Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đại Nội Huế có địa chỉ tại Đường 23/8, phường Thuận Hòa, Thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên Huế, bên bờ sông Hương thơ mộng. Đại Nội Huế được xây dựng từ nửa đầu thế kỉ XX, đây là một trong số các di tích được UNESCO công nhận là di sản văn hóa Thế giới từ năm 1993. Đại Nội Huế chính là nơi sinh hoạt và diễn ra các hoạt động của vua chúa Nguyễn cùng triều đình phong kiến cuối cùng của nước ta. Huế là vùng đất bình yên và thơ mộng, nên vua Gia Long đã lựa chọn nơi này để xây dựng công trình Đại Nội Huế vào năm 1803. Phải mất 30 năm, công trình này mới chính thức được hoàn thành trọn vẹn. Đại Nội Huế được xây dựng với lối kiến trúc cung đình Huế vì vậy từng đường nét, cách thức bài trí đều rất tinh xảo. Đại Nội Huế có hai khu vực chính là Hoàng thành và Tử Cấm thành, mỗi khu vực lại bao gồm nhiều công trình khác nhau. Khu Hoàng thành gồm có cổng Ngọ Môn, Điện Thái Hòa. Tử Cấm thành là khu vực dành riêng cho vua và hoàng tộc, gồm Đại Cung Môn, Tả Vu và Hữu Vu, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Cung Diên Thọ... 1. Khu Hoàng thành Cổng Ngọ Môn được xây dựng đồ sộ, hoành tráng với các đường nét hoa văn hết sức kỳ công, tinh xảo và vững chắc. Ngọ Môn không chỉ đơn giản là cổng ra vào mà còn là bộ mặt đại diện cho Đại Nội cung đình Huế nên được thiết kế gồm nhiều lớp với hệ thống hào nước xung quanh. Cổng Ngọ Môn của Hoàng thành Huế nhìn về phía Nam kinh thành và có 5 cửa, cửa chính ở giữa dành cho vua đi, hai cổng bên dành cho quan văn và quan võ. Còn lại, khu vực hai cổng bên quanh là dành cho binh lính cùng voi ngựa theo hầu vua để bảo vệ cũng như hầu hạ vua. Điện Thái Hòa là một biểu tượng về quyền lực của Hoàng triều nhà Nguyễn thời bấy giờ. Điện Thái hòa là công trình quan trọng bậc nhất trong tổng thể Đại Nội Kinh Thành Huế, nơi đây cùng Sân Đại Triều Nghi từng là nơi diễn ra các buổi thiết triều của triều đình nhà Nguyễn mà đa số đây đều là những buổi thiết triều quan trọng. Điện Thái Hòa sử dụng chất liệu là gỗ lim. Phần mái điện, cột… được điêu khắc hình rồng uốn lượn đầy tinh tế, tỉ mỉ. Chính giữa điện là ngai vàng của vua được đặt ở vị trí trang nghiêm, nơi vua ngồi trong các buổi thiết triều. 2. Khu Tử Cấm thành Đại Cung Môn là cửa chính (hướng Nam) vào Tử Cấm thành, gồm có 5 gian 3 cửa và được xây dựng vào thời vua Minh Mạng, năm 1833. Cửa ở gian chính giữa chỉ dành cho vua đi, mặt sau hai bên có hai hành lang nối với Tả Vu, Hữu Vu. Đại Cung Môn nhìn ra sân trước hướng ra Điện Thái Hòa, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, phía trên lợp bằng ngói hoàng lưu ly. Tả Vu và Hữu Vu là hai tòa nhà ngay đối diện điện Cần Chánh, xây dựng đầu thế kỷ 19. Tòa nhà Tả Vu được xây dựng cho các quan văn, Hữu Vu là nơi dành cho các quan võ trong triều. Hai tòa nhà này là nơi để chuẩn bị cho các nghi thức trước buổi thiết triều, nơi tổ chức các cuộc thi Đình hay yến tiệc. Điện Cần Chánh nằm thẳng với Điện Thái Hòa theo hướng Bắc Nam, đây là nơi để vua thiết triều. Điện Cần Chánh được xem là điện có kết cấu gỗ lớn và đẹp nhất trong toàn bộ Tử Cấm thành. Các bộ cột bằng gỗ lim, phần khung phía trên được trạm trổ tinh xảo, công phu. Thái Bình Lâu nằm ở bên trong Tử Cấm thành của khu Đại Nội Huế, nơi đây sẽ dùng để nhà vua nghỉ ngơi lúc rảnh rỗi, đọc sách, viết văn hay làm thơ thư giãn . Thái Bình Lâu được xây dựng vào những năm 1919 do vua Khải Định khởi công được hoàn thành vào năm 1921. Trong số nhiều cung điện trong Hoàng thành Huế, Cung Diên Thọ được xem là một hệ thống kiến trúc cung điện mang tầm cỡ quy mô nhất ở Huế . Nơi đây là nơi ở của các Hoàng Thái Hậu và các Thái Hoàng Thái Hậu những người phụ nữ quyền lực ở bên cạnh vua. Đại Nội Huế là công trình có quy mô đồ sộ nhất lịch sử Việt Nam với thời gian xây dựng kéo dài trong nhiều năm với hàng vạn người thi công cùng các hoạt động lấp sông, đào hào, đắp thành, bên cạnh đó là khối lượng đất đá khổng lồ lên tới hàng triệu mét khối. Đến thăm quan quần thể di tích Đại Nội Huế, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hàng trăm công trình miếu thờ, đền đài và cung điện nguy nga bề thế. Với vẻ đẹp tráng lệ kết hợp với nét kiến trúc độc đáo hứa hẹn sẽ là điểm đến mang lại cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2097 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6777 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6140 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4126 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4112 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4030 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3801 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3728 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3622 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3538 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3342 lượt xem
Vịnh Lăng Cô thuộc thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc của tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố 70km theo hướng đi Đà Nẵng, nằm cạnh quốc lộ 1A và ôm ấp chân đèo Hải Vân. Giao thông là điều kiện thuận lợi khi bạn lựa chọn nghỉ dưỡng tại Lăng Cô. Sở hữu làn nước trong vắt bên dải cát trắng miền Trung, được bao bọc bởi đèo Hải Vân sừng sững nên vịnh có không khí dịu mát, quanh năm hiền hòa. Nếu như sóng biển Sầm Sơn ào ạt xô bờ cát trắng xóa, sóng biển Cửa Lò tĩnh lặng thì sóng biển Lăng Cô lại có màu sắc thật riêng, điềm đạm, nhẹ nhàng ùa vào lòng du khách, đem theo vị mặn mòi của biển, vị thanh thanh của gió biển và có lẽ là cả dáng dấp hiên ngang của đèo Hải Vân sừng sững nơi đó. Bình minh trên vịnh Lăng Cô, trong màu mây bàng bạc, ánh nắng vàng yếu của buổi sáng như tỏa lan xuống mặt nước, nhuộm vàng dãy đèo, hoen sang cỏ cây, hoa lá cùng màn sương mờ ảo, giăng mắc trong lòng kẻ ở người đi. Khung cảnh buổi sớm tràn đầy sức sống, phản chiếu cả tương lai tươi sáng của những con người nơi đây và của cả cảnh vật đã bám rễ ở đây. Chiều về, những mảng tối loang bắt đầu phủ lên cảnh vật, bóng tối chen lẫn những tia nắng vàng vọt cuối ngày khiến bức tranh ấy càng trở nên đa dạng, đôi lúc có nét khắc khoải, day dứt và luyến tiếc, nhưng đôi lúc lại rất lãng mạn, tựa như một sự sắp đặt vô thức của tạo hóa. Tạo hóa đã ban tặng cho nơi này một khung cảnh quyến rũ, với những đường cong mềm mại, uyển chuyển, cùng với vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang, trở thành một trong 30 vịnh biển đẹp nhất trên thế giới. Nếu đã có dịp đặt chân đến vịnh Lăng Cô, hãy cho mình một cơ hội tham quan đầm Lập An, một bên là núi, một bên là đầm nước nông, không gơn chút sóng, thực sự thích hợp cho những du khách thích sự tĩnh lặng, mộng mơ, một khung cảnh tưởng như chỉ có trong thế giới cổ tích. Bên cạnh đèo Hải Vân hùng vĩ vẫn còn tồn tại những nét đẹp thật bình yên, dịu dàng như chính con người xứ Huế; khung cảnh hào hùng, in hằn một thời kì vang dội của đất kinh kì xưa cũ hòa lẫn trong sự e ấp, duyên dáng của những con người nơi đây, tất cả là đặc sản của một xứ Huế mộng mơ.
Thừa Thiên Huế 1942 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Trường Quốc học Huế được xây dựng từ năm 1896, tới nay đã có tuổi đời hơn 120 năm, đây cũng là nơi đào tạo ra rất nhiều vị lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cố Tổng Bí thư Trần Phú. Cố đô Huế dịu dàng và nên thơ làm xao xuyến biết bao trái tim ngay từ lần đầu “gặp mặt”. Vẻ cổ kính của cố đô Huế không giống với phố cổ Hội An, lại càng khác xa những bức tường rêu phong của Hà Nội. Huế mang một nét đẹp xưa cũ, trầm mặc và dịu dàng y như những người con của vùng đất này. Điểm thêm vào nét cổ kính, mơ mộng cho vùng đất kinh đô chính là ngôi trường lâu đời thứ ba tại Việt Nam – trường Quốc học Huế. Nằm trông ra phía dòng sông Hương thơ mộng với diện tích hơn 4000m2, trường không chỉ nổi tiếng bởi chất lượng xuất sắc của học sinh và giáo viên mà còn thu hút nhiều ánh nhìn bởi nét kiến trúc độc đáo pha trộn của hai phong cách Á – Âu. Thưở ban đầu, trường Quốc học Huế có tên là “Pháp tự Quốc học Trường môn”, vốn là trại lính thủy quân Hoàng gia được xây dựng theo kiểu nhà tranh vách đất, sau này được tôn tạo lại theo lối kiến trúc Pháp và trở thành trường học dành riêng cho nam sinh thời kì trước năm 1976. Bao bọc xung quanh là những bức tường được xây bằng gạch đỏ đậm nổi bật vẫn còn lưu hằn những vết tích của năm tháng. Trong khuôn viên trường còn có khu nhà nội trú cho hơn 70 học sinh đi học xa nhà có hoàn cảnh khó khăn để Nhà trường có thể chăm sóc tốt nhất cho đời sống sinh hoạt và học tập của các em. Sau thời kì Đổi mới, tới tháng 9/1989, một bức tượng đúc bằng thạch cao phủ bên ngoài một lớp đồng được đặt ngay chính giữa sân trường để tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đều đặn biết bao nhiêu năm nay, cứ tới sáng thứ Hai đầu tuần, tất cả học sinh và cán bộ giáo viên hiện đang học tập và công tác tại trường Quốc học Huế đều trang nghiêm đứng dưới bức tượng và hát vang bản Quốc ca hào hùng dân tộc. Hiện nay, một dãy nhà đã được tu sửa và xây dựng thêm bể bơi, sân thể thao để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu học tập và đảm bảo sự an toàn của học sinh nhưng không làm ảnh hưởng nhiều tới kiến trúc toàn thể của ngôi trường. Trường Quốc học Huế cũng được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia vào tháng 3/1990. Trường Quốc học Huế – xứng đáng là một ngôi trường danh giá và là nơi ghi dấu lịch sử một thời nước ta. Những nét kiến trúc cổ kính của Pháp vẫn giữ nguyên vẹn và hiện tại vẫn nuôi dưỡng những ước mơ của rất nhiều thế hệ học sinh.
Thừa Thiên Huế 1906 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đại Nội Huế là một phần trong Quần thể di tích Cố đô Huế, mang đậm dấu ấn văn hóa, lịch sử, kiến trúc của triều đại nhà Nguyễn, tổ chức UNESCO đã công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1993. Nằm ở bên bờ dòng sông Hương, Đại Nội Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới và còn lưu giữ nhiều dấu ấn đặc sắc của nét phong kiến triều đình nhà Nguyễn hàng trăm năm trước. Đại Nội Huế là cụm di tích bao gồm Hoàng Thành (nơi vua thiết triều và làm việc) và Tử Cấm Thành (nơi sinh hoạt của vua và hoàng tộc). Là một công trình có quy mô đồ sộ nhất trong lịch sử Việt Nam, Di tích Đại Nội Huế có quá trình xây dựng kéo dài tới 30 năm với hàng vạn người thi công cùng hàng loạt các công việc như lấp sông, đào hào, đắp thành, dời mộ… cùng khối lượng đất đá khổng lồ lên đến hàng triệu mét khối. Đến thăm quan quần thể di tích Đại Nội Huế, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hàng trăm công trình cung điện nguy nga, đền đài và miếu thờ bề thế. Với vẻ đẹp tráng lệ và kiến trúc cung điện đắc sắc, bạn chắc chắn sẽ cảm thấy thích thú trên hành trình thăm quan Đại Nội. Hoàng Thành Huế bao gồm nhiều khu vực như khu vực phòng vệ, khu vực cử hành đại lễ, khu vực miếu thờ,… được đặt giữa một không gian thiên nhiên đẹp hài hoà của những hồ nước, vườn hoa, cầu đá, hòn đảo và cây cối xanh tươi toả bóng mát. Hoàng thành có 4 cổng được đặt ở 4 mặt, trong đó cổng chính lớn nhất và có kiến trúc đẹp nhất là cổng Ngọ Môn. Cổng Ngọ Môn nhìn về phía Nam kinh thành và trông xa ra dòng sông Hương thơ mộng. Cổng Ngọ Môn có 5 cửa, trong đó cửa chính ở giữa từng là cổng dành cho vua đi, hai cổng bên dành cho quan văn, quan võ, và hai cổng bên quanh là dành cho binh lính cùng voi ngựa theo hầu. Được xây phía trên cổng là Lầu Ngũ Phụng có kết cấu bằng gỗ lim, chia làm 2 tầng và 9 bộ mái, mái giữa được lợp màu vàng, còn lại là 8 lợp mái xanh. Trước đây, Lầu Ngũ Phụng là nơi tổ chức một số các lễ lớn của triều đình nhà Nguyễn. Trải qua gần 2 thế kỷ và chứng kiến bao mốc sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc, Cổng Ngọ Môn vẫn tồn tại theo thời gian và đã trở thành một kiệt tác kiến trúc cổ xuất sắc! Điện Thái Hòa là một biểu trưng quyền lực của Hoàng triều nhà Nguyễn. Nằm trong khu vực Hoàng thành, Điện Thái Hoà cùng Sân Đại Triều Nghi từng là nơi diễn ra các buổi thiết triều quan trọng của triều đình. Trong nhiều cung điện trong Hoàng thành Huế, Cung Diên Thọ là hệ thống kiến trúc cung điện quy mô nhất ở Huế còn lại cho đến ngày nay. Nơi đây từng là nơi ở của các Hoàng Thái Hậu và các Thái Hoàng Thái Hậu. Cũng thuộc quần thể di tích cố đố Huế và nằm trong khu vực Hoành thành, Tử Cấm thành là nơi sinh hoạt của vua cũng như là hoàng triều nhà Nguyễn. Trong Tử Cấm Thành, có hơn 50 công trình kiến trúc với quy mô đa dạng khác nhau, tiêu biểu phải kể đến Điện Cần Chánh (nơi vua thiết triều và tổ chức yến tiệc), Điện Càn Thành (nơi vua ngủ nghỉ), Thái Bình Lâu (nơi vua thư giãn, đọc sách), Tả Vu & Hữu Vu,… Đến thăm quan Đại Nội Huế, bạn còn có thể tham gia đêm Hoàng cung được tổ chức định kỳ vào thứ Bảy hàng tuần. Trong đêm Hoàng cung ngập tràn ánh sáng, các nghi thức của cung đình xưa sẽ được tái hiện lại đầy chân thực và các hoạt động văn hóa nghệ thuật độc đáo cũng được diễn ra. Đây sẽ là một điểm nhấn vô cùng thú vị cho hành trình khám phá Đại Nội Huế của bạn! Đặc biệt hơn nữa, mới đây Đại Nội Huế đã chính thức mở cửa đón khách thăm quan vào ban đêm từ 19 – 22h và đây chính là dịp để bạn thăm quan tìm hiểu Đại Nội cũng như “sở hữu” những bức ảnh tuyệt đẹp bên những công trình rực rỡ, lung linh ánh đèn.
Thừa Thiên Huế 1913 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Biển Thuận An nằm cách trung tâm thành phố Huế 15km nên chỉ mất chừng 15 phút đi taxi hay nửa tiếng đi xe máy là bạn có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nơi đây rồi. Cả 1km bờ biển Thuận An đến nay vẫn còn giữ được nguyên vẻ hoang sơ với bờ cát trắng mịn trải dài, làn nước biển trong xanh. Tại đây tuy dịch vụ du lịch chưa được phát triển nhiều như bên Lăng Cô nhưng vẫn thu hút nhiều du khách đến khám phá. Một ngày tại bãi biển Thuận An Huế, bạn sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng sự thay đổi muôn màu muôn vẻ của biển cả mênh mông. Khi phương đông hé những tia nắng đầu tiên, cả một vùng biển nhuốm một màu vàng óng. Lúc này, bạn sẽ được hòa mình vào không khí sôi động, náo nhiệt nhưng cũng rất đỗi thân thuộc của các hoạt động mua bán hải sản. Sau một chuyến ra khơi, những chiếc thuyền chở đầy cá, tôm trở về trong niềm hân hoan, phấn khởi. Khi mặt trời đã lên cao, cả mặt biển mênh mông những con sóng màu bạc lấp lánh. Để rồi khi chiều tà, ta lại được chiêm ngưỡng một bức tranh hoàng hôn biển tuyệt đẹp – món quà vô giá đến từ mẹ thiên nhiên. Tuy chưa phát triển nhiều dịch vụ nhưng bạn hãy cứ yên tâm về khoản ăn uống khi đến với biển Thuận An Huế nhé! Bạn có thể thỏa sức thưởng thức hương vị tươi ngon của những món ăn chế biến từ hải sản do chính người dân địa phương đánh bắt được. Thật thú vị khi được cùng bạn bè vừa ngắm cảnh biển đêm, vừa thưởng thức hải sản trên bếp than nướng đỏ rực. Với vẻ đẹp hoang sơ vốn có, biển Thuận An đích thực là một điểm đến lý tưởng cho những du khách ưa thích sự tìm tòi, khám phá. Trong tương lai, biển Thuận An hứa hẹn sẽ là điểm sáng trong bản đồ du lịch xứ Huế mộng mơ.
Thừa Thiên Huế 1965 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Với những bạn đam mê biển thì bãi biển Cảnh Dương sẽ là một sự lựa chọn không thể tốt hơn khi đến du lịch ở Huế. Đến đây bạn sẽ có cơ hội để trải nghiệm những điều mới lạ và thú vị và được đắm mình trong một bãi biển hoang sơ tuyệt đẹp. Dù bãi biển cách khá xa trung tâm thành phố những nơi đây vẫn thu hút được nhiều du khách ghé qua. Bãi biển Cảnh Dương thuộc thôn Cảnh Dương, xã Lộc Vĩnh, thành phố Huế. Nơi đây được biết đến là khu biển vẫn giữ được nét hoang sơ, gần gũi với thiên nhiên, giá rẻ rất thích hợp cho các bạn trẻ muốn khám phá trong hè này. Cách trung tâm thành phố Huế và Đà Nẵng khoảng 50km, để đến được đây, du khách sẽ phải di chuyển khoảng 1 tiếng lái xe. Bạn có thể đi taxi hoặc thuê xe máy để tiện cho việc di chuyển thăm quan của bạn ở bãi tắm Cảnh Dương. Cung đường đi không quá khó kể cả những người lần đầu đến đây, nếu bạn di chuyển từ huế thì cứ chạy dọc theo Quốc lộ 1A hướng từ Huế – Đà Nẵng qua bảng “chốt kiểm dịch động vật & cảng Chân Mây” thêm 100m thì rẽ trái. Còn với những bạn đi từ hướng Đà Nẵng – Huế thì rẽ phải khoảng hơn 3km nữa là sẽ thấy ngay bãi biển. Với những bạn muốn tiết kiệm chi phí cho chuyến đi thì có thể lựa chọn xe buýt tuyến Huế – Đà Nẵng hoặc tuyến Đà Nẵng – Huế với chi phí 30.000 đồng/người để di chuyển đến đường vào cảng Chân Mây rồi thuê xe đi vào trong bãi biển. Tới đây, các bạn sẽ được hòa mình vào một bầu không khí trong lành, xua tan đi những mệt mỏi trong cuộc sống, thư giãn tâm hồn. Bãi biển Cảnh Dương Thừa Thiên Huế không chỉ nổi tiếng không chỉ bởi vẻ đẹp thiên nhiên mộc mạc, nơi đây còn là địa điểm cho ra những bức ảnh độc đáo với cách trang trí siêu đẹp với con đường bằng đá, những chiếc xích đu rất dễ thương cho bạn tha hồ check-in. Với lợi thế về bãi biển rộng, nơi đây phù hợp với những buổi tiệc nho nhỏ hay cắm trại qua đêm trên biển bên bạn bè tạo ra những kỉ niệm tuyệt vời cho cả chuyến đi khám phá này. Du khách đến đây được hòa mình với thiên nhiên và tham gia các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí như đá bóng, bóng chuyền, bi lắc, bơi, đốt lửa trại, BBQ…thuê xe đạp khám phá thôn Cảnh Dương, mua hải sản vào buổi sáng sớm. Chất lượng dịch vụ bãi biển Cảnh Dương Huế khá tốt cùng với dịch vụ thuê lều giá rẻ. Ở bãi biển có nhiều nhà hàng, khu vui chơi cho trẻ em, khu vệ sinh công cộng được trang bị đầy đủ tiện nghi. Chỗ cho thuê đồ căm trại có sẵn các trang thiết bị an toàn, hiện đại. Với những ai muốn trải nghiệm thử cảm giác cuộc sống giữa thiên nhiên bên những chiếc lều, ngắm sao và cảnh biển vào ban đêm tuyệt đẹp. Để có thể tham gia khám phá trọn vẹn về bãi biển tuyệt đẹp này, du khách có thể thuê một chiếc thuyền nhỏ ra khơi, tận mắt xem ngư dân câu cá, câu mực trên biển. Một khung cảnh lãng mạn đem đến cảm giác vô cùng tuyệt vời. Đây chắc chắn là một trải nghiệm du lịch kiểu mới gần gũi với thiên nhiên, đầy đủ tiện nghi đáng để bạn khám phá ngay trong hè này. Bãi biển nguyên sơ tuyệt đẹp ở đây sẽ giúp bạn tránh xa được sự ồn ào, náo nhiệt để thỏa sức vui chơi thoải mái. Đến bãi biển Cảnh Dương ở Huế, du khách không chỉ được trải nghiệm hoàn toàn mới, gần gũi với thiên nhiên và hòa mình vào các hoạt động thể thao vui chơi giải trí mà còn được thưởng thức những món ăn độc đáo của người dân nơi đây. Những món ăn ngon dân dã, mộc mạc được chế biến công phu và vẫn giữ nguyên được hương vị biển đặc trưng. Du khách bị lôi cuốn bởi những món hải sản tươi sống và giá cả bình dân như ghẹ hấp, mực nướng, cá hanh, tôm,…Đến đây bạn sẽ khó mà có thể kìm lòng trước những món ăn hấp dẫn này. Một đặc sản không thể không nhắc đến khi đi du lịch bãi biển Cảnh Dương đó chính là cua rang muối có hương vị đặc biệt là du khách ăn thử một lần sẽ khó quên. Ngoài những món hải sản, bạn cũng có thể thưởng thức món bánh tráng mè đen, vả trộn tôm chấy có vị hăng chát rất riêng do người dân địa phương nơi đây chế biến. Bãi biển Cảnh Dương đã trở thành một trong những điểm đến vô cùng lý tưởng dành cho bất cứ ai muốn tận hưởng du lịch biển. Đến đây bạn sẽ được hòa mình vào thiên nhiên với những bãi tắm, khu vui chơi cực kỳ hấp dẫn, mới lạ phù hợp với các bạn trẻ.
Thừa Thiên Huế 2089 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Thường trong các lịch trình khám phá Huế, bạn sẽ chỉ thấy những điểm tham quan gắn liền với các di tích lịch sử như lăng vua Tự Đức hay lăng vua Khải Định, đền chùa hoặc Cung Đình Huế thì hôm nay MIA.vn sẽ giới thiệu đến bạn một địa danh tuy không quá nổi tiếng nhưng nếu một lần ghé đến rồi thì sẽ nhớ mãi và muốn quay trở lại nếu có cơ hội. Đó chính là Bãi biển Hàm Rồng. Không mang nhiều câu chuyện cổ tích, truyền thống hay lịch sử như những điểm tham quan tại Huế khác, bãi biển mang vẻ đẹp của sự hoang sơ, tự nhiên, nép mình bên Phá Tam Giang, sở hữu vẻ đẹp làm xao xuyến rất nhiều du khách. Bãi biển Hàm Rồng nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km, tuy hơi xa nhưng đường là rất dễ đi, không quá khó tìm nên đây là một địa điểm được nhiều bạn trẻ yêu thích với mong muốn được ghé đến một lần để tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp tại đây. Nếu di chuyển từ trung tâm thành phố Huế, bạn sẽ mất khoảng 1 giờ để đến Bãi biển Hàm Rồng. Chạy dọc theo quốc lộ 49B, men theo con đường nhựa về hướng Vinh Hiển là đến rồi. Không quá nổi bật hay rực rỡ, Bãi biển Hàm Rồng chinh phục du khách nhờ vẻ đẹp đơn giản, hoang sơ lại tự nhiên của khung cảnh nơi đây. Bởi vì nơi đây còn khá lạ, chưa được đưa vào khai thác du lịch nên vẫn giữ nguyên vẻ đẹp đơn thuần như những ngày trước, những hòn đá xếp chồng tự nhiên được phủ đầy rêu phong cùng với bãi biển cát vàng và làn nước trong vắt, bạn có thể nhìn được đến phần đáy. Nếu bạn muốn tìm kiếm một điểm tham quan vừa yên tĩnh, vừa tự nhiên, hoang sơ và bình yên thì nơi đây chính là dành cho bạn. Bãi biển Hàm Rồng sở hữu vẻ đẹp hoang sơ tựa như một bức tranh tuyệt đẹp mà thiên nhiên giúp xoa dịu những tâm hồn đầy đầy mệt mỏi, tổn thương. Bên cạnh vẻ đẹp đầy ấn tượng của bãi biển Hàm Rồng, thì khi đến đây bạn cũng có thể thử chinh phục ngọn núi Linh Thái với độ cao 800m nằm bên cạnh bãi biển, hòa mình vào khung cảnh núi rừng bao la. Núi tuy không quá cao nhưng cũng đủ để bạn thử khám phá, trải nghiệm và tận hưởng cảm giác thành tựu khi chinh phục được. Khung cảnh từ trên núi chắc chắc sẽ khiến bạn mê ngay bởi sự hùng vĩ, to lớn. Bạn sẽ được ngắm nhìn toàn cảnh Bãi biển Hàm Rồng cùng với những bãi đá, khu rừng xung quanh, tận hưởng những cơn gió mát lạnh và cảm nhận vẻ đẹp tự nhiên sau hành trình chinh phục núi Linh Thái. Biển Hàm Rồng Huế có diện tích không quá lớn nhưng vẫn được chia làm 3 bãi tắm riêng biệt là bãi Hàm Rồng, Đông Dương và bãi Đầm. Vì chưa được khai thác du lịch nhiều nên nơi đây khá hoang sơ, dường như không có hàng quán nhiều. Nhưng chính vì vậy nên nước tại đây khá trong, yên tĩnh và vô cùng sạch sẽ nên chắc chắn bạn sẽ rất thích nếu ghé đến đây và muốn chạy ngay ra biển để đắm mình vào làn nước trong vắt ấy. Trên bờ biển Hàm Rồng được người dân trồng phi lao, vừa giúp cản gió, vừa là nơi lý tưởng để bạn có thể cắm trại qua đêm. Buổi tối ở đây khá vắng vẻ nên rất thích hợp để những nhóm bạn nhiều người có thể ghé đến để cắm trại và đốt lửa trại, thoải mái ca hát, vui chơi, hò hét hoặc nấu nướng mà không sợ làm phiền đến bất cứ ai. Trải nghiệm cảm giác ngủ trong lều, bên ngoài là tiếng sóng biển rì rầm, những cơn gió mát lạnh chắc chắn sẽ khiến bạn thích mê, đắm chìm và muốn trải qua mãi. Nếu muốn tìm một nơi tránh xa sự ồn ào, náo nhiệt của thành thị để bạn buông bỏ mệt mỏi thì Bãi biển Hàm Rồng là một gợi ý lý tưởng dành cho bạn đấy. Một số lưu ý dành cho bạn khi khám phá Bãi Hàm Rồng. Nên mang theo nước uống và thức ăn tại Bãi biển Hàm Rồng còn khá hoang sơ nên chưa có nhiều hàng quán để bạn mua. Vì Bãi biển Hàm Rồng khá nắng, gió nhiều nên chuẩn bị sẵn kem chống nắng, mũ, khăn choàng hoặc áo khoát để bảo vệ bạn khỏi cái nắng, cái gió của nơi này. Lựa chọn trang phục thoải mái, dễ vận động để thoải thích khám phá và check-in mọi ngõ ngách của Bãi biển Hàm Rồng. Luôn giữ vệ sinh, không vứt rác bừa bãi gây mất vệ sinh và mỹ quan của bãi biển.
Thừa Thiên Huế 1722 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Chùa Thiên Mụ còn có tên gọi khác là Linh Mụ nằm trên đồi Hà Khê, bên dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình thuộc địa phận phường Kim Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Chùa chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Nguyễn Hoàng – vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng trong và đây cũng là một trong những ngôi chùa cổ nhất đất cố đô. Một biểu tưởng gắn với hình ảnh chùa Thiên Mụ chính là tháp Phước Duyên. Tháp cao 21m, gồm bảy tầng, được xây dựng ở phía trước chùa. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Ngoài tháp Phước Nguyên, chùa Thiên Mụ còn có những công trình kiến trúc như điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm… cùng bia đá, chuông đồng. Thêm nữa, chùa còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá về mặt lịch sử và nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật… hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của chùa Thiên Mụ. Tọa lạc bên bờ sông Hương thơ mộng, chùa Thiên Mụ với kiến trúc cổ kính đã góp phần điểm tô cho bức tranh thiên nhiên nơi đây càng thêm duyên dáng, trang nghiêm và linh thiêng. Dưới các đời chúa Nguyễn, chùa Thiên Mụ Huế đã trải qua nhiều đợt tu sửa lớn, trong đó, nổi bật nhất là cuộc trùng tu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Ngoài ra, Nguyễn Phúc Chu còn cho đúc một chiếc chuông lớn với cân nặng lên tới hơn hai tấn vào năm 1710 và trên chuông có khắc một bài minh. Đến năm 1714, ông lại tiếp tục đại trùng tu hàng những công trình khác ở chùa như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh… Đặc biệt, chúa Nguyễn Phúc Chu còn cử người sang Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật với mục đích ca ngợi triết lý nhà Phật đặt tại lầu Tàng Kinh, ngoài ra, bộ kinh còn ghi rõ sự tích về Hòa thượng Thạch Liêm, người đã có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Theo lời kể, xưa kia, khi chúa Nguyễn còn trai trị ở Đàng trong, tư tưởng lễ giáo phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” rất nặng nề. Thời điểm ấy, một đôi trai gái yêu nhau mặn nồng. Tuy nhiên, cô gái là tiểu thư khuê các, xinh đẹp và là con một vị quan giàu có, còn chàng trai lại mồ côi, nghèo đói. Vì vậy, gia đình cô đã ngăn cấm quyết liệt. Quá đau khổ, cả hai đã cùng nhau ra bến thuyền Mụ (phía trước chùa Thiên Mụ) để tự vẫn. Trớ trêu thay, chàng trai đã chết dưới dòng sông Hương, còn cô gái lại dạt vào bờ và được dân làng cứu sống. Sau đó, gia đình đã đưa cô về và ép lấy một người giàu có. Thời gian trôi qua, nàng dần quên đi những kỉ niệm với chàng trai năm nào, còn chàng nằm dưới sông Hương, chờ người yêu mà không thấy nên uất hận cho số phận mình và “nhập” vào chùa Thiên Mụ, nguyền rằng, bất cứ đôi trai gái nào yêu nhau đến đây thì tình yêu sẽ đổ vỡ và chia tay. Lời nguyền được người đời truyền tới ngày nay, khiến cho chùa Thiên Mụ Huết hêm linh thiêng và huyền bí. Tuy nhiên, sư thầy đang tu hành tại chùa Thiên Mụ cho biết: “Chuyện người đời nói ở chùa mang lời nguyền tình duyên là không có. Thời xưa trong khuôn viên chùa cây cối rất nhiều. Các đôi tình nhân thường rủ nhau đến chùa, lợi dụng cây cối trong chùa xanh tốt nên đã làm những chuyện trái với luân thường đạo lý. Không thể chấp nhận được điều đó, người dân đã dựng lên câu chuyện về lời nguyền để giữ sự thanh tịnh cho ngôi chùa”. Cùng quan điểm với sư thầy, nhà Huế học Phan Thuận An chia sẻ: “Những người yêu nhau lên đó làm những chuyện không hay trong khung cảnh trang nghiêm, thanh tịnh của chùa đã làm ảnh hưởng xấu tới cửa Phật. Nếu yêu nhau thật lòng, giữ tư cách trước cõi trang nghiêm tôi nghĩ không có vấn đề gì”. Như vậy, nếu các bạn đến chùa để vãn cảnh, chiêm bái, tận hưởng khung cảnh thanh tịnh, cầu mong những điều tốt đẹp thì sẽ là hành động được chào đón, tuy nhiên, nếu làm chuyện sai trái, các bạn sẽ gặp phải sự “đổ vỡ”. Qua đây, người dân địa phương, cũng như những sư thầy trong chùa đều mong phật tử có thể đến chùa làm việc tốt, chứ không phải thể thực hiện những hành vi trái với luân thường đạo lý.
Thừa Thiên Huế 2039 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Để chiêm ngưỡng được trọn vẹn cảnh đẹp của đầm Lập An, bạn nên đến đây vào khoảng tháng 3 đến tháng 6. Khi ấy, ánh mặt trời có phần gay gắt, song lại làm nổi lên vẻ đẹp man mác buồn của đầm để bạn có thể chiêm ngưỡng thật trọn vẹn khung cảnh thơ mộng của nơi đây. Từ trung tâm thành phố Huế, bạn có thể di chuyển đến đầm Lập An bằng xe máy, hành trình bắt đầu từ trung tâm đi theo quốc lộ 1A, đi hết đèo Hải Vân thêm một đoạn nữa sẽ đến vịnh Lăng Cô. Khi đi bằng xe máy, bạn lưu ý nhớ trang bị đầy đủ găng tay, khẩu trang, mũ nón để không bị khói bui hay nắng gắt làm ảnh hưởng sức khỏe nhé. Ngoài ra, bạn cũng có thể di chuyển bằng ô tô trên đường đi đèo Hải Vân thì ghé qua Vịnh Lăng Cô và dừng ở đầm Lập An để ngắm hoàng hôn. Đầm Lập An (hay còn gọi là đàm An Cư) nằm gần quốc lộ 1A, đoạn qua thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế, có diện tích khoảng 15km2. Đầm Lập An tọa lạc ở vị trí đẹp, ở ngay dưới chân đèo Phú Gia, được dải núi Bạch Mã hùng vĩ bao quanh, phía trước là vịnh Lăng Cô dịu êm với màu nước xanh ngọc bích. Tất cả tạo cho đầm Lập An một vẻ đẹp mơ màng khiến bao du khách phải ngẩn ngơ ngắm nhìn. Đầm Lập An Huế có lẽ đẹp nhất vào buổi chiều tàn, khi những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu xuống nơi đây tạo nên vẻ đẹp lãng mạn và yên bình. Đến đây vào thời khắc hoàng hôn đó, bạn dường như sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi khung cảnh trước mắt mình, vừa có sự hùng vĩ vẫn xen lẫn cái chất đặc biệt “rất Huế”. Ngoài ra, nơi đây không chỉ sở hữu cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, đầm còn là nơi sinh sống của rất nhiều loài động, thực vật thủy sinh, và trong số đó thì nhiều nhất là hàu, thứ đặc sản của người dân quanh khu Lập An. Công việc của người dân địa phương chủ yếu là đánh bắt thủy hải sản, đặc biệt là hàu. Hàu ở đầm Lập An nổi tiếng ngon, béo bùi nên khi đến đây, du khách sẽ được thưởng thức những món ngon từ loại hải sản này như nướng trui, cháo, xào hành tây, gỏi…Hương vị của các món ăn sẽ khiến du khách không thể quên. Bên cạnh đó, trùn và hải sâm (sá sùng biển) cũng là hai loại hải sản xuất hiện nhiều ở đầm Lập An, thường được làm nguyên liệu cho các các món ăn ngon, bổ dưỡng, đặc biệt, trùn còn được dùng làm thuốc chữa bệnh.
Thừa Thiên Huế 1789 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Núi Bạch Mã nằm ở phần cuối của dãy Trường Sơn và là trung tâm của dải rừng xanh duy nhất ở Việt Nam kéo dài từ biển Đông đến biên giới Việt – Lào. Chẳng giống như người bảo vệ đất trời Phú Yên đứng một mình như núi Đá Bia mà núi Bạch Mã hiện ra như một bức tranh sơn thủy hữu tình khiến du khách đến đây vẫn còn lưu luyến không muốn về. Huế là một thành phố có thời tiết dễ chịu, trong lành. Vậy nên chinh phục núi Bạch Mã Huế sẽ rất tuyệt vời vì ở đây bao phủ quanh năm ngày tháng là núi rừng nên khí hậu nơi đây dễ thở, càng lên cao càng mát mẻ. Với ưu thế gần biển, nhiệt độ trung bình mùa hè ở đây từ 20 – 26 độ C, mùa đông từ 4 độ – 10 độ C. Do vậy mà thời tiết ở dãy núi Bạch Mã ôn hòa, mát mẻ. Những hôm nắng nhẹ thì không quá gay gắt khiến bạn cảm thấy khó chịu hay oi bức. Những hôm có vài cơn mưa dông thì thời tiết sẽ trở nên êm dịu hơn. Để chinh phục đỉnh núi cao 1450m không phải là dễ. Đứng từ xa nhìn lên, du khách sẽ choáng ngợp trước vẻ đẹp hùng vĩ khổng lồ, ẩn sau những lớp sương mù bao phủ khiến cho núi Bạch Mã trở nên thơ mộng, huyền ảo hơn bao giờ hết. Mang ưu thế là nơi có khí hậu tuyệt vời nên thiên nhiên, thực vật ở đây rất phong phú và đa dạng với hơn 2.000 loài thực vật và khoảng 1.500 loài động vật, trong đó có rất nhiều loài động thực vật có tên trong sách đỏ Việt Nam. Lạc lối giữa không gian thiên nhiên, rộng lớn ở núi Bạch Mã. Du khách còn có thể thưởng thức vẻ đẹp nổi tiếng của những con suối và những ngọn thác cao ngoạn mục. Nằm sừng sững trong dãy núi Bạch Mã ngày đêm chảy xiết. Thác Đỗ Quyên cao 400m, rộng 20m với dòng thác cuồn cuộn trắng xóa nổi bật một góc trời núi rừng Bạch Mã như một cô gái ngủ quên không bao giờ dậy. Dòng nước mát trong lành hòa quyện với khí trời mát mẻ nơi đây đem lại cho du khách cảm giác thật thoải mái, mọi muộn phiền như được tan biến. Vào những ngày nắng hè, du khách quan sát sẽ thấy hai bên thác là loài hoa quý Đỗ Quyên nở rộ, đỏ rực cả một khoảng trời như được trải thảm lụa đỏ dài không có điểm dừng. Dừng lại ở đây, chụp vài bức ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, sẽ thật không sai lầm khi bạn lạc vào nơi này. Đứng từ đỉnh thác ngắm tầm mắt ra xa như nhìn thấy cả một khoảng trời trắng xóa với ánh nắng chiều chiếu xuống lấp lánh khiến cho khung cảnh này trở nên đẹp lung linh và huyền ảo. Thác dựng đứng cao tới 250m, thật thú vị khi bạn check-in cùng vài người bạn hay gia đình của mình khi đến thác Đỗ Quyên.
Thừa Thiên Huế 1723 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Được mệnh danh là vùng đầm phá nước lợ có diện tích lớn nhất khu vực Đông Nam Á, phá Tam Giang là điểm đến yêu thích của khách phương xa mỗi khi tới thăm xứ Huế mộng mơ cũng như địa điểm lý tưởng thu hút các nhiếp ảnh gia đến ghi lại những hình ảnh và khoảnh khắc thiên nhiên tuyệt vời. Phá Tam Giang Huế – Vẻ đẹp đậm chất quê hương Việt Nam. Hút hồn bởi sự yên bình của làng chài Thái Dương Hạ. Làng chài Thái Dương Hạ là một ốc đảo nhỏ nằm ngay trên phá, nơi đây là nơi cư ngụ của những hộ dân chài mưu sinh bằng nghề đánh bắt cá, hải sản. Nơi đây được ghi nhận có thời gian tồn tại khá lâu rồi và hội tụ rất nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc ta vẫn còn được lưu giữ. Tới với làng chài Thái Dương Hạ, bạn sẽ được thưởng thức rất nhiều món hải sản vùng nước lợ tươi ngon với giá cả rẻ hơn hẳn những nơi khác. Ngoài ra, bạn còn được trải nghiệm và thăm thú đình làng Việt Nam, những lễ hội gắn với người dân nơi đây như lễ hội Cầu Ngư và cuộc sống miền quê thanh bình yên ả. Có lẽ, nét đẹp cuốn hút nhất phá Tam Giang chính là cái chất thơ, một nơi đẹp nhưng buồn, vẻ rộng lớn của thiên nhiên và sự tĩnh lặng của khung cảnh dễ lọt vào tầm mắt của những người ưa chụp phong cảnh. Đến phá Tam Giang vào mỗi thời điểm trong ngày, bạn đều bị thu hút bởi những nét đẹp riêng, nếu buổi sáng bình minh lên rực rỡ soi ánh xuống mặt nước lóng lánh thì chiều tà khiến phá nước lợ này có gì đó man mác, rất có hồn quê Việt Nam tựa những ngày xưa. Quê hương Việt Nam thật đẹp, còn rất nhiều nơi bình yên và đẹp như phá Tam Giang mà bạn cần được khám phá. Nếu đến Huế, đừng quên ghé Tam Giang để thấy đất nước mình xinh đẹp ra sao, bình yên nhường nào.
Thừa Thiên Huế 1736 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
01 Nguyễn Thái Học , Huế
Hiệp hội du lịch Thừa Thiên Huế
Giảm giá 5% 63Stravel Vip