp làm phúc, làm điều thiện với người đã chết và cuộc sống tâm linh của họ sẽ thanh thản hơn. Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc Đình Cao Thượng đã vinh dự được Chính phủ công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt năm 2012. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Giang 102 lượt xem
Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây gắn liền với chiến công vang dội của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám - vị thủ lĩnh áo nâu - đã cùng nhân dân Yên Thế dựng cờ khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp ngót 30 năm (1884 - 1913). Đây là phong trào khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Khu di tích lịch sử văn hoá về cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế đã tạo thành một quần thể di tích lịch sử có giá trị to lớn. Với 23 điểm di tích, hầu hết là những đồn lũy, đình, đền, chùa, miếu trải rộng trên địa bàn 4 huyện (Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng). Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế là bằng chứng thuyết phục cho tinh thần quả cảm, bất chấp hy sinh của nghĩa quân Đề Thám nhằm giành lại độc lập, tự do. Để ghi nhận, tôn vinh những giá trị và ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 548/QĐ-TTg xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đối với khu di tích này, trong đó huyện Yên Thế có 9 điểm gồm: đồn Phồn Xương, đồn Hố Chuối, chùa Lèo, đình Dĩnh Thép, chùa Thông, đồn Hom, động Thiên Thai, đền Cầu Khoai và Đền Thề. Trong đó, trung tâm của cuộc khởi nghĩa là Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. 1. Đền Thề Phía trước chúng ta là Đền Thề. Ngôi đền được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 bằng tranh, tre, nứa, lá. Năm 1897, khi cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế diễn ra tại đây, Đề Thám đã cho tu sửa lại ngôi đền có kiến trúc bằng gỗ lim như chúng ta thấy ngày nay. Kiến trúc này đến nay may mắn vẫn còn giữ nguyên vẹn. Sau khi sửa sang lại, Đề Thám thường dùng nơi này mở hội nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người dân. Đặc biệt, nơi đây ông thường làm nơi quy nạp nghĩa quân, chiêu mộ nhân tài. Trước mỗi trận đánh, ông thường cho nghĩa quân tập trung uống rượu cắt máu ăn thề tại đây. Tháng 5/2012, thủ tướng chính phủ ký quyết định công nhận 23 điểm di tích của cuộc khởi nghĩa Yên Thế là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và ngôi đền Thề là 1 trong 23 điểm di tích lịch sử quốc gia đặc biệt đó. 2. Tượng đài Hoàng Hoa Thám Nằm ngay sau ngôi đền Thề là tượng đài người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám. Tượng lúc đầu được làm bằng bê tông, sau chuyển sang chất liệu đồng vào năm 2013 do tác giả Anh Vũ – Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Giang sáng tác năm 1984. Tượng cao 5,07m, diện tích bề mặt 31m2, dày bình quân 2,0cm; bệ tượng có kích thước 2,1x2,1m, cao 0,32m, diện tích bề mặt 7m2, độ dày bình quân 2,5cm. Tượng có trọng lượng trên 7 tấn đồng nguyên khối, với trị giá trên 4 tỉ đồng, và hầu hết số tiền làm tượng là do xã hội hóa. 3. Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế Hạng mục tiếp theo trong khu di tích mà bất kể du khách nào đến đây không thể không ghé qua đó là Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế. Nhà trưng bày được xây dựng năm 1984, lúc đầu có kiến trúc là 1 tầng. Sau này được xây dựng và tu sửa lại và có kiến trúc 2 tầng như ngày nay. Tầng 1 trưng bày một góc dân tộc học huyện Yên Thế. Tầng 2 trưng bày những hình ảnh, hiện vật của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân tiêu biểu nhất, quy mô nhất và kéo dài nhất của dân tộc ta vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỷ 20 trước khi có Đảng CSVN ra đời. 4. Đồn Phồn Xương Đồn Phồn Xương còn có tên gọi là Đồn Gồ, Đồn Cụ, được xây dựng năm 1894, trấn giữ con đường độc đạo đi vào căn cứ nghĩa quân. Đây chính là đại bản doanh chính của nghĩa quân Yên Thế, là thủ phủ của cuộc khởi nghĩa, nơi bắt đầu để mở mang phong trào ra các địa phương. Đề Thám cho xây dựng Đồn Phồn Xương vừa là nơi ăn ở, sinh hoạt của gia đình Đề Thám cũng như của nghĩa quân, đồng thời đây cũng là nơi gặp gỡ, đàm đạo giữa Đề Thám và các anh hùng đương thời để bàn việc đánh giặc cứu nước (như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên, Kỳ Đồng…). Đặc biệt, đây là nơi diễn ra cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa nghĩa quân Yên Thế và giặc Pháp. Sau khi cuộc khởi nghĩa kết thúc, người dân Yên Thế đã xây dựng đền Bà Ba - vợ ba Hoàng Hoa Thám trong đồn Phồn Xương nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của Bà trong cuộc khởi nghĩa. 5. Lễ hội Yên Thế Lễ hội Yên Thế được tổ chức vào ngày 15, 16,17 tháng 3 dương lịch hàng năm. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của tỉnh Bắc Giang. Lễ hội là dịp để nhân dân bày tỏ lòng tôn kính cũng như tưởng nhớ công ơn Hoàng Hoa Thám, vị tướng tài năng, người thủ lĩnh tối cao của phong trào nông dân Yên Thế và nghĩa quân đã chiến đấu chống thực dân Pháp. Năm 2013 lễ hội Yên Thế đã được Nhà nước công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Giang 91 lượt xem
Di tích lịch sử quốc gia Đền Đươi thuộc địa phận xã Thống Nhất, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi thờ Quốc mẫu Nguyên phi Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan. Vương phi Ỷ Lan còn có tên gọi khác Linh Nhân Hoàng thái hậu, bà là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông và là thân mẫu của hoàng đế Lý Nhân Tông – hai vị vua triều nhà Lý (ở thế kỷ XI). Quốc mẫu Ỷ Lan được lịch sử tôn vinh là bậc nữ kiệt, có tài trị nước. Sinh thời, bà từng hai lần đăng đàn nhiếp chính, có nhiều công lớn gây dựng triều đình nhà Lý và phát triển Phật giáo Việt Nam. Với gần một nghìn năm tồn tại, đền Đươi đã trải qua những biến cố, thăng trầm thời cuộc, chịu ảnh hưởng của thiên nhiên, mưa nắng và chiến tranh tàn phá. Nhiều hạng mục của đền xuống cấp nghiêm trọng. Vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, di tích còn giữ lại các hạng mục công trình mang dấu ấn kiến trúc niên đại thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) và thời Nguyễn kiến trúc kiểu chữ “quốc”, bao gồm: các toà Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, hai dãy giải vũ nối 2 toà Tiền tế với Trung từ. Trong khuôn viên quần thể di tích còn có ngôi chùa Quỳnh Hoa, nhà mẫu cũng xuống cấp nghiêm trọng. Để đáp ứng mong mỏi và nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương và du khách thập phương, quần thể di tích đền Đươi được đầu tư tu bổ tôn tạo các hạng mục cơ bản, gồm: các tòa Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, hai dãy hành lang tả hữu, nghi môn nội và một số hạng mục phụ trợ. Toà Tiền tế gồm ba gian, kiến trúc kiểu chữ “nhất” với bốn vì kèo chính. Hệ thống cột, đầu dư, vì kèo làm bằng gỗ lim, kết cấu “chồng rường, giá chiêng” cùng các bức chạm khắc tinh xảo. Hai tòa Tiền tế và Trung từ của ngôi đền kết nối bởi hai dãy giải vũ, tạo thành một không gian khép kín. Toà hậu cung có ba gian, trong đó có một gian cung cấm, bài trí khám thờ và tượng Nguyên phi Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Đặc biệt, Đền Đươi còn lưu giữ được nhiều đồ thờ, tế tự và cổ vật có giá trị, như bốn bộ kiệu, một long đình, bốn ngai thờ, một bộ bát bửu, hai câu đối, một bát hương đồng và hai nghê đá từ thế kỷ XVII. Tiếp nối dấu ấn lịch sử xưa, tại di tích năm 1943 - 1944 đội tuyên truyền giải phóng quân cũng như đội tự vệ của xã thường xuyên tổ chức luyện tập quân sự để chuẩn bị cho cao trào cách mạng dân tộc như đồng chí Thiều, đồng chí Tuệ (hiện là cán bộ, giáo viên đã nghỉ hưu). Tháng 8/1945 cán bộ cách mạng và quần chúng đã tập trung ở đến tiến đi giành chính quyền ở huyện Gia Lộc rồi sau đó về tịch thu bằng, triện của bọn quan lại, cường hào, lý dịch, xóa bỏ chính quyền của bọn thực dân phong kiến. Chính quyền lâm thời được thành lập trong niềm vui mừng phấn khởi của nhân dân. Năm 1946, bọn thực dân Pháp quay súng trở lại xâm lược nước ta, thị đội Hải Dương sơ tán về đền kịp thời chỉ đạo cuộc kháng chiến. Đội du kích của xã đã lấy khu đền làm địa điểm luyện tập quân sự. Năm 1947 đồng chí Trần Dừa, trưởng ty công an và đội việt hùng đã về đền đóng để đi tiêu trừ bọn Việt gian phản quốc. Năm 1948, ủy ban kháng chiến huyện Cẩm Giàng và đơn vị bộ đội Quang Trung sơ tán về đền làm việc và luyện tập. Sau đó là ủy ban kháng chiến xã Thạch Khôi sơ tán về để giữ vững hoạt động. Tại khu di tích còn được đào các hầm bí mật để che giấu bảo vệ cán bộ, bộ đội. Có thể nói trong suốt hai cuộc kháng chiến đền Đươi xã Thống Nhất là cơ sở của cuộc kháng chiến ở địa phương và là đường dây liên lạc lên chiến khu Việt Bắc. Tưởng nhớ bà, hàng năm cứ đến ngày 12 tháng 2 âm lịch là ngày sinh; và 25 tháng 7 là ngày mất của bà, nhân dân địa phương lại tổ chức lễ hội để nhắc lại công lao, sự nghiệp của Vương mẫu Ỷ Lan cho mọi người ghi nhớ và học tập. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 91 lượt xem
Đền Cuối là nơi thờ tự An Nghĩa Đại Vương Nguyễn Chế Nghĩa – một là danh tướng đời nhà Trần, người con của làng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (nguyên là xã Cối Xuyên, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu). Ông sinh ra trong một gia đình có danh vọng. Từ nhỏ ông đã có sức khoẻ lạ thường, giỏi cỡi ngựa, sử dụng giáo dài, thiên văn và binh pháp đều tinh thông, đồng thời lại thích ngâm vịnh và làm thơ. Nhờ thông minh, có tài, lại đúng thời nhà Trần cần người tài giỏi nên ông được đầu quân dưới trướng Phạm Ngũ Lão và tham gia các trận đánh chống quân nhà Nguyên và ở ải Chi Lăng. Ra trận, ông cưỡi ngựa, cầm giáo xông vào giữa đám quân giặc, đánh đâu thắng đấy... Khi giặc dẹp xong, ông được cử làm Khống Bắc đại tướng quân, tước Nghĩa Xuyên Công. Nguyễn Chế Nghĩa được ghi nhận là người có tính tình trung hậu, thẳng thắn, không ngại gian lao, nên được coi là một tướng tâm phúc, tài giỏi của nhà Trần. Vua Anh Tông yêu mến, gả con gái yêu là công chúa Ngọc Hoa cho ông. Khi tuổi cao, ông về nghỉ tại quê nhà Hội Xuyên. Hiện nay nằm trong quần thể di tích đền Cuối còn có chùa La Khởi, giáo trường (nơi An Nghĩa Đại Vương Nguyễn Chế Nghĩa rèn luyện võ nghệ và môn đánh thó cho dân binh), ao chiêm tinh (nơi ngài xem thiên văn để dự đoán thời tiết chỉ cho dân chúng làm ăn) và khu lăng mộ. Sự tồn tại đến ngày nay của những di tích này là một điều hiếm hoi và đáng tự hào của người làng Cuối. Lăng công chúa Nguyệt Hoa (phu nhân đức thánh), lăng công tử Sùng Phúc (con trai đức thánh) và lăng phát tích (phụ mẫu đức thánh) được làm bằng đá xây kiểu long đình, có tường đá bao quanh, đến nay có niên đại mấy trăm năm. Riêng lăng đức thánh nằm ở phía bắc làng trên một gò cao, thế “bạch tượng quyển hồ” (voi trắng hút nước) rộng 2 sào được xây bằng gạch từ thời Trần vẫn còn nguyên vẹn. Trước lăng có táp môn trên đắp chữ vạn thọ, hai bên lối vào có rồng chầu, phía sau lăng đắp hình voi trắng. Trong lăng có bia đá khắc chữ hán. Tạm dịch: Mộ quan nhập nội thị, Thái úy, Phò mã đô úy triều Trần, tôn thần họ Nguyễn, tên Chế Nghĩa, người bản xã cùng công chúa Nguyệt Hoa sắc phong thành hoàng... Lịch sử đã lùi xa song với 31 đạo sắc phong trong 300 năm liên tục (triều Lê 21 đạo, triều Tây Sơn 2 đạo, triều Nguyễn 8 đạo), người dân Cối Xuyên luôn tự hào về vị anh hùng của quê hương mình. Lễ hội đền Cuối diễn ra trong 3 ngày, từ 26 đến 28 tháng 8 âm lịch, bắt nguồn từ ngày giỗ tướng Nguyễn Chế Nghĩa (27 tháng 8). Dù đã qua hơn 600 năm cùng bao biến đổi thăng trầm của lịch sử song cả phần lễ, phần hội ở đền Cuối vẫn lưu giữ được những nét độc đáo riêng. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 99 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3715 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3109 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2764 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2547 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2418 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2330 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2230 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2183 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2170 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2135 lượt xem