Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Ngã ba Cò Nòi (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La), một địa danh lịch sử, một mốc son chói lọi khắc ghi một thời kỳ chiến đấu oanh liệt của lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam trong cuộc kháng chiến thần thánh chín năm chống thực dân Pháp. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ Ngã ba Cò Nòi là điểm nút giao thông quan trọng nhất để các mũi tiến quân của quân và dân ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Địa điểm này đã trở thành "Điểm đỏ" để Thực Dân Pháp bắn phá ác liệt nhất, nhằm chặn đứng và phá tan huyết mạch giao thông của quân và dân ta. Một ngày tại đây chúng đã ném khoảng 69 tấn bom để cày xới phá huỷ, nhưng dưới làn mưa bom của địch, các lực lượng vũ trang, Thanh niên xung phong trong cả nước đã dũng cảm bám trụ, ngày đêm vẫn đảm bảo thông đường mạch máu giao thông vẫn chảy đều trên tuyến lửa. Trong quá trình phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tại Ngã ba Cò Nòi 100 chiến sỹ và Thanh niên xung phong đã hy sinh. Tháng 12 năm 1952 Trung ương Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, mở rộng và củng cố vùng giải phóng chuẩn bị cho chiến dịch, hàng vạn bộ đội, dân công, thanh niên xung phong ở khắp các địa phương được huy động lên chiến trường Tây Bắc. Trong chiến dịch lịch sử này, Sơn La đóng một vai trò hết sức quan trọng vừa là hậu phương lớn gần chiến trường vừa là cửa ngõ để tiến vào Tây Bắc. Sơn La án ngữ các tuyến đường huyết mạch giao thông nối đồng bằng Bắc Bộ, chiến khu Việt Bắc; Liên khu III, IV với chiến trường Điện Biên Phủ. Trong đó ngã ba Cò Nòi là nút giao thông quan trọng bậc nhất, được ví như "yết hầu" trên tuyến lửa. Ngã ba này là nơi giao nhau giữa hai tuyến quốc lộ là 13A (quốc lộ 37 hiện nay) và đường 41 (quốc lộ 6 hiện nay), thuộc địa phận xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn. Địa hình nơi đây hiểm trở, được bao bọc bởi những dãy núi trùng điệp tạo thành một thung lũng hẹp và sâu có chiều dài hơn 2 km. Tất cả mọi hoạt động chi viện vũ khí, lương thực, thực phẩm của quân và dân ta từ hậu phương Việt Bắc và liên khu III, IV tiến lên chiến trường Điện Biên Phủ đều phải đi qua cửa ải này. Trong hồi ký của mình Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "Ngã ba Cò Nòi là một cửa ải, tất cả những người ra trận đều phải vượt qua". Với vị trí chiến lược quan trọng đó, ngã ba Cò Nòi đã trở thành "túi bom", một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của không quân Pháp trên địa bàn Sơn La. Chúng cho rằng việc ngăn chặn và cắt đứt con đường vận tải, tiếp tế về mọi mặt của hậu phương Miền Bắc cho chiến trường Điện Biên Phủ là vấn đề sống còn của quân đội viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Với tinh thần cả nước phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, khẩu hiệu xuyên suốt chiến dịch của quân và dân ta là: "Tất cả cho tiền tuyến" "Tất cả để chiến thắng". Nhân dân các tỉnh lần lượt tiễn con em hăng hái lên đường tham gia quân ngũ, đi thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến. Cuộc chiến đấu trên mặt trận tiếp tế, vận tải, tháo dỡ bom mìn đảm bảo giao thông, liên lạc diễn ra khẩn trương, quyết liệt ngay từ ngày mở màn đến lúc kết thúc chiến dịch. Để đời đời tri ân công ơn các liệt sỹ thanh niên xung phong đã chiến đấu, hi sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc tại ngã ba Cò Nòi. Ngày 21/4/2000 Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La đã khởi công xây dựng nhóm đài tưởng niệm liệt sỹ thanh niên xung phong tại ví trí "tọa độ lửa" năm xưa với diện tích 20.000m2. Công trình được khánh thành ngày 7/5/2002, nhóm tượng gồm 3 thanh niên xung phong ở các tư thế khác nhau được tạo từ chất liệu đá granit. Tượng cao 12 mét, được đặt trên bệ một khối đá nặng 280 tấn. Cùng với nhóm tượng đài, còn có hai bức phù điêu thể hiện hình ảnh toàn dân ra trận chiến đấu chống thực dân Pháp. Mỗi bức phù điêu có diện tích 42m2, nặng 52 tấn, được phủ bằng kim loại, tái hiện hình ảnh quân và dân ta hăng hái chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ, thể hiện ý chí quật cường của lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954 - 2004) di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Mai Sơn
Sơn La 1729 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6796 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6165 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4158 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4118 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4049 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3811 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3737 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3631 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3549 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3358 lượt xem
Ngoài cái tên Dải Yếm, ngọn thác này còn được gọi là “thác Nàng” hay “thác Bản Vặt”. Thác bắt nguồn từ hai khe nước Bó Co Lắm và Bo Ta Cháu, nằm ở vị trí hợp lưu của suối Vặt và suối Bó Sập, thuộc xã Mường Sang, huyện Mộc Châu. Tương truyền rằng hơn 700 năm trước, có một đôi trai gái yêu nhau thắm thiết. Nhưng vì chiến tranh, cả hai phải chia cắt. Chàng trai ra trận, còn cô gái ngày ngày đến bên dòng thác chờ người yêu trở về. Một hôm, trời mưa bão, nước dâng ngập cả ngọn thác. Cô gái bị cuốn trôi, chỉ còn lại tín vật tình yêu là chiếc khăn thêu vương lại gần thác nước. Dân bản tiếc thương nên đã đặt tên cho thác là “Dải Yếm”, theo tiếng Thái cổ nghĩa là “Sợi Yêu”. Cũng bởi truyền thuyết cảm động này nên dòng thác đã trở thành nơi “chứng duyên” và là điểm đến lý tưởng cho rất nhiều cặp tình nhân. Hiện nay, thác đang được bảo tồn và chịu sự quản lý bởi Khu du lịch thác Dải Yếm. Giống như một người con gái đang tuổi yêu đương, thác nước Dải Yếm có lúc nhẹ nhàng, êm đềm nhưng cũng có lúc dữ dội và cuồng nhiệt. Để cảm nhận được hết vẻ đẹp hoang dã pha lẫn chút mộng mơ của con thác, bạn nên đến đây vào mùa nước đổ. Khoảng thời gian từ tháng 4 – 9 chính là thời lúc vời nhất để ngắm thác. Lúc này, suối chảy xiết, lượng nước đổ về rất lớn, tạo thành một tấm màn trắng xóa, đầy mê hoặc, khiến người xem phải choáng ngợp và thích thú. Nhưng nếu muốn nhìn thấy một điều gì đó nhẹ nhàng, trầm lắng hơn, bạn cũng có thể tham quan thác vào mùa khô. Khi đó, con thác sẽ trở nên dịu dàng và đầy mộng mơ. Tiếng suối chảy róc rách hòa cũng giọng hót líu lo của những chú chim từ rừng sâu, tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một khung cảnh đậm ý thơ. Nhưng nếu muốn nhìn thấy một điều gì đó nhẹ nhàng, trầm lắng hơn, bạn cũng có thể tham quan thác vào mùa khô. Khi đó, con thác sẽ trở nên dịu dàng và đầy mộng mơ. Tiếng suối chảy róc rách hòa cũng giọng hót líu lo của những chú chim từ rừng sâu, tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một khung cảnh đậm ý thơ. Trải nghiệm đầu tiên mà bất cứ du khách nào cũng không thể bỏ qua đó là chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác Dải Yếm. Thác có độ cao hơn 100m, được chia tách thành hai nhánh rõ rệt: thác phía trên rộng khoảng 4.000 m2 với 9 tầng tượng trưng cho 9 bậc tình yêu, còn thác phía dưới nhỏ hơn (diện tích tầm 300 m2) và gồm 3 tầng. Hai cụm thác cách nhau khoảng 200m, thi nhau ngày đêm chảy xiết, nhìn từ xa trông giống như một dải yếm đào mềm mại uốn lượn quanh vách núi. Với vẻ đẹp kỳ ảo đậm nét thi thơ, ngọn thác này đã trở thành địa điểm tham quan, dã ngoại, check in chụp ảnh của rất nhiều du khách, đặc biệt là giới trẻ.
Sơn La 1651 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Tiền Phong Sơn La là địa danh tiêu biểu của nét đẹp hoang sơ và hùng vĩ, nhưng lại vô cùng lãng mạn nơi núi rừng Tây Bắc. Ghé thăm vùng đất này, du khách sẽ được chiêm ngưỡng phong thủy hữu tình và tận hưởng không khí trong lành của thiên nhiên, có nhiều trải nghiệm thú vị khi đi du thuyền trên mặt hồ. Nằm giữa thảo nguyên bao la, hồ Tiên Phong ngàn gió và nắng ấm đã làm say lòng bao du khách. Hồ Tiền Phong Sơn La là thuộc địa bàn xã Mường Bom, huyện Mai Sơn. Địa danh nằm ngay sát trục đường Quốc lộ 6, cách 23km về thị xã Sơn La, cách 7km về thị trấn Hát Lót và cách 2km để tới sân bay Nà Sản. Đây là vị trí đắc địa của núi non hùng vĩ. Là nơi được bao quanh bởi thiên nhiên tươi đẹp – giữa thảo nguyên ngút ngàn. Phía Đông và phía Bắc là hai dãy núi trùng điệp nối tiếp nhau hùng vĩ. Phía Đông là cao nguyên Nà Sản đầy ắp các loại trái cây và ngút ngàn đồi chè xanh ngát. Tất cả đã tạo nên phong cảnh hữu tình, thiên nhiên cuốn hút, mang lại những giây phút thư thái và bình yên, níu chân người lữ khách. Cảnh sắc hồ Tiền Phong được tạo nên từ con đập Tiền Phong bằng đất và kiên cố bởi những mảng bê tông vững chắc. Đập Tiền Phong cao 23m, chân rộng 120m2 và dài 120m. Tới đây, du khách được tận mắt chứng kiến khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp với một màu xanh biếc trải dài. Mặt hồ bao la màu xanh ngọc bích, đằng xa xanh thẳm những cánh rừng nhiệt đới và cảnh sắc mây trời thăm thẳm. Thiên nhiên dìu bước, lòng người không muốn rời khỏi khung cảnh non nước hùng vĩ Tiền Phong. Du thuyền là trải nghiệm hấp dẫn du khách khi đến thăm hồ Tiền Phong Sơn La. Vừa lững lờ trên mặt nước và thu vào tầm mắt thiên nhiên tuyệt diệu thì còn gì tuyệt vời hơn. Bạn có thể lựa chọn chèo thuyền bằng tay, thuyền đạp chân hoặc thuyền máy tùy theo sở thích. Nhiều du khách cũng lựa chọn câu cá giữ thiên nhiên tuyệt đẹp. Hãy cứ làm theo cách mình thích, thả hồn vào thiên nhiên để cảm nhận thời gian chậm trôi, lưu giữ những cảm xúc tuyệt vời nhất. Nhìn từ xa, đảo nổi giống như mai một con rùa đang lênh đênh giữa mặt hồ. Cảnh quan nơi đây lúc nào cũng xanh mướt một màu xanh tươi mát từ những thảm cỏ non và hàng đây vi vu gió. Gió đưa hơi nước mát lành và sảng khoái cho hòn đảo nhỏ. Khám phá đảo nổi, du khách sẽ được thả hồn vào thiên nhiên tươi mát nơi đây, thưởng thức không khí trong lành và bình yên nhất của cuộc đời.
Sơn La 1759 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Sở hữu độ cao ấn tượng so với mực nước biển là 2.000 m, đỉnh núi nằm ở khu vực biên giới Việt - Lào và nhận được sự yêu thích của nhiều khách du lịch đến tham quan trong thời gian những năm gần đây. Sau khi đến trung tâm huyện Mộc Châu bạn cần di chuyển thêm 40 km để đến được chân núi. Ngoài tên gọi đỉnh Pha Luông, du khách còn có thể dùng tên Bờ Lung để nói về điểm du lịch này. Khi đến đây bạn sẽ được trải nghiệm cảm giác chinh phục đỉnh núi với độ cao ấn tượng. Đặc biệt, là cảm giác được ngắm nhìn khung cảnh mọc trong từ trên cao vừa hùng vĩ, vừa hoang sơ mà không phải ở đâu cũng có. Với những người yêu thích khám phá và đam mê bộ môn mạo hiểm thì đây sẽ là điểm đến tuyệt vời. Bạn còn có thể tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ của vùng cao miền Bắc và thư giãn sau những căng thẳng, mệt mỏi trong cuộc sống tại đây. Đối với những bạn trẻ thì đây là điểm check in lý tưởng và “săn mây” siêu đỉnh vào buổi sáng sớm. Mang đặc trưng khí hậu của miền Bắc với bốn mùa thay đổi rõ rệt, du khách có thể đến đỉnh Pha Luông bất kỳ thời gian nào trong năm. Bởi nơi đây vào mỗi thời điểm sẽ mang vẻ đẹp riêng biệt và ấn tượng riêng cho khách du lịch. Tuy nhiên, vì đường lên đỉnh núi có độ cao đến 2000m và khó khăn, nên du khách hãy chọn thời gian du lịch từ tháng 3 đến tháng 4. Đây là thời điểm có nắng ấm và không có mưa, thuận tiện cho việc leo núi an toàn hơn cũng như giúp quá trình ngắm cảnh. Một trong những điểm check-in nổi tiếng khi chinh phục đỉnh Pha Luông, đó chính là mỏm đá có hình dáng độc đáo. Sự bao quát trong không gian và cảnh vật, cùng mỏm đá chìa hẳn ra phía ngoài càng làm cho tấm hình của bạn thêm ấn tượng. Du khách không cần lo lắng bởi đá có kích thước khá lớn và dày dặn, cần lưu ý khi check-in vào trời mưa do dễ trơn trượt. Ngoài những trải nghiệm về cảnh vật và bầu không khí tại đỉnh núi, du khách còn có cơ hội khám phá thêm về phiên chợ đặc trưng của người Lào. Bạn có thể tìm thấy những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, món ăn đặc sản tại Mộc Châu, thịt khô,... làm quà cho người thân hoặc bạn bè sau chuyến đi. Mặc dù là một điểm du lịch thu hút và mang vẻ đẹp hoang sơ, ấn tượng cho khách du lịch. Nhưng đỉnh Pha Luông khá khó chinh phục, nên ngoài kinh nghiệm bạn cũng cần biết một số lưu ý sau: Với độ cao 2000m, khi đến đỉnh núi bạn sẽ thấy nhiệt độ giảm xuống nhanh chóng. Đặc biệt, nếu đến vào mùa Đông thì mức nhiệt càng thấp nên bạn cần mang theo quần áo giữ ấm, khăn, nón len, bao tay,... Nhằm tránh nhiệt độ thay đổi đột ngột khiến cơ thể bị ảnh hưởng. Trong quá trình leo núi bạn nên sử dụng giày chuyên dụng dành cho leo núi, không nên đi giày bệt hoặc dép vì có thể gây trơn trượt và nguy hiểm trong quá trình di chuyển. Du khách lên cân nhắc kỹ về sức khỏe và khả năng vận động của mình trước khi quyết định leo núi Pha Luông. Với những người mắc các bệnh về tim mạch thì không nên di chuyển lên núi. Trước khi thực hiện quá trình chinh phục đỉnh núi, bạn nên ăn nhẹ và uống nước để có thêm năng lượng cho bản thân. Tuyệt đối không tự ý vứt rác bừa bãi trong quá trình di chuyển hoặc tham quan đỉnh núi. Luôn mang theo giấy tờ tùy thân để xuất trình làm thủ tục tại đồn biên phòng.
Sơn La 1915 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 4
Giữa lòng thành phố có ngọn đồi mang tên Khau Cả nằm soi mình bên dòng suối Nậm La, nơi đây còn lưu giữ chứng tích lịch sử Nhà Tù Sơn La - minh chứng của một thời kỳ lịch sử đấu tranh cách mạng, tinh thần bất khuất của những người cộng sản kiên cường đã bị đầy ải bởi thực dân Pháp giam cầm, và bảo tàng Sơn La nơi trưng bày nhiều hiện vật quý, giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hoá của cộng đồng 12 dân tộc đoàn kết cùng nhau xây dựng Sơn La thành tỉnh giàu có của Việt Nam. Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2. Nhà tù xây dựng khá kiên cố: tường được xây dựng bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôn, không có trần, giường nằm cho tù nhân cũng được xây bằng đá, mặt láng xi măng, mép ngoài được gắn hệ thống cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Trong mỗi phòng giam đều có hố xí nổi được xây cao hơn sàn nằm, không có nắp đậy, không có nước dội, không được vệ sinh thường xuyên. Với lối thiết kế như vậy, mùa hè những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc gây nên cái nóng như thiêu như đốt, những đợt sương muối tạo ra cái lạnh giá, rét thấu xương thịt vào mùa đông cộng với môi trường ô nhiễm ở mỗi phòng giam đã làm bệnh tật phát sinh và lây lan rất nhanh chóng trong tù nhân. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh chống lại chế độ tàn bạo của thực dân phong kiến. Phong trào đấu tranh đã làm kẻ địch bất ngờ, chúng lồng lộn tìm đủ mọi cách đàn áp, bắt bớ những người Việt Nam yêu nước hòng dập tắt phong trào cách mạng. Mặt khác tăng cường xây dựng và mở rộng thêm hệ thống nhà tù trong cả nước trong đó chúng đặc biệt chú ý đến nhà tù Sơn La. Năm 1940, Nhà tù Sơn La được mở rộng thêm một trại giam lớn để giam thêm tù nhân và đưa một số tù nhân nữ lên Sơn La nhưng âm mưu đó đã không thực hiện được. Như vậy, qua 3 lần xây dựng và mở rộng, nhà tù Sơn La có tổng diện tích là: 2.170m2. Thực dân Pháp đã biến nơi đây thành một địa ngục trần gian để giam cầm, đầy ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những người Cộng sản. Bằng chế độ nhà tù cực kỳ hà khắc và những thủ đoạn tra tấn vô cùng hiểm ác, kẻ thù tưởng sẽ tiêu diệt được tinh thần và thể xác của những chiến sĩ cách mạng nhưng chính tại nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng, rèn luyện ý chí và bổ sung cho Đảng, cho cách mạng những chiến sỹ, đảng viên cộng sản trung kiên, nổi bật nhất là vai trò của đồng chí Tô Hiệu và bao đồng chí trung kiên khác. Trải qua 2 lần tàn phá bằng bom của giặc, di tích xưa giờ đã xiêu vẹo, hầu như chỉ còn là một bãi gạch tan hoang, những bức tường nhà ngục đổ nát là minh chứng cho tội ác dã man của kẻ thù. Còn lại nguyên vẹn là cây đào Tô Hiệu, biểu tượng gắn với tên tuổi người Bí thư Chi bộ kiên trung của nhà tù vẫn trổ hoa rực rỡ khi mùa xuân về... Năm 1952, khi thực dân Pháp rút khỏi Sơn La, đã ném bom nhằm xóa đi dấu vết tội ác của chúng, lần 2 vào năm 1965, đế quốc Mỹ đã dánh phá Thị xã Sơn La phá hủy một phần của nhà tù. Năm 1980, Bảo tàng Sơn La tiến hành phục chế lại lần thứ nhất: San lấp hố bom, xây dựng lại một số đoạn tường rào bao quanh; lần thứ 2, vào năm 1994, phục chế lại 2 tháp canh, nhà bếp, trại giam lớn, gia cố lại hầm ngầm, xây dựng các bức tường của các phòng giam theo dấu vết của các nền móng cũ. Năm 1994, Bảo tàng Sơn La đưa ra ý định phục chế lại toàn bộ khu di tích lại như nguyên dạng ban đầu, nhưng không sưa tầm được đầy đủ hồ sơ, nên không đủ cơ sở khoa học để khôi phục lại toàn bộ mà chỉ xây các bức tường lên cao một chút để khách tham quan có thể hình dung được cấu trúc của khu nhà tù Sơn La. Mỗi năm, tại di tích lịch sử nhà tù Sơn La đã đón tiếp hàng trăm ngàn lượt du khách đến tham quan, nghiên cứu, học tập….Chắc hẳn, một lần nào đó du khách đến với Sơn La, về với núi rừng Tây Bắc để được trải nhiệm, hồi tưởng lại cuộc chiến tranh diễn ra hơn một thế kỷ đã qua; Với sự lãnh đạo tài tình của đảng, tinh thần yêu nước nồng nàn sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, tình đoàn kết keo sơn giữa các dân tộc…Đã để lại cho hậu thế hôm nay một đất nước thanh bình.
Sơn La 1700 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với diện tích 6.915m2, Hang Dơi chứa đựng trong mình một mạch nước ngầm không bao giờ cạn. Cái tên Hang Dơi vốn bắt nguồn từ việc xưa kia có những đàn dơi lớn ở lại đây sinh sống và làm tổ nhưng hiện tại chúng đã rời đi nơi khác. Tuy nhiên, cái tên Hang Dơi vẫn được người dân ở đây gọi cho tới hiện tại như một cái tên thân thuộc từ lâu. Phía trên trần của hang động là những vòm đá cao rủ xuống tại thành những khối nhũ lung linh huyền ảo. Những khối thạch nhũ này tạo thành nhiều hình thù kỳ thú như ông tiên, bà tiên, các con vật… Tất cả tạo nên một cảnh vật vừa lung linh vừa hùng vĩ. Đây là một địa điểm mà khi đi du lịch Mộc Châu bạn không nên bỏ qua! Tương truyền rằng, ngày xưa có một con rồng thiêng, khi bay qua vùng đất này, thấy núi non nơi đây hùng vĩ, khí hậu lại mát mẻ nên đã hạ mình ẩn xuống Hang Dơi và trú ngụ ở đây. Chính vì vậy, dãy núi này có nhiều màu sắc rất huyền bí như: màu trắng ngần lúc ban mai, xanh biếc lúc trưa rồi lại chuyển hồng lúc chiều, cuối cùng là màu tím lúc hoàng hôn. Người dân ở đây thường bảo nhau đấy là do thân rồng đang bao quanh núi. Về sau, khi con rồng chết đi, nó đã nhả ra 7 viên ngọc để trả ơn. 7 viên ngọc chính là 7 ngọn núi đã tạo nên hang Dơi sau này. Nhờ những câu chuyện truyền thuyết đã được lưu truyền từ đời này qua đời khác khiến cho nơi đây càng trở nên hấp dẫn và khiến cho nhiều du khách tò mò muốn đến đây để kiểm chứng. Từ khi bước vào từ cửa hang, ánh sáng hắt vào trong hang sẽ làm cho bạn cảm thấy như mình đang lạc vào một chốn thần tiên với những mảng tối, sáng khác nhau. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp từ các khối nhũ đá vôi rủ xuống tạo nên một bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Hơn nữa, những khối đá này còn có nhiều hình thù khác nhau tạo khiến du khách thấy hứng thú khi liên tưởng. Đặc biệt nhất là khối đá hình một cặp nam nữ yêu nhau ở hồ nước cạn giữa động, là điểm nhấn khiến ai cũng phải trầm trồ. Trong động, ngoài những hình thù được tạo nên từ những khối đá vôi còn có rất nhiều cây đa mà mà rễ của nó tạo thành những hình thù ở dưới đất như hình con voi, con hổ... Một điều đặc biệt nữa của Động Sơn Mộc Hương là phần giữa hang vòm cao hơn những chỗ khác trong động, có bức mành đá chắn ở lối vào, đây được gọi là buồng “công chúa”, cũng là một điểm thu hút ở nơi đây. Hang Dơi vừa là nơi tham quan vừa là nơi thám hiểm với rừng núi và cây cối mọc xung quanh, vậy nên du khách cần chú ý một số điều sau: Vì hang nằm ở nơi có rừng cây rậm rạp nên du khác nên mặc những trang phục kín và thoải mái để vừa có thể leo núi mà vừa tránh bị cồn trùng hay muỗi cắn.Nên mang thêm cả kem xịt muỗi để đảm bảo an toàn, nhất là với trẻ em. Khi đi tham quan Động Sơn Mộc Hương, bố mẹ cần để ý đến sức khỏe của con mình khi leo núi và tham quan động, sau đó, đưa ra những giải pháp kịp thời nếu trẻ quá mệt hoặc quá hiếu động mà chạy nhảy lung tung.
Sơn La 2620 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Mộc Châu có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với thời tiết ôn hòa, quanh năm có hoa trái. Tháng 1, cao nguyên có màu xanh của những đồi chè nảy lộc, hoa đào, hoa mận, hoa mơ, mai anh đào... Từ giữa tháng 5, mận bắt đầu chín rộ, người dân vào vụ thu hoạch mận, đổ bán cho các thương lái miền xuôi. Mùa hè không có hoa, cũng không phải mùa dâu tây nhưng nơi đây lại rất thích hợp để dã ngoại bởi không khí trong lành và nhiều hoạt động ngoài trời. Mùa hồng chín ở Mộc Châu bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12 hàng năm. Trong đó, mùa hồng giòn thường có sớm hơn, từ tháng 8 đến tháng 10, còn từ tháng 10 đến cuối năm là mùa của hồng chát. Mùa cải trắng ở Mộc Châu bắt đầu vào tháng 11. Tháng 12, hoa dã quỳ vàng rực rỡ tô điểm cho cao nguyên. Mộc Châu cách Hà Nội gần 200 km. Nếu đi bằng xe máy, bạn nên đi theo đường quốc lộ 6 cũ bởi dọc đường có rất nhiều cảnh đẹp nhưng nên lưu ý tay lái bởi đường xuống cấp cũng khá nhiều. Quãng đường đi mất khoảng 4-5 tiếng. Trên đường đi, bạn sẽ qua cung đường chữ S thuộc huyện Vân Hồ. Hầu hết phượt thủ đều dừng lại ngắm cảnh và check-in tại đường cong mềm mại hình chữ S này. Còn nếu đi xe khách, bạn có thể chọn các tuyến đi Sơn La từ bến xe Mỹ Đình hoặc Yên Nghĩa, sau đó xuống ở Mộc Châu với giá vé xe chất lượng cao khoảng 200.000 đồng. Nếu tự lái ôtô, bạn không cần quá lo lắng vì đường to, dễ đi dù nhiều đèo dốc. Lưu ý, chạy đúng tốc độ và chú ý làn khi vượt. Vào mùa hè, đường ít sương mù nhưng tầm nhìn hạn chế khi trời mưa. Đoạn có thể nhiều mây mù là đường từ đoạn Thung Khe. Mộc Châu có khá nhiều nhà nghỉ. Tuy nhiên, để có được phòng ở chất lượng trong mùa cao điểm, bạn vẫn nên gọi điện đặt trước. Ở đây có hình thức nhà nghỉ sinh thái (có núi đồi, hồ nước, nhà sàn) hoặc nhà nghỉ cộng đồng kiểu homestay. Giá của một phòng khoảng 200.000 - 300.000 đồng một đêm nhưng cũng có rất nhiều nhà nghỉ có mức giá thấp hơn. Vài homestay "chill" gợi ý là MAMA's House, Le Chalet du Lac, Fairy House Mộc Châu, House By Lake, The Nordic Village, Mộc Châu Retreat... Giá phòng từ 300.000 đến 1.000.000 đồng một đêm. Để khám phá hết Mộc Châu, bạn có thể đi nhanh trong 2 ngày. Nếu có thời gian nhiều hơn khoảng 3-4 ngày là tuyệt nhất, bạn sẽ có nhiều thời gian để tìm ra những góc máy đẹp để chụp ảnh hoặc rẽ sang các khu vực du lịch nổi tiếng lân cận như Thung Nai, Mai Châu, thủy điện Hòa Bình... Các địa điểm bạn có thể ghé qua: Rừng thông Bản Áng, Thung lũng mận Mu Náu, Vường hoa Hướng Dương, Đổi chè Mộc Châu, Thác Chiềng Khoa, Thác Nàng Tiên, Thác Dải Yếm, Đồng cỏ 68, Làng Nguyên Thủy, Đỉnh Pha Luông. Các quán ăn, nhà hàng nằm dọc theo trung tâm thị trấn đoạn quốc lộ 6 đi qua. Ngoài các đặc sản như mận, trà hay sữa, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi ăn ngon. Những món ăn không thể bỏ qua khi tới đây là bê chao, cá suối rán, cá lăng đủ món, lẩu cá hồi, tiết canh heo, thịt trâu gác bếp, rau chấm nước sốt lòng cá hay cơm ngũ sắc. Muốn ăn thịt bê sữa, bạn có thể tìm các nhà hàng Đông Hải, Xuân Bắc 181, Nam Hưng 70, hay Lan Hồng 64, Bê Quán Mộc Châu... Món ăn lạ miệng nên thử là lẩu sữa tươi Mộc Châu. Nước dùng được ninh từ xương và các loại rau củ, thêm một lượng sữa vừa phải được thêm vào sao cho có đủ màu trắng sữa và vị thơm dịu, thêm ngô cho ngọt. Khi lẩu bắt đầu sôi, lớp sữa phía trên bắt đầu đóng váng, có vị béo và thơm. Đây cũng là lúc nước lẩu ngon nhất. Trong hai năm trở lại đây, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi tạo ra dâu tây có chất lượng không thua kém Nhật Bản hay Hàn Quốc do trồng bằng công nghệ Nhật. Mùa đông sẽ là mùa thu hoạch dâu tây tại các trang trại với những khu vườn ngập dâu chín đỏ mọng, vị chua ngọt thanh mát và nếu ăn kèm với sữa chua Mộc Châu thì rất dễ gây "nghiện". Vào mùa hè, sau mùa mận sẽ là mùa dưa gang với những trái thơm ngọt. Bạn có thể mua chè, sữa, táo mèo, ngô, rượu ngô... về làm quà từ các địa điểm: ngã ba 73 gần thị trấn, tiểu khu 32 và Bó Bun, ngã ba 70, ngã ba vườn đào, tiểu khu Chiềng Bi. Mộc Châu thường có nắng ấm vào ban ngày, nhưng nhiệt độ ban đêm khá thấp và có sương mù. Bạn cần mang đủ quần áo ấm để đảm bảo sức khỏe, kiểm tra đèn xe trước khi khởi hành. Không xả rác, dẫm lên các luống cải của đồng bào hoặc leo trèo trên cây, bẻ cành đào rừng, cành mận, hoa...
Sơn La 1964 lượt xem
Tháng 1 đến tháng 12
Cao nguyên Mộc Châu lộng gió nổi tiếng với cảnh sắc nên thơ cùng những thắng cảnh trời ban và Ngũ Động Bản Ôn là một trong số đó. Hệ thống hang động huyền bí, chưa bị tác động bởi bàn tay con người là điểm đến hấp dẫn du khách, đặc biệt là những ai đam mê phiêu lưu, mạo hiểm. Đến với nơi đây, bạn sẽ có dịp chiêm ngưỡng một kiệt tác được kiến tạo bởi tự nhiên, hoang sơ nhưng cũng không kém phần lộng lẫy. Ngũ Động Bản Ôn là hệ thống 5 hang động nằm sâu dưới lòng đất, thuộc địa phận Bản Ôn, thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu. Các hang động này được phát hiện vào năm 2006, sau một cơn lũ lịch sử. Với vẻ đẹp nguyên sơ và đầy bí ẩn, Ngũ Động đã trở thành điểm đến hấp dẫn tại Mộc Châu, thu hút các tín đồ đam mê khám phá. Khí hậu ở cao nguyên Mộc Châu cực kỳ mát mẻ và dễ chịu, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 7 và tháng 9 đến tháng 12. Lúc này, trời nắng nhẹ, ít mưa, phù hợp cho hoạt động khám phá hang động. Bên cạnh đó, đây cũng là mùa cao điểm du lịch ở Mộc Châu, du khách có thể ngắm nhìn cao nguyên lộng gió cũng như tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí khác. Từ tháng 8, Mộc Châu bước vào mùa mưa, nền nhiệt thấp, tiết trời xấu và mưa nhiều. Đường lên động cũng vì thế mà khó khăn hơn do nền đất ẩm ướt trơn trượt. Vì vậy, nếu có ý định đi du lịch Ngũ Động Bản Ôn, du khách nên tránh đi vào thời gian này. Ngũ Động Bản Ôn mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ và kỳ bí, là thử thách mà mọi tín đồ du lịch luôn muốn chinh phục. Đón chào du khách ở Ngũ Động là vô vàn trải nghiệm hấp dẫn, có một không hai. Muốn khám phá trọn vẹn quần thể này, du khách phải dành ra ít nhất là một ngày. Muốn lên Ngũ Động, bạn phải vượt qua một cung đường dài và không kém phần hiểm trở. Hai bên đường là những đồi chè xếp tầng, xếp lớp, đẹp đến nao lòng. Cung đường dài hơn 20 km, uốn lượn quanh đồi chè xanh mướt, trông xa xa giống hệt dải lụa xanh nằm vắt mình qua cao nguyên Mộc Châu lộng gió. Điểm cuốn hút lớn nhất trên đoạn đường này là vẻ đẹp rực rỡ của muôn ngàn hoa. Mỗi mùa sẽ là một sắc hoa, những thảm hoa trải dài khắp các triền núi, đẹp mộng mơ không kém gì thiên đường hoa bản Pa Phách. Trên đường đi có một căn nhà nhỏ, vừa là điểm nghỉ chân vừa là toạ độ cho bạn ngắm cảnh. Ngũ Động Bản Ôn là một hệ thống với 5 hang động, có động 3 và động 4 đã được đưa vào khai thác du lịch. Động 3 là hang động sâu và rộng nhất, được trang bị đầy đủ máy phát điện. Cửa hang nhỏ và hẹp, chỉ đủ chỗ cho một người lách qua nhưng bên trong là cả một không gian rộng lớn. Lòng hang mang dáng vẻ nguyên sơ và đầy bí ẩn với hệ nhũ đã hàng ngàn năm tuổi. Mỗi khối thạch nhũ là một hình dáng, màu sắc riêng biệt, tạo nên một không gian lung linh và huyền bí. Ngay cửa động là ban thờ Thánh mẫu Âu Cơ – nơi người dân thường vào lễ bái mỗi dịp lễ tết. Động 4 nằm độc lập và khá xa so với các hang động còn lại nên lượng khách tham quan còn hạn chế. Trong hang có hệ thống đèn chiếu sáng, soi rọi hệ thạch nhũ khổng lồ, muôn hình vạn trạng. Vào sâu trong hang, du khách sẽ thấy những chiếc trụ, những con lạc đà, tắc kè, ốc sên… được tạo hình từ đá, hệt như một tác phẩm chạm trổ kỳ công của tạo hoá. Con đường chinh phục Ngũ Động Bản Ôn đầy chông gai và hiểm trở nhưng thành quả sẽ không khiến bạn phải thất vọng. Nếu có dịp đến với cao nguyên Mộc Châu lộng gió, du khách đừng bỏ qua toạ độ này nhé!
Sơn La 932 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 07 hoặc từ tháng 09 đến tháng 12.
Mộc Châu từ lâu được xem như là một vùng đất thiên đường dành cho những ai yêu thích thiên nhiên, tìm về bầu khí hậu trong lành, mát mẻ, và tránh xa khỏi mọi ồn ào, náo nhiệt nơi thành phố tấp nập. Những địa điểm du lịch tại Mộc Châu luôn đem đến sự thơ mộng, quyến rũ, khiến cho ai ai mỗi khi đặt chân đến đây đều sẽ cảm thấy bị lưu luyến. Trong số đó, sự xuất hiện của rừng thông Bản Áng hứa hẹn sẽ mang đến những sắc màu trong xanh giữa núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, đại ngàn. Rừng thông Bản Áng là một địa danh nằm trong khu vực bản Áng thuộc xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Sở hữu tổng diện tích có quy mô lên đến khoảng 43 ha, nơi đây bao gồm khu rừng thông xanh cao vút, trải dài trên những triền đồi nâu đỏ, và đi cùng với đó là một hồ nước trong veo rộng lên đến 5 ha, đã trở thành một điểm đến điểm cắm trại vô cùng mới mẻ cho khách du lịch tại miền Bắc. Thời điểm lý tưởng nhất mà bạn có thể lựa chọn tham quan rừng thông Bản Áng này là vào khoảng thời gian từ tháng 1 cho đến tháng 3. Lúc này, thời tiết tại Mộc Châu thường se lạnh, có sương mù nhẹ, cùng với đó là tràn ngập những mùa hoa trải dài trên khắp nẻo đường, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để cho bạn có thể sở hữu những bức ảnh check-in “cực chill” cũng như ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng tại khu vực này. Đến với rừng thông Bản Áng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vườn dâu tây Chimi được chăm sóc kỹ lưỡng, tỉ mỉ qua những đôi tay khéo léo của người dân địa phương tại đây. Vườn dâu này luôn mang đến hương thơm lan tỏa sự ngọt ngào, phủ kín khắp cả một khu vườn, khiến cho bạn cảm thấy ngỡ ngàng, mê hoặc khi đặt chân đến với khu vực này. Bên cạnh đó, bạn cũng sẽ được thưởng thức những trái dâu tươi với hương vị hòa quyện giữa vị chua và vị ngọt, mang lại những cảm giác sảng khoái tuyệt vời, mát mẻ ngỡ như đang đi lạc vào thành phố ngàn hoa Đà Lạt. Bên cạnh đó, rừng thông Bản Áng cũng là nơi lý tưởng để cho bạn có thể chiêm ngưỡng màu sắc lung linh, quyến rũ của mùa hoa mận Mộc Châu vào những tháng đầu xuân, từ tháng 1 đến tháng 3. Với sự kết hợp giữa độ trong lành của thiên nhiên, và sắc màu tươi mát, óng ánh nhưng không kém phần thơ mộng của hoa mận. Tất cả đã tạo nên sắc màu rực rỡ về một rừng thông mang đến nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của thiên nhiên giữa vùng cao nguyên Tây Bắc bao la, hùng vĩ. Cùng với rừng thông xanh mát bao quanh và bầu không gian trong lành, mát mẻ, rừng thông Bản Áng là một điểm đến hoàn toàn không thể thiếu giúp cho bạn có thể tổ chức những buổi cắm trại dã ngoại tại khu vực này. Tại đây xuất hiện khá nhiều khu đất trống để cho bạn có thể tha hồ chọn cho mình một điểm phù hợp nhất để dựng lều, tổ chức những buổi tiệc nướng BBQ hoành tráng, và đốt lửa trại cùng đám bạn, tận hưởng gió trời của rừng núi Tây Bắc đại ngàn. Có thể nói, rừng thông Bản Áng không chỉ là nơi chứa đựng những sắc màu thiên nhiên vốn có của đất trời, mà đây còn là vùng đất thiên đường của những hoạt động trải nghiệm thú vị, dành cho những ai đam mê, muốn đắm chìm vào bầu không gian trong lành, mát mẻ, và ngắm nhìn thiên nhiên xanh mát, ngút ngàn. Hành trình tham quan tại rừng thông này chắc chắn sẽ đọng lại phần nào trong tâm trí bạn những kỉ niệm khó quên.
Sơn La 977 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 03.
Không chỉ nổi tiếng khi sở hữu không gian xanh và hệ sinh thái đa dạng, Mộc Châu còn được biết đến với nhiều đồi chè xanh rộng lớn. Trong những năm gần đây đồi chè Mộc Châu đã trở thành điểm du lịch thu hút được nhiều khách ghé thăm và không còn đơn giản là nơi thu hoạch chè thông thường. Nếu có nhiều thời gian bạn nên khám phá hết các vườn chè tại đây và lưu giữ những khoảnh khắc đáng nhớ cho mình. Du khách khi đến tham quan vùng đất xanh phủ đầy chè này không chỉ được ngắm nhìn cảnh vật ấn tượng. Bên cạnh đó, bạn còn có cơ hội thử các hoạt động thú vị khác như check-in, tham quan hoặc hái lá chè thú vị. Được biết đến là những điểm du lịch nổi tiếng tại khu vực Mộc Châu, đồi chè Đài Loan luôn khiến du khách ấn tượng bởi có tổng quan tạo hình ấn tượng và xanh mát. Hiện nay, đồi chè nằm trong khu vực bản Ôn, thị trấn Nông Trường tại Mộc Châu và cách trung tâm khoảng 10km. Vì là nông trường liên doanh với Đài Loan nên nơi đây còn có tên gọi khác là đồi chè trái tim Đài Loan. Không gian của đồi chè không chỉ được bao phủ bởi một màu xanh tươi mát kết hợp cùng màu không khí trong lành tự nhiên của vùng đất Sơn La. Đặc biệt, phải nói đến tạo hình mới lạ và phá cách giúp nơi đây có được điểm nhấn thú vị trong mắt du khách đến tham quan. Ngoài ra, điều này còn tạo nên nhiều niềm vui cho người dân trong quá trình thu hoạch chè. Bằng vẻ đẹp thiên nhiên ấn tượng và tạo hình lãng mạn tượng trưng cho các cặp đôi, cũng như tình yêu lâu dài. Đồi chè Đài Loan đã được nhiều cặp tình nhân, vợ chồng lựa chọn ghé tham quan và check-in với background cực độc đáo, lãng mạn. Nhìn chung, thời tiết tại Mộc Châu khá mát mẻ và có phần lạnh hơn so với các tỉnh khác tại khu vực miền Bắc. Với đặc điểm 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và bầu không khí trong lành, du khách có thể đến tham quan đồi chè trái tim bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, một lời khuyên cho bạn là nên cân nhắc đến Mộc Châu vào tháng 3 - tháng 4. Vì lúc này thời tiết có nắng ấm và thuận tiện cho quá trình di chuyển tham quan, đồng thời chè cũng xuất hiện chồi non tạo nên tổng quan khu vườn xanh tươi hơn sau đợt thu hoạch chè đầu mùa. Nếu bạn yêu thích vẻ đẹp lãng mạn và muốn chiêm ngưỡng các loài hoa mơ, hoa mận nở rộ thì thời điểm tháng 1 - tháng 2 cũng rất lý tưởng cho chuyến tham quan. Một trong những điểm giúp đồi chè tại Mộc Châu trở nên thu hút nhiều bạn trẻ hiện nay, đó chính là không gian trong xanh và background cực “xịn” cho dân thích check-in. Đặc biệt, vào thời gian tháng 3 - tháng 4 chồi non xuất hiện sẽ tạo nên một khu vườn xanh mơn mởn đầy ấn tượng. Bên cạnh đó, với tạo hình trái tim độc đáo và lãng mạn càng tạo nên sức hút riêng cho du khách. Trong đó phải nói đến các cặp đôi muốn lưu giữ những kỷ niệm đáng nhớ, cũng như minh chứng cho tình yêu luôn tươi xanh của mình. Tùy vào mỗi du khách có thể mang theo trang phục mà mình yêu thích, hoặc thuê quần áo dân tộc tại khu vực gần đồi chè để chụp ảnh. Mang đặc trưng thời tiết của miền Bắc mát mẻ và nhiều cây cối, đồi chè trái tim Mộc Châu luôn tạo cho khách du lịch cảm giác được thư giãn, gần gũi với thiên nhiên khi ghé thăm. Khác hẳn với sự đông đúc và tấp nập của trung tâm huyện, nơi đây luôn có nét đẹp bình yên, nhẹ nhàng nhưng không kém phần lãng mạn. Đến với vườn chè tại Mộc Châu du khách sẽ được nhìn thấy cảnh những người dân thu hoạch lá chè xanh chân thật. Nhờ đó, bạn có thể hiểu rõ hơn về giá trị của những lá chè, cùng tâm huyết của người dân khi thu hoạch từng lá chè tươi xanh. Lúc này bạn cũng có thể hiểu hơn về đời sống và văn hóa của người bản địa, tham gia vào hoạt động hái chè đầy thích thú. Một trong những điểm mạnh giúp ngành du lịch tại khu vực Mộc Châu - Sơn La phát triển, cũng như nhiều người đến đồi chè tham quan đó chính là ẩm thực đa dạng của vùng đất này. Khách du lịch có thể tìm thấy nhiều món ngon đặc sản được chế biến độc đáo, khác biệt bởi người dân nơi đây. Trong đó, có thể kể đến một số món nổi tiếng sau: Bê chao, nậm pịa, cá hồi, bún cá lóc, ốc đá Suối Bàng, sữa bò tươi, rau cải mèo,... Từng món ăn đều được dùng các nguyên liệu tươi mới dễ tìm tại địa phương, hoặc nuôi trồng trực tiếp một cách vệ sinh. Kết hợp cùng sự khéo léo của người dân nơi đây, tạo nên hương vị món ăn đặc trưng khó quên ngay từ lần thưởng thức đầu tiên. Mỗi mùa, cao nguyên Mộc Châu như lại được thay một lớp áo mới, nhưng màu xanh của những đồi chè vẫn còn đó, như bất diệt, như vĩnh cửu. Một lần đến với Mộc Châu – xứ sở của những mùa hoa, đừng quên ghé lại đồi chè để cảm nhận nét đẹp trong trẻo, tuyệt vời của nơi này.
Sơn La 923 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 04.
Tà Xùa cách trung tâm huyện vùng cao Bắc Yên hơn 10km, khí hậu quanh năm mát mẻ. Nơi đây, không chỉ được biết đến bởi những cây chè shan tuyết cổ thụ, cách sao chè bằng tay vô cùng độc đáo của bà con dân tộc Mông, mà còn nổi tiếng với những biển mây bồng bềnh, trắng xóa, thu hút du khách đến tham quan, trải nghiệm, chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ. Nằm ở độ cao 1.500m - 1.800m so với mặt nước biển, xã Tà Xùa thường được bao phủ bởi những đám mây cuồn cuộn, tầng tầng, lớp lớp như những con sóng. Những ngày đầu tháng 12, nhiệt độ thấp, độ ẩm cao và nắng nhẹ là điều kiện lý tưởng để du khách “săn mây” tại Tà Xùa. Chúng tôi tản bộ tham quan trên đỉnh Gió, bản Chung Trinh, xã Tà Xùa, nơi có vị trí ngắm toàn cảnh thung lũng xinh đẹp và biển mây bồng bềnh. Nơi đây vẫn giữ được nhiều nét hoang sơ; cuộc sống của người dân bình dị, yên ả; thậm chí sóng điện thoại cũng hạn chế, vì thế khi đến đây, ngoài nghỉ dưỡng và săn mây, du khách sẽ được hòa mình vào thiên nhiên, núi rừng hùng vĩ; khám phá, tìm hiểu bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Mông. Muốn "săn mây", du khách phải thức dậy từ sáng sớm, để được ngắm những dòng mây trắng xóa ùn ùn dâng lên từ phía chân các thung lũng, lấp đầy không gian rộng lớn. Hiện tượng tự nhiên đặc biệt đã tạo cho khung cảnh nơi đây thành bức họa vô cùng tráng lệ, được du khách đặt cho những cái tên ấn tượng như “Biển mây Tà Xùa” hay “Thiên đường mây Tà Xùa”. Có nhiều khoảnh khắc “săn mây” trong ngày, nhưng đẹp nhất là lúc bình minh và hoàng hôn. Thức giấc vào sáng sớm, du khách có thể tận hưởng không gian yên tĩnh, ngắm nhìn những dải mây trắng tinh khôi bồng bềnh trôi lưng chừng núi. Khi tia nắng mặt trời ló rạng, những lớp mây tan dần lộ ra bầu trời xanh ngắt, cao vời vợi. Tia nắng rọi xuống thung lũng mây dày đặc phía dưới, ánh nắng chiếu đến đâu, mây tan nhanh lộ ra bản làng nguyên sơ của bà con dân tộc bản địa. Chỉ vài giây trước, cả thung lũng còn chìm trong sương mờ, bỗng bừng lên rực rỡ dưới ánh nắng và bầu trời xanh thẳm. Khi hoàng hôn buông xuống, những tia nắng cuối ngày chiếu rọi, xuyên qua những đám mây tạo nên không gian với gam màu hồng, màu cam vô cùng ấn tượng. Cũng bởi vẻ đẹp thơ mộng ấy, Tà Xùa mùa này đang thu hút đông đảo các nhiếp ảnh gia và những bạn trẻ yêu thích khám phá, mạo hiểm. Du khách thực sự thỏa mãn với cảnh sắc tuyệt diệu của “biển mây” nơi núi rừng Bắc Yên. Ấn tượng nhất, khi biển mây dày đặc, trắng xóa bồng bềnh ngay dưới chân, sau một đợt gió thổi mạnh mây tràn qua các sườn núi, phủ kín các rừng cây, bản làng, thực sự rất thú vị. Tôi đã chụp lại rất nhiều khoảnh khắc đẹp để lưu giữ kỷ niệm với vùng đất bình yên này và chắc chắn sẽ trở lại nơi này nhiều lần nữa. Những địa điểm như ngã ba Tà Xùa, đỉnh Gió, trung tâm xã Tà Xùa, mỏm Cá Heo, cây cô đơn... và những quán cà phê cũng là “tọa độ” mà nhiều du khách lựa chọn làm nơi "săn mây" lý tưởng. Thưởng thức tách trà đặc sản Tà Xùa tỏa hương thơm ngào ngạt, du khách bị hút hồn bởi vẻ đẹp thơ mộng giữa "biển" mây rộng bao la với những đợt sóng mây đập vào sườn núi. Hình ảnh mây trắng có khi dày đặc, có khi lững lờ trôi rất thú vị, mang đến cảm giác như đang thả hồn vào giữa mây trời, hòa mình cùng thiên nhiên núi rừng. Hơn nữa, thưởng thức một tách trà Tà Xùa trong không gian thoáng đãng, với tiết trời se lạnh, cảm thấy vô cùng dễ chịu và bình yên. Với không khí trong lành, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, đẹp tựa chốn "tiên cảnh", cùng những nụ cười thân thiện của bà con dân tộc bản địa hiền lành, mến khách, “Thiên đường mây Tà Xùa” đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong hành trình đến với Sơn La và Tây Bắc.
Sơn La 942 lượt xem
Từ tháng 10 đến tháng 04 .