Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đình làng Hà Thượng nằm về phía Đông của làng Hà Thượng, thị trấn Gio Linh, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; cách quốc lộ 1A chưa đầy 1 km về phía Đông và cách đường 75B khoảng 800m về phía Bắc. Đình có diện tích 8.450m2, nằm tại vị trí đắc địa, lưng tựa vào xóm làng, mặt hướng ra hồ lớn và cánh đồng trù phú. Phía xa xa trước mặt đình là một dải đất cao như tấm bình phong. Vị trí này phù hợp với phong thuỷ của người Việt. Theo các tài liệu lưu trữ, đình làng Hà Thượng được xây dựng năm Chính Hoà thứ 11 (năm 1690). Đến năm Thành Thái thứ 15 (1903), ngôi đình được đại trùng tu và xây mới một số công trình khác như cổng ngõ, tường thành. Phương pháp sử dụng tường gạch và cột xi măng đã được áp dụng. Hệ thống cột cù, cột hiên được thay bằng các trụ gạch đắp vữa và trang trí. Hệ thống tường cũng đã được xây lên xung quanh hai gian tiền sảnh…Toàn bộ khuôn viên bao gồm một tòa đại đình và 4 ngôi miếu thờ 4 vị thần: Miếu thờ Thành hoàng, hai miếu thờ hai vị khai khẩn họ Lê và họ Nguyễn, miếu thờ ông Lê Hiếu. Cấu trúc bộ khung gỗ chịu lực được thực hiện theo mô thức của một ngôi nhà rường 3 gian 2 chái, phân bố theo 6 hàng cột. Trên bộ mái lợp ngói, mái thẳng, độ dốc vừa phải; bờ nóc, bờ quyết, đầu đao gắn các mảng trang trí rồng chầu nguyệt, giao hồi văn, giao lá bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép mảnh sành sứ. Bên trong ngôi đình được phân thành hai phần. Phần tiền đường gồm không gian của gian chái trước và hai gian ngoài dùng làm nơi sinh hoạt văn hóa, hội họp, ăn uống. Phần hậu liêu gồm không gian của gian chái sau và một gian trong dùng làm nơi thờ cúng, tế tự. Hệ thống cổng và tường thành phía trước đình được xây bằng gạch, xi măng; nền móng khá cao được xây bằng đá bazan. Các ngôi miếu thờ ở trong khuôn viên đình làng Hà Thượng đều có cổng và tường khép kín. Cấu trúc theo kiểu nhà rường một gian hai chái, các miếu đều có dạng gác lửng dựa trên bốn cột chính của bộ khung gỗ, có chức năng làm bệ thờ. Với lối xây dựng này, đình làng Hà Thượng được xem là sản phẩm tiêu biểu duy nhất còn sót lại thể hiện kiến trúc đình làng của miền Trung vào thế kỷ XVII. Đây là ngôi đình mà theo đánh giá của các nhà nghiên cứu lịch sử và mỹ thuật là cổ nhất, còn sót lại trong hệ thống di tích đình làng tại Quảng Trị với lối kiến trúc độc đáo nhất miền Trung; đây cũng chính là nơi thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Do Linh - Chi bộ Chợ Cầu. Với những giá trị lịch sử và kiến trúc Đình làng cổ Hà Thượng được công nhận di tích quốc gia năm 1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị 577 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia.
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6794 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6160 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4154 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4115 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4047 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3809 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3735 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3629 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3544 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3357 lượt xem
Với nhiều cảnh đẹp, hấp dẫn những người thích phiêu lưu khám phá, cùng sự hiếu khách và văn hóa đặc sắc của đồng bào Pa cô, Vân Kiều, thác Tà Puồng ở thôn Trăng Tà Puồng, xã Hướng Việt, huyện miền núi Hướng Hóa là một trong những điểm đến được khách du lịch lựa chọn hàng đầu khi đến Quảng Trị. Để đến thác Tà Puồng, du khách phải đi 60 km từ thành phố Đông Hà theo Quốc lộ 9 (Hành lang kinh tế Đông - Tây) lên đến thị trấn Khe Sanh (huyện Hướng Hóa), rẽ vào đường Hồ Chí Minh khoảng 50 km mới đến được trung tâm xã Hướng Việt, đi khoảng vài km nữa mới đến được thôn Trăng Tà Puồng. Tuy xa nhưng trên suốt quãng đường dài, du khách sẽ cảm nhận được vẻ hoang dã, hùng vỹ của núi rừng cũng như vẻ sầm uất, hội nhập của đất nước đang trong thời kỳ hợp tác quốc tế qua những đoàn xe tấp nập trên Hành lang kinh tế Đông - Tây. Từ đường Hồ Chí Minh đi vào thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua thôn Trăng Tà Puồng với những nếp nhà sàn yên bình của đồng bào Pa cô, Vân Kiều. Từ thôn Trăng Tà Puồng, đi đến thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua một cánh rừng nguyên sinh với nhiều cây cổ thụ vài người ôm không xuể. Thác Tà Puồng là một cụm danh thắng gồm 1 động và 2 thác nước: Động Tà Puồng nằm ở trên cao rộng khoảng 10 m và ăn sâu vào lòng núi khoảng 200 m, trong động có nhiều thạch nhũ đẹp và nước, động có thể chứa được trên dưới 200 người. Theo nhiều người lớn tuổi sinh sống tại thôn Trăng Tà Puồng, trong chiến tranh, động Tà Puồng không chỉ để cho người dân của 5 thôn trong xã đến trú ẩn, mà bà con các xã vùng lân cận cũng đến trú tạm. Nằm cách động Tà Puồng khoảng 1,5 km về hạ lưu là thác Tà Puồng 1, ngọn thác có độ cao khoảng trên 20 m chảy thẳng từ lưng chừng núi xuống dưới qua những vách núi đá thẳng đứng, hiểm hóc lôi cuốn những người thích mạo hiểm. Dưới thác Tà Puồng 1 có khá nhiều tảng đá lớn, hình thù kỳ quái và nhẵn để du khách nghỉ ngơi thưởng lãm cảnh đẹp hùng vỹ, vừa được hít thở không khí trong lành, mát mẻ tự nhiên. Cách thác Tà Puồng 1 về hạ lưu khoảng 20 phút đi bộ là thác Tà Puồng 2. Đây cũng là điểm vui chơi yêu thích của du khách khi đắm mình dưới làn nước mát lạnh trong hồ nước rộng khoảng 5.000 m2, chỗ sâu nhất khoảng 10 m từ ngọn thác đổ xuống, nước hồ trong vắt nhìn thấy được cả đáy hồ. Người biết bơi có thể thỏa thích bơi, lặn tại đây để giải cái nóng nắng gay gắt của mùa hè. Người không biết bơi thì có thể chèo thuyền, bè ra giữa hồ để thưởng ngoạn cảnh đẹp nơi đây. Hiện nay, bình quân mỗi ngày có hàng trăm du khách, trong đó phần nhiều là các bạn trẻ thích khám phá để thám hiểm và chinh phục thử thách. Để đảm bảo an ninh trật tự và cũng là để thu hút khách du lịch đến tham quan thác, UBND xã Hướng Việt đã huy động các lực lượng Công an, dân quân tự vệ thường xuyên đi tuần đảm bảo an ninh trật tự; tuyên truyền cho du khách để rác đúng nơi quy định, đảm bảo vệ sinh môi trường và không được đốt lửa để phòng chống cháy nổ. Xã cũng đã vận động các hộ dân trong thôn Trăng Tà Puồng tích cực giúp đỡ, hỗ trợ chỉ dẫn đường đến tháp cho du khách. Nhờ vậy, du khách sẽ tuyệt đối an toàn khi đến với thác Tà Puồng, tận hưởng những giây phút sảng khoái, thư giãn và an yên tại đây. Chị Cao Quỳnh Như, ở thị trấn Khe Sanh, huyện Hướng Hóa đang cùng nhóm bạn chơi tại thác cho biết: Không khí ở đây rất trong lành và mát mẻ. Vào những ngày lễ, Tết, bọn em thường lên đây nghỉ ngơi, lấy tinh thần mà tiếp tục làm việc. Đến với thác Tà Puồng, du khách sẽ còn có nhiều cơ hội để tham quan, thám hiểm và tìm hiểu những danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử độc đáo, nên thơ nằm xung quanh thác Tà Puồng như: Động Brai, đèo Sa Mù, sân bay Tà Cơn, Nhà đày Lao Bảo, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo...
Quảng Trị 1673 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Đảo Cồn Cỏ còn có tên gọi khác là Con Cọp, thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị. Đây là một huyện đảo nhỏ nhưng có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển kinh tế, thêm vào đó vị trí địa lý của Cồn Cỏ có ý nghĩa quan trọng trong an ninh quốc phòng biển đảo. Có vai trò là mũi đầu tiền tiêu vùng biển phía Nam. Do chỉ là một đảo nhỏ với diện tích khoảng 2,3 km2 nên dân cư cũng không được đông, từ 300 – 400 người. Với những tiềm năng, điều kiện tự nhiên vốn có đảo Cồn Cỏ rất có thế mạnh về phát triển du lịch, đánh bắt nuôi trồng hải sản. Trên đảo có cả rừng được bao quanh bởi biển khơi, đúng với nghĩa “rừng vàng biển bạc”, hệ sinh thái động thực vật rất phong phú và đa dạng. Các loài cá, sinh vật biển quanh đây có đến hơn 267 loài, các loài cá sống xen kẽ phân theo tầng nước. Ở tầng nước phía trên có nhiều loại cá ngư dân hay đánh bắt được như: Cá thu, cá trích, cá ngừ, cá chim…Bên cạnh đó công việc khai thác còn bội thu nhờ số lượng các loài nhuyễn thể rất lớn, có nhiều loại động vật giáp xác, nhuyễn thể như: Tôm hùm, cua bể, ghẹ, ngao, điệp, ngọc trai…Đây chính là biểu hiện rõ nét về sự đa dạng phong phú về tài nguyên biển của huyện đảo Cồn C Đặc biệt đảo Cồn Cỏ còn có hệ thực vật thuộc loại phong phú nhất, đẹp nhất của Việt Nam. Các loài rong biển, tảo biển, san hô vô cùng sặc sỡ nhiều màu sắc làm nên không gian biển dưới nước sinh động tràn đầy sức sống. Ở Cồn Cỏ có hơn 50 loài rong biển thuộc các loại khác nhau, trong đó nhiều loại rong biển bán được giá cao. Về san hô còn đa dạng hơn rong biển với hơn 100 loài san hô, phân bố rải rác khu vực gần bờ. Nhờ được thiên nhiêu ưu đãi nên nơi đây rất có tiềm năng kinh tế, nếu bạn có dịp du lịch đảo Cồn Cỏ sẽ có cơ hội ngắm những loài san hô tuyệt đẹp, đắm mình vào không gian đa sắc màu dưới nước biển. Ngoài biển, trên đảo Cồn Cỏ còn có những khu rừng nhiệt đới rậm rạp là nơi trú ngụ của nhiều sinh vật. Rừng cây nơi đây được ví như lá phổi xanh của hòn đảo với tổng diện tích cây che phủ lên đến hơn 70% diện tích cuả đảo. Ngoài những cây lai nhập từ đất liền trên đảo còn có nhiều loài cây bản địa như: Cây Bàng vuông, cây Dứa dại, cây Phong ba. Cây chính là màu xanh của đảo là lý do khiến không khí nơi đây trong lành hơn bất kỳ nơi nào, bầu không khí trong lành cùng với cảnh vật thiên nhiên thơ mộng khiến Cồn Cỏ đang dần trở thành một địa điểm du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng lý tưởng của các gia đình, các nhóm bạn, cặp đôi vào các kỳ nghỉ dịp lễ. Du lịch sinh thái tại đảo Cồn Cỏ là lựa chọn hợp lý nhất mà bạn có thể nghĩ đến. Tận hưởng không gian biển khơi trên một hòn đảo nhỏ nơi có những bãi đá Bazan hình thành từ núi lửa, những bãi tắm cát trắng ẩn hiện vỏ sò, vỏ ốc, hay tham quan những khu rừng nguyên sinh trên đảo. Tất cả hứa hẹn đem lại cho bạn một kỳ nghỉ dưỡng đầy thư giãn và vô cùng ý nghĩa. Trong những năm tháng chống Mỹ, hòn đảo xinh đẹp này là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt, đến giờ còn lưu giữ nhiều chứng tích chiến trường xưa. Huyện đảo Cồn Cỏ được thành lập như một đơn vị hành chính thuộc tỉnh Quảng Trị có dân sinh ổn định nên các vấn đề về điện nước luôn được đảm bảo. Các cơ sở hạ tầng trên đảo ngày càng được củng cố và nâng cấp các tuyến đê kè đá bao bờ biển, cảng tàu cá, đường giao thông chính trên đảo…Trên đảo có điện nước đầy đủ, nước ngọt được lấy từ một giếng khoan sâu, tuy trữ lượng chưa nhiều nhưng đủ cung cấp cho dân cư sinh hoạt trên đảo. Hệ thống thông tin liên lạc đầy đủ và hiện đại, đảm bảo thông tin luôn được kết nối bởi các trạm ra đa, cột viễn thông, đài phát thanh truyền hình, mạng di động. Cơ sở vật chất trên Cồn Cỏ không chỉ đáp ứng cho các hoạt động du lịch, sinh hoạt của người dân mà còn là tiền đề để phát triển các dự án nghiên cứu sinh học, thăm dò địa chất trên đảo. Có rất nhiều món đặc sản ở Cồn Cỏ, chủ yếu từ nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ưu đãi. Món ốc rất phổ biến, bạn có thể ăn thoải mái vì ốc chỉ 20.000 VNĐ/kg, cua, ghẹ cũng rất nhiều và được bán theo con, mỗi con khoảng 40.000 VNĐ. Đặc biệt trên đảo có món ốc thổ và hải sâm đen rất nổi tiếng vì bổ dưỡng có lợi cho sức khỏe. Giá cá mua tại cảng rẻ hơn mua ở chợ trong đất liền chỉ từ 150.000 VNĐ/kg, tùy loại cá mà giá có sự chênh lệch, như cá đuối lên đến 240.000 VNĐ/kg. Giá cơm trên đảo cũng rất bình dân, từ 30.000 – 40.000 VNĐ/suất. Cồn cỏ có rất nhiều địa điểm tham quan, chụp ảnh đẹp, vừa tắm biển vừa lặn khám phá các bãi san hô. Các địa điểm nổi bật phải kể đến như: Bãi Tranh, bãi sông Hương, ngọn hải đăng Cồn Cỏ, bến Ông Nghè, mõm Hổ…Cảnh sắc nước biển nền trời vô cùng hài hòa, tạo nên tông màu xanh tươi mát. Không gian lộng gió biển, khí trời mát mẻ làm con người luôn tươi tỉnh, cây cối sinh vật căng tràn sự sống. Nếu bạn chọn Cồn Cỏ để đi du lịch, nghỉ dưỡng nên đi vào khoảng thời gian tháng 5, tháng 6 mùa hè, vì thời tiết nắng khô ráo, cảnh vật khởi sắc tươi mới, các khu vui chơi bãi tắm nhộn nhịp, biển dịu êm không dậy sóng. Các loài động thực vật sinh sôi, đua sắc trên rừng dưới nước.
Quảng Trị 1834 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Thác Chênh Vênh là một điểm du lịch mới đang thu hút được đông đảo du khách gần xa với hình ảnh ngọn thác nổi bọt trắng xóa, xung quanh là núi rừng hùng vĩ và cung đường chinh phục vô cùng thú vị. Hiện nay, thác Chênh Vênh vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng và đã trở thành một điểm du lịch lý tưởng cho nhiều du khách, đặc biệt là những người đam mê phượt, tìm hiểu những vùng đất mới với rất nhiều điều hấp dẫn. Được đặt tên là thác Chênh Vênh có lẽ là vì con thác này nằm chênh vênh giữa vách núi gồ ghề và được khu rừng hoang sơ bao bọc. Nằm ẩn mình trong núi nên khi du khách men theo những con đường nhỏ, con suối để vào thác sẽ được đắm chìm vào bản nhạc hòa ca của tiếng nước chảy ồ ạt, tiếng lá cây xào xạo và cả tiếng chim hót. Thác Chênh Vênh hiện nay vẫn còn khá hoang sơ và hẻo lánh nên khi muốn chinh phục thác thì du khách nên chọn di chuyển bằng xe máy sẽ thuận tiện và chủ động hơn trong suốt hành trình. Thác Chênh Vênh sở hữu độ cao 20m và có dòng nước trong veo đổ từ trên cao xuống, đập mạnh vào vách đá và tạo bọt tung trắng xóa. Bên trong thác Chênh Vênh còn có một thác nhỏ được gọi là thác Mẹ. Thác Mẹ được bao bọc bởi rừng cây tươi mát, phía trước còn có một hồ nước trong vắt, mát lạnh và vô cùng thích hợp cho các hoạt động vui chơi cùng gia đình bạn bè. Muốn đi vào thác Mẹ du khách có thể đi men theo hai bên bờ hoặc trèo qua các phiến đá. Không chỉ có khung cảnh đẹp như tranh vẽ mà tại thác Chênh Vênh cũng có rất nhiều hoạt động thú vị. Du khách có thể thỏa sức đắm mình vào dòng nước mát lạnh để quên đi những áp lực trong công việc, cuộc sống. Bên cạnh đó, du khách có thể tổ chức cắm trại, đốt lửa trại, tổ chức các bữa tiệc nướng, các hoạt động vui chơi cùng gia đình, bạn bè… Đặc biệt hơn là vì sở hữu không gian hùng vĩ nhưng không kém phần thơ mộng nên thác Chênh Vênh cũng là địa điểm được lựa chọn để check-in sống ảo. Những tấm ảnh check-in ở đây vô cùng lung linh và sẽ không làm du khách thất vọng.
Quảng Trị 1775 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Bãi biển Cửa Tùng thuộc huyện Vĩnh Linh, cách thành phố Đông Hà (tỉnh Quảng Trị) khoảng 30 km về phía đông bắc. Bãi biển Cửa Tùng được hình thành trên nền đất đỏ bazan, bên trên phủ một lớp cát trắng, sóng biển vỗ rì rào ngày đêm như một bản tình ca ngọt ngào chào đón những người lữ khách từ phương xa. Vào những ngày thời tiết đẹp, bầu trời và mặt biển hòa thành một màu xanh trong trẻo, ngút ngàn tầm mắt khiến ai cũng phải say lòng. Thêm một điều thú vị nữa là biển Cửa Tùng được hình thành từ quá trình phong hóa địa chất với hai bãi đá ngầm lấn sâu ra biển được gọi là Mũi Si và Mũi Lay. Vì vậy mà đã tạo nên một vịnh nhỏ khuất gió, không có sóng to gió lớn hay các dòng hải lưu lớn chảy ngang, hiền hòa như một hồ nước lớn tĩnh mịch. Đến đây vào mùa hè, bạn sẽ được đắm mình trong làn nước mát lạnh, tận hưởng bầu không khí trong lành và có những khoảng thời gian nghỉ ngơi, thư giãn tuyệt vời. đây có bầu không khí trong lành và cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, còn được mệnh danh là thiên đường của những bãi tắm. Ngay từ thời xưa, bãi biển Cửa Tùng luôn được đánh giá cao bởi vẻ đẹp hoang sơ, quyến rũ, người Pháp cho xây dựng tại đây nhiều biệt thự nghỉ dưỡng có kiến trúc theo phong cách cổ điển. Đến nay, các khu nghỉ dưỡng còn được gìn giữ khá nguyên vẹn và bãi biển Cửa Tùng vẫn luôn là điểm đến hấp dẫn đối với du khách. Bãi biển Cửa Tùng nằm thoai thoải trên nền đất đỏ bazan, phủ bên trên là lớp cát trắng, sóng biển rì rào êm đềm như những bản tình ca ngọt ngào dành cho người lữ khách. Trong những ngày nắng sớm, bầu trời ở biển Cửa Tùng trong xanh không một gợn mây, sắc nước như sắc trời hòa cùng một màu xanh đầy cuốn hút.Tắm biển ở Cửa Tùng cũng là trải nghiệm thú vị mà bạn không nên bỏ lỡ. Nhờ lặng gió, sóng nhỏ nên ở đây cực kỳ an toàn. Phía trên bãi cát là những hàng phi lao xanh rì đung đưa trong gió. Tắm biển xong, bạn có thể nằm ngả lưng trên cát, ngắm nhìn sự bao la của đại dương hoặc tản bộ tận hưởng nắng gió của miền biển Trung bộ hiền hòa. Buổi sáng, khoảng 5h30 là thời gian tuyệt vời nhất để bạn đón bình minh trên biển Cửa Tùng. Đây chắc chắn sẽ là trải nghiệm cực kỳ khó quên bởi sự bình yên, khung cảnh tuyệt đẹp khi những tia nắng đầu tiên lò rạng từ mặt biển bao la. Đây cũng là lúc người dân bắt đầu trở về sau một đêm đánh bắt trên biển, mang theo rất nhiều những loại hải sản tươi ngon. Tiếng huyên náo bán mua lúc này chính là nhịp sống của người dân miền biển, vẻ đẹp của sự lao động miệt mài ngày đêm. Nước biển ở Cửa Tùng mát rượi, xanh trong và còn rất nhiều tiềm năng chưa được khám phá. Đặc sản nơi đây cũng là điểm hấp dẫn thực khách. Nổi bật nhất là món mực tươi rói, vừa được câu lên, da vẫn còn đang đổi màu, được nhà hàng thả ngay vào nồi hấp vừa chín tới. Bày lên mâm mời du khách, miếng mực dầy thịt, vị ngọt thơm đọng lại mãi trong miệng. Cháo bột rong biển hải sản, bánh đúc rau câu cũng là đặc sản được nhiều dân lựa chọn khi tới nghỉ dưỡng tại đây. Cháo (bánh canh) làm từ bột sắn dây, được xe sợi nhỏ như đầu tăm, ngắn chừng 2mm được nấu với rong biển và tôm, bề bề, mực đậm vị, ngọt nước. Đặc sản này rất hấp dẫn du khách vào mỗi buổi chiều, sau thời gian lặn ngụp giữa dòng nước mát lạnh. Các loại hải sản như cá duội, cá khô, tôm hùm, tôm sú, cá mú, cá hồng, cá kình… ở đất này cũng mang đậm vị ngọt của biển. Cá mú ở Vĩnh Linh được chế biến rất đặc biệt, thay vì nướng, hấp như nhiều vùng biển khác, các đầu bếp vùng biển này cho cá mú vào tộ, kho với nướm mắm liu riu 20-30 phút, rắc chút hạt tiêu Vĩnh Linh đượm nồng vị cay, để thực khách cảm nhận được nguyên độ săn chắc của cá. Phía đông Vĩnh Linh này, du khách muốn mua đặc sản về làm quà, cũng không thiếu những sản vật quê hương như tiêu, chè, bánh sắn, bánh bột lọc…
Quảng Trị 1098 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 07
Với nhiều cảnh đẹp, hấp dẫn những người thích phiêu lưu khám phá, cùng sự hiếu khách và văn hóa đặc sắc của đồng bào Pa cô, Vân Kiều, thác Tà Puồng ở thôn Trăng Tà Puồng, xã Hướng Việt, huyện miền núi Hướng Hóa là một trong những điểm đến được khách du lịch lựa chọn hàng đầu khi đến Quảng Trị. Để đến thác Tà Puồng, du khách phải đi 60 km từ thành phố Đông Hà theo Quốc lộ 9 (Hành lang kinh tế Đông - Tây) lên đến thị trấn Khe Sanh (huyện Hướng Hóa), rẽ vào đường Hồ Chí Minh khoảng 50 km mới đến được trung tâm xã Hướng Việt, đi khoảng vài km nữa mới đến được thôn Trăng Tà Puồng. Tuy xa nhưng trên suốt quãng đường dài, du khách sẽ cảm nhận được vẻ hoang dã, hùng vỹ của núi rừng cũng như vẻ sầm uất, hội nhập của đất nước đang trong thời kỳ hợp tác quốc tế qua những đoàn xe tấp nập trên Hành lang kinh tế Đông - Tây. Từ đường Hồ Chí Minh đi vào thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua thôn Trăng Tà Puồng với những nếp nhà sàn yên bình của đồng bào Pa cô, Vân Kiều. Từ thôn Trăng Tà Puồng, đi đến thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua một cánh rừng nguyên sinh với nhiều cây cổ thụ vài người ôm không xuể. Thác Tà Puồng là một cụm danh thắng gồm 1 động và 2 thác nước: Động Tà Puồng nằm ở trên cao rộng khoảng 10 m và ăn sâu vào lòng núi khoảng 200 m, trong động có nhiều thạch nhũ đẹp và nước, động có thể chứa được trên dưới 200 người. Theo nhiều người lớn tuổi sinh sống tại thôn Trăng Tà Puồng, trong chiến tranh, động Tà Puồng không chỉ để cho người dân của 5 thôn trong xã đến trú ẩn, mà bà con các xã vùng lân cận cũng đến trú tạm. Nằm cách động Tà Puồng khoảng 1,5 km về hạ lưu là thác Tà Puồng 1, ngọn thác có độ cao khoảng trên 20 m chảy thẳng từ lưng chừng núi xuống dưới qua những vách núi đá thẳng đứng, hiểm hóc lôi cuốn những người thích mạo hiểm. Dưới thác Tà Puồng 1 có khá nhiều tảng đá lớn, hình thù kỳ quái và nhẵn để du khách nghỉ ngơi thưởng lãm cảnh đẹp hùng vỹ, vừa được hít thở không khí trong lành, mát mẻ tự nhiên. Cách thác Tà Puồng 1 về hạ lưu khoảng 20 phút đi bộ là thác Tà Puồng 2. Đây cũng là điểm vui chơi yêu thích của du khách khi đắm mình dưới làn nước mát lạnh trong hồ nước rộng khoảng 5.000 m2, chỗ sâu nhất khoảng 10 m từ ngọn thác đổ xuống, nước hồ trong vắt nhìn thấy được cả đáy hồ. Người biết bơi có thể thỏa thích bơi, lặn tại đây để giải cái nóng nắng gay gắt của mùa hè. Người không biết bơi thì có thể chèo thuyền, bè ra giữa hồ để thưởng ngoạn cảnh đẹp nơi đây. Hiện nay, bình quân mỗi ngày có hàng trăm du khách, trong đó phần nhiều là các bạn trẻ thích khám phá để thám hiểm và chinh phục thử thách.Đến với thác Tà Puồng, du khách sẽ còn có nhiều cơ hội để tham quan, thám hiểm và tìm hiểu những danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử độc đáo, nên thơ nằm xung quanh thác Tà Puồng như: Động Brai, đèo Sa Mù, sân bay Tà Cơn, Nhà đày Lao Bảo, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo...
Quảng Trị 1062 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Bãi biển Cửa Việt tọa lạc ở thôn Tân Lợi, xã Gio Việt, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, nằm trong Khu du lịch Cửa Việt huyện Gio Linh. Cách thành phố Đông Hà 15km về phía Đông, bãi biển Cửa Việt trải dài với bãi tắm rộng, nước trong xanh, cát trắng mịn sạch sẽ bên những rừng dương xanh ngát. Thời tiết nơi đây khá nóng vào mùa ạ do ảnh hưởng từ gió Lào, tuy nhiên làn nước tại biển Cửa Việt luôn mát mẻ giúp bạn được giải nhiệt, quên đi cái nắng nóng oi ả và thả mình vào cảm giác sảng khoái. Biển Cửa Việt nằm trong top 4 bãi biển đẹp nhất mà bạn nên ghé đến khi du lịch đến Quảng Trị, bên cạnh biển Cửa Tùng, biển Gia Đẳng và biển Mỹ Thủy. Nhờ những sự đặc biệt này mà biển Cửa Việt đón không ít du khách trên mọi miền đất nước đến tham quan, nghỉ dưỡng, trong đó có cả TP. HCM dù nằm khá xa nơi đây. Biển Cửa Việt là một điểm đến hàng đầu tại Quảng Trị, thu hút nhiều “tín đồ xê dịch” đến để khám phá những nét đặc biệt mà thiên nhiên ban tặng cho nơi đây. Mặc dù đã có nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng, các dịch vụ hiện đại tại đây để phát triển du lịch, những gì đẹp nhất, hoang sơ nhất của thiên nhiên vẫn được giữ lại. Đến bãi tắm Cửa Việt bạn sẽ được ngắm nhìn cảnh mặt nước trong xanh hòa vào làn mây trời, song song biển là bãi cát trắng phau chạy dài tít tắp như một dải lụa trắng vắt ngang bãi biển. Bạn đừng quên đến đây vào sáng sớm để được đi dạo trên bãi biển ngắm bình minh và đón những tia nắng ban mai đầu tiên. Chắc chắn bạn sẽ cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm và vui vẻ hơn rất nhiều. Đặc biệt bầu trời tại biển Cửa Việt vào sáng sớm trong vắt một màu xanh, không một gợn mây. Không khí thoáng mát kết hợp với làn gió biển mặn mà thổi vào hàng dương xì xào sẽ càng làm cho bạn cảm thấy xao xuyến hơn. Nếu như bình minh trên biển Cửa Việt mang nét đẹp trong trẻo, tràn đầy sức sống thì hoàng hôn nơi đây lại mang một vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ và mộng mơ với sắc đỏ hồng nhẹ nhàng. Để lưu lại những khoảnh khắc tuyệt đẹp của mẹ thiên nhiên tại bãi biển Cửa Việt, bạn đừng quên mang theo máy ảnh hoặc điện thoại đến đây nhé, nếu không thì bạn sẽ tiếc hùi hụi đấy.Biển Cửa Việt được che chắn bởi 2 vách núi khá cao nên khá khuất gió, biển cũng êm ả hơn. Do đó bãi biển có độ an toàn cao cho tất cả mọi người kể cả với trẻ nhỏ và phụ nữ. Đến đây bạn sẽ tha hồ thả mình và thư giãn trong làn nước mát lạnh, tận hưởng những ngọn sóng biển êm dịu nhẹ nhàng xô vào tạo bọt trắng xóa để mang đến cho bạn những phút giây tắm biển thư thái nhất.Chèo sup tại biển Cửa Việt thu hút rất nhiều bạn trẻ. Đây không những là bộ môn thể thao trải nghiệm, được vận động và thư giãn giữa làn nước trong xanh, đây còn là phụ kiện sống ảo chất lượng để bạn có những tấm ảnh lung linh để lưu lại kỉ niệm. Bạn còn chờ gì mà không đến đây trải nghiệm ngay nào.Gần bãi biển Cửa Việt còn có những vườn cây ăn trái trĩu quả được người dân địa phương trồng. Mùa trái cây chính cũng là mùa du lịch cao điểm tại đây nên sau khi tắm biển bạn có thể ghé qua những vườn trái cây này để tham quan, check-in và thưởng thức trái cây tại vườn. Những trải nghiệm tuyệt vời này sẽ làm cho chuyến du lịch của bạn thêm phần ý nghĩa và trọn vẹn hơn.
Quảng Trị 907 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Đồi cát Nhĩ Hạ Quảng Trị cũng như bao nhiêu đồi cát khác của miền trung, nắng và khô cằn. Nhưng đồi cát cũng có những giá trị và trải nghiệm riêng biệt mà ít nơi đâu có được. Đồi cát Nhĩ hạ cách quốc lộ 1A, mười kilômet về phía Đông, đồi cát vàng thuộc địa phận thôn Nhĩ Hạ, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Đây là một trong số rất ít đồi cát còn sót lại, có màu sắc rất đặc biệt – màu vàng óng ánh tuyệt đẹp. Đồi cát vàng óng ánh với độ cao lên đến 40 mét, gần với bãi tắm Cửa Việt, bãi tắm Gio Hải. Xung quanh khá bằng phẳng do vậy khi đứng từ trên đây nhìn ra xa sẽ thấy khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Bạn có thể đứng ở đây để ngắm nhìn cảnh bình minh, hoàng hôn tuyệt đẹp. Cảnh sắc ở đây có thể khiến bạn quên đi muộn phiền, hòa hợp với thiên nhiên. Những đêm trăng thanh, mọi người cũng thường xuyên lên đây để cùng ngắm trăng, trò chuyện. Nơi đây là địa điểm lí tưởng để cắm trại hoặc ngủ qua đêm.Mặc dù được ví như “tiểu sa mạc” nhưng thực tế nơi đây không khô cằn tí nào. Cây cối ở trên đồi cát vẫn rất xanh tươi. Nguyên nhân chính là do ở phía dưới chân đồi có các mạnh nước ngầm xa xưa giúp cây cối hấp thụ nước vào những ngày hè. Nằm ẩn mình dưới những lùm cát uốn lượn và rặng phi lao thẳng tắp vươn mình trong gió, đồi cát vàng Nhĩ Hạ được ví như một tiểu sa mạc giữa lòng đồng bằng. Sở dĩ tạo thành trên một địa hình toàn cát trắng thế nhưng đồi cát lại nhuộm lên một màu vàng óng bởi trước kia có một mỏ sắt tồn tại ở nơi đây khá lâu nhờ vào điều này màu sắc của cát ở thời điểm hiện tại có phần hấp dẫn và đặc biệt hơn các đồi cát thông thường. Khi di chuyển lên đỉnh của đồi phóng tầm mắt ra xa du khách hoàn toàn có thể được chiêm ngưỡng phong cảnh của ngọn hải đăng và bãi biển Cửa Việt xinh đẹp.Thời điểm đẹp nhất để đến với đồi cát Nhĩ Hạnh có lẽ là vào lúc bình minh hoặc khi hoàng hôn buông xuống. Nếu như vào sáng sớm khi mặt trời mới ló mình toàn bộ đồi cát bừng tỉnh sau đêm dài mang lại một sức sống hoàn toàn mới thì đến chiều tà mặt trời lặn những ánh nắng cuối cùng rọi xuống triền cát vàng làm cho khung cảnh trở nên lấp lánh lung linh. Đây cũng chính là hai thời điểm lý tưởng nhất để du khách có thể thoải mái chụp hình mà không cần căn góc.Được ví như là một tiểu sa mạc thế nhưng hệ động thực vật ở nơi đây không hề thưa thớt và thiếu sức sống mà ngược lại nó luôn xanh tươi và trù phú vì đất ở đồi cát luôn có một độ ẩm nhất định. Những rặng phi lao và hàng cây tràm được người dân nơi đây trồng phía dưới chân đồi cát vừa giúp cát không bị gió thổi vào làng vừa tô điểm thêm cho không gian hoang sơ của nơi đây. Dạo chân một vòng trên đồi du khách hoàn toàn có thể bắt gặp những quặng sắt với đủ màu sắc khác nhau. Đây cũng là một điều vô cùng đặc biệt và thú vị mà chỉ riêng đồi cát Nhĩ Hạ mới có được.Hy vọng với tiềm năng hiện có , đồi cát vàng Nhĩ Hạ sẽ trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Quảng Trị.
Quảng Trị 738 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Quảng Trị là vùng đất nắng gió của miền Trung, nơi đây có khí hậu khá khắc nghiệt, vùng đất của những mùa nắng lắm, mưa nhiều. Quảng Trị không hẳn là vùng đất nổi tiếng về du lịch, thế nhưng vùng đất này lại có những điểm đến đặc biệt. Bãi biển Triệu Lăng là một trong những điểm đến đặc biệt như thế. Bãi biển Triệu Lăng có thể được xem là điểm du lịch Quảng Trị quan trọng, thuộc xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong. Bãi biển Triệu Lăng được du khách biết đến vốn là một bãi biển dài và đẹp, hấp dẫn những du khách yêu thích khám phá bằng phong cảnh hoang sơ mà hữu tình, bằng những bãi cát trắng mịn như tan chảy dưới chân, bằng những rặng phi lao xanh chót vót soi bóng bên bờ biển. Bãi biển Triệu Lăng trong xanh một màu ngọc bích, dưới cái nắng khá gay gắt của những ngày hè, đất Quảng Trị phải chịu ảnh hưởng của gió Lào, thì việc được tắm dưới dòng biển trong xanh, mát rượi là trải nghiệm không còn gì thú vị bằng. Bãi biển Triệu Lăng không quá nổi tiếng như những bãi biển khác dọc theo hành trình du lịch trong nước, cũng chính vì điều này mà ở đây cái gì cũng mang một vẻ đẹp hoang sơ, đầy thú vị, thách thức khách du lịch khám phá. Sẽ thật tuyệt vời trên bãi biển Triệu Lăng xanh trong, cát trắng, nắng vàng một mình như sở hữu, du khách sẽ quên đi những bãi tắm đông đúc, chen chúc nhau trong một không gian chật hẹp. Đến với Triệu Lăng hãy thử những món ăn của vùng đất miền trung này. Du khách có thể mua hải sản tươi của ngư dân vừa đánh bắt về tự mình nướng tại bãi biển, bên rặng phi lao để thưởng thức tại chỗ. Hay tìm một nhà dân, sống cùng họ một ngày, cùng ăn hải sản vừa đánh bắt của họ, sẽ nhận ra rằng những con người miền Trung nơi đây chân chất, thật thà dễ mến. Bãi biển Triệu Lăng, có thể nói với những đặc trưng của mình, là điểm đến tuyệt vời trong những tour du lịch Quảng Trị. Nơi đây là nơi nghỉ dưỡng thú vị của du khách trong những ngày hè oi bức. Hoặc chí ít, là một khách bộ hành ngang qua, hẳn vẻ hoang sơ bình yên của chốn này, như một nơi dừng chân bình yên để khách nán lại đôi chút, tận hưởng niềm thi vị riêng, trước khi tiếp tục hành trình của mình đến chốn khác. Đặc biệt, nơi đây là còn là địa điểm camping overnight ngắm sao trời, chillax và ngắm bình minh cực đẹp. Vào một ngày thảnh thơi, còn gì tuyệt hơn được nằm tại nơi “màn trời gối đất”, nghe tiếng sóng rì rào và tận hưởng những cơn gió biển. Không chen chúc hay phô trương, biển Triệu Lăng tạo cho mình một nét cuốn hút riêng tại “miền đất lửa” Quảng Trị. Tạm cho mình một ngày rảnh rang, hòa mình vào thiên nhiên mơ mộng nơi đây.
Quảng Trị 590 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Làng cổ Bích La thuộc xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, hiện lên như một bức tranh thủy mặc cổ kính, trầm mặc. Với tuổi đời hơn 500 năm ngôi làng này là chứng nhân lịch sử; lưu giữ trong mình những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của vùng đất đầy nắng gió Quảng Trị. Ghé thăm làng cổ Bích La; du khách sẽ được trải nghiệm một không gian yên bình, lắng đọng; cảm nhận được nét đẹp của một làng quê Việt Nam. Nơi đây hứa hẹn sẽ mang đến cho du khách những trải nghiệm đáng nhớ và những giây phút thư giãn tuyệt vời. Làng Bích La đã trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ban đầu làng mang tên Hoa An; đến thời Tây Sơn được đổi thành Hoa La; và cuối cùng dưới triều vua Thiệu Trị, cái tên Bích La mới chính thức được định danh. Làng xưa gồm 4 giáp: Đông, Tây, Nam, Hậu, nay thuộc địa phận 3 xã Triệu Tài, Triệu Long, Triệu Đông. Sự hình thành và phát triển của Bích La gắn liền với tên tuổi của Phó tướng Lê Mậu Doãn. Ông là người có công khai khẩn, lập ấp, đặt nền móng cho sự phát triển của làng. Sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam mở cõi (1558); Lê Mậu Doãn thần phục nhà Nguyễn và được phong tước Doãn Lộc hầu; “Chí đức đại thần” nhờ những công trạng to lớn. Để tưởng nhớ công ơn của ông; người dân Bích La đã an táng, xây lăng mộ và miếu thờ uy nghiêm. Trên bài vị của Doãn Lộc hầu tại ngôi miếu linh thiêng này có ghi: “Bổn thổ khai khẩn cai trị Phó tướng Doãn Lộc hầu linh tế Dục Bảo Trung Hưng Linh Phò tôn thần”. Bên cạnh đó, miếu còn thờ các vị thần sông, núi, sấm sét, cầu mong sự bình an cho dân làng, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu… Đặc biệt, nơi đây còn thờ hai vị tiến sĩ đầu tiên của làng là Lê Cảnh Diệu và Lê Cảnh Phiên; những người đã làm rạng danh quê hương. Du lịch Quảng Trị bước chân vào làng cổ Bích La; bạn như lạc vào một không gian xưa cũ; với những ngôi nhà rêu phong, mái ngói âm dương phủ màu thời gian. Những con đường làng lát gạch nghiêng nghiêng; những bức tường đá ong cổ kính; giếng nước sân đình… tất cả đều mang đậm dấu ấn thời gian; gợi nhớ về một thời kỳ lịch sử đã qua. Làng Bích La nổi tiếng với những ngôi nhà vườn kiến trúc độc đáo; kết hợp hài hòa giữa phong cách nhà rường Huế và nhà truyền thống Quảng Trị. Mỗi ngôi nhà là một tác phẩm nghệ thuật với những đường nét chạm khắc tinh xảo; hoa văn trang trí cầu kỳ; thể hiện sự khéo léo và gu thẩm mỹ tinh tế của người dân nơi đây. “Lò sinh quan, nôi sinh sĩ tử”. Làng cổ Bích La, nơi sơn thủy hữu tình giao hòa, đẹp như tranh vẽ. Dòng sông lạch An Mô, nhánh của sông Thạch Hãn hiền hòa, uốn lượn chảy qua làng từ phía Tây, mang đến nguồn nước mát lành và sự trù phú cho vùng đất này. Phía Bắc làng, ngọn núi Cửa Rào sừng sững, bạt ngàn cây cối xanh tươi, như bức tường thành vững chãi che chở cho làng. Cạnh đình làng có con hói nhỏ, tựa như dải lụa mềm mại vắt ngang, uốn lượn dọc theo làng, tạo nên thế đất tựa hình rồng bay, được người dân nơi đây ví von là “cửu tuyền long mạch”, mang đến linh khí và vượng khí cho làng từ bao đời nay. Người dân làng Bích La vẫn lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống như: làm nông nghiệp, chăn nuôi, chài lưới… cùng những phong tục tập quán, lễ hội đặc sắc. Lễ hội Chợ Đình Bích La chỉ họp duy nhất một lần trong năm, vào đêm mùng 2, rạng sáng mùng 3 Tết Nguyên đán mang ý nghĩa cầu mong một năm mới an lành, thịnh vượng, đồng thời là dịp để người dân địa phương giao lưu, gặp gỡ, trao đổi hàng hóa và gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống của quê hương. Phiên chợ diễn ra tại khu vực sân đình làng Bích La, tạo nên một không khí nhộn nhịp, tưng bừng ngay từ những ngày đầu năm mới. Chợ Đình Bích La là một phiên chợ đặc biệt, nơi người mua kẻ bán đều tuân theo những quy tắc bất thành văn. Người bán không nói thách, người mua không mặc cả. Hàng hóa bày bán chủ yếu là các sản vật địa phương như bánh tét, kẹo lạc, hoa quả, đồ thủ công mỹ nghệ… Bên cạnh các hoạt động chính, lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian vui nhộn như kéo co, đẩy gậy, chọi gà, hát đối đáp… tạo nên không khí sôi nổi, náo nhiệt cho phiên chợ. Với những giá trị lịch sử và văn hóa độc đáo; làng cổ Bích La đang trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đến đây bạn sẽ có nhiều hoạt động thú vị: Chiêm ngưỡng kiến trúc cổ kính: Làng Bích La nổi tiếng với những ngôi nhà cổ có tuổi đời hàng trăm năm; được xây dựng theo kiến trúc truyền thống với mái ngói đỏ tươi; tường gạch rêu phong; cổng gỗ chạm khắc tinh xảo. Dạo bước trên những con đường làng; du khách sẽ cảm nhận được không khí thanh bình; mộc mạc của làng quê Việt Nam xưa. Du khách có thể tham gia vào các hoạt động sinh hoạt thường ngày của người dân như làm vườn; câu cá; hay dạo chơi trên cánh đồng lúa xanh mát. Thưởng thức ẩm thực đặc trưng, đánh thức vị giác cùng những món ăn dân dã; đậm đà quê hương được chế biến theo phong cách đặc trưng của người dân địa phương tại các quán ăn trong làng hoặc tại chợ quê Bích La. Làng cổ Bích La là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm về một không gian yên bình, hoài cổ, tránh xa sự ồn ào, náo nhiệt của phố thị.
Quảng Trị 795 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08
La Vang là một địa danh nổi tiếng ở Quảng Trị, nơi thân thuộc của mọi người theo đạo Công Giáo tại Việt Nam. Đây cũng là nơi lưu dấu những vết tích của lịch sử và là trung tâm hành hương Công Giáo lớn nhất cả nước.La Vang, tên đầy đủ là Trung tâm hành hương Đức Mẹ La Vang hay còn gọi là Linh địa Đức Mẹ La Vang), tọa lạc tại thôn Phú Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.Có nhiều cách giải thích cho tên gọi La Vang, trong đó có hai cách lý giải phổ biến, được nhiều người đồng tình và lưu truyền tới nay. Một lập luận nói rằng, đây là vùng có rất nhiều cây “Lá Vằng” vừa để làm nước uống, vừa chữa bệnh. Chữ Lá Vằng sau này được phổ biến khắp nơi, tam sao thất bản và được đọc trái đi thành La Vang.Hơn hai trăm năm trước, La Vang là một vùng đất nhỏ bé, mất hút giữa chốn rừng thiêng nước độc, núi đồi hoang vu, ít người qua lại. Theo những tiền nhân kể lại, trong cơn bách hại khủng khiếp vào giữa năm 1798, một số các tín hữu phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại núi rừng La Vang. Trong lúc hàng trăm người tập họp đọc kinh cầu nguyện dưới gốc cây đa cổ thụ, mà nay là vị trí của Linh Ðài Ðức Mẹ, họ đã được nhìn thấy một Bà đẹp mặc áo choàng, trên tay bồng một Trẻ Thơ. Họ đã được an ủi và chỉ cách ngắt những cành lá chung quanh nơi họ trốn tránh, nấu nước uống sẽ giúp vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo, bệnh tật. Bà còn hứa: “Từ nay về sau, bất cứ ai đến khẩn cầu Mẹ tại nơi đây sẽ được Mẹ ban ơn phù trợ”. Từ đó đến nay, sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ đã được loan truyền khắp nơi.Và sao bao biến chuyển của thời cuộc, sau nhiều lần xây dựng, vào năm 1961, nhà thờ La Vang đã được làm “Đền thờ toàn quốc dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Ðức Mẹ” và thánh địa La Vang là “Trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc”. Sau hơn hai trăm năm, La Vang giờ đây đã trở thành một địa danh nổi tiếng và là trung tâm hành hương Công Giáo lớn nhất cả nước.Trải qua thời gian lịch sử xây dựng và phát triển lâu dài, La Vang ngày nay là một trung tâm hành hương rộng lớn, toạ lạc trên khu đất có diện tích 190.106m2, chia thành nhiều phân khu với các chức năng khác nhau, trong đó có nhiều hạng mục vẫn chưa được triển khai. Là một người tham quan, khi tới La Vang, ba công trình sẽ đập vào mắt và thu hút bạn ngay từ khi đặt chân tới gồm: Tháp chuông cổ là di tích còn sót lại của Vương Cung Thánh Đường cũ. Ngôi thánh đường cũ được xây dựng vào năm 1925, khánh thành năm 1928 và được nâng lên thành Vương cung thánh đường năm 1961. Trong thời gian chiến tranh, ngôi thánh đường đã bị bom đạn phá huỷ vào năm 1972. Sau 44 năm tồn tại, ngôi thánh đường chỉ còn lại tháp chuông và được bảo tồn làm di tích lịch sử cho tới nay.Dấu vết của thời gian, của bom đạn vẫn còn in hằn trên di tích. Cùng với Vương cung thánh đường mới đang được xây dựng, tuỳ theo góc nhìn, bạn sẽ dễ dàng cảm nhận được sự giao thoa giữ cũ và mới, của truyền thống được tiếp nối, của những nét kiến trúc Á Đông, đậm chất Việt Nam nơi di tích và toàn bộ công trình phía sau tháp chuông cổ.Vương cung thánh đường La Vang được khởi công năm 2013, dự kiến hoàn thành năm 2020. Tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch bệnh, tới năm công trình vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện. Công trình Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang được xây dựng trên một mặt bằng có diện tích 13.464m2. Chiều dài 140m theo hướng Bắc Nam, ngang 104m theo hướng Đông Tây với sức chứa 5.000 người. Đây là dự án xây dựng lớn nhất của giáo hội Công Giáo Việt Nam từ trước tới nay.Khi tới đây, bạn sẽ cảm nhận rõ nét kiến trúc Việt của nhà thờ. Công trình được thiết kế theo phong cách Á Đông, mang hồn Việt qua những mái ngói quen thuộc, thân thương, các đường nét và chi tiết trang trí điêu khắc mang hơi thở truyền thống Việt Nam và được cách tân, đơn giản để công trình thanh thoát, hợp thời. Khu vực linh đài Đức Mẹ La Vang, mô phỏng hình dáng cây đa là công trình được xây dựng tại vị trí được truyền tụng là nơi Đức Mẹ đã hiện ra năm xưa, trên đám cỏ, dưới gốc cây đa. Đây cũng là nơi đặt tượng Đức Mẹ La Vang và là nơi người hành hương tới để cầu nguyện.Công trình xây dựng năm 1963, dựa trên đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (người thiết kế Dinh Độc Lập), tuy nhiên mới chỉ xong phần thô do chiến tranh, loạn lạc thời cuộc. Tới năm 2008, “Ba cây đa nhân tạo” mới chính thức hoàn thành với phần tạo dáng mỹ thuật, như cây đa thật. Ngoài ba điểm trên, La Vang còn một số công trình, di tích mà bạn có thể tham quan như giếng nước cổ, các bức phù điêu, các tượng điêu khắc được thiết kế đặt ở nhiều lối đi tại trung tâm hành hương, hay khu vực gắn các bia tạ ơn của những người tới đây xin ơn và đã được ơn.Dịp lễ chính và lớn nhất trong năm tại La Vang là ngày 15/8 hàng năm. Ngày lễ này thường được tổ chức kéo dài trong 3 ngày, từ 13/8-15/8 hàng năm, với chu kỳ đại hội 03 năm một lần. Vào mỗi dịp này, có hàng trăm ngàn người đổ về La Vang để dự lễ, cả người Công Giáo cũng như không Công Giáo. Nên để ghé thăm cách thuận tiện nhất, bạn cứ đi vào bất cứ ngày nào trong năm, trừ dịp lễ lớn này, nhất là trong trường hợp bạn tới La Vang chỉ với mục đích tham quan.Mảnh đất La Vang luôn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng những người Công Giáo, đến đây bạn sẽ cảm nhận được sự bình yên đến lạ thường. Nơi đây cũng luôn sẵn lòng chào đón bất kỳ ghé thăm bằng một lòng hiếu khách trọn vẹn nhất.
Quảng Trị 913 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08