Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Khu căn cứ cách mạng K20 được coi là biểu tượng của tinh thần cách mạng kiên cường và bất khuất của người dân Đà Nẵng nói chung và của quận Ngũ Hành Sơn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu quốc. Tên gọi K20 – là mật danh để chỉ khu căn cứ cách mạng Đa Mặn, nơi cơ quan Quận uỷ Quận III và Thành uỷ Đà Nẵng trú đóng để lãnh đạo phong trào cách mạng. Vào năm 1965, tình hình ở Đa Mặn và Bắc Mỹ An nói riêng, thành phố Đà Nẵng nói chung là hết sức phức tạp, Mỹ bắt đầu đưa quân vào miền Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, xây dựng nhiều căn cứ quân sự lớn ở miền Nam, trong đó có Đà Nẵng. Mục tiêu của Mỹ là xây dựng Đà Nẵng thành một căn cứ quân sự liên hợp Hải, Lục, Không quân một cách chắc chắn, lâu dài, án ngữ phía Bắc; bảo vệ Thủ phủ của chế độ bù nhìn tay sai ở miền Nam, do đó Mỹ đã xây dựng thêm cầu qua sông Hàn, xây dựng sân bay lên thẳng ở Nước Mặn, mở rộng và củng cố sân bay Đà Nẵng và đưa 17 đơn vị Mỹ – Ngụy đến Đà Nẵng. Đối với Mỹ, đây là nơi có vị trí rất quan trọng, tập trung cơ sở vật chất cho cuộc chiến tại miền Trung. Còn đối với ta, khu căn cứ cách mạng K20 nằm trên địa bàn khu dân cư Đa Mặn 5, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, cách thành phố Đà Nẵng về phía Đông Nam khoảng 10 km; phía Đông Bắc giáp biển, phía Tây là dòng sông Hàn, phía Nam là đồng ruộng trũng và sông Vĩnh Điện; đồng thời tiếp giáp giữa huyện Hoà Vang và thành phố Đà Nẵng, là cửa ngõ chốt chặn và bảo vệ thành phố từ hướng Đông Nam. Sau hiệp định Giơ ne vơ, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã cho xây nhiều đồn bốt quanh Căn cứ Đa Mặn làm thành một vành đai quân sự khép kín và một bộ máy chính quyền tay sai ác ôn để kìm kẹp nhân dân và ngăn cản lực lượng cách mạng từ bên ngoài vào. Chính vì vậy Đa Mặn được coi là vùng đệm để bộ đội, cán bộ và du kích ta làm bàn đạp tấn công vào các căn cứ của Mỹ – Ngụy. Điều đó cho thấy K20 có một vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vùng đất “thép” để xây dựng và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng ngay trong lòng địch, điểm nối mạch liên lạc giữa cách mạng địa phương với vùng lân cận của thành phố và tỉnh Quảng Nam và là bàn đạp quan trọng để lực lượng vũ trang của ta đột kích vào các cứ điểm quân sự của địch. Cũng từ năm 1965, cán bộ Đảng, các cấp, các ngành và các lực lượng vũ trang vào nội thành Đà Nẵng để chỉ đạo phong trào cách mạng đều đi qua và trú lại căn cứ Nước Mặn, hoạt động ngay trong lòng địch, để tiếp tục xây dựng cơ sở, diệt ác phá kìm, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trong thành phố, bảo vệ an toàn cho căn cứ Nước Mặn, làm chủ từng phần các vùng phụ cận như Mà Đa, Đa Phước, Mỹ Thị. Câu hỏi đặt ra, ngay giữa lòng địch, những cán bộ cách mạng làm sao có thể giữ bí mật và chiến đấu trong vòng vây của kẻ thù? Lúc này, dựa vào dân được coi là vấn đề sống còn của cách mạng và trả lời cho câu hỏi cấp bách đó. Một trận địa dưới lòng đất được hình thành, đó là hệ thống các hầm, hào bí mật vững chắc đào ngay tại các nhà dân. Năm 1968, Quận uỷ Quận III do đồng chí Đặng Hồng Vân đã hướng dẫn cho người dân mô hình đào hầm bí mật, tạo thành một hệ thống hầm chằng chịt trong làng để nuôi giấu cán bộ cách mạng. Hàng trăm hộ dân tích cực ngày đêm đào hầm, tạo thành một hệ thống chặt chẽ. Mỗi hầm như thế nuôi bốn đến năm cán bộ cách mạng. Mặc dù kẻ địch mở rất nhiều đợt truy quét trong làng để tiêu diệt lực lượng nòng cốt nhưng chúng không tài nào phát hiện được. Hầm được đào ở khắp nơi trong nhà, dưới giường ngủ, ngoài vườn, ngoài hiên… tạo thành một thành luỹ vững chắc. Đá Mặn đã làm nên một trận địa cách mạng ngay trong lòng đất trong thời gian đó. Các căn hầm được nhân dân làm rất công phu. Miệng hầm và lối đi vào rất hẹp nhưng bên trong lại rộng đủ để cán bộ cách mạng sinh hoạt hằng ngày. Ngoài miệng hầm chính còn được làm thêm miệng hầm giả. Nếu có tay sai chỉ điểm, nhân dân sẽ đập vỡ miệng hầm giả làm gạch, đá rơi xuống bịt miệng hầm chính, vừa đánh lừa địch vừa báo hiệu cho bộ đội trốn thoát ra ngoài. Điểm nổi bật trong hệ thống công sự mật được xây dựng ở K20 giai đoạn này là có tính cơ động cao và quy mô lớn. Tại nhiều gia đình, hoặc giữa các gia đình lân cận, có các đường hầm nhánh kết nối, vừa có điều kiện che giấu được nhiều người đồng thời, tạo ra thế liên hoàn rất thuận lợi cho việc di chuyển, tránh được sự phát hiện, đánh quét của địch. Một trận địa trong lòng đất đã được xây dựng với một hệ thống dày đặc các hầm bí mật, có lúc lên tới 157 hầm. Hiện nay, vẫn còn lại một số các hầm bí mật tại các nhà thờ như nhà thờ ông Huỳnh Phiên, nhà thờ bà Nhiêu, nhà thờ tộc Huỳnh và nhà ông Huỳnh Trưng. Bốn địa điểm này đã được xếp hạng Di tích lịch sử trong khu Di tích lịch sử quốc gia K20. Nhờ hệ thống hầm bí mật này cộng với ý thức tự giác cách mạng, đoàn kết vì mục tiêu giải phóng quê hương, quân và dân K20 đã làm nên nhiều chiến công hiển hách. Tiêu biểu như: trận đánh vào sân bay Nước Mặn ngày 28/10/1965 do lực lượng vũ trang Thành đội Đà Nẵng thực hiện. Tổ chức thành công buổi lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa trùng vây kẻ thù, buổi lễ vẫn được tổ chức rất trịnh trọng, trang nghiêm và an toàn như thể đang diễn ra ở vùng giải phóng. Đặc biệt, sáng ngày 29/3/1975, nhân dân K20 phối hợp với lực lượng vũ trang Quảng Đà đồng loạt nổi dậy và tấn công vào tất cả các cơ sở của Mỹ – Ngụy trên địa bàn. 9 giờ sáng, cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã được cắm trên sân bay Nước Mặn, báo hiệu sự thắng lợi hoàn toàn của quân dân khu căn cứ, góp phần hoàn thành xuất sắc sự nghiệp giải phóng dân tộc với vai trò và chức năng là một căn cứ kháng chiến trong lòng địch. Nguồn: Báo điện tử Đà Nẵng
Đà Nẵng 1690 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 7484 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6988 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4887 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4776 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4414 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4172 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4055 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3895 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3882 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3742 lượt xem
Đà Nẵng đã biến mình thành điểm đến du lịch và nghỉ dưỡng thú vị, không còn là vùng đất miền Trung cằn cọc như trước. Hãy khám phá và thưởng thức những trải nghiệm đặc sắc tại địa điểm du lịch Đà Nẵng – Bà Nà Hills. Khu mua sắm tại địa điểm du lịch Đà Nẵng – Bà Nà Hills có đến 20 cửa hàng lưu niệm, cung cấp hơn 2.000 sản phẩm đa dạng. Chúng phân bố khắp khu du lịch, từ nhà ga, khu trưng bày tượng sáp, đến nhà hàng Doumer và Fantasy Park… Tại đây, bạn có thể dễ dàng tìm thấy những món quà lưu niệm độc đáo và ý nghĩa để tặng người thân như tranh đá quý, tranh cát, tranh đá cuội, tranh thêu, tranh sơn mài, tranh giấy cuộn, xếp giấy origami, váy vẽ bằng tay… Ngoài ra, bạn cũng có thể chọn lựa những món quà cao cấp như bức tranh khắc tượng 3D, dòng mỹ phẩm, tinh dầu cao cấp được sản xuất riêng cho Bà Nà… Đặc biệt tại French Village, có khu mua sắm với đầy đủ mọi ngành hàng cao cấp từ thời trang, mỹ phẩm, trang sức, túi xách hàng hiệu. Sau khi trải nghiệm các điểm đến Đà Nẵng tại công viên Fantasy hay vườn hoa Tình yêu, hãy ghé khu ẩm thực châu Âu sang trọng để thưởng thức những món ngon độc đáo. Bạn có thể thưởng thức các món ăn nhanh, đồ nướng từ các nhà hàng nổi tiếng như Morin, Kavkaz, Buffet Club, La Crique&Café Postal, KavKaz Vista… Quảng Trường Du Dôme tọa lạc trên đỉnh Lâu Đài Trung Cổ trong công viên Fantasy, với kiến trúc sáng tạo và tầm nhìn bao quát toàn cảnh núi Bà Nà. Bốn cột cao lớn và gam màu cổ điển tại quảng trường ẩm thực này đưa bạn trở về thời kì Trung Cổ. Để trải nghiệm đầy đủ vẻ đẹp của Bà Nà qua đêm, bạn có thể lưu trú tại các khách sạn 3 sao, 4 sao. Những địa điểm này cung cấp không gian sang trọng, phòng ốc thoải mái và nhiều dịch vụ tốt. Khách Sạn Morin 3 sao, French Village 4 sao mang đến kiến trúc riêng biệt nhưng chung là sự sang trọng theo phong cách Pháp cổ điển, trang nhã. Nội thất được trang trí tỉ mỉ, với tầm nhìn đẹp và lò sưởi trong từng phòng, đảm bảo ấm cúng trong những đêm đông lạnh giá. Mua sắm, thưởng thức ẩm thực và trải nghiệm nghỉ dưỡng là ba trải nghiệm tuyệt vời để khám phá vẻ đẹp hùng vĩ trên đỉnh núi Bà Nà.
Đà Nẵng 2062 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cầu Vàng với sự nâng đỡ của những bàn tay khổng lồ đang được chia sẻ một cách chóng mặt trên những trang mạng xã hội, các cộng đồng du lịch, khiến nhiều người không khỏi ngỡ ngàng. Cầu Vàng (Golden Bridge), một công trình mới của Sun World Bà Nà Hills. Được khởi công xây dựng vào 07/2017 tới 04/2018 thì hoàn thành, thời gian gần đây đã đi vào hoạt động và đón những lượt khách tham quan du lịch Đà Nẵng đầu tiên. Sở hữu thiết kế vô cùng độc đáo và mới lạ, chưa từng có ở Việt Nam, cây câu được xây dựng tại độ cao hơn 1.400 mét so với mực nước biển, tổng chiều dài vào khoảng 150 mét, với 8 nhịp cầu, nhịp lớn nhất là 21.2 mét. Mặt cầu được làm bằng gỗ kiềng rộng 3 mét, dày 5 cm, dọc hai bên lối đi được trồng rất nhiều hoa Nữ hoàng Xanh, bên trên là phần lan can được làm bằng inox mạ vàng. Có thể thấy cây cầu này được thiết kế và tạo hình giống với hình tượng một người phụ nữ đang dùng đôi bàn tay của mình để nâng đỡ một dải lụa vàng vắt ngang. Với hình ảnh độc đáo, cầu vàng ở Bà Nà Hills đã khiến không ít người phải ngỡ ngàng và nể phục sự sáng tạo của những người thiết kế và xây dựng công trình này. Không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của công trình độc đáo này, tới đây bạn sẽ được thỏa sức ngắm nhìn cảnh đẹp hùng vĩ đầy ngoạn mục của núi rừng xung quanh. Cảm giác đi dạo trên những tầng mây lơ lừng, ngắm nhìn cảnh đẹp bên dưới sẽ là trải nghiệm vô cùng tuyệt vời đối với nhiều du khách. Rất nhiều những tấm hình đẹp đã được du khách tới đây chụp lại, nhiều người xem cứ ngỡ đây là một địa điểm du lịch nào đó của nước ngoài. Nhưng khi biết đó là cầu Vàng trên đỉnh Bà Nà mọi người vô cùng ngạc nhiên và thích thú muốn tìm đến ngay để chiêm ngưỡng cảnh đẹp này. Có thể thấy Đà Nẵng không chỉ sở hữu những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú mà những công trình được xây dựng từ chính khối óc và bàn tay con người cũng được thể hiện tại thành phố này một cách vô cùng độc đáo, trong đó không thể không nhắc tới cầu Vàng ở Đà Nẵng một công trình mang tính nghệ thuật cao.
Đà Nẵng 2563 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Núi Ngũ Hành Sơn – địa điểm du lịch Đà Nẵng ấn tượng hay còn được người dân nơi đây gọi với tên núi Non Nước, được hình thành bởi quần thể năm ngọn núi đá vôi theo Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả – Thổ với nhiều câu chuyện huyền thoại đến nay vẫn còn âm vang. Tên núi Non Nước đã có từ rất lâu đời và được đi vào những câu ca của người dân địa phương “ Chiều chiều mây phủ Sơn Trà, Sấm rền Non Nước trời đà chuyển mưa”. Du khách khi đến đây sẽ ngỡ ngàng trước khung cảnh thiên nhiên kì vĩ, huyền ảo mà tạo hoá ưu ái ban tặng cho nơi đây. Ngũ Hành Sơn nằm trên một bãi cát trắng mịn rộng lớn mênh mông gần bờ biển kéo dài từ bán đảo Cát Tiên Sa về biển Non Nước, thuộc làng Hoà Khuê, ấp Sơn Thuỷ, huyện Hoà Vang nay thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng chưa đến 8 km đường lái xe về hướng Đông Nam. Ngũ Hành Sơn nổi tiếng khắp cả nước với vẻ đẹp có một không hai của một vùng trời biển, non nước với những giá trị lịch sử văn hoá, tâm linh sâu sắc lâu đời. Dạo chơi trên các dãy núi của Ngũ Hành Sơn, du khách có thể thoải mái nhặt các loại đá cẩm thạch đẹp mắt mà điều thú vị ở đây là mỗi ngọn núi lại có một màu đá khác nhau, như đá ở Kim Sơn màu xanh nước biển trầm mặc, đá ở Thổ Sơn lại là màu nâu đất, đá ở Mộc Sơn sở hữu sắc trắng trong, đá ở Thuỷ Sơn điểm màu hồng phấn và đá Hoả Sơn có màu đỏ rực, mỗi loại đá là một màu tương ứng với ngũ hành trong phong thủy của người Phương Đông và có lẽ tên của năm ngọn núi ấy cũng được đặt bởi lẽ đó. Ngũ Hành Sơn không chỉ đa dạng về đá quý mà còn có rất nhiều loại thảo mộc quý hiếm có giá trị cao như: thiên tuế, cảnh thiên, mộc tê, thạch trường sanh, cung nhân thảo, thử lý. Đến Ngũ Hành Sơn – một trong những địa điểm du lịch Đà Nẵng du khách còn được trau dồi thêm kiến thức về nhiều loài động vật phong phú loài dơi, chim hải yến, khỉ dộc hiền,… vừa bước chậm rãi, vừa hít thở bầu không khí trong lành, thoáng đãng lại vừa được ngắm nhìn nhiều loài hoa rừng đa màu sắc toả hương thơm ngát mà đa phần là phong lan rừng thì còn cái thú nào hơn. Mảnh đất Ngũ Hành Sơn ấy không chỉ là huyền thoại, không chỉ là ngũ hành, tâm linh, không chỉ là mảnh đất thiên phú, địa linh mà còn là mảnh ghép lịch sử, gắn liền với những con người, những tên tuổi đã đi vào sử sách. Du khách sẽ được viếng thăm mộ mẹ tướng quân Trần Quang Diệu cùng đền thờ công chúa Ngọc Lan – em gái của nhà vua Minh Mạng hay tới thăm những bút tích thi ca thời vua Lê, Trần được in tại các vách đá đã phủ kín rêu phong theo dòng luân chuyển của thời gian, tất cả làm nên một minh chứng hùng hồn về một Ngũ Hành Sơn huyền thoại, về vùng đất địa linh nhân kiệt. Đi men theo những con đường mòn, du khách đam mê khám phá sẽ có cơ hội đến tham quan hệ thống hang động kì thú độc đáo, là những cảnh đẹp có một không hai tại đây. Để khám phá và chiêm ngưỡng hết số hang động chính của Ngũ Hành Sơn, du khách sẽ phải đầu tư 2 đến 4 ngày với lịch trình dày đặc như tham quan động Quan Âm của Kim Sơn, động Huyền Vi của Hoả Sơn hay động Âm Phủ, Linh Nha, Huyền Không, Vân Thông, Thiên Long, Thiên Phước Địa của Thuỷ Sơn, du khách sẽ được trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau khi đi tới các hang động ấy. Theo đánh giá của rất nhiều khách du lịch thì nổi trội hơn tất cả là động Âm Phủ, động Huyền Không và động Vân Thông. Động Âm Phủ của núi Kim Sơn với nhiều truyền thuyết vừa thực vừa ảo, từ lâu đã lan truyền khắp nơi, vốn dĩ vạn vật luôn tồn tại hai chiều đối lập: ngày thì phải có đêm, con người có sinh thì ắt sẽ có tử, có thiên đàng thì phải có địa ngục bởi thế động có hai ngách lên trời và xuống âm phủ. Động được đặt tên như vậy từ thời vua Minh Mạng đầu thế kỉ thứ 19, khi nhà vua vi hành đến ngọn núi này. Âm phủ vốn được hiểu là thế giới của người chết nhưng theo đạo Phật chết không phải là hết mà là chuyển tiếp để đầu thai về với cảnh giới khác. Thiện ác đến đây đều sẽ được phân minh rõ ràng trắng đen. Động Huyền Không tại địa điểm du lịch tại Đà Nẵng là một động lộ thiên nền bằng phẳng, vòm hình tròn có 5 lỗ thông khí ra bên ngoài, vào những ngày nắng, động bừng lên luồng ánh sáng tự nhiên tràn vào tạo nên không gian huyền bí lung linh. Trên cao nhất có thờ tượng Phật Thích Ca, bên dưới là bàn thờ Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát, bên trái thờ bà Chúa Tiên là nơi du khách làm ăn buôn bán đến cầu tài, cầu lộc, đền thờ bà Chúa Thượng Ngàn là nơi du khách đa phần đến để cầu xin sức khoẻ, sự bình an. Quanh vòm động có nhiều đá bám vào vách tạo nên những hình thù kì lạ như: khuôn mặt ông già, hình chim hạc, đà điểu, hình hai chiếc đầu voi với chiếc vòi thả thõng xuống phía mặt đất, hình con cò với chiếc mỏ dài nhọn ép vào thành động… Động Vân Thông nằm gọn trong lòng núi hình tròn đường ống chếch lên phía ngọn núi, trong động có lưu lại một tấm bia đá với 3 chữ cổ “ Ngũ Uẩn Sơn”, giữa động có một tượng Phật rất lớn, sau lưng là đường đi lên động, càng vào sâu càng hẹp và hướng lên đỉnh núi, người thăm quan phải bám vào các tảng đá mới lên được. Cuối động là cửa thông ra ngoài chừng bằng cái nong với đường kính khoảng 1 mét, từ trên đỉnh có ánh sáng rọi vào tạo ánh hào quang rực rỡ mà huyền ảo. Khi du khách đứng ở Vọng Giang Đài trên ngọn Thuỷ Sơn có thể phóng tầm mắt ra xa nhìn thấy con sông nổi tiếng đã từng đi vào thơ ca con sông Trường Giang với dòng nước xanh biếc, trải dài mênh mông bát ngát. Ngoài vẻ đẹp trùng điệp với các hang động huyền bí, Ngũ Hành Sơn còn được nhắc đến nhiều với những ngôi chùa có thế tựa lưng vào núi, tuy nằm không quá cao nhưng không gian rất thanh bình, yên tĩnh, linh thiêng. Trên núi Kim Sơn có chùa ở động Quan Âm, núi Hoả Sơn có chùa Linh Sơn, Thổ Sơn có chùa Long Hoa, chùa Hụệ Quang, núi Thuỷ Sơn lại có chùa Tam Thai. Chùa Tam Thai tại địa điểm du lịch Đà Nẵng là ngôi chùa cổ và di tích Phật giáo, chánh điện thờ Phật Di Lặc bằng đồng lớn ngồi trên toà sen, hai bên thờ tượng Quan Thánh và Bồ Tát. Chùa cũng là nơi có nhiều khách hành hương thăm viếng, cầu phật vào các dịp lễ tết. Viếng thăm các chùa, lặng yên đứng nhìn không gian với núi non, cây cối xanh mượt, hít thở bầu không khí thanh tịnh nơi cửa chùa, du khách sẽ cảm thấy đầu óc thư giãn, một phút tĩnh lặng thả tâm hồn phiêu lãng, hoà hợp vào đất trời hiếm có trong cuộc sống tấp nập nơi đô thị ồn ào.
Đà Nẵng 1935 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Du lịch bán đảo Sơn Trà là hoạt động không chỉ thu hút khách du lịch mà còn là mối quan tâm lớn của các nhà khoa học. Sở dĩ du lịch bán đảo Sơn Trà có sức hấp dẫn lớn đến vậy là vì nơi đây có hệ sinh thái động thực vật đa dạng, chứa đựng nhiều “câu chuyện” chưa được kể hết.
Đà Nẵng 2120 lượt xem
Với vị trí trung tâm thuận lợi ngay gần bãi tắm Phạm Văn Đồng, bãi biển Mỹ Khê – Một trong những bãi biển quyến rũ nhất hành tinh, công viên Biển Đông là một địa điểm thăm quan không chỉ hấp dẫn với người dân trong thành phố mà còn với nhiều du khách khi du lịch thành phố Đà Nẵng với nhiều hoạt động thú vị và sôi động diễn ra hàng ngày. Công viên có vị trí địa lý hướng thẳng tầm nhìn ra biển Đông và quần đảo Hoàng Sa nên người dân thành phố đặt tên công viên là Biển Đông như một cách để thể hiện niềm tự hào, lòng yêu nước và khẳng định chủ quyền dân tộc. Ngoài ra, công viên còn được mệnh danh với nhiều tên gọi khác nhau như “Công viên hoà bình”, “Công viên tình yêu” hay “Công viên của lễ hội”. Mỗi một cái tên lại phần nào thể hiện một đặc điểm độc đáo của địa điểm thăm quan này. Một trong những điểm đặc biệt thu hút du khách đến với công viên Biển Đông chính là hàng nghìn con bồ câu trắng tung cánh rợp bóng trời. Đến đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hình ảnh những đàn chim bồ câu chao lượn trên không trung rồi lại sà xuống nhẹ nhàng bên khoảng sân rộng sát kế mênh mông sóng biển Mỹ Khê, tạo nên một hình ảnh vô cùng đẹp và thanh bình ngay giữa lòng thành phố. Ngoài ra, bạn cũng có thể cho chúng ăn, hoà nhịp và vui đùa với những chú bồ câu thân thiện này để “tìm lại” những cảm giác bình yên và thư thái trong tâm hồn. Đây chắc chắn sẽ là những trải nghiệm bạn không nên bỏ qua khi đến với Công viên Biển Đông – Đà Nẵng. Không chỉ được mệnh danh là “Công viên Hoà Bình”, người dân nơi đây còn ví công viên Biển Đông là “công viên tình yêu” có lẽ bởi khung cảnh vô cùng lãng mạn và nên thơ của công viên có sức hút kỳ diệu với tất cả mọi người. Những hàng dừa xanh rì đung đưa trong gió bên bờ biển xanh trong và bãi cát vàng lung linh óng ánh nhuộm màu nắng trải dài đến bờ cỏ xanh mượt, tất cả như hoà quyện và tạo nên một không gian thiên nhiên thơ mộng, thu hút nhiều cặp đôi đến ngắm cảnh, hẹn hò cũng như chọn làm địa điểm chụp ảnh cưới, ghi dấu hạnh phúc trăm năm của mình. Từ đây, du khách cũng có thể phóng tầm mắt ra xa và ngắm cảnh những đoàn thuyền đánh cá, chiếc tàu chở dầu đang hoạt động bình yên trên vùng biển quê hương hay nhìn về phía Đông Bắc, trên bán đảo Sơn Trà là tượng Phật Bà Quan Âm cao nhất Việt Nam. Hơn nữa, công viên Biển Đông còn là nơi tổ chức nhiều lễ hội, liên hoan ẩm thực, sự kiện văn hóa, triển lãm và tham gia các hoạt động teambuilding, gameshow và thể thao sôi nổi như như lướt sóng, kayaking, dù lượn trên không,…. Các tiện ích công cộng của công viên cũng dần được trang bị một cách hoàn thiện để phục vụ du khách từ mọi nơi.
Đà Nẵng 2526 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Có thể nói Đà Nẵng là nơi được thiên nhiên ưu đãi ban tặng nhiều cảnh vật núi sông. Đà Nẵng có biển, có sông, và có rừng núi hoang sơ hùng vĩ. Núi Thần Tài được bao bọc bởi núi Thanh Long và núi Bạch Hổ, nằm trong khuôn viên của khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà Núi Chúa, thuộc thôn Phú Túc, xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Tại ngọn núi này, tận sâu dưới lòng đất hàng ngàn mét là sự đứt gãy, biến dạng của của các lớp nham thạch do sự chuyển động mạnh của lớp vỏ trái đất. Sự biến chuyển dữ dội dưới lòng đất gây nhiệt độ áp suất lớn làm phun trào những mạch nước khoáng nóng qua khe đá, tạo nên suối nước nóng quý của thiên nhiên. Tận dụng nguồn quý của thiên nhiên ban tặng, núi Thần Tài đã được khai thác thành một khu du lịch sinh thái hoành tráng. Công viên Suối khoáng nóng núi Thần Tài (Hot Springs Park) là một địa điểm du lịch ở Đà Nẵng hấp dẫn cho khách du lịch giải nhiệt mùa hè, cũng như là nơi tận hưởng nghỉ dưỡng tốt cho sức khỏe. Nằm về phía tây của thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km, công viên suối khoáng nóng núi Thần tài không khó tìm đối với du khách. Đến đây, bạn có thể đi theo tour du lịch, hoặc có thể làm một chuyến đi tự túc vì đường tìm đến đây khá dễ dàng. Các bạn trẻ thường thiết kế cho mình những chuyến phượt ngắn để đến đây xõa hơi cùng bạn bè. Chỉ cần chạy dọc theo quốc lộ 14B, hướng lên huyện miền núi Đông Giang sau khi đến ngã ba Túy Loan thì bạn sẽ đến nơi. Vì khá gần Bà Nà Hills nên thường thì du khách sẽ kết hợp lộ trình du lịch đến đây. Suối khoáng nóng tự nhiên là điểm đặc biệt và độc đáo nhất mà khu du lịch núi Thần Tài sở hữu. Loại hình này là lợi thế đối với khu du lịch này, khi mà trước đó Đà Nẵng chỉ đầu tư về du lịch biển, cù lao, rừng núi hay khu du lịch sinh thái. Suối khoáng nóng có thể nói là lý do chính yếu của bất kỳ du khách nào đặt chân đến nơi đây. Công viên suối khoáng nóng núi Thần Tài sẽ cho du khách được tận hưởng và trải nghiệm tắm khoáng nóng theo phong cách tắm tiên của Nhật Bản (tắm Onsen). Được biết, đây là một hoạt động vô cùng có lợi cho sức khỏe của bạn. Tắm khoáng nóng là giải pháp tốt nhất để điều hòa và bài tiết cơ thể, giải độc trong người, làm đẹp cho làn da của bạn. Đối với chị em phụ nữ, thì suối khoáng nóng Thần Tài luôn là sự lựa chọn đầu tiên. Thấu hiểu nhu cầu của chị em, núi Thần Tài giảm giá thường xuyên vào những dịp lễ, Tết, đặc biệt vào các ngày lễ dành cho chị em phụ nữ như 8/3 hay 20/10. Không cần đến một loại mỹ phẩm đắt tiền nào, không cần đến những trị liệu hóa học cho làn da nhạy cảm, đến với suối khoáng nóng là sự lựa chọn hợp túi tiền nhất và hiệu quả nhất. Nước suối khoáng nóng là tác dụng tổng hợp của ba liệu pháp điều trị vật lý, đó là: thủy trị liệu, nhiệt trị liệu và khoáng trị liệu. Còn gì tuyệt vời hơn khi được đến đây, đắm mình trong dòng khoáng nóng, lắng nghe tiếng chim ríu rít của khu rừng nhiệt đới, hít hà mùi của rừng già, phiêu lãng thả hồn cùng khung cảnh tuyệt đẹp đồng điệu cùng thiên nhiên. Những mệt mỏi căng thẳng của đời thường sẽ trong thoáng chốc sẽ vụt biến đi, để lại những khoảng lặng thảnh thơi cho tâm hồn.
Đà Nẵng 2186 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
27, Võ Văn Kiệt, Quận Sơn Trà, Đà Nẵng, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
An Sơn, Hòa Ninh, Huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
Premier Village Danang Resort, 99 Võ Nguyên Giáp, Bắc Mỹ An, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng 550000, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
16 Đường Mỹ Đa Tây 2 Khuê Mỹ, Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Giảm giá 5% 63Stravel Vip
402 Điện Biên Phủ, Hòa Khê, Thanh Khê, Đà Nẵng
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
296 Võ Nguyên Giáp, Bắc Mỹ Phú, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
100 Lê Quang Đạo, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
30 Tháng 4, Lê Thanh Nghị, Hoà Cường Bắc, Hải Châu, Đà Nẵng.
Hiệp hội du lịch Đà Nẵng
Giảm giá 10% 63Stravel Vip