Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Núi Thần Đinh ở thôn Rào Đá, xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Núi này còn gọi là Bất Nghĩa Sơn . Cách Thành Phố Đồng Hới khoảng 25km về phía Tây Nam và cách đường Hồ Chí Minh nhánh Đông 3km, ngọn núi này mang nhiều huyền tích về một cõi tâm linh, từng được người xưa coi là “chốn đa Phật” Trên núi còn nhiều di tích của một ngôi chùa khá tiếng tăm, liên quan đến câu chuyện về chiếc chuông đồng của vua Càn Long đem phụng cúng cho chùa vì tiền kiếp của mình... Trông xa núi mang hình một chiếc yên ngựa. Núi nằm ở độ cao 405m so với mực nước biển và mất chừng khoảng 40 phút leo qua 1260 bậc đá để lên đến Chùa Non (còn có tên Kim Phong). Chùa được xây dựng vào năm 1701. Ở đây tồn tại tấm bia đá lập vào thời Minh mạng thứ 11 (1830) ghi chép về chùa. Trước cửa chùa có giếng nước trong vắt, mát ngọt, không bao giờ cạn được gọi là giếng Tiên. Giếng nằm ngay giữa bốn bề là đá khô khốc, vậy mà không biết nước có từ đâu để giếng luôn đầy cho dù là vào những năm nắng nóng khô hạn nhất. Bây giờ nhiều người tứ xứ đến ngoạn cảnh Thần Đinh, họ không quên mang theo chai nước để lấy ít nước từ giếng Tiên về dùng, coi như nguồn nước tinh tuý từ chốn thần tiên với bao điều mong ước. Đứng trên đỉnh núi Thần Đinh nghe gió ù thổi, nghe truyền thuyết kể rằng: Thầy Ân Khả đã tu ở chùa này (chùa Kim Phong) từ năm 1694 (đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, ứng với triều Khang Hy bên Trung Quốc), thầy là người đức độ tài trí, được tăng ni phật tử trong vùng yêu mến. Trước khi viên tịch, thầy cắt một ngón tay út bỏ vào tráp để lại cho chùa. Lạ thay ngón tay tươi mãi không hề bị thối rữa. Sau này thầy đầu thai vào một gia đình bên Trung Quốc và tái sinh trong hình hài vua Càn Long (1736-1796) (tương truyền vua Càn Long cũng bị thiếu mất một ngón tay út). Vua Càn Long linh cảm tiền kiếp có duyên nợ với chùa non trên núi Thần Đinh bên Đại Việt nên đã gửi một quả chuông sang tặng, chuông có khắc mấy chữ "Thần Đinh chung". Thuyền chở chuông vào đến cửa sông Nhật Lệ thì không may bị bão tố nhấn chìm. Sau này một ngư dân quê ở huyện Bố Trạch tên là Đặng Văn Tiên, trong một lần thả lưới đã bắt được quả chuông và đem cúng vào chùa Non trên núi Thần Đinh. Không biết huyền thoại về quả chuông đồng do vua Càn Long tặng có thật hay không. Một số người cho rằng hiện nay quả chuông chùa Non trên núi Thần Đinh đang được treo ở chùa Phổ Minh (ở Thành Phố Đồng Hới). Chiếc chuông của chùa Phổ Minh hiện nay là có thật, nhưng có liên quan với truyền thuyết trên hay không thì chưa ai khẳng định. Toàn đỉnh núi Thần Đinh là những dãy đá vôi thấp màu xám đen, lô nhô như những dãy núi nhỏ mọc lên từ một đỉnh núi lớn trông rất kỳ lạ. Phải chăng vì vậy mà người xưa từng gọi chùa Thần Đinh bằng tên khác nữa là chùa Non? Núi Thần Đinh có ba ngọn. Đá xếp chồng lên nhau gợi cho ta tưởng tượng đây là vị quan viên đội mũ cánh chuồn đang đọc văn. Kia là hình con đại bàng tung cánh, nọ là con hổ đang nhe nanh vuốt. Ngôi chùa Thần Đinh xưa nay chỉ còn lại những mảng tường đá rêu phong, đổ nát, chen đầy cây cối, giữa một vạt đất bằng phẳng đầy cây cổ thụ. Một vài căn miếu nhỏ nằm lẻ loi ở rìa cây phía Bắc là còn khá nguyên vẹn. Cảnh sắc Thần Đinh gợi nhớ biết bao đến tiền nhân. Núi Thần Đinh bây giờ đã trở thành điểm du lịch sinh thái, tâm linh khá hấp dẫn cho du khách. Những người thành tâm khi đến dâng hương, uống nước giếng thần sẽ gặp nhiều may mắn, tránh được ốm đau bệnh tật, cả năm làm ăn phát đạt. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.
Quảng Bình 598 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6793 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6159 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4151 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4114 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4045 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3808 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3734 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3628 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3543 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3354 lượt xem
Đến với Bảo Ninh, bạn sẽ được hòa mình vào không gian thiên nhiên vô cùng thoáng đãng, hoang sơ và yên tĩnh, bạn dường như sẽ chỉ nghe thấy tiếng sóng rì rào, tiếng gió vù vù bên tai mà không bị đông đúc xô bồ như những bãi biển trọng điểm khác. Ngoài ra, xung quanh còn là những rặng dừa xanh rì lắc lư theo gió cùng những cảnh sinh hoạt giản dị của người dân ở làng chài Bảo Ninh. Bạn nên đến đây vào tờ mờ sáng để đón bình minh rực rỡ trên biển, khi những tia nắng đầu tiên trong ngày bắt đầu ló dạng xa xa, mặt nước biển được soi sáng trở nên óng ánh đẹp mắt. Hoặc bạn cũng có thể đến dạo chân trần trên bãi biển vào buổi chiều tà, khi ánh hoàng hôn buông xuống để khép lại một ngày, những đoàn thuyền đánh cá trở về sau ngày lênh đênh trên biển. Biển Bảo Ninh ngay gần cạnh bãi biển Nhật Lệ nên nếu muốn thăm thú dạo chơi ở Nhật Lệ thì bạn chỉ cần đi qua cầu Nhật Lệ để đến. Ngoài ra, đứng trên cầu Nhật Lệ mà phóng tầm mắt xuống nhìn dòng nước, mặt biển Bảo Ninh thì đẹp và bình yên vô cùng. Sau buổi sáng ngắm bình minh trên biển thì bạn cũng có thể di chuyển đến quảng trường Bảo Ninh nằm ngay trên bãi biển với những hoạt động vui chơi giải trí vô cùng thu hút và hấp dẫn. Nếu may mắn đến vào mùa lễ hội thì bạn còn có thể được chứng kiến lễ hội cầu ngư, cầu mùa mà người dân làng chài lập nên. Một số điểm tham quan xung quanh biển Bảo Ninh mà bạn có thể ghé qua như là di tích Thành lũy cổ, đền thờ Cá ông hay tượng đài Mẹ Suốt, Quảng Bình Quan, khu mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp hay đặc biệt nếu có thể là hang Sơn Đoòng…Những địa điểm tham quan di tích lịch sử xung quanh khu vực này sẽ là cơ hội để bạn có thêm kiến thức lịch sử cũng như hiểu biết xã hội, để bạn tìm hiểu sâu hơn về những năm tháng chiến tranh gian khổ của quân và dân ta.
Quảng Bình 1823 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Suối Nước Moọc nằm trong vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng cách thành phố Đồng Hới khoảng 60 km. Để đến đây bạn có thể đi theo trục đường mòn Hồ Chí Minh, con suối chảy ra sông Côn về miền đồng bằng. Đến ngã ba Khe Gát bạn rẽ về hướng Tây đi khoảng 5 km nữa là đến suối Moọc. Suối nước được bao phủ bởi rừng xanh đại ngàn, khí hậu mát mẻ, độ ẩm không khí cao. Mùa hè du lịch tới đây rất thích hợp, bạn sẽ có cảm giác như lạc vào một chiếc điều hòa khổng lồ của thiên nhiên. Suối Nước Moọc Quảng Bình bắt nguồn từ một hồ nước lớn rộng khoảng 80 – 90 m vuông, phía dưới hạ nguồn dòng suối đổ ra sông lớn. Ở đây có nhiều bãi đá lô nhô gập ghềnh tạo nên cảnh quan kỳ thú. Dọc theo dòng suối những tán cây tỏa bóng tràn ra giữa dòng như những chiếc ô chùm lên mặt nước. Cây cối mọc xanh tốt có tác dụng giữ nước, giữ độ ẩm làm không khí thanh mát, trong lành. Suối Nước Moọc hiện ra trong khung cảnh thiên nhiên hoang dã rừng sâu, khách du lịch như bị choáng ngợp cảnh đẹp trước mắt. Từng con nước, cành cây ngọn cỏ xanh non căng tràn sự sống, âm thanh râm ran của thiên nhiên hòa trong tiếng nước chảy tạo thành bản hợp giao sinh động. Trên dải đất hình chữ S này có những nơi con người và thiên nhiên có thể hòa hợp gần gũi đến như vậy. Bạn có thể thả hồn vào không gian rừng núi tận hưởng cảm giác thư thái, căng rộng hết các giác quan để nghe, để nhìn ngắm, để cảm nhận hương thơm của sự sống. Đến đây bạn còn được tham gia vào nhiều hoạt động vui chơi giải trí, có rất nhiều trò chơi cảm giác mạnh, đòi hỏi sự dẻo dai khéo léo của người chơi: Chèo thuyền Kayak, đi cầu treo, zipline … Ngồi trên thuyền Kayak khéo léo điều khiển mái chèo theo dòng nước đến những đoạn chảy siết người chơi phải gồng mình lên để giữ mái chèo vượt qua dòng nước mạnh. Gía vé chèo thuyền Kayak tại suối nước Moọc mỗi lượt chơi giá khoảng 50.000 VNĐ. Đi cầu treo dành cho những người không sợ độ cao, nhón từng bước chân thận trọng trên từng thanh gỗ cầu treo nếu không muốn bị rơi xuống nước. Không chỉ cẩn thận bạn còn phải rất khéo léo để tham gia trò giải trí này. Ở đây có phục vụ rất nhiều món ăn dân dã được chế biến từ những nguyên liệu bản địa: Rau rừng xào tỏi, cá chình nướng, gà nướng, cháo canh. Ngồi trên những lán nhà lá thưởng thức các món ăn đem đến cảm nhận vô cùng mới lạ. Vào mùa hè suối Moọc thực sự trở thành một khu sinh thái tuyệt vời, nước suối trong mát, cảnh vật tươi mới. Cùng bạn bè đến đây picnic ngày cuối tuần, dịp lễ sẽ là một ý tưởng tuyệt vời, thiên nhiên hoang dã sẽ cho bạn những bức ảnh kỉ niệm đáng nhớ. Điểm du lịch khá mới nên mọi thứ dường như “còn nguyên”, dường như tách biệt với cuộc sống bên ngoài. Ngoài ra bạn có thể tham quan các điểm gần suối Moọc như sông Chày, hàng Tối. Hang Tối có những dòng nước ngầm sâu chảy qua tạo ra sự điều hòa không khí. Bên trong có nhiều khối thạch nhũ đá đa hình thù và hầu như không có ánh sáng, bóng tối kín đặc, nếu tắt đèn pin đi cảm tưởng mọi thứ như bị bóng tối nuốt trọn, trước mắt một màu đen đến nghẹt thở.
Quảng Bình 1695 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Nổi tiếng là một trong những kỳ quan thiên nhiên thế giới quy mô nhất tại Việt Nam hiện nay, thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình và được nhiều du khách yêu thích lựa chọn. Nơi đây, không chỉ góp phần lớn vào việc bảo tồn thiên nhiên, các loài động thực vật mà bên cạnh đó còn tạo nên điểm du lịch ấn tượng cho khách du lịch ngay từ lần đầu ghé thăm. Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm cách trung tâm thành phố Đồng Hới khoảng 45 km. Với cấu tạo gồm 2 phần chính là động Phong Nha và dãy núi đá vôi Kẻ Bàng hùng vĩ nhiều năm tuổi. Mang lại cảm giác như lạc vào một vùng trời riêng biệt, vừa hoang sơ, vừa mang đậm vẻ đẹp tự nhiên của hệ sinh thái đầy thu hút. Nằm trên địa phận tỉnh Quảng Bình, một tỉnh thành thuộc khu vực phía Bắc, chính vì vậy đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ khô và mưa rõ rệt. Để có chuyến đi đến vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng thuận lợi bạn nên chọn thời gian từ tháng 4 đến tháng 8. Lúc này thời tiết khô ráo, ít mưa và có nắng đẹp, phù hợp cho chuyến tham quan cùng những hoạt động thú vị. Còn đối với những khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 thời tiết dễ có mưa, thậm chí là bão. Nếu đến tham quan thời điểm này sẽ khá bất lợi trong việc di chuyển và gây nên nhiều nguy hiểm tiềm ẩn. Bên cạnh đó, vào thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 mùa nước cao cũng gây bất lợi khi tham quan động Phong Nha và hệ thống các hang khác. Hiện nay, việc lựa chọn khách sạn khi tham quan vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng khá được các du khách quan tâm. Bởi điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình tham quan du lịch. Đối với thắc mắc lựa chọn khách sạn Quảng Bình, bạn có thể an tâm bởi đây hiện là tỉnh du lịch phát triển. Khi đến đây không quá khó khăn để lựa chọn ra được một khách sạn phù hợp với nhu cầu, sở thích cũng như khả năng tài chính của du khách. Để chủ động hơn về thời gian bạn có thể lựa chọn tham khảo, đặt phòng khách sạn trước tại các website, hoặc qua app Traveloka tiện lợi. Nhắc đến một trong những điểm tham quan không thể bỏ qua khi đến với vườn quốc gia Quảng Bình, động Phong Nha được mệnh danh là “Thiên Nam đệ nhất động” với vẻ đẹp kỳ vĩ, hoang sơ. Sau khi đi theo dòng nước trong xanh bạn sẽ đến cửa hang có độ cao 10m, tiếp đến tiến hành khám phá hệ thống hang động dài 8.000m, với 12 hang lớn nhỏ khác nhau. Mang lại trải nghiệm bất ngờ cho du khách trong quá trình tham quan vườn quốc gia. Trải qua rất nhiều sự thay đổi, trong lòng hang đã hình thành bãi cát vàng, hồ nước ngầm xanh ngắt và thạch nhũ đầy ấn tượng. Tất cả như tạo nên một bức tranh sinh động được tạo ra từ thiên nhiên qua hàng trăm triệu năm. Để vào được hàng bạn cần mua vé khoảng 120.000 VNĐ/ người lớn, trẻ em miễn phí và thuê thuyền khoảng 550.000 VNĐ/ chiếc 12 chỗ. Sở hữu diện tích hơn 40 ha, vườn thực vật là hệ sinh thái đa dạng và cũng là khu bảo tồn không thể bỏ qua khi đến tham quan vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng. Tại đây, bạn có thể trải nghiệm quá trình Trekking khám phá và check in Thác Giá, Hồ Vàng Anh, khu nuôi thả động vật. Ngoài ra, bạn cũng có thể ghé vào nhà trưng bày mẫu để ngắm nhìn các loại động, thực vật quý hiếm. Đối với giá vé vào vườn thực vật sẽ khoảng 40.000 VNĐ/ người lớn và 20.000 VNĐ/ trẻ em. Đây hứa hẹn sẽ là trải nghiệm thú vị và đáng nhớ cho những người yêu thích thiên nhiên, luôn mong muốn khám phá vẻ đẹp, sự kỳ thú của các loài động - thực vật. Động Thiên Đường được mệnh danh là hang động khô dài nhất châu Á, với tổng độ dài là 31.4km, được hình thành tự nhiên trong quần thể đá vôi và bao quanh bởi rừng nguyên sinh hoang sơ, trù phú. Để đến được động bạn cần vượt qua 524 bậc thang gỗ, sau đó thoải mái tận hưởng bầu không khí mát mẻ, vẻ đẹp huyền ảo từ những khối thạch nhũ ấn tượng. Do đó, nơi đây đã trở thành điểm tham quan không thể thiếu khi đến vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng.
Quảng Bình 1891 lượt xem
Từ tháng 4 đến tháng 8
Đến Quảng Bình nhất định phải ghé Bãi Đá Nhảy – nằm dưới chân đèo Lý Hoà thuộc địa phận Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Với bờ biển dài, cát vàng mịn và nước biển xanh ngắt, tạo nên “backgruond” đẹp không góc chết thích hợp cho các bạn sống ảo. Thời điểm đẹp nhất để đi Quảng Bình là từ những tháng đầu năm cho đến tháng 5 (tính theo dương lịch nha). Tháng 6, 7, 8 khá là nắng và nóng, còn tháng 9 10 11 12 là mùa mưa và lạnh. Bạn có thể thuê một chiếc xe máy ở Đồng Hới xuất phát đi bãi tắm Đá Nhảy cũng khá ok. Từ TP Đồng Hới bạn chạy về hướng Sân Bay Đồng Hới rồi đi thẳng khoảng 25 cây là tới. Đến nơi tấp vào gửi xe tại một quán ăn tiện trưa ăn luôn. Cảm nhận đầu tiên trước mắt hiện ra đi tới Bãi Đá Nhảy đó chính là bờ biển sạch sẽ ít rác, nước biển trong và xanh, không khí mát mẻ. Bạn đi bộ một đoạn là tới bãi đá. Kèm theo có một đoạn bậc thang để leo lên trên đỉnh. Đứng từ trên nhìn xuống để nhìn toàn cảnh bao quát Bãi Đá Nhảy. Yên tâm là ở Bãi Đá Nhảy có rất nhiều quán với nhà hàng sát biển, giá cả rất phải chăng nên bạn tha hồ ăn uống no say luôn nhé, hải sản tươi rói luôn. Sau khi đánh chén xong, bạn có thể nghỉ tại các võng dưới chòi và tận hưởng gió biển mát rượi cũng là một ý kiến không tồi.
Quảng Bình 1599 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thuộc địa phận thôn Thọ Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình và cách quốc lộ 1A khoảng 3km, Vũng Chùa – Đảo Yến được biết đến là nơi yên nghỉ của vị đại tướng anh hùng của dân tộc Võ Nguyên Giáp. Khu vực này có diện tích khoảng 10ha và nằm ngay dưới chân đèo Ngang hùng vĩ. Vũng Chùa là một bãi biển trong xanh, bờ cát trắng trải dài và xung quanh là khung cảnh yên bình của những rừng cây ngút ngàn xanh. Vũng Chùa hướng ra biển Đông nhưng ở đây lại khá kín gió, do đó, nơi đây được cho là vùng đất có vị trí khá là đắc địa. Đảo Yến là hòn đảo nhỏ cách bờ từ Vũng Chùa tầm 1km, nếu đi bằng thuyền thì sẽ chỉ mất khoảng 20 phút để ra được đến đây. Nhiều người nhận xét rằng, đảo Yến có thế tựa như một bức bình phong nổi lên ngay giữa biển khơi với niềm tin nơi đây sẽ trấn giữ đất liền và biển lớn, bảo vệ cho cuộc sống của con người. Vũng Chùa – Đảo Yến nay đã trở thành một địa điểm hành hương thu hút rất đông du khách đến đây tham quan và thắp nén hương tưởng nhớ vị đại tướng anh hùng mỗi năm. Người dân địa phương đã kể lại rằng ngày xưa vùng đất này có tên gọi là Hòn Nồm dựa trên cách tính phương hướng. Tuy nhiên, sau này có một công ty đã đưa chim yến về đây nuôi để khai thác chim yến nên từ đây có rất nhiều chim yến về trú ngụ. Cái tên đảo Yến Quảng Bình cũng từ đó mà ra. Vậy còn cái tên Vũng Chùa có nguồn gốc từ đâu? Theo người dân địa phương, ngày xưa ở khu vực này có một ngôi chùa lớn nhưng bây giờ trải qua thăng trầm thời gian thì chỉ còn lại dấu tích của nền chùa thôi nhưng cái tên Vũng Chùa là có từ đó. Khu vực này cũng được bao bọc bởi 3 hòn đảo đó chính là Hòn La, Hòn Gió và Hòn Nồm tạo thành thế tam giác kiềng ba chân nên khá là kín gió nên các tàu thuyền thường neo đậu lại mỗi khi có bão đổ về. Ngoài ngôi mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp thì nhiều người có thể vẫn không biết rằng trên đảo còn có một ngôi mộ cổ được truyền khẩu từ người dân là ngôi mộ của danh tướng Trần Đạt, người đã có công trong khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc từ phương Bắc cùng Lê Lợi. Sau khi tìm hiểu thêm các sách sử để lại thì được biết gia tộc của danh tướng Trần Đạt rất có tiếng trong vùng bởi có nhiều người được phong khanh hầu, quận công hay khoa bảng… Dù vậy, nhà thờ họ hiện tại đang ở làng Thuận Bài, xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch. Vậy là Quảng Bình vinh dự được đón hai vị tướng cách nhau chừng 500 năm về yên nghỉ nơi đây. Khu mộ của đại tướng Võ Nguyên Giáp nằm phía bờ, ở điểm cao 110m trên núi Rồng, có hướng nhìn ra đảo Yến thiêng liêng còn mộ của danh tướng Trần Đạt, người đã có công đánh bại giặc phương Bắc cứu dân cũng ở gần khu vực đó khiến cho Vũng Chùa – Đảo Yến thêm phần oai hùng.
Quảng Bình 1715 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm trong trung tâm của quần thể di tích vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, với chiều dài trải dài hơn 5km, chiều rộng hơn 200m, chiều cao lên đến 150m và được ước tính hoàn toàn có thể “nhét vào” được một toà nhà chọc trời khoảng 40 tầng, hang Sơn Đoòng hay còn được gọi là Sơn Động) là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới và là một niềm tự hào của người dân Việt Nam nói chung và người dân Quảng Bình nói riêng khi được thiên nhiên ưu ái ban tặng một kiệt tác vô giá của nhân loại. Chính vì sự hùng vĩ và độ sộ này, người ta vẫn hay ví Sơn Đoòng như là “Vạn lý trường thành” của Việt Nam. Để đến được với hang Sơn Đoòng, bạn sẽ phải mất khoảng nửa ngày để đi qua một khu rừng và lội qua một con sông nhỏ. Đến được cửa hang, từng luồng gió lạnh thổi trong hang sẽ làm tan biến bao mệt mỏi của quãng đường “băng rừng lội suối” gian nan. Không chỉ ngỡ ngàng trước không gian rộng lớn của hang, bạn sẽ cảm thấy vô cùng phấn khích bởi sự bí ẩn diệu kỳ ẩn sau những làn sương mù dày huyền ảo trong những cơn gió lạnh. Không chỉ nổi tiếng với kích thước khổng lồ, hang Sơn Đoòng còn có một hệ sinh thái động, thực vật phong phú. Sơn Đoòng là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật và cũng là một thảm thực vật đa dạng với hàng trăm loài thực vật khác nhau, được tạo nên bởi dòng sông ngầm chảy xiết dưới lòng đất và được những ánh mặt trời của một phần hang bị sập chiếu vào. Người ta còn phát thiện được cả một thảm thực vật nguyên sơ chưa có vết chân người trên một cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh rộng lớn tựa như một ‘vườn địa đàng’ có thực nơi trần gian. Hang Sơn Đoòng hấp dẫn du khách bởi sự đa dạng trong địa chất trong địa hình đặc biệt của những dòng sông ngầm và những hang động rộng lớn. Khám phá hang Sơn Đoòng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống đá vôi, nhũ đá, “ngọc trai” khổng lồ và những cột đá măng lên đến 70m được kiến tạo từ hàng triệu năm trước Với mục đích bảo tồn và gìn giữ vẻ đẹp của hang động cũng như đảm bảo đảm an toàn cho khách thăm quan, hang Sơn Đoòng chưa mở cửa đón khách du lịch một cách đại trà mà chỉ có khoảng 500 người được tham gia vào hành trình thám hiểm mỗi năm. Muốn lên đường và trở thành một trong ít người được khám phá hang động kỳ vĩ này, bạn sẽ phải đặt trước tour thám hiểm hang Sơn Đoòng với chi phí khá đắt và cũng như chuẩn bị một thể lực tốt để đảm bảo sức khoẻ cho chuyến đi khám phá Sơn Đoòng dài ngày.
Quảng Bình 2180 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Nằm ở độ cao 360m so với mực nước biển, Động Thiên Đường có nhiệt độ chênh lệch với bên ngoài từ 9 - 10 độ C. Cửa hang nhỏ dấu kín sau những vách đá và tán cây rừng. Lòng động được chia làm nhiều khoang lớn, nơi rộng nhất hơn 200m và cao trên 100m. Để đảm bảo hiện trạng của nền hang, Tập đoàn Trường Thịnh đã làm một cây cầu gỗ rộng 3,5m và dài hơn 1000m để phục vụ du khách tham quan. Con đường này hiện đang giữ một kỷ lục quốc gia là "Con đường gỗ dài nhất". Mặc dù đã có lịch sử hình thành từ lâu, nhưng hang Thiên Đường mới chỉ được phát hiện vào năm 2005, bởi chuyên gia hang động thuộc Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh. Cũng theo công bố của hội, động Thiên Đường có chiều dài lên tới 31,4 km. Nơi đây được đánh giá là một trong những hang động đẹp nhất tại Quảng Bình, đồng thời cũng được mệnh danh là “Hoàng cung trong lòng đất” bởi vẻ đẹp kỳ vĩ cùng kiến tạo hang động đồ sộ, đầy tinh xảo. Đồng thờ, động Thiên Đường cũng được công nhận là hang động dài nhất châu Á. Không hổ danh là một kỳ quan tráng lệ và huyền ảo bậc nhất Thế giới. Hệ thống thạch nhũ kiến tạo trong hang vô cùng đa dạng và phong phú về giá trị địa chất cũng như hình hài. Đặc biệt các nhủ đá trong động có những hình ảnh giống biểu tượng văn hóa các vùng miền: Tiên Ông, Phật bà, Nhà sàn và ruộng bậc thang như vùng đồi núi Tây Bắc. Hệ thống nhũ của Động Thiên Đường phong phú và đa sắc màu. Hệ thống thạch nhũ trong hang vẫn hằng ngày được tiếp tục kiến tạo nhờ những giọt nước đang cần mẫn nhỏ xuống từ trần hang. Những Chính những nét độc đáo riêng mà Động Thiên Đường được xứng đáng với ngôi vị quán quân trong bảng xếp hạng hang động Quốc tế vì tính thẩm mỹ, khoa học lẫn vẻ đẹp lộng lẫy, khoáng đạt cùng nhiều tầng thạch nhũ đẹp say mê lòng du khách. Thời gian tham quan 1000m đầu tiên trên hệ thống đường gỗ mất từ 2 giờ đến 2 giờ 30 phút. Nhắc đến động Thiên Đường tại Quảng Bình, bạn nhất định phải biết đến những điểm đặc biệt của nơi này so với các động khác cùng quần thể. Sở dĩ động Thiên Đường được đánh giá cao bởi các tổ chức quốc tế là nhờ những đặc điểm sau đây: Là động khô dài nhất châu Á, xuyên suốt chiều dài của động là hệ thống cầu gỗ nhân tạo giữ bạn an toàn trong suốt chuyến trải nghiệm mà không mất quá nhiều sức lực để leo trèo, khám phá. Hệ thống cầu gỗ dài 1000m được đánh giá là cầu gỗ trong hang động dài nhất châu Á hiện nay. Động Thiên Đường sở hữu những dải nhũ đá, măng đá với vẻ đẹp lung linh, huyền ảo được đánh giá là đẹp nhất châu Á. Động Thiên Đường cùng vẻ đẹp huyền bí, và chặng đường khám phá đầy thử thách chắc chắn sẽ đem lại cho bạn 1 trải nghiệm tham quan vô cùng mới lạ. Là một hang động khổng lồ, nơi đây chắc chắn ẩn chứa nhiều điều thú vị, hấp dẫn luôn sẵn sàng khiến bạn ngạc nhiên, thích thú.
Quảng Bình 1407 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Nằm ở xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 45km về phía tây bắc, Động Phong Nha nằm trong vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng. Từ Đồng Hới đi đến Phong Nha du khách sẽ được đi trên đường Trường Sơn huyền thoại. Sau khi đến trung tâm du lịch Phong Nha, du khách ngược theo dòng Sông Son đến tham quan Phong Nha. Được coi là “Thiên Nam đệ nhất động” của Việt Nam, che chở bởi những cánh rừng nhiệt đới. Là điểm đầu tiên được đưa vào khai thác du lịch phục vụ du khách tại Phong Nha Kẻ Bàng.Theo các nhà khoa học, quá trình phong hóa tạo thành hang động ở Phong Nha là quá trình tự nhiên đã diễn ra từ cách đây 250 triệu năm. Dạng địa hình chính của Phong Nha -Kẻ Bàng là núi đá vôi và núi đất. Độ cao trung bình 600 mét, thành hẹp, vách đứng. Động Phong Nha nằm ở phần đông nam khối núi đá vôi Kẻ Bàng. Trong một vùng đá vôi bị phong hóa mạnh, diện tích khoảng 10.000 km2, kéo dài 200 km trên phía bắc dãy Trường Sơn, thông cả sang Lào. Ở khối núi đá vôi này có hiện tượng nước chảy ngầm.Với chiều dài 7.729m, sâu 83m, cao 50m với rất nhiều nhánh hang phụ lớn nhỏ. Bao gồm cả hang Bi Kí, hang Tiên và hang Cung Đình. Đây là loại hình động nước chảy ngầm trong lòng núi với nhiều thạch nhũ đặc trưng. Tương truyền rằng, chính những măng đá rũ xuống ở cửa hang đã góp phần tạo nên cái tên đầy thi vị “Phong Nha”, tức là “Gió luồn qua kẽ răng”. Tên gọi Phong Nha cũng bắt nguồn từ đây. Những thạch nhũ Phong Nha được đánh giá là đẹp và mất hàng triệu năm mới được hình thành.Phong Nha nổi tiếng với những khối đá độc đáo được đặt tên theo các hình dạng tự nhiên. Cảm giác vào với xứ thần tiên, hư “Sư tử”, “Kỳ lân”, “Vô chầu”, “Cung đình” hay “Tượng Phật”. Sau khoảng 19km chảy ngầm dưới dãy Trường Sơn. Dòng sông hiện ra ở cửa hang mang một màu nước xanh biếc vào mùa khô. Và đặc biệt là sắc đỏ của phù sa vào mùa mưa. Du khách cũng có thể khám phá sự kiến tạo các măng đá, thạch nhũ tại một vài trong số 14 phòng bên trong hang động. Bên trong khoảng 1km là hang Bi Kí, một nhánh phụ nằm sâu trong động cách cửa động khoảng 600m. Người ta tin rằng có một khoảng thời gian nào đó từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI, người Chăm đã chọn nơi đây làm nơi thời cúng.Sau hàng chục cuộc thám sát khoa học của người Việt, người Pháp, người Anh… động Phong Nha vẫn còn đó với những điều bí ẩn. Hiện nay tại nhiều hang động tại Phong Nha Kẻ Bàng được đưa vào khai thác du lịch. Tuy nhiên Động Phong Nha Kẻ Bàng vẫn là lựa chọn số một của du khách. Tour Phong Nha vừa nhẹ nhàng phù hợp với nhiều lứa tuổi vừa thi vị khi xuôi dòng sông Son để khám phá hang động này.
Quảng Bình 1489 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08
Hang Én Quảng Bình có tổng chiều dài 1645m; xuyên qua một quả núi. Trần hang có nơi cao 100m, nơi rộng nhất 170m.Hang động này lớn thứ 3 trên thế giới và nằm sau hang Sơn Đoòng và hang Deer ở Malaysia. Hang được vợ chồng Howard Limbert là nhà thám hiểm người Anh khám phá ra vào năm 1994. Cái tên này xuất phát từ hình ảnh những chú chim én sinh sống tại khu vực này. Vào năm 2015, hình ảnh Hang Én cùng hang Sơn Đoòng đã được truyền hình Chào buổi sáng của Mỹ phát sóng trực tiếp. Cũng trong năm đó, Hang Én cùng quần thể di sản thế giới Tràng An và Vịnh Hạ Long đã được chọn làm bối cảnh trong một bộ phim nổi tiếng có tên là Peter Pan.Không chỉ nổi tiếng vì là một hang động lớn mà chính vẻ đẹp hoang sơ của nơi đây đã thu hút sự quan tâm của nhiều du khách trong và ngoài nước. Khi đến với Hang Én, bạn sẽ có được cho mình những trải nghiệm hấp dẫn có 1-0-2: Trên hành trình đi khám phá Hang Én, du khách sẽ có cơ hội được trải nghiệm cuộc sống của đồng bào dân tộc Bru - Vân Kiều tại bản Đoòng. Cuộc sống của người dân nơi đây gần như tách biệt với thế giới bên ngoài do địa hình hiểm trở. Tuy nhiên, sau khi chương trình tham quan Hang Én được diễn ra thì cuộc sống người dân đã có những cải thiện đáng kể. Chỉ với 15 phút nghỉ chân ngắn ngủi tại bản Đoòng, du khách sẽ có cơ hội trò chuyện với người dân để hiểu rõ hơn về cuộc sống nơi đây. Bạn sẽ được nghe những câu chuyện về bản làng, núi rừng cũng như cuộc sống bình dị của họ. Cắm trại trong Hang Én: Sau một quãng đường đi bộ dài và băng qua sông, dốc thì du khách sẽ được đến với địa điểm cắm trại để nghỉ ngơi. Trong hành trình này, du khách sẽ được quây quần cùng đoàn để thưởng thức món ăn dân dã đến từ những đầu bếp của Oxalis với các nguyên liệu đơn giản từ địa phương. Trầm trồ trước vẻ đẹp của những khối thạch nhũ độc đáo: Bạn sẽ thức giấc chào đón ngày mới bởi tiếng của những đàn chim én kêu râm ran. Hành trình khám phá Hang Én ngay sau đó sẽ là các khối thạch nhũ với tuổi đời lên tới hàng triệu năm. Những khối thạch nhũ này được hình thành trong lòng hang bởi các giọt nước chảy từ vòm hang xuống. Du khách sẽ đi xuyên suốt quãng đường dài khoảng 1.6km để đến được với cửa sau của Hang Én. Nơi đây là cả một cánh rừng nguyên sinh hùng vĩ với đủ các loại hoa kỳ bí. Nó khiến bạn lạc vào một thiên đường rộng lớn giữa thiên nhiên, trời đất. Tận mắt chứng kiến hàng triệu chim én trú ngụ trong hang: Sẽ thật thú vị nếu được tận mắt chứng kiến sinh hoạt của hàng triệu chú chim én trú ngụ trong hang phải không nào? Đừng quên tranh thủ chụp một vài bức hình đẹp nhé. Đây chắc chắn là điểm check in Quảng Bình có 1-0-2 đó. Hành trình khám phá Hang Én quả thật là một trong những chuyến phiêu lưu tuyệt vời nhất mà không phải ai cũng có cơ hội được trải nghiệm. Vì vậy, nếu có cơ hội các bạn hãy tận hưởng trọn vẹn và chụp cho mình thật nhiều bức hình kỷ niệm nhé.
Quảng Bình 1263 lượt xem
Từ giữa tháng 12 đến tháng 09
Sông Chày hang Tối Bố Trạch Quảng Bình nằm trên địa phận của xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đây cũng là điểm du lịch nằm trong vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bảng nổi tiếng, cách trung tâm thành phố Đồng Hới khoảng 50km. Sở dĩ dòng sông có tên là sông Chày bởi nguồn nước tại đây bắt nguồn từ dòng thác có tên là Chày. Không chỉ vậy, người dân còn lưu truyền tiếng nước chảy ở dòng thác này tương tự như tiếng chày giã gạo. Sông Chày có dòng nước xanh ngọc bích đẹp mắt, bốn bề là thiên nhiên, núi rừng, tạo nên một khung cảnh đẹp tựa tranh vẽ. Hang Tối là một phần hang thuộc hệ thống khu du lịch động Phong Nha Kẻ Bàng. Với độ sâu 20m, cao 40m, hang Tối trở thành điểm tham quan khám phá của nhiều đoàn thám hiểm. Sở dĩ hang có tên là “Tối” vì nhiều người cho biết “ánh sáng tối” bên trong cửa hang đặc quánh, tạo cảm giác như có thể chạm tay vào. Trải nghiệm sông Chày hang Tối là một trong những hoạt động du lịch hấp dẫn bậc nhất tại địa phương. Bởi vậy, khi lựa chọn địa điểm du lịch Quảng Bình, sông Chày hang Tối luôn nằm trong lịch trình khám phá của du khách. Sông Chày hang Tối, suối Moọc chắc chắn là hành trình du lịch lý tưởng nhất để bạn có thể khám phá trọn vẹn vẻ đẹp của vùng đất Quảng Bình. Tại sông Chày, du khách nên trải nghiệm với hoạt động chèo thuyền để vừa vận động thể thao, vừa ngắm nhìn toàn cảnh thiên nhiên hữu tình. Cảnh đẹp hai bên bờ sông được tạo nên từ những bờ bãi đá vôi, khi nước chảy xuống, đá vôi kết thành những hình dạng vô cùng lạ mắt. Ngoài ra, những hàng sung hai bên bờ sông cũng tạo nên màu xanh thiên nhiên tuyệt đẹp. Chèo thuyền trên sông Chày, bạn không chỉ mãn nhãn với cảnh đẹp của núi rừng, sông nước mà còn tận mắt chứng kiến nhiều sinh vật dưới nước, hai bên bờ sông. Trò chơi zipline đặc biệt thu hút giới trẻ, cụ thể hoạt động này là bạn thả mình từ trên cao xuống, soi người dưới dòng nước trong xanh của dòng sông Chày. Khi đu zipline sông Chày hang Tối, bạn sẽ được trang bị đồng phục bảo hộ để đảm bảo an toàn và có được trải nghiệm tốt nhất. Để có được những giây phút cực kỳ mới lạ tại điểm đến này, du khách có thể lựa chọn đu tuyến zipline dài nhất Việt Nam vào bên trong hang Tối. Khi buông lỏng cơ thể, thả mình vào cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, bạn sẽ cảm giác cực kỳ sảng khoái và thư giãn. Điều thu hút những nhà thám hiểm, khách du lịch đến với hang Tối đó chính là bên trong hang còn rất nguyên sơ, dường như chưa có bất kỳ sự khai thác du lịch nào. Bởi vậy, những nhũ đá cũng có nhiều hình thù đa dạng. Khu vực hang còn là nơi ẩn nấp của nhiều động vật như: chim én, dơi, voọc Hà Tĩnh. Ngoài ra, hang Tối còn là khu vực hang nằm ngay bên cạnh dòng sông, vì vậy độ ẩm bên trong khá cao tạo nên những lớp rêu phong bám ở phần thạch nhũ. Bước vào bên trong hang, bạn sẽ cảm nhận được sự kỳ vĩ của thiên nhiên, đây cũng là nơi để bạn thỏa sức khám phá về các hệ sinh vật cũng như các dạng hóa thạch từ thời xưa. Sẽ có rất nhiều trải nghiệm thú vị bên trong hang Tối, nếu đọc trước thông tin sông Chày hang Tối review khi lên lịch trình, bạn sẽ nhận thấy một địa điểm không thể bỏ lỡ đó chính là khu tắm bùn bên trong hang. Tắm bùn thiên nhiên là hoạt động khá thú vị giúp bạn cùng gia đình, bạn bè trở nên gắn kết hơn. Bên cạnh hoạt động tắm bùn, bạn cũng có thể bơi qua hồ Thủy Tiên hoặc hồ Bồng Lai, khám phá các hang khác của Động Phong Nha. Những địa điểm này đều rất hấp dẫn và đáng để thử sức. Sông Chày hang Tối được ví như một tuyệt tác của thiên nhiên tại Quảng Bình. Với những du khách yêu thích khám phá vùng đất mới, chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên thì đây thật sự là một điểm đến không nên bỏ lỡ. Những hoạt động trải nghiệm tại khu du lịch này cũng hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn những giây phút cực kỳ thoải mái, thư giãn cùng bạn bè, người thân.
Quảng Bình 1307 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08