Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đình Hạ Bì Trung nằm trong hệ thống các di tích lịch sử thờ Đức Tản Viên Sơn thánh, Cao Sơn, Quý Minh ở vùng ven sông Đà và vùng trung du Bắc Bộ. Đình được làm bằng tranh, tre, nứa lá ngay sau khi dân làng chuyển từ hữu ngạn về tả ngạn sông Đà vào cuối thế kỷ 18. Đến năm Đinh Hợi năm 1827, ngôi đình được xây dựng bằng gỗ đinh, lim, tường xây, ngói lợp trên một thế đất bằng phẳng, nhìn theo hướng Đông Nam. Bên cạnh Tản Viên Sơn tam vị, Đình Hạ Bì Trung còn thờ Thành hoàng làng đã có công khai dân, lập ấp, lập nên trang Hạ Bì; cùng phối thờ còn có Bản thổ long cung, Tiên Dung công chúa, Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp – người có công truyền bá chữ Hán vào Việt Nam. Sau một thời gian dài với những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhiều hạng mục công trình của đình đã bị hư hỏng. Những nét truyền thống còn lưu giữ lại được đó là hệ thống dui mè, hoành, bộ câu đầu, 8 cột cái, ban thờ ba vị thánh Tản Viên Sơn, bát nhang, hai sáp cắm nến, ống hoa… và nghi thức tế lễ vẫn được thực hiện theo các nghi lễ truyền thống. Năm 2007, được phép của ủy ban nhân dân tỉnh, nhân dân trong làng đã đóng góp, công đức trên 500 triệu đồng tu bổ và phục dựng lại một số hạng mục công trình trong di tích. Ngày 13-3, bà con nhân dân trong xã Xuân Lộc (Thanh Thủy) và du khách thập phương đã vui mừng đón bằng công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia cho đình Hạ Bì Trung. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 485 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6794 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6160 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4154 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4115 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4047 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3809 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3735 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3629 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3544 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3357 lượt xem
Đền Hùng là nơi thờ cúng 18 đời vua Hùng Vương và tôn thất của nhà vua, những người đã có công dựng nước, được xem là Tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Xưa kia vùng đất này là kinh đô của nước Văn Lang, được bao bọc bởi hai dòng sông và những dãy núi non trùng điệp. Chính địa thế đó đã khiến nơi đây có nhiều sông ngòi, ao hồ, núi đồi và phù sa màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho con người định canh định cư, đồng thời cũng dễ dàng phòng thủ, hoặc rút lui trong trường hợp xảy ra xung đột. Theo các tài liệu khoa học, quần thể Đền Hùng bắt đầu được xây dựng trên núi Hùng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng (năm 968 – 979). Sau đó, đến khoảng thế kỷ XV, dưới thời Hậu Lê, toàn bộ khu di tích được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện nay. Đền Hùng có tổng diện tích 845 ha với 4 ngôi đền, 1 ngôi chùa, 1 lăng cùng nhiều hạng mục kiến trúc khác, phân bố từ chân núi lên đến đỉnh núi, hài hòa với tổng thể cảnh quan hùng vĩ. Qua thời gian, nhiều di tích trong quần thể Đền Hùng đã được tôn tạo và xây dựng bổ sung nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, nghiêm trang. Suốt hàng ngàn năm qua, Đền Hùng Phú Thọ là biểu tượng linh nghiêm, tôn kính, gắn liền với đời sống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc. Lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức vào mùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm đã đi vào tiềm thức mỗi người Việt Nam với câu ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi – Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”. Hàng năm đến ngày này, hàng triệu người Việt Nam thuộc các thế hệ “con Rồng cháu Tiên” lại nô nức về với đất Tổ để dâng hương tại Đền Hùng nhằm bày tỏ lòng thành kính tri ân đến Tổ tiên, nhớ về cội nguồn dân tộc và cầu mong bình an, sức khỏe cùng những điều tốt đẹp. Với giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, Đền Hùng được xếp hạng là khu di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói, Đền Hùng là nơi hội tụ những giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Điều này thể hiện hết sức cụ thể, sinh động thông qua tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội lớn ở Việt Nam mang tầm vóc quốc gia, thu hút sự quan tâm của tất cả những người Việt Nam chảy trong mình dòng máu “con Rồng cháu Tiên”, dù đang sống trong nước hay ở nước ngoài. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương từ năm 2012 chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại nhờ những giá trị độc đáo và riêng biệt. Đây là dấu mốc quan trọng và vinh dự to lớn không chỉ với người dân đất Tổ mà còn với cả dân tộc.
Phú Thọ 3441 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 4
Từ xa xưa, thờ Mẫu đã trở thành nét đẹp tiêu biểu trong văn hóa của người Việt. Nhiều nhà sử học cho rằng, mỹ tục này xuất phát từ mảnh đất Hiền Lương (huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ), nơi có đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Dưới tán lá sum suê của cây đa cổ thụ, không biết bao nhiêu thế hệ con cháu Lạc Hồng đã từng dâng hương tỏ lòng thành kính với mẹ Âu Cơ và kể cho nhau nghe truyền thuyết về người mẹ vĩ đại của dân tộc. Tục truyền rằng, ngày nàng Âu Cơ chào đời ở động Lăng Xương (nay thuộc huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) có mây lành che chở, hương thơm tỏa ngát khắp không gian. Lớn lên, nàng xinh đẹp, thông minh hơn người, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, lại tinh thông âm luật. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân – con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với mẹ Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói xong, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển. Mẹ Âu Cơ đưa 50 con lên non, đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, khai phá rừng hoang. Một ngày, đi qua Hiền Lương, nơi có núi cao, đồng rộng, sông dài, Mẹ liền cho khai hoang, dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Khi trang ấp đã tươi đẹp, Mẹ vội vã đi đến vùng đất mới. Sau này, mẹ Âu Cơ trở về Hiền Lương, gắn bó suốt phần đời còn lại với nơi này. Ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, mẹ Âu Cơ bay về trời, để lại dưới gốc đa dải yếm lụa. Ở đó, nhân dân đã dựng lên ngôi miếu thờ phụng, đời đời tưởng nhớ Quốc Mẫu. Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ chính thức được xây dựng dưới triều vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Thần tích của đền ghi lại rằng, ngôi đền nằm ẩn dưới gốc đa cổ thụ, mặt quay về hướng chính nam, bên tả có giếng Loan, bên hữu có giếng Phượng, phía trước có núi Giác đẹp như một án thư, sau lưng sông Hồng uốn khúc như rồng thiêng bao bọc. Trải qua hơn năm thế kỷ, đền Mẫu xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1998, Đảng bộ và nhân dân Hiền Lương tiến hành trùng tu ngôi đền. Ngôi đền không rộng lớn, đồ sộ nhưng lại được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Khách tham quan có thể tìm thấy ở đây nhiều di vật như tượng Tổ Mẫu Âu Cơ, tượng Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn hay các bức chạm tinh tế trên cửa võng, xà ngang, diềm chung quanh cửa thượng cung. Hiện nay, đền chính có bố cục theo kiểu chữ Đinh với ba gian hậu cung và năm gian đại bái. Đền thờ Mẫu Âu Cơ kết hợp với chùa Linh Phúc tạo thành một quần thể di tích có sức hút đặc biệt với du khách thập phương. Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Trưởng Ban Quản lý Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ cho biết: “Được sự đồng ý của chính quyền, chúng tôi đang nhanh chóng khôi phục đình thờ Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn (người con thứ hai của Mẫu) nằm cách đền Mẫu 500m về phía đông để đáp ứng nhu cầu tham quan, tín ngưỡng của nhân dân”.
Phú Thọ 1999 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 5
Cách Đền Mẫu Âu Cơ 8km, điểm du lịch Ao Giời - Suối Tiên nằm trên núi Nả thuộc xã Quân Khê, huyện Hạ Hoà. Đây là điểm du lịch với vẻ đẹp hoang sơ, có không khí trong lành, mát mẻ, thích hợp với những du khách ưa khám phá. Theo truyền thuyết, sáng ngày 7 tháng giêng, Mẹ Âu Cơ đã đi về hướng Tây lên núi Nỏ, sau này gọi là núi Nả gặp một khe đá, Mẹ đi ngược theo triền đá gặp một bầy tiên nữ đem xiêm váy xuống cho Mẹ thay và đón Mẹ về trời theo lệnh của Ngọc Hoàng. Dòng nước Mẹ tắm chảy xuống chân núi, tạo thành một con suối, người đời sau gọi là Ao Giời- Suối tiên và ai được tắm ở Ao Giời - Suối Tiên trong 3 năm sẽ có làn da trắng mịn như ngọc, khuôn mặt sáng đẹp như trăng rằm. Đường tới Ao Giời - Suối Tiên hai bên có rất nhiều đỉnh núi lớn, nhỏ trong đó núi Nả cao vượt lên so với những ngọn núi xung quanh. Du khách tới thăm quan có thể đi theo 2 ngả chính để đi thăm Ao Giời, Giếng Bụt, Vực Xanh, Động Tiên, động Không đáy, Thác Bàn cờ, Cánh Tiên. Suối Tiên bắt nguồn từ trên núi Nả, chảy qua các khe đá như dải lụa trắng bạc, vắt ngang sườn núi, nổi bật giữa màu xanh mượt mà của núi rừng xen lẫn màu xanh của mây trời, tạo nên khung cảnh vừa thơ mộng vừa gần gũi. Nước chảy từ trên núi Nả qua nhiều tầng thác xuống dòng suối trong vắt. Lòng suối dày kín lớp sỏi đá và cát vàng làm cho nước suối được thanh lọc tinh khiết, trong vắt, lấp lánh ánh mặt trời phản chiếu. Đầu nguồn của con suối có Giếng Tiên, từ đáy giếng, dòng nước phun lên mát lạnh, ngọt ngào tạo thành Suối Tiên. Suối Tiên quanh co chảy qua nhiều tầng, bậc tạo nên nhiều thác nước thẳng đứng. Suốt chiều dài con suối có rất nhiều thác nước, một số thác cao 20m, ngày đêm tung bọt trắng xóa, trong đó có thác Bàn Cờ, Cánh Tiên là những thác đẹp nhất. Hai bên suối được phủ một màu xanh dày đặc của các loài cây nhiệt đới, chen chúc nhau tầng tầng, lớp lớp. Khung cảnh hoang sơ, không khí trong lành tạo nên hệ động thực vật phong phú ở Ao Giời, Suối Tiên. Dưới chân các thác nước cao là những phiến đá khổng lồ, trải qua thời gian dài bị xói mòn, đã thành những chiếc ao nhỏ mà đáy ao là cả một phiến đá, làm nên vẻ đẹp riêng có ở nơi đây. Ao Giời - Suối Tiên còn nguyên dạng hoang sơ, có tiềm năng du lịch dồi dào, có thể phát triển các loại hình leo núi, cắm trại, nghỉ dưỡng và nghiên cứu khoa học bởi hệ thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú. Hiện nay, đường vào điểm du kịch này đã được trải nhựa, thuận tiện cho du khách có những trải nghiệm thú vị tại nơi đây.
Phú Thọ 2291 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Theo kinh nghiệm du lịch vườn quốc gia Xuân Sơn, đi du lịch ở đây vào thời gian nào cũng hợp lý bởi mỗi mùa có mỗi vẻ đẹp khác nhau. Vào mùa khô, con đường dễ đi, có thể hạn chế được nhiều rủi ro hơn, phong cảnh tươi mát hơn và thuận lợi cho việc đi chơi hơn. Nhưng vào mùa mưa, mặc dù đường vào vườn quốc gia Xuân Sơn có thể hơi khó đi nhưng du khách sẽ được chiêm ngưỡng dòng thác chảy rì rào, kì vĩ và mạnh mẽ hiếm hoi. Tùy vào nhu cầu sử dụng của mỗi người mà lượng đồ dùng mang theo có thể nhiều ít khác nhau. Vì ở gần điểm du lịch này không có nhiều quán tạp hóa hay nơi cung cấp dịch vụ tiêu dùng nên du khách phải chủ động mang theo áo quần, vật dụng cá nhân, đồ ăn(bánh kẹo, mì tôm, sữa…), giày dép..vv… Nếu cẩn thận hơn hãy mang theo sạc pin dự phòng của điện thoại hoặc máy ảnh. Khi đến Vường quốc gia Xuân Sơn, Đầu tiên, chúng ta phải kể đến: Hang Na, Hang Lạng, Hang Lun, hang Thiên Nga, hang Thổ Thần với nhiều cảnh đẹp hoang dã, mát mẻ, gần gũi với con người nhưng không kém phần kì ảo, huyền bí. Tiếp đó là thăm các bản làng ở vườn quốc gia Xuân Sơn để tìm hiểu văn hóa, cuộc sống nguyên sơ, dung dị, những tập tục độc đáo của người dân nơi đây. Cùng họ trải nghiệm những công việc hằng ngày như đan lát đồ dùng, dệt thổ cẩm hay ủ men nấu rượu, đánh bắt cá ở những con suối gần bản..vv…đảm bảo những hoạt động này sẽ không kém phần hấp dẫn, thú vị. Sau đó, bạn hãy dạo quanh chợ một vòng, trong chợ bày bán nhiều mặt hàng của người dân tộc để bạn có thể tha hồ lựa chọn những đồ vật ý nghĩa làm quà cho bạn bè, người thân hoặc sử dụng vào nhu cầu của mình. Nếu đi về trong ngày thì bạn có thể chủ động ăn uống, tự mang theo đồ ăn nhanh. Nếu không, bạn phải di chuyển đến thị trấn Tân Sơn hoặc TP Việt Trì để thưởng thức những món ăn ngon ở Phú Thọ. Một số món ăn có thể gợi ý đó là: Thịt chua Phú Thọ, thịt chó Phú Thọ, canh rau sắn hầm chân giò…vv…. Giá cả ở các quán ăn hay nhà hàng ở Phú Thọ đều rất bình dân, tuyệt đối không có tình trạng chặt chém để thu lợi.
Phú Thọ 1912 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Đồi chè Long Cốc hay ốc đảo chè Long Cốc là một địa điểm du lịch nằm ở xã Long Cốc, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Cách Hà Nội chừng 125 km, Long Cốc là tập hợp của hàng trăm quả đồi bát úp nằm nối tiếp nhau. Diện tích đồi chè lên đến 677 ha, phần diện tích chè có thể thu hoạch là 610 ha. Là điểm tham quan, du lịch mới của tỉnh Phú Thọ, nơi đây thu hút du khách bằng quang cảnh nên thơ, đẹp như tranh vẽ. Không chỉ được ngắm nhìn những đồi chè xanh mướt trải dài, uốn lượn, du khách đến Long Cốc còn có cơ hội tìm hiểu về những giống chè chất lượng cao như LDP1, LDP2, PH1, PH8… Ngoài ra, đây cũng là dịp tuyệt vời để bạn thưởng thức các loại chè Shan Tuyết và chè Bát Tiên đặc sản. Với thắng cảnh trời ban và khí hậu ôn hoà, Long Cốc là điểm đến mà bạn có thể ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Thời điểm lý tưởng nhất để đi du lịch đồi chè Long Cốc là từ tháng 3 – tháng 12 hàng năm. Lúc này, chè lên xanh mát phủ kín cả ngọn đồi, tạo thành những tấm thảm xanh đầy sức sống. Từ tháng 12 trở đi là thời gian “ngủ đông” của chè, đồi chè trở nên đa dạng đường nét và hình khối, kích thích trí tưởng tượng của người nhìn. Nếu muốn có những bức ảnh đẹp, du khách nên đến đây vào buổi sáng sớm, đẹp nhất khoảng đầu hè. Bấy giờ, toàn bộ không gian sẽ chìm trong màn sương mờ ảo, len lỏi chút nắng nhẹ đầu ngày. Trong không khí ấy, vạn vật xung quanh bỗng nhiên đẹp và bình yên đến lạ. Được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long của vùng trung du”, Long Cốc là một trong những đồi chè đẹp nhất ở Việt Nam. Sở hữu vô vàn tiềm năng để phát triển du lịch, nơi đây không thiếu những trải nghiệm thú vị chờ bạn khám phá. Đồi chè bát úp Long Cốc có tổng diện tích hơn 600 ha, đặc trưng bởi cảnh quan xanh mướt, đẹp như tranh vẽ. Các quả đồi nhấp nhô, chạy dài nối tiếp nhau đến tận chân trời, hệt như những chiếc bát khổng lồ úp ngược. Điểm xuyết trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ ấy là hình ảnh của những công nhân hái chè, lưng đeo gùi tre, đầu đội nón lá, đẹp đến nao lòng. Đẹp nhất ở đồi chè Long Cốc Phú Thọ là đồi chè Đội 3 và Đội 5. Đây là 2 đồi chè nằm ở vị trí cao nhất trong hệ thống đồi ở Long Cốc. Từ đây, bạn có thể phóng tầm mắt ra xa, ngắm nhìn toàn bộ cảnh quan đồi chè tươi tốt. Mỗi đợt giao mùa từ thu sang đông, sương mù lại bao phủ dày đặc khắp ngọn đồi, tạo thành khung cảnh nên thơ, huyền hoặc. Đến lúc lập đông, mây trời ùa về hoà quyện cùng sương che kín lối đi, ấn tượng vô cùng. Sắc xanh trải dài của ốc đảo chè Long Cốc là background check – in siêu xinh dành cho các tín đồ “sống ảo”. Bình minh là thời điểm lý tưởng nhất để bạn chụp hình đồi chè. Lúc này, đồi chè còn ngủ vùi dưới màn sương, sương sớm đọng lại trên lá, tạo nên một cảnh sắc như mơ như thực, đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Một trong những trải nghiệm thú vị nhất khi đến với thủ phủ chè xanh Long Cốc là thưởng thức các món ăn đặc sản nơi đây. Ghé thăm mảnh đất này, du khách nhất định phải thử qua list món ăn sau: Thịt chua Thanh Sơn, Bánh tai, Trám om cá, Xáo chuối,... và nhiều món ngon khác.
Phú Thọ 1996 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 12
Được Mẹ thiên nhiên ưu ái, Khoáng nóng Thanh Thủy sở hữu mạch nước ngầm với nhiệt độ dao động từ 45 đến 60 độ C quanh năm. Trong những năm gần đây, Khoáng nóng Thanh Thủy là địa điểm du lịch Phú Thọ thu hút sự chú ý của đông đảo mọi người, đặc biệt các bạn quan tâm về vấn đề sức khỏe. Là nguồn suối nước nóng đầu tiên tại khu vực miền Bắc có giàu hàm lượng Radon có khả năng tăng cường hệ miễn dịch, không quá ngạc nhiên khi đây là địa điểm tham quan có lượng lớn người ghé đến mỗi năm. Đặc biệt, ngày nay, trong khuôn viên khu du lịch còn được thiết kế thêm nhiều khu vực, tiện nghi giải trí như bể bơi, nhà hàng để mọi người có thêm nhiều lựa chọn. Dòng nước khoáng nóng Thanh Thủy là kết quả của quá trình kiến tạo địa chất. Nhiệt độ của nước luôn nóng từ 45 đến 60 độ C ấm áp quanh năm, kể cả vào những ngày mùa mưa. Những dưỡng chất trong nước có công dụng làm đẹp, điều trị các bệnh về da, tốt cho tim mạch cũng như tăng khả năng miễn dịch. Đến đây, bạn có thể thư thái ngâm mình trong làn nước khoáng nóng Thanh Thủy để lưu thông khí huyết, giải tỏa căng thẳng sau những tháng ngày bộn bề công việc. Trong khuôn viên khu du lịch có cả phòng xông hơi, khu vực tắm bùn, tắm sục và bể bơi để mọi người thỏa thích lựa chọn. Bên cạnh tắm suối khoáng nóng Thanh Thủy, thì khi đến đây, bạn còn có cơ hội thưởng thức hàng loạt đặc sản của vùng đất tổ Phú Thọ. Nhà hàng của khu du lịch được thiết kế theo phong cách nhà sàn, nằm ngay bên hồ nước nên luôn mát mẻ, thoáng đãng. Thực đơn của nhà hàng rất đa dạng, chủ yếu là những món đặc sản địa phương, như cá ngạnh sông Đà, cá lăng, cá chép, lợn rừng, gà đồi và dê núi, v.v. Các món ăn được nêm nếm chuẩn vị địa phương, lại được chế biến từ nguyên liệu tươi ngon, hứa hẹn mang đến cho bạn giây phút thưởng thức ẩm thực đáng nhớ. Nhằm đem đến những giây phút thư giãn đáng nhớ cho mọi người, thì khu du lịch khoáng nóng Thanh Thủy còn bố trí sân tennis, phòng karaoke, câu cá, xe đạp và đốt lửa trại. Chắc chắn rằng chuyến đi về với vùng đất tổ Phú Thọ của bạn sẽ thêm phần đáng nhớ, đặc sắc hơn bao giờ hết.
Phú Thọ 2117 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Bản Cỏi Phú Thọ đang là điểm đến thu hút du khách hiện nay ở vùng Đất Tổ. Ghé thăm bản làng xinh đẹp này bạn sẽ được tận hưởng những giây phút yên bình, ngắm cảnh đẹp và đi dạo xung quanh bản tìm hiểu nét văn hóa đặc sắc của đồng bào người Dao Tiền. Bản Cỏi có vị trí nằm giữa vùng lõi của vườn quốc gia Xuân Sơn, thuộc xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Ghé thăm địa điểm nổi tiếng này bạn sẽ được đắm mình trong không khí núi rừng xanh bát ngát, hùng vĩ đặc trưng vùng Đông Bắc của Việt Nam và tìm hiểu nét đặc sắc của đồng bào người dân tộc Dao nơi đây. Bản Cỏi có vị trí ấn tượng nằm tựa lưng với dãy núi Ten ở độ cao 1000m so với mực nước biển, ghé thăm địa điểm này bạn sẽ được đắm mình thư giãn cùng không gian bình thiên trong lành. Bản Cỏi Phú Thọ sở hữu vẻ đẹp được mệnh danh là "viên ngọc thô" tỏa sáng lấp lánh giữa núi rừng thiên nhiên hoang sơ cách trung tâm huyện Tân Sơn khoảng 5km. Bản làng nổi tiếng của Phú Thọ này là nơi sinh sống của hơn 90 hộ dân đều là dân tộc Dao Tiền. Đồng bào dân tộc người Dao sinh sống ở bản Cỏi chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt, những thửa ruộng bậc thang và chăn nuôi gia súc kiểu tự thả. Du lịch Phú Thọ ghé thăm bản Cỏi bạn sẽ được trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt của người dân bản địa, lên đồi hái chè, bắt cá suối, tìm hiểu phong tục của đồng bào dân tộc Dao, tham gia văn nghệ và thưởng thức đủ món ngon đặc sản như bánh bột khoai lang trộn vừng, canh măng rêu đá, canh rau sắng, gà chín cựa... Đó cũng là lý do tại sao bản Cỏi ngày càng thu hút du khách, đặc biệt là các bạn trẻ ưa khám phá đến vậy. Du lịch bản Cỏi Phú Thọ bạn sẽ được chiêm ngưỡng những rừng cọ, đồi chè xanh bạt ngàn, đi trekking rừng, ngắm thác nước, khám phá bản làng dân tộc người Dao và thưởng thức đặc sản. Xung quanh bản Cỏi được bao bọc bởi những đồi chè xanh bát ngát, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những búp chè non nối tiếp nhau từ đỉnh đồi tới thung lũng tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đồi chè ở bản Cỏi Phú Thọ nằm san sát nhau và chỉ cao vừa đủ để du khách tham quan, đặc biệt vào sáng sớm ngắm đọt chè trong sương sớm hay cảnh người dân hái chè. Cùng với những đồi chè là rừng cọ và cánh đồng bậc thang nối tiếp nhau chạy dọc cả con đường dài gần chục cây số tạo nên khung cảnh tuyệt đẹp và yên bình. Du lịch bản Cỏi Phú Thọ du khách còn được tận mắt chiêm ngưỡng những nếp nhà nhỏ xinh nằm nép mình bên cánh rừng xanh bạt ngàn. Đó là những căn nhà nhỏ được làm bằng gỗ và lợp mái lá cọ bạn như có cảm giác đang lạc giữa chốn tiên cảnh giữa đời thực vật. Đây cũng là địa điểm lý tưởng bạn có thể lựa chọn để nghỉ ngơi giữa buổi trưa nắng hè, mái nhà lợp từ lá cọ khô nên rất mát và có hương thơm tự nhiên. Vườn quốc gia Xuân Sơn sở hữu hệ động thực vật đa dạng, trong đó phải kể tới những cây cổ thụ to lớn vì vậy khi tới bản Cỏi bạn không thể bỏ qua trải nghiệm đi trekking xuyên rừng để chiêm ngưỡng cánh rừng chò hay những hang động bằng đá vôi hùng vĩ. Khu vực giữa núi là thác Tiên điểm đến lý tưởng để đắm mình trong làn nước mát lạnh giữa núi rừng xanh thẳm thư giãn. Đến với bản Cỏi Phú Thọ bạn không chỉ được trekking rừng, tham quan thác nước, chiêm ngưỡng đồi chè, rừng cói bạt ngàn, mà còn được ghé thăm bản làng của người Dao Tiền nơi đây tìm hiểu cuộc sống của người dân và phong tục tập quán. Mặc dù không còn sinh sống ở lưng chừng của núi Ten như trước đây nhưng phong tục tập quán của người dân vẫn còn nguyên vẹn. Trong đó phải kể tới kiến trúc nhà lợp bằng lá cọ, trang phục dân tộc, lễ cấp sắc, điệu múa cầu thần, làng nghề truyền thống dệt vải, nấu rượu... Bản Cỏi Phú Thọ rất nổi tiếng với đặc sản gà chín cựa từng là đặc sản dùng để tiến vua gắn liền với sự tích Sơn Tinh - Thủy Tinh. Thịt gà chín cựa nổi tiếng dai ngon, thơm và đậm đà hơn so với những giống gà khác. Cũng chính vì vậy mà có nhiều du khách không ngại đi đường xá xa xôi để tới bản Cỏi thưởng thức đặc sản gà chín cựa một lần và mua về làm quà. Bản Cỏi Phú Thọ hội tụ đủ mọi yếu tố từ thiên nhiên, con người và ẩm thực xứng đáng là điểm đến lý tưởng để thư giãn vào dịp cuối tuần "đi trốn" cùng hội bạn thân sau những giờ làm việc mệt mỏi.
Phú Thọ 206 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.
Đầm Vân Hội, viên ngọc xanh giữa lòng Phú Thọ, sở hữu khung cảnh thiên nhiên yên bình, thơ mộng và đầy chất trữ tình. Mặt nước trong veo soi bóng núi non hùng vĩ, hòa cùng bầu không khí trong lành, tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 120km, đầm Vân Hội thuộc xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, được ví như “Vịnh Hạ Long thu nhỏ” giữa vùng trung du Bắc Bộ. Nơi đây sở hữu vẻ đẹp hoang sơ, trữ tình với mặt nước trong xanh, uốn lượn giữa những dãy núi và rừng cây xanh mướt, tạo nên khung cảnh thơ mộng, thanh bình. Bạn có thể ghé thăm đầm Vân Hội vào bất kỳ thời điểm nào trong năm để tận hưởng bầu không khí trong lành và vẻ đẹp thiên nhiên tĩnh lặng. Tuy nhiên, để có trải nghiệm trọn vẹn, hãy theo dõi dự báo thời tiết trước khi đi, tránh những ngày mưa làm cản trở việc tham quan và dạo chơi quanh hồ. Nếu có thể sắp xếp thời gian, bạn nên đến đây vào ngày 10/3 Âm lịch để hòa mình vào không khí sôi động của lễ hội Đền Hùng, kết hợp chiêm ngưỡng phong cảnh tuyệt đẹp của đầm Vân Hội trong mùa lễ hội truyền thống của vùng Đất Tổ. Đầm Vân Hội (Phú Thọ) hình thành từ hơn nửa thế kỷ trước, ban đầu phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp huyện Hạ Hòa và Trấn Yên. Với chiều dài khoảng 10km, rộng 2km và tổng diện tích 410ha, nơi đây sở hữu cảnh sắc hùng vĩ, mặt nước mênh mông được ví như thiên đường non nước hữu tình của trung du Bắc Bộ. Điểm độc đáo của Đầm Vân Hội là hệ thống 40 hòn đảo lớn nhỏ rải rác giữa lòng đầm, phủ kín cây xanh và là nơi trú ngụ của nhiều loài chim rừng. Bao quanh đầm là những dòng suối lớn như Ngòi Lĩnh, Ngòi Vần, Ngòi Hạ, Ngòi Chanh, cung cấp nguồn nước dồi dào nuôi dưỡng hệ sinh thái xanh tươi quanh năm. Đặc biệt, đầm còn là nơi sinh sống của nhiều loài cá nước ngọt và rùa lớn có nguồn gốc từ Hồ Gươm, tạo nên hệ động thực vật phong phú. Du khách đến đây không chỉ được lênh đênh trên thuyền, thả mình vào khung cảnh yên bình mà còn có thể ghé Cảng Dũng Mây – hòn đảo rộng 3ha, nơi có tầm nhìn bao quát toàn cảnh đầm đẹp mê hồn. Ngoài ra, Đầm Vân Hội còn là nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc Dao, Tày và người Kinh, tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu. Ghé thăm nơi đây, du khách không thể bỏ lỡ những đặc sản hấp dẫn như cá chiên, cá trắm đen, cá quả, măng rừng, gà thả vườn… Không chỉ có phong cảnh đẹp, hùng vĩ đầm Vân Hội Phú Thọ còn là nơi sinh sống của đồng bào người Dao, Tày thu hút du khách tìm hiểu văn hóa dân tộc đa dạng. Về sau người dân tộc Kinh tới đầm sinh sống càng tô điểm cho nét văn hóa đặc sắc nơi đây .Bên cạnh vẻ đẹp thiên nhiên, Đầm Vân Hội còn nằm trong khu di tích lịch sử cách mạng, thuận tiện di chuyển tới các danh thắng lân cận như Đình Làng Vần, Hang Dơi, Đồng Yếng, Gò Cọ – điểm dừng chân lý tưởng cho hành trình khám phá vùng Đất Tổ. Đầm Vân Hội Phú Thọ đích thị là thiên đường ngắm cảnh đẹp, gần gũi thiên nhiên và tận hưởng bầu không khí trong lành "xả stress" sau những giây phút làm việc mệt mỏi hoặc tránh xa sự ồn ào, náo nhiệt của chốn thành thị.
Phú Thọ 225 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 03
Nhắc đến du lịch Phú Thọ người ta sẽ nghĩ ngay đến quần thể di tích đền Hùng. Đến với đền Hùng không thể bỏ qua Bảo tàng Hùng Vương Phú Thọ được xem là cuốn sử hiện hào kiệt của dân tộc. Mỗi hiện vật, khảo cổ được trưng bày tại bảo tàng đều được xem là vật chứng thiêng liêng của vùng đất Tổ. Bảo tàng Hùng Vương tọa lạc tại xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, cách trung tâm Hà Nội khoảng 85km về phía Tây. Bảo tàng nằm trong quần thể Khu Di tích lịch sử Đền Hùng và được xem là Bảo tàng Quốc gia. Nơi đây được xây dựng cuối những năm thập niên 80, trải qua nhiều thời kỳ trùng tu. Được thiết kế mô phỏng theo kiến trúc nhà sàn Bắc Bộ, Bảo tàng Hùng Vương là sự kết hợp độc đáo giữa kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống đặc trưng của văn hóa Đông Sơn với bộ mái hình thuyền dốc 4 phía dán ngói đỏ, xung quanh có hàng cột chống trụ tròn, cao thanh thoát và cầu thang lên đặt ở mặt trước nhà… tạo nên một diện mạo bề thế mà trang nhã nổi bật trong hệ thống kiến trúc đô thị của thành phố Việt Trì. Bảo tàng Hùng Vương được khánh thành và đưa vào sử dụng năm 2014 với tổng diện tích 15.732 m2 trong đó quan trọng nhất là nhà trưng bày được thiết kế gồm 3 tầng có diện tích sàn 9.000m2 với nhiều hạng mục phục vụ tốt nhất cho công tác trưng bày theo hướng khoa học và hiện đại, được đánh giá là một trong những bảo tàng đẹp và hiện đại nhất khu vực các tỉnh phía Bắc. Được đặt ở vị trí trung tâm của kinh đô Văn Lang xưa bởi thế Bảo tàng Hùng Vương mang trong mình cả một kho tàng lịch sử, văn hóa khá đồ sộ với hơn 12.000 hiện vật gốc tái hiện rõ nét lịch sử hình thành, phát triển của tỉnh Phú Thọ từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến ngày nay. Không gian trưng bày của Bảo tàng được thiết kế mở với nội dung trưng bày phong phú gồm 3 phần: Phần 1: Trưng bày cố định, gồm 49 cụm mỹ thuật với 5 chủ đề: Thiên nhiên, con người Phú Thọ; Phú Thọ thời kỳ tiền sử và sơ sử; Phú Thọ trong thời kỳ Bắc thuộc và xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ; Lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân Phú Thọ ; Phú Thọ trong công cuộc đổi mới. Phần 2: Trưng bày chuyên đề: Đây là phần trưng bày có tính chất động, mang tính thời sự phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh, kỷ niệm những ngày lễ lớn… Phần 3: Trưng bày ngoài trời: Trưng bày cố định các hiện vật có kích thước lớn như: xe tăng, tàu chiến, máy bay… kết hợp hài hòa với cảnh quan thiên nhiên tạo cho khách thăm quan một không gian thư giãn, nghỉ nghơi trong hành trình thăm quan bảo tàng. Chính sự phong phú trong nội dung kết hợp với giải pháp trưng bày hiện đại (sử dụng các tổ hợp mỹ thuật và hệ thống ánh sáng phụ trợ) đã tạo nên những điểm nhấn sinh động, những đặc trưng rất riêng chỉ có trong không gian trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương. Bảo tàng Hùng Vương với vai trò là “sứ giả lịch sử” nên nó mang trong mình không chỉ sự phong phú và đồ sộ về số lượng hiện vật mà ẩn trong đó là những hiện vật, những bộ sưu tập hiện vật hết sức độc đáo. Đến với Bảo tàng Hùng Vương điều tạo sự khác biệt và gây ấn tượng đầu tiên với mỗi du khách đó là tổ hợp tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ được đúc bằng đồng thau, cao 5,2 m sừng sững, uy nghi đặt trang trọng giữa gian khánh tiết. Sở dĩ Bảo tàng Hùng Vương chọn hình tượng Cha Rồng - Mẹ Tiên làm chủ đề tư tưởng xuyên suốt cả hệ thống trưng bày bởi đây là hình tượng mang dấu ấn nguồn cội thể hiện ước vọng ngàn đời về sự cố kết cộng đồng, hình thành biểu tượng về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời đây cũng là minh chứng rõ nét nhất khẳng định Phú Thọ là nơi đất gốc, là cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Là vùng đất cổ, Phú Thọ có một hệ thống các di tích khảo cổ học xuyên suốt từ giai đoạn văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun cho đến Đông Sơn với hàng vạn hiện vật được tìm thấy trong các di tích khảo cổ học. Trong kho tàng hiện vật khảo cổ đó nổi bật lên bộ sưu tập Nha Chương bằng đá ngọc – đây là một sưu tập hiện vật quý hiếm bởi tính đến thời điểm hiện nay Nha chương mới chỉ được phát hiện ở tỉnh Phú Thọ tại 2 di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên và Xóm Rền. Đến với Bảo tàng Hùng Vương du khách sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp tinh xảo và độc đáo của bộ sưu tập Nha Chương này. Một không gian hết sức huyền bí khơi dậy tính tò mò muốn được khám phá mà du khách không thể bỏ qua khi đến với Bảo tàng Hùng Vương đó là phòng trưng bày “Bí mật ngôi mộ cổ". Tại đây du khách sẽ hiểu thêm về đời sống vật chất và tinh thần của người Việt cổ thông qua những thước phim sống động và tận mắt khám phá bí ẩn phía sau 2 ngôi mộ cổ có niên đại cách đây 4000 năm được đặt trong tổ hợp mỹ thuật tái hiện lại địa tầng tự nhiên hết sức sống động giống như hiện trường khai quật. Có thể nói phòng trưng bày mộ cổ là nguồn tư liệu quý đối với những người muốn tìm hiểu nghiên cứu về lịch sử cư dân trên vùng đất cố đô Văn Lang xưa. Và còn nhiều nữa những hiện vật và bộ sưu tập hiện vật độc đáo như sưu tập đồ trang sức thời Phùng Nguyên, sưu tập trống đồng Đông Sơn, sưu tập đồ gốm qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn… mang giá trị lịch sử, văn hóa và thẩm mỹ được Bảo tàng Hùng Vương lựa chọn trưng bày phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa vùng đất Tổ của các nhà nghiên cứu, khách tham quan trong và ngoài nước. Ấn tượng về kiến trúc – Phong phú về nội dung trưng bày – Độc đáo về hiện vật đó là những điểm tạo nên sự khác biệt giữa bảo tàng Hùng Vương với các bảo tàng khác, mang đến cho du khách những chải nghiệm cực kỳ thú vị, là một điểm không thể thiếu trong hành trình về thăm miền quê di sản Phú Thọ.
Phú Thọ 226 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.
Phú Thọ là một trong những điểm du lịch hấp dẫn ở Việt Nam với nhiều địa điểm lịch sử và thiên nhiên đẹp mê hồn. Tại đây, du khách có thể khám phá những điểm đến với lịch sử lâu đời và cả những kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Một trong những địa điểm đáng để khám phá ở Phú Thọ chính là Đèo Khế. Đèo Khế là đèo trên quốc lộ 32 ở vùng giáp ranh huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ và huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sau khi được tu sửa lại, con đường đèo dài gần 30km không chỉ giúp giao thông thuận tiện mà còn trở thành điểm lui tới quen thuộc của dân mê phượt. Với vẻ đẹp hoang sơ và bình dị, đèo Khế thu hút không chỉ các tín đồ du lịch mạo hiểm, mà còn cả những người yêu thích cảnh quan tự nhiên. Đèo Khế chính là nơi để du khách tận hưởng cảnh quan đẹp đến ngỡ ngàng của vùng núi và núi rừng thuộc Phú Thọ. Lên đường từ sơn Quang Khe, bạn sẽ được ngắm nhìn toàn cảnh của những ngọn núi trùng điệp nằm dưới chân đèo. Khung cảnh xanh mát và hùng vĩ tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đèo Khế không chỉ đẹp mắt mà còn đem lại cảm giác thú vị và hồi hộp cho du khách khi vượt qua. Đường đi khá dốc và uốn lượn, tạo thành một thử thách thú vị cho những người yêu khám phá. Cảm giác hồi hộp khi lần đầu tiên vượt qua đèo sẽ khắc sâu trong trái tim và tâm trí của bạn. Khi đi trên Đèo Khế bạn sẽ được ngắm khung cảnh rừng núi bạt ngàn, hoang sơ, rộng lớn. Được ngắm nhìn những bản làng, những con sông vắt qua núi tạo thành bức tranh sơn thủy hữu tình nơi đây. Phú Thọ là một điểm du lịch hấp dẫn với nhiều địa điểm lịch sử và thiên nhiên đẹp mắt. Đèo Khế là một trong những địa điểm đáng để khám phá, với cảnh quan tự nhiên hoang sơ và những trải nghiệm thú vị khi vượt qua đèo. Hơn nữa, Phú Thọ còn có Đền Hùng và Nhà sàn Đông Sơn – hai điểm du lịch nổi tiếng không thể bỏ qua. Đèo Khế sẽ là một sự lựa chọn lý tưởng cho bất kỳ ai muốn ngao du đây đó, ngắm những miền đất lạ ở Việt Nam.
Phú Thọ 223 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 06