Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đền Phù Ủng toạ lạc ở làng Phù Ủng, xã Phù Ủng. Đây là một quần thể kiến trúc đồ sộ, phong phú và độc đáo gồm phần chính đền và nhiều công trình phụ trợ hợp thành, được phân bố dải rác, xen kẽ với khu dân cư. Theo thuyết phong thuỷ, cụm di tích được xây dựng trên khu đất đầu rồng, là nơi dương trạch tốt với thế đất “Thất linh ứng hậu, hình nhân bái tướng, voi quỳ ngựa phục, bên bút bên nghiên, bên cờ bên kiếm, ở giữa có mô hòn ngọc, cạnh dòng sông Cửu Yên như rồng uốn khúc, mà đầu rồng là khu đất dựng đền nhô hẳn ra khỏi làng”. Đền Phù Ủng thờ Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), một danh tướng văn võ song toàn, được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn hết sức tin cậy, rèn luyện, tiến cử với triều đình và trở thành vị tướng phò tá 3 đời vua nhà Trần. Ông sinh ra tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Đông (nay là thôn Phù Ủng, xã Phù Ủng). Cuộc đời ông gắn liền với chiến trận và những chiến công vang dội, hiển hách góp phần cùng với quân dân nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lược, đem lại thái bình cho đất nước và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ vua ban ở Thăng Long và được nhà vua phong là “Thượng đẳng phúc thần”. Ngôi đền là một quần thể di tích có kiến trúc đồ sộ, quy mô rộng lớn khá hoàn chỉnh được chia làm hai khu: Khu trong và khu ngoài. Khu ngoài gồm đền thờ chính Điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão. Chính điện gồm 5 gian Tiền tế, ống muống và 03 gian Hậu cung đặt tượng thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão, được đúc bằng đồng có niên đại thời Nguyễn nặng 300kg ở tư thế ngồi; Bên trái là Lăng thờ Đức Tiên Công, bên kia đường là điện thờ Nhũ mẫu; Khuê Văn Các kết cấu hình bát giác… Khu trong được bố cục theo kiểu “Tiền Thần hậu Phật” gồm đền thờ công chúa Tĩnh Tuệ (con gái Phạm Ngũ Lão), chùa Bảo Sơn (Cảm Ân tự), lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng được làm bằng đá xanh với kiến trúc nghệ thuật chạm khắc đá tiêu biểu, đặc sắc thời Hậu Lê thế kỷ XVII. Hiện nay, tại quần thể di tích đền Phù Ủng còn lưu giữ một số hiện vật có giá trị về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật đó là hệ thống điêu khắc đá, tượng đồng, đại tự, câu đối, chén bạc thời Nguyễn, sắc phong,… Lễ hội truyền thống đền Phù Ủng được tổ chức từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch, để kỷ niệm ngày ra quân của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Trong lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội kết hợp vừa trang trọng, tôn nghiêm, vừa rộn ràng, vui tươi. Đây là một trong những lễ hội đầu xuân lớn của tỉnh thu hút đông đảo Nhân dân tham gia. Phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian như: Cờ tướng, chọi gà, múa rối, kéo co, hát quan họ, xin chữ đầu xuân, hội thi vật cù, nhảy mô đống… thu hút đông đảo du khách đến xem và tham gia. Bên cạnh các trò chơi dân gian, một số hoạt động thể thao như: bóng chuyền, cầu lông, cờ tướng… diễn ra sôi nổi giúp người dân được hòa mình vào lễ hội cũng như có dịp vui chơi, nghỉ ngơi, cầu mong một năm làm việc may mắn. Lễ hội mang đậm giá trị văn hóa sâu sắc, đây không chỉ là dịp tưởng nhớ công lao của danh tướng họ Phạm mà còn giáo dục cho những thế hệ sau về ý chí vươn lên, về lòng yêu nước, minh chứng về nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Từ những giá trị tiêu biểu, đặc sắc đó khu di tích đền Phù Ủng được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích “Lịch sử” cấp Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16/11/1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi , tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 553 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia.
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6802 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6172 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4121 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4055 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3814 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3741 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3632 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3358 lượt xem
Nằm giáp con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, thuộc thành phố Hưng Yên, văn miếu Xích Đằng hay còn gọi là văn miếu Hưng Yên, là một di tích quan trọng trong quần thể cụm di tích Phố Hiến. Văn miếu được xây dựng vào năm 1832, trải qua gần 400 năm tồn tại và ghi danh 161 vị đỗ đại khoa của trấn Sơn Nam thượng, văn miếu đã trở thành một biểu tượng về truyền thống hiếu học của người dân mảnh đất “Nhất kinh kì, nhì Phố Hiến”. Dù nằm trong khu dân cư, nhưng đi ngay trên cầu Yên Lệnh, thuộc quốc lộ 38 nối Hà Nam với Hưng Yên có thể quan sát được văn miếu Xích Đằng từ hai cây gạo đã có hàng trăm năm tuổi được trồng trước cổng. Nằm trên đường dẫn vào còn có tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ XVIII. Tam quan hay còn gọi là cổng nghi môn là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương. Thay vì lầu trống như ở các văn miếu Quốc tử giám, văn miếu Mao Điền, ở văn miếu Xích Đằng lầu trống được thay vào bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ XVIII. Phía trong cổng có sân rộng, ở giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân có lầu chuông và lầu khánh cùng 2 dãy tả vu, hữu vu. Hai dãy này hiện nay được dùng để trưng bày các hình ảnh và hiện vật liên quan đến giáo dục của tỉnh Hưng Yên. Văn miếu Xích Đằng kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”, mặt chính quay về hướng Nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, cấu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn. Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa, trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.
Hưng Yên 1618 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc đến Hưng Yên là nhắc đến một mảnh đất với rất nhiều địa điểm cho du khách có thể tham quan du lịch. Du lịch Hưng Yên nổi tiếng với các loại hình du lịch như du lịch văn hóa tâm linh, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch làng nghề. Một số những địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng có thể kể đến như làng Nôm, phố Nối, vườn hoa cúc chi, đền Trần,…Đặc biệt không thể không kể đến địa điểm tâm linh nổi tiếng ở mảnh đất này đó là đền thờ Chử Đồng Tử. Đền được xây dựng trên một khu đất cao hình chữ nhật, và có lịch sử khá lâu đời. Đền thờ Đức thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân Tiên Dung công chúa và Tây Sa công chúa. Nơi đây gắn liền với truyền thuyết về tình yêu và đồng thơi gắn với những chiến công lừng lẫy của dân tộc ta như cuộc chiến của Quang Phục chống lại quân Lương; Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi chống quân Minh; nhiều phong trào khởi nghĩa trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,… Đền gồm 2 khu là đền Dạ Trạch và đền Đa Hòa, hai khu đền này cách nhau không quá xa và đều nằm ở huyện Khoái Châu. Tổng diện tích của đền là 18 720 m vuông, bao gồm 18 nóc nhà lớn nhỏ khác nhau. Hai ngôi đền này đều đã được nhà nước chứng nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia. Ngôi đền thu hút các du khách không chỉ bởi vẻ bề ngoài cổ kính rêu phong mà những pho tượng cũng là một trong những nét nổi bật đáng chú ý tại đền. Tiêu biểu là pho tượng đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân đặt ở hậu cung, tượng được đúc bằng đồng, được sơn màu, kẻ mắt rất tinh xảo, và hiện nay thì có ba pho tượng như thế được đặt tại cung Đệ Tam. Du khách có thể lựa chọn đến đây từ 10 đến 12 tháng 2 âm lịch hằng năm, để không chỉ có thể vãn cảnh ngôi đền mà còn có thể tham gia vào lễ hội Chử Đồng Tử. Lễ hội này được tổ chức nhằm ý nghĩa tưởng nhớ công ơn của đức thánh Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đã có công chữa bệnh giúp dân. Lễ hội hết sức độc đáo với nhiều hoạt động đa dạng khác nhau như rước kiệu, múa rồng, hát ca trù, những trò chơi dân gian đặc sắc,…
Hưng Yên 1677 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 4
Đền được xây dựng trên một khu đất cao, bằng phẳng, hình chữ nhật với diện tích 18.720m². Mặt đền quay hướng chính tây, nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên (làng Ngự Dội, xã Tứ Dân) – nơi mà công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng thứ 18, gặp Chử Đồng Tử và hai người nên duyên vợ chồng. Đền được chia thành ba khu. Khu ngoài có diện tích 7.200m², không có tường bao, kiến trúc duy nhất là nhà bia 2 tầng, 8 mái cong, với cửa trổ ra 4 hướng. Trong nhà bia có bia đá với nội dung nói về thời điểm trùng tu đền Đa Hòa và cuộc nhân duyên kỳ ngộ của Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Từ đây, theo con đường lát gạch rộng 6m với hai bên đường là hàng cây gạo cổ thụ tỏa bóng râm mát, sẽ đến cổng chính. Qua cổng chính là vào khu giữa. Khu này có diện tích 3.400m², có tường thấp bao quanh, trồng đan xen nhiều cây xanh và được chia thành hai khu: khu bên phải có lầu chuông, bên trong có quả chuông đồng cao 1,5m; khu bên trái có gác khánh, bên trong có khánh đá với chiều ngang là 1,2m; ngăn cách giữa hai khu này là con đường lát gạch dẫn từ cổng chính đến ngọ môn với ba cửa ra, vào, phía trên treo bức đại tự với bốn chữ sơn son thiếp vàng “Bồng lai cung khuyết “. Bước qua ngọ môn là vào khu trong. Với diện tích 11.520m², kiến trúc kiểu cung đình thời Nguyễn nhưng có sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, khu trong gồm: sân đại, nhà đại tế, sân chầu, tòa thiêu hương, cung đệ nhị, cung đệ tam và hậu cung. Nối liền các cung là thảo xá, thảo bạt, nhà ngựa, nhà pháo… Trong hậu cung có 3 khám thờ: Đức Thánh Chử Đồng Tử (ở giữa), Hoàng hậu Tiên Dung công chúa (bên trái), thứ phi Hồng Vân – Tây Sa (bên phải). Tổng thể công trình kiến trúc trong khu này gồm 18 ngôi nhà mái ngói cong hình 18 thuyền rồng cách điệu. Đây là kiến trúc đặc biệt nhằm tái hiện hoạt cảnh đoàn thuyền của công chúa Tiên Dung đang giăng buồm du ngoạn trên bến sông thuở nào. Ngoài kiến trúc độc đáo, đền Ða Hoà còn lưu giữ nhiều di vật quý hiếm, điển hình như: 3 cỗ ngai thờ bằng gỗ có niên đại vào cuối thế kỉ 17 và 18. Đây được coi là những cỗ ngai cổ nhất còn tìm thấy ở nước ta hiện nay; đôi lọ Bách thọ bằng gốm (một trăm chữ thọ không chữ nào giống chữ nào được khắc trên thành lọ)… Rời đền Đa Hòa, du khách sẽ đến đền Dạ Trạch (thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch), nơi gắn liền với truyền thuyết về đầm Dạ Trạch. Tương truyền, tại vị trí Chử Đồng Tử và hai người vợ là công chúa Tiên Dung và Hồng Vân “hóa” về trời vào đêm 17/11 âm lịch, đã sụt xuống thành một đầm lớn, đầm Dạ Trạch (đầm được hình thành chỉ sau một đêm). Cho là thần linh ứng, người dân địa phương đã lập đền thờ 3 vị trong khu vực đầm Dạ Trạch và đặt tên là đền Dạ Trạch hay còn gọi là đền Hóa. Đền Dạ Trạch đã được trùng tu nhiều lần, tuy nhiên, kiến trúc hiện nay là kết quả lần trùng tu vào năm 1890 với kiểu chữ Công (工), mặt hướng chính đông, ra hồ bán nguyệt, mái khắc nhiều hình long, phượng rất đẹp, gồm ba gian. Trong đó, hậu cung là gian được thiết kế đẹp nhất với mái vòm cuốn tam cấp, gợi cho du khách cảm giác như đứng trong khoang thuyền. Từ ngoài vào, bên phải, đầu tiên là ban thờ thổ công miếu đình, tượng quan võ, rồi đến ban thờ các vị thân sinh của Đức thánh Chử Đồng Tử; bên trái là ban thờ Bế ngư thuyền quan (tượng một con cá chép bằng gỗ sơn son thếp vàng óng ánh), kế đến là ban thờ Triệu Việt Vương (548 – 571). Ở chính giữa hậu cung là 3 khám thờ: Đức Thánh Chử Đồng Tử (ở giữa), Hoàng hậu Tiên Dung công chúa (bên trái), thứ phi Hồng Vân (bên phải). Tại đây còn đặt tượng thờ hai con ngựa, một tượng đỏ, một tượng trắng. Tương truyền, đó là hai con ngựa mà Đức Thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân đã cưỡi để đi chữa bệnh cho dân. Ngoài kiến trúc chính, trong khu vực đền còn có lầu chuông, bên trong đặt một chuông Dạ Trạch từ chung (chuông đền Dạ Trạch) được đúc năm Thành Thái thứ 14 (1902), dài 1,5m, rộng 0,8m; hai dãy nhà chín gian, trước kia, đây là nơi để chín chiếc kiệu; hai bia đá dựng đối diện nhau (một bia đã vỡ), được dựng năm Gia Long thứ 17 (1819), cao 1,6m, rộng 0,8m, dày 0,17m; một hồ bán nguyệt; nhiều hoành phi, câu đối ghi lại sự tích Chử Đồng Tử – Tiên Dung – Tây Sa; đặc biệt là hình ảnh chiếc nón và cây gậy – hai vật mà Đức Thánh Chử Đồng Tử đã dùng để cứu nhân độ thế. Đền Dạ Trạch đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1989. Để ghi nhớ công ơn của Đức Thánh Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, hàng năm, người dân địa phương lại tổ chức lễ hội Chử Đồng Tử. Đây là 1 trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước với các hoạt động văn hóa, thể thao hấp dẫn. Độc đáo nhất là lễ rước nước với sự tham gia của 10 con thuyền nối đuôi nhau ra sông Hồng lấy nước về lễ Thánh tại đền Đa Hòa và Dạ Trạch. Hoạt động này được tổ chức theo đúng phong tục xưa, diễn ra trong suốt hai tiếng đồng hồ. Trong quá trình các thuyền di chuyển, còn biểu diễn múa rồng trên thuyền.
Hưng Yên 1601 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng Nôm thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20km. Năm tháng trôi qua, làng Nôm vẫn là mảnh đất được người dân Hưng Yên trân trọng, gìn giữ. Trước cuộc sống nhộn nhịp, xô bồ, thật khó có nơi nào mà người ta cảm thấy yên bình đến vậy. Những nét đẹp kiến trúc, văn hóa và con người vẫn vẹn nguyên sau hơn 2oo năm biến động. Chính bởi vẻ đẹp “bền vững” đó, du lịch làng Nôm Hưng Yên cũng được nhiều người quan tâm tới. Dời xa phố thị, tới một làng quê nhỏ, bạn sẽ thấy vừa quen và lạ. Quen như ở chính ngôi nhà mình, lạ bởi một miền đất mới. Ở làng Nôm, vẻ đẹp truyền thông dung dị như cây đa, giếng nước, mái đình vẫn được gìn giữ. Qua cánh cổng làng rêu phong, khung cảnh bên trong làng mang đặc trưng của làng quê cổ Việt Nam. Các khu nhà nhỏ nhắn đều nhuốm màu thời gian, hoạt động thường nhật của người dân diễn ra bình lặng, yên ả. Cảm giác vô cùng thoải mái, thư thả. Du lịch Hưng Yên sẽ không trọn vẹn nếu du khách chưa ghé tới làng Nôm. Ngoài việc thưởng thức các món đặc sản Hưng Yên, tới làng Nôm còn là cơ hội cho du khách tìm hiểu về văn hóa con người nơi đây. Qua các kiến trúc và các điểm đến thú vị. Bước qua cánh cổng làng, chợ Nôm là địa điểm mà bạn có được trải nghiệm về chợ quê Việt Nam hoàn hảo nhất. Chợ Nôm trước đây là khu chợ sầm uất nhất vùng Văn Lâm. Khu chợ giản dị, không bê tông cốt thép như các chợ trung tâm thành phố. Một địa điểm hấp dẫn khách tại làng Nôm đó là chùa Nôm. Ngôi chùa còn có tên khác là Linh thông cổ tự. Theo nhiều tài liệu chữ Hán, chùa được xây dựng trên một đồi thông lớn, thời Hậu Lê. Tuy nhiên, qua phân tích các bức tượng đất nung trong chùa, thì nhiều nhà khảo cổ cho rằng ngôi chùa tồn tại khoảng ngàn năm rồi. Chùa Nôm có kiến trúc Á Đông đậm nét, điển hình của chùa cổ Việt Nam. Trong chùa lưu giữ hơn 100 pho tượng đất nung, điêu khắc tinh xảo. Ngôi chùa rất linh thiêng và được người dân làng Nôm trân quý. Những ngôi nhà ở làng Nôm cũng là nơi nhiều du khách tới khám phá. Nhiều ngôi nhà có tuổi đời 200 năm, kiến trúc độc đáo. Nền văn hóa Kinh Bắc chân thực và sống động qua từng nếp nhà.
Hưng Yên 1668 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Bán Nguyệt vẫn được xem như trái tim vàng của Hưng Yên. Đây là thắng cảnh mà người dân Hưng Yên nào cũng biết tới. Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên nằm ở trung tâm phố Hiến, nằm giáp đường Bạch Đằng, phía Đông nằm cạnh Bãi Sậy, phía Tây Nam là đê sông Hồng. Từ trung tâm thành phố chỉ cần đi khoảng 1km là tới đây. Du lịch Hưng Yên, ghé thăm hồ Bán Nguyệt, du khách sẽ được hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên yên ả, thanh bình. Tới đây, bạn được hít hà bầu không khí trong trẻo, dường như mọi mệt mỏi, u buồn đều tan biến, chỉ còn những khoảnh khắc yên bình đúng nghĩa của nó. Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên không chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng mà còn nằm ngay tại vùng đất linh thiêng, nơi có nhiều đình, miếu, đền, chùa. Trong đó có hai địa điểm tâm linh nổi tiếng nằm ngay tại ven hồ được nhiều du khách ghé thăm là đền Trần và đền Mẫu. Đây là hai địa danh mang nhiều dấu ấn lịch sử, nằm in bóng bên mặt hồ Bán Nguyệt tĩnh lặng. Đúng như cái tên gọi, nhiều người đã có thể hình dung được hình dáng của mặt hồ Bán Nguyệt Hưng Yên. Nơi đây giống như một vầng trăng khuyết ấn tượng. Vẻ đẹp của hồ được hiện lên vừa dân dã mà lại cực sống động trong từng lời hát, câu thơ, trong những tác phẩm nghệ thuật. Đến với hồ Bán Nguyệt, bạn sẽ được thỏa thích tận hưởng bầu không khí bình yên, trong lành rồi đọng trong tâm hồn biết bao cảm xúc khó quên. Hồ Bán Nguyệt chứa trong mình dòng nước lững lờ trôi, không gian yên ả, tĩnh lặng tạo nên khung cảnh nhẹ nhàng, nên thơ. Ban đầu, hồ là một đoạn của sông Hồng sót lại sau khi đổi dòng. Người dân nơi đây ví hồ như mảnh gương của Hằng Nga rớt xuống. Hồ dù không thông với bất cứ đâu nhưng nước trong hồ luôn đầy ắp, trong veo. Một bên là đê sông Hồng cùng với thảm cỏ xanh mướt, một bên là phố phường nhộn nhịp. Nếu bạn đang muốn tìm về một không gian yên tĩnh, gần gũi với thiên nhiên xanh mát ở Hưng Yên thì hồ Bán Nguyệt chính là địa điểm khó có thể bỏ qua. Bao quanh hồ Bán Nguyệt là rất nhiều cây xanh, cây nào cũng vươn mình ra rủ bóng xuống mặt hồ phẳng lặng. Mỗi khi có có gió thoảng qua, các hàng cây đung đưa tạo cho người ta cảm giác mộc mạc, yên bình biết bao. Giữa hồ là cột cờ cao 10m với lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, đây được xem là điểm nhấn đặc biệt giữa mặt hồ yên bình. Tham quan hồ Bán Nguyệt, du khách có thể nghỉ ngơi tại các ghế đá, vừa ngắm cảnh, vừa tận hưởng gió mát. Dạo quanh bờ hồ, bạn sẽ được nghe tiếng nước chảy nhè nhẹ, thả hồn vào làn gió đưa, cảnh tượng như một bản nhạc trữ tình. Trong cái nhịp sống hối hả, vội vã của cuộc sống hiện đại thì tới nơi đây, thời gian như được lắng đọng, tâm hồn như nhẹ nhõm hơn. Hồ Bán Nguyệt là nơi diễn ra rất nhiều sự kiện văn hóa, lễ hội thường niên của thành phố Hưng Yên. Vào năm 1905, tổng đốc Lê Hoan tổ chức cuộc thi vịnh Kiều tại ngay hồ với sự góp mặt của Nguyễn Khuyến và Chu Mạnh Trinh.Đến thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã cho xây đắp con đường nhỏ từ cửa đền Mẫu sang điếm canh, chia đôi hồ để triển khai các hoạt động chèo thuyền giải trí. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, con đường này bị phá bỏ để trả lại vẻ đẹp nguyên sơ cho hồ.
Hưng Yên 2000 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Grand World là một trong những địa điểm du lịch gần Hà Nội đang hot rần rần trong thời gian vừa qua. Grand World Hà Nội là tổ hợp vui chơi giải trí, ẩm thực và mua sắm đang “làm mưa làm gió" cộng đồng mê “xê dịch" trong thời gian vừa qua. Nơi đây được xây dựng theo lối kiến trúc độc đáo, ấn tượng, thu hút sự chú ý của du khách. Sức hút của Grand World Hà Nội này đến từ những góc phố lãng mạn, tái hiện lại khung cảnh nước Ý thơ mộng với dòng sông Venice hiền hoà. Bên cạnh đó, các khu phố ăn chơi mang đậm phong cách Hàn Quốc cũng làm giới trẻ “phát cuồng".
Hưng Yên 1068 lượt xem
Tháng 1 - Tháng 12
Nếu bạn là một người yêu thích những giá trị văn hóa thuần túy và khung cảnh miền quê Bắc Bộ thanh bình thì hãy một lần đến với làng hương xạ Cao Thôn (Hưng Yên) để tìm về những xúc cảm an yên và bình dị. Làng hương xạ Cao Thôn cách Hà Nội khoảng 40km đi xe thuộc địa phận xã Bảo Khê, Hưng Yên, nằm sát ngay đê tả sông Hồng với khung cảnh thiên nhiên trong lành, yên ả. Đây là cái nôi của nghề sản xuất hương lâu đời ở miền Bắc nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng thì nghề này được bà Đào Thị Khương khởi xướng rồi truyền lại cho dân trong làng. Hiện nay nghề làm hương tại Cao Thôn hoạt động suốt 4 mùa tạo việc làm cố định cho khoảng 600 lao động. Nghề làm hương không đòi hỏi nguồn nhân lực cao nên có thể tận thu được các lao động nhàn rỗi, hầu hết nếu được đào tạo thì ai cũng có thể làm được. Các cụ già thâm niên có kinh nghiệm sẽ truyền nghề lại cho con cháu vì thế nghề luôn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dường như trong tâm khảm của mỗi người dân nơi làm hương không chỉ là một cái nghề mà còn là trách nhiệm gìn giữ nét đẹp thuần túy của quê hương. Làng hương xạ Cao Thôn có trên 200 gia đình trong đó 170 hộ vẫn luôn duy trì nghề sản xuất hương lâu đời. Sản lượng hương hàng năm của làng Cao Thôn ước tính vào khoảng 10 triệu nén/năm. Với nhu cầu ngày càng cao của thị trường thì người dân đã tiến hành cải tiến mẫu mã, chất lượng để giúp sản phẩm ngày càng được tiêu thụ nhiều hơn. Ngày nay thị trường tiêu thụ hương đã được mở rộng hơn rất nhiều. Hương ở làng hương xạ Cao Thôn Hưng Yên luôn nổi tiếng với chất lượng và hương thơm đặc biệt được thị trường đón nhận nhiệt tình và xuất khẩu sang một số nước. Hương thơm đặc biệt không hề lẫn vào bất cứ vùng nào chính là nhờ và bí quyết sản xuất gia truyền. Chả biết bí quyết đó có gì nổi bật chỉ biết rằng bột hương làm từ thảo mộc và các vị thuốc Bắc. Khi thắp hương lên sẽ tỏa ra mùi dễ chịu, sảng khoái giúp tinh thần con người trở nên thoải mái, thư giãn hơn. Mỗi hộ gia đình ở làng Cao Thôn lại có một bí quyết thảo mộc riêng nên mùi hương có sự đa dạng. Ở mỗi một gia đình bạn lại có thể tìm được cho mình những mùi hương khác nhau tùy theo nhu cầu của mình. Làng hương xạ Cao Thôn sản xuất 3 loại chính là hương sào, hương nén và hương vòng. Ngoài ra còn có hương đen, hương quế,... Loại nào cũng được bàn tay người dân làm cẩn thận, khéo léo và cho ra những sản phẩm chất lượng. Nhờ hình thức đẹp, chất lượng tốt cùng hương thơm dễ chịu nên thị trường ngày càng đón nhận và mở rộng đến nhiều nơi. Khách tiêu dùng không chỉ dừng lại ở trong làng, trong tỉnh mà còn xuất khẩu đến một số nước từ Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia, Pháp, Đức,... Đây cũng là thành quả tuyệt vời cho những nỗ lực gìn giữ và bảo vệ nghề làm hương truyền thống của người dân làng Cao Thôn. Mỗi nén hương khi thắp lên thể hiện sự thiêng liêng, lòng biết ơn của thế hệ sau đối với cố can, ông bà cũng như lòng thành kính dâng lên ở đền, chùa,... Chính vì thế mà người trong làng luôn giữ gìn và phát triển nghề làm hương để giữ gìn giá trị văn hóa thuần túy lâu đời đồng thời muốn dạy dỗ con cháu phải biết hướng về quê hương, cội nguồn của mình. Nhìn những nén hương tuy khá đơn giản, mộc mạc nhưng công đoạn từ pha chế bột, se, nhúng, phơi, đảo đều được thực hiện chi tiết, tỉ mỉ mang trong đó tâm huyết và cái tâm trong sáng của người dân. Sau khi lựa chọn kĩ càng các loại thảo mộc, cân đủ lượng để mùi vị được đảm bảo tốt nhất thì sẽ mang đi xay thành bột mịn. Tiếp tục trộn cùng dây keo để gắn kết bột lại. Từ bột hương đã dính muốn thành hương cần có tăm hương. Theo kinh nghiệm để lại của nhiều người thợ giàu kinh nghiệm tại làng hương xạ Cao Thôn thì tăm hương phải được chọn kỹ từ cây nứa bánh tẻ. Công việc này sẽ giúp hương có độ dẻo dai, độ cong. Chiều dài của tăm hương khoảng 35 - 40cm. Để dùng tăm hương se thì phải chẻ nhỏ, ngâm, phơi rồi đi nhuộm màu ở chân. Việc nhuộm đỏ không chỉ khiến cho nén hương được đẹp mà còn đánh dấu phần bột được dùng trên nén. Tất cả các công đoạn trên hầu hết được làm bằng tay. Sau khi se hương xong thì thợ sẽ mang đi phơi. Công đoạn này cũng cần nhiều tâm sức bởi thời tiết là yếu tố khá quan trọng. Thường thì người dân sẽ mang hương ra phơi khi trời lờ mờ sáng để bắt kịp mặt trời. Nếu trời nắng to thì chỉ cần phơi từ sáng đến chiều là được. Vào những ngày thời tiết ẩm ướt thì hương rất dễ bị mốc nên người dân sẽ phải khá vất vả để phơi hương đúng mùi thơm, thời gian hoàn thành sẽ phải mất khoảng 4 - 5 ngày. Những năm gần đây, làng hương xạ Cao Thôn đã trở thành địa chỉ nổi bật trong hành trình du lịch Hưng Yên. Đến với Cao Thôn, bạn sẽ được đắm mình trong sắc đỏ vàng rực rỡ của những "bó hoa" hương thoang thoảng mùi hương dịu nhẹ. Cảm giác ấy lại yên bình hơn khi đứng giữa cảnh sắc làng quê mộc mạc, yên ả. Đi bất cứ ngõ ngách, làng xóm nào du khách đều bắt gặp được ở các khoảng sân trước nhà mỗi gia đình đều trải đều những bó hương phơi. Ngoài ra khi đến làng hương xạ Cao Thôn Hưng Yên bạn còn được trải nghiệm nhiều điều hấp dẫn như tìm hiểu về quá trình sản xuất, tự tay làm nên những nén hương và mang sản phẩm về. Cho dù làng nghề hương xạ Cao Thôn Hưng Yên trải qua biết bao giai đoạn thăng trầm nhưng ngày nay vẫn đang tồn tại mãnh liệt góp phần thúc đẩy kinh tế, du lịch miền quê yên ả ngày càng đi lên.
Hưng Yên 102 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 11
Chùa Phúc Lâm Hưng Yên - nơi được ví như "chùa vàng Thái Lan" của Việt Nam là một điểm đến tâm linh đầy hấp dẫn nằm cách trung tâm Hà Nội chưa đầy 1 giờ di chuyển. Với kiến trúc độc đáo và vẻ ngoài rực rỡ màu vàng, ngôi chùa này đã chinh phục không chỉ tín đồ Phật Giáo mà còn cả những ai yêu thích sự thanh tịnh của nơi tôn nghiêm này. Chùa Phúc Lâm là một ngôi chùa cổ hơn 100 năm tuổi nằm cách Hà Nội khoảng 40km chính là một trong những điểm đến tâm linh đầy cuốn hút. Được xây dựng vào thế kỷ 17 và phải trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, chùa Phúc Lâm từ một am tự nhỏ đã trở thành công trình kiến trúc lộng lẫy như hiện nay. Ngôi chùa này còn được mệnh danh là "chùa vàng Thái Lan" bởi vẻ ngoài rực rỡ sắc vàng, mang đậm nét kiến trúc Phật giáo của xứ chùa vàng. Chùa Phúc Lâm rộng lớn nằm trên vùng đất rộng khoảng 4ha với khuôn viên rộng rãi, vô số tiểu cảnh xanh mát và hồ nước tĩnh lặng tạo nên một không gian thanh bình. Với diện mạo "dát vàng" nổi bật giữa những cánh đồng trù phú, chùa Phúc Lâm tạo nên không gian tôn nghiêm, thanh tịnh cho bất kỳ ai mỗi khi đến đây. Chùa Phúc Lâm nổi tiếng với vẻ ngoài rực rỡ sắc vàng mang đậm nét kiến trúc Phật giáo của xứ chùa vàng. Kiến trúc nơi đây rất độc đáo cùng nghệ thuật chạm trổ tinh xảo đã khiến chùa Phúc Lâm ghi được dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bất kỳ ai có dịp khoác balo đến đây chiêm bái. Hơn nữa, chùa Phúc Lâm còn được đánh giá là một trong những tượng đài của nghệ thuật kiến trúc và tôn giáo, mang đậm sự tinh tế và thiêng liêng. Kết cấu của chùa Phúc Lâm gồm hai tòa chính là tòa Tiền đường và tòa Thượng điện. Hai tòa nhà này được xây dựng theo kiểu chữ Công, có chiều cao 15m, rộng 20m, được dát vàng hoàn toàn. Điều này tạo nên vẻ ngoài vô cùng rực rỡ, lộng lẫy, khiến ngôi cổ tự này nổi bần bật giữa khung cảnh thiên nhiên xung quanh. Không chỉ vậy, chùa Phúc Lâm còn có bốn tòa tháp cao vút được chạm khắc những hình rồng phượng cực kỳ tinh xảo. Những cánh sen lớn cũng được trang trí trên lan can tầng hai tạo nên vẻ đẹp thanh tao, trang nhã. Toàn bộ mái chùa được chạm khắc hình rồng cực kỳ sống động, mang đậm nét nghệ thuật của người Việt. Những con rồng uốn lượn mềm mại, uyển chuyển giúp toàn bộ không gian ngôi chùa là một tổng thể hài hòa và đầy cân đối. Với lối kiến trúc độc đáo cùng nghệ thuật chạm trổ tinh xảo, chùa Phúc Lâm không chỉ là một địa điểm tâm linh linh thiêng mà còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Thời điểm lý tưởng để tham quan chùa Phúc Lâm là vào mùa xuân và mùa thu: Mùa xuân: Thời tiết mát mẻ, cây cối đâm chồi nảy lộc, tạo nên khung cảnh tươi mới và thanh tịnh. Đây cũng là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội, bạn có thể tham gia các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng. Mùa thu: Thời tiết dễ chịu, không quá nóng bức, thích hợp cho việc tham quan và chụp ảnh. Đây cũng là khoảng thời gian diễn ra lễ Vu lan báo hiếu nên khách hành hương đến chùa rất đông. Chùa Phúc Lâm như một tác phẩm nghệ thuật dát vàng, lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Kiến trúc độc đáo với những đường nét tinh xảo, hoa văn tỉ mỉ mang đậm phong cách Á Đông, khiến du khách không khỏi trầm trồ. Mỗi chi tiết nhỏ đều được chăm chút tỉ mỉ, tạo nên một tổng thể hài hòa và tráng lệ. Không chỉ có kiến trúc chính điện, các công trình phụ như nhà thờ tổ, nhà khách, hay những bức tượng Phật cũng được dát vàng nguy nga. Những chi tiết này cũng góp phần tạo nên một quần thể chùa được du khách ví von giống như một “Thái Lan thu nhỏ” ngay giữa lòng Hưng Yên. Khuôn viên chùa Phúc Lâm rộng lớn với nhiều cây xanh, hồ nước, tạo nên một không gian xanh mát, trong lành. Du khách có thể tản bộ quanh chùa, ngắm nhìn cảnh vật và tận hưởng không khí trong lành. Khung cảnh thanh tịnh, yên bình của ngôi chùa dát vàng Hưng Yên là nơi lý tưởng để du khách tìm về chốn tâm linh, gạt bỏ những muộn phiền của cuộc sống. Tiếng chuông chùa ngân vang, làn khói hương trầm quyện hòa cùng hương sen tạo nên một không gian tĩnh lặng, giúp du khách thư thái tâm hồn. Tại chùa Phúc Lâm, du khách có thể thành tâm dâng hương, cầu nguyện cho gia đình, bạn bè được bình an, hạnh phúc và may mắn. Không khí trang nghiêm, thành kính tại đây sẽ giúp bạn gửi gắm những mong ước của mình. Ngoài ra, du khách còn có thể tham gia các nghi lễ truyền thống của Phật giáo được tổ chức tại chùa như lễ Lồng Tông, Phật đản, Vu lan báo hiếu,… Vào các ngày mùng 1 hay Rằm,chùa cũng tổ chức nhiều hoạt động tụng kinh, cầu an giúp du khách tìm thấy sự an lạc trong tâm hồn. Chiều tà là thời điểm lý tưởng để ngắm nhìn chùa Phúc Lâm với những ánh nắng cuối ngày nhuộm vàng mái chùa, tạo nên một khung cảnh lãng mạn và huyền ảo. Đây cũng là lúc du khách có thể chụp những bức ảnh đẹp làm kỷ niệm. Khi màn đêm dần buông, ánh đèn lồng lung linh càng làm tăng thêm vẻ đẹp lung linh của ngôi chùa. Tất cả tổng hòa tạo nên một không gian huyền ảo, thu hút du khách ghé thăm. Với kiến trúc độc đáo và màu vàng óng ánh, chùa Phúc Lâm được ví như một “Thái Lan thu nhỏ” ngay giữa lòng Hưng Yên. Đây là địa điểm lý tưởng để du khách check-in sống ảo và có những bức ảnh đẹp để khoe với bạn bè. Nhiều góc chụp đẹp tại chùa sẽ giúp bạn có những bức ảnh ấn tượng, từ những bức ảnh chân dung lung linh đến những bức ảnh toàn cảnh. Chùa Phúc Lâm không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với kiến trúc độc đáo và không gian thanh tịnh. Còn chần chừ gì mà không đến tham quan, khám phá chùa ngay hôm nay!
Hưng Yên 100 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12
Du lịch Hưng Yên ngoài Phố Hiến, chùa Nôm… du khách nhất định đừng bỏ qua làng Thủ Sỹ. Đây là một ngôi làng bình dị, mang đậm dấu ấn của thời gian và nổi tiếng với nghề đan đó. Du khách đến đây sẽ có dịp được tìm hiểu nghề đan đó cũng như check in những bức ảnh đẹp về một làng quê yên bình. Cách Thủ đô Hà Nội khoảng 60km, có một ngôi làng nổi tiếng với nghề đan đó có truyền thống hơn 200 tuổi chính là làng Thủ Sỹ. Làng Thủ Sỹ có khoảng hơn 500 người dân chuyên làm nghề đan đó, rọ – đây là những dụng cụ để bắt tôm, cá. Ngoài nghề đan đó, rọ, người dân ở đây còn làm các dụng cụ mây tre đan như dậm, đơm, lờ…Ngoài nổi tiếng với nghề đan đó, làng Thủ Sỹ còn gây ấn tượng với du khách ở những ngôi nhà mang nét đẹp cổ kính của làng quê Bắc Bộ. Đây chắc chắn sẽ là điểm du lịch gần Hà Nội lý tưởng cho du khách bốn phương vào mỗi dịp cuối tuần. Trải nghiệm đầu tiên khi đến làng Thủ Sỹ du khách không nên bỏ lỡ chính là ghé thăm nhà cụ Lương Sơn Bạc để tìm hiểu về nghề đan đó. Cụ Lương Sơn Bạc dù đã hơn tuổi “bát tuần” nhưng ngôi nhà cụ đang ở vẫn lưu giữ lại những nét đẹp riêng của nghề đan đó. Đây là ngôi nhà cấp 4 đã được gần 200 năm tuổi và đến đây bạn sẽ được tận mắt chứng kiến những sản phẩm đó được làm ra như thế nào. Trong căn nhà nhỏ của cụ còn rất nhiều bức ảnh về những nơi mà cụ đã đi qua để giới thiệu về sản phẩm đan đó. Sau khi tìm hiểu về quy trình làm nghề đan đó tại nhà cụ Lương Sơn Bạc, du khách sẽ được trải nghiệm tự tay đan cùng người dân. Ở làng Thủ Sỹ từ những cụ già đến trẻ em 5 – 6 tuổi cũng có thể đan được chiếc đó đẹp. Chính vì vậy, bạn cũng có thể bắt tay vào đan đó dựa trên sự hướng dẫn tỉ mỉ của những người dân trong làng. Làng Thủ Sỹ Hưng Yên không chỉ là điểm dừng chân để du khách tìm hiểu nghề đan đó mà còn là nơi để bạn tận hưởng không gian yên bình của làng quê. Nơi đây có những ngôi nhà mái ngói cũ kỹ, có những lũy tre làng… tất cả tạo nên một khung cảnh miền quê thanh bình. Du khách có thể đi dạo quanh làng để xem hình ảnh những người dân ngồi đan đó hay hình ảnh những đóa hoa bằng tre nứa vô cùng độc đáo và bắt mắt. Đến làng nghề Thủ Sỹ, du khách có thể mua các sản phẩm tại ngôi làng này để về trang trí mỹ thuật hoặc nội thất cho gia đình mình. Ngoài ra, những sản phẩm mang nét đẹp truyền thống, văn hóa này bạn cũng có thể làm quà tặng cho bạn bè, người thân rất ý nghĩa. Ngoài ra bạn có thể ghé thăm các địa điểm du lịch nổi tiếng gần làng nghề Thủ Sỹ như : Chùa Cổ Am, chùa Chuông, đền Mẫu. Đến với làng Thủ Sỹ, du khách sẽ được hòa mình vào không gian làng quê thanh bình, yên ả, với những mái nhà ngói đơn sơ, những con đường làng quanh co và những hàng tre xanh rì rào trong gió. Từng tiếng chẻ tre, tiếng đan đó vang vọng khắp xóm làng tạo nên một bản giao hưởng mộc mạc, bình dị. Đây chắc chắn sẽ là điểm dừng chân lý tưởng của du khách trong chuyến du lịch về quê hương nhãn lồng.
Hưng Yên 72 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.
Cuộc sống bận rộn đôi khi khiến bạn quên mất việc thư giãn. Hãy đi du lịch để tìm lại sự cân bằng và niềm vui. Vị trí bên lề sông Hồng đã giúp làng hoa Xuân Quan nổi tiếng trong hơn 10 năm, không kém cạnh với những vùng trồng hoa lớn như Mê Linh, Tây Tựu. Hơn 1 thập kỷ trước, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, dù là vùng nông thôn chủ yếu canh tác lúa, ngô. Thế nhưng, nhờ vào chính sách khuyến khích nông nghiệp mới, làng hoa Xuân Quan đã nổi lên là điểm trồng hoa trọng điểm của tỉnh Hưng Yên và các tỉnh lân cận. Xã Xuân Quan thị trấn với hơn 60% diện tích đất chuyên trồng hoa và cây cảnh, có 900 hộ dân chuyên nghiệp. Những hộ nông dân này, đặc biệt là những người tiên phong trong ứng dụng công nghệ cao, đang tạo ra thu nhập cao từ nghề trồng hoa. Nghề trồng hoa cây cảnh không chỉ mang lại thu nhập mà còn tạo nên những mùa xuân thịnh vượng cho cộng đồng. Làng hoa Xuân Quan đặc trưng với đa dạng loại hoa, từ hoa hồng ngoại, pansy, đèn lồng, thược dược, ly, đào, đỗ quyên, trà cổ, đồng tiền, cẩm chướng đến trạng nguyên, hải đường... Mỗi loài hoa mang đến một vẻ đẹp riêng, làm tôn lên vẻ độc đáo của làng hoa này. Xuân Quan khác biệt với các làng hoa ở vùng Bắc bởi phong cách trồng hoa trong chậu treo, thay vì trên đất như thường lệ. Phương pháp này không chỉ hiệu quả kinh tế cao mà còn tạo nên vẻ đẹp lôi cuốn, khiến du khách không chỉ choáng ngợp vào dịp Tết Nguyên đán mà còn mọi thời điểm trong năm khi những giỏ hoa, cây cảnh màu sắc treo lủng lẳng đẹp mắt. Nhiều nhà vườn tại làng hoa Xuân Quan thời gian gần đây đã đầu tư vào các giống hoa hồng quý hiếm, có giá trị cao như: hồng Vân Khôi, hồng cổ Sapa, hồng đổi màu, hồng Sa Đéc, hồng trứng, hồng đào… Các loại hoa này đòi hỏi vốn đầu tư lớn và kỹ thuật phức tạp, nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Khi mùa thu về, người dân ở làng hoa không cần phải đến chợ để bán hoa, mà các tiểu thương lại đến tận vườn để mua số lượng lớn. Nhiều gia đình từ việc trồng hoa có thu nhập ấn tượng, lên đến 1,5 đến 2 tỷ đồng mỗi năm. Đồng thời, những người trồng hoa cũng tạo ra việc làm ổn định cho nhiều lao động. Khi đến làng hoa Xuân Quan vào ngày Tết, du khách sẽ bị cuốn hút bởi bức tranh sôi động và phấn khích. Xuân Quan đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong mỗi kỳ nghỉ Tết, mỗi lần xuân về. Nơi này còn rất gần với làng gốm Bát Tràng, giúp thuận tiện giao thông. Du khách có thể ghé Bát Tràng để mua chậu, lọ hoa, sau đó đến Xuân Quan để chọn hoa, tạo nên một không khí Tết tràn ngập sắc màu. Nếu có dịp ghé thăm huyện Văn Giang , Hưng Yên bạn đừng quên ghé thăm làng hoa Xuân Quan này nhé!
Hưng Yên 79 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.