Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đình Hồng Thái trước năm 1945 còn có tên là đình Kim Trận thuộc thôn Hồng Thái, xã Tân Trào, đình được dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của cộng đồng và là nơi hội họp, bàn bạc những công việc chung của làng. Tháng 3 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đồng chí Chu Quý Lương, nhân dân Kim Trận đứng lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân họp bàn và quyết định đổi tên làng. Đồng bào đã lấy tên liệt sỹ Phạm Hồng Thái đặt làm tên xã mình và đình Kim Trận cũng mang tên đình Hồng Thái từ đó. Đình Hồng Thái được dựng theo thuật phong thuỷ từ ngàn xưa để lại, đó là thế: "đất tụ thuỷ, nước tụ hội". Trên thực tế, đình được đặt theo hướng nam lấy núi Thia làm án đình, phía trước là dòng sông Phó Đáy, trước cửa đình có một khoảng sân rộng có nhiều cây cổ thụ như: cây đa, cây gạo… Đình được cất dựng năm thứ 4 của triều Khải Định, tức năm 1919. Đình có kiến trúc thuần gỗ, mái lợp lá cọ. Nhìn về tổng thể, đình có dáng dấp một ngôi nhà sàn miền núi, gồm có ba gian, hai chái. Hai gian hai bên dùng làm nơi hội họp và ăn uống, 3 gian chính giữa dùng làm nơi cúng tế. Phía trên gian giữa có một sàn lửng, chia làm hai phần: phần thượng cung dùng để đồ cúng tế, phía trong là vọng cung là nơi để đồ tế khí. Không giống như đình ở miền xuôi, đình Hồng Thái có kiến trúc rất đơn giản. Nổi bật lên là các chữ triện tô mực đen ở các đầu dư. Ngoài ra, ở gian giữa ta còn thấy hình tượng 6 con tắc kè bám ở 6 cột. Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, trang trí, đây còn là một trong những tín ngưỡng nông nghiệp của đồng bào, bởi đồng bào tin rằng tắc kè là con vật có khả năng dự báo được thời tiết mưa hay nắng, để từ đó người ta có thể tính được thời gian trồng cấy mùa vụ. Đình Hồng Thái thờ các vị sơn thần xung quanh vùng. Ngoài ra, đình còn thờ một vị nhân thần là Ngọc Dung công chúa. Hàng năm, dân làng ở đây tổ chức nhiều lễ cúng bái tại đình, các ngày lễ dựa vào mùa vụ trong năm. Ngày 4/5/1945, Bác Hồ từ Pắc Bó, Cao Bằng về Tân Trào. Đình Hồng Thái là nơi dừng chân đầu tiên khi Người đến Tân Trào. Tháng 8 năm 1945, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, khí thế giành chính quyền đang hừng hực khắp nơi. Bác và Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng tại đình Tân Trào. Đình Hồng Thái được chọn làm nơi đón tiếp các vị đại biểu về dự Đại hội. Tất cả các vị đại biểu trước khi vào Tân Trào đều phải xuất trình giấy tờ tại đình Hồng Thái. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ và Trung ương Đảng chuyển về Hà Nội. Đất nước ta hòa bình chưa được bao lâu, thực dân Pháp bội ước quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quê hương cách mạng Tân Trào lại được đón Bác, Trung ương, Chính phủ về đây để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong thời kỳ kháng chiến, đình Hồng Thái trở thành trụ sở của Ban bảo vệ an toàn khu. Mọi người muốn vào các cơ quan Trung ương công tác đều phải qua đình Hồng Thái, xuất trình giấy tờ, có chữ ký của người phụ trách thì mới được vào an toàn khu. Ngoài ra, đình Hồng Thái là nơi làm việc của bộ phận Tiếp tế ATK trong thời gian kháng chiến. Sau khi bộ phận này chuyển đi thì nhiều đơn vị bộ đội về đóng quân tại đình Hồng Thái để huấn luyện các đơn vị bộ đội. Nguồn: Trung tâm xúc tiến du lịch Tuyên Quang
Tuyên Quang 1978 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6794 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6160 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4153 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4115 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4047 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3809 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3735 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3629 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3544 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3356 lượt xem
Núi Pắc Tạ là ngọn núi cao nhất huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, sừng sững, uy nghiêm, thoắt ẩn, thoắt hiện trong mây vờn bên hồ thủy điện Tuyên Quang, núi Pắc Tạ là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ, du khách sáng tác thơ ca, hội họa và nhiếp ảnh. Núi Pắc Tạ còn có tên là núi “Xa Tạ” gắn liền với truyền thuyết từ xa xưa để lại. Xưa kia, tại một khu rừng rậm có rất nhiều loài thú dữ, trong đó voi là loài vật có sức khỏe nhưng lại khó thuần, dân bản tìm đủ mọi cách để thuần dưỡng voi dùng làm sức kéo chuyên chở hàng hóa. Năm đó, có giặc ngoại xâm vào xâm chiếm, bà con địa phương tập trung tất cả binh lực dồn cho cuộc chiến đấu giữ nước, trong đó có đàn voi đã được thuần dưỡng. Thế nhưng, trong đàn voi có một con voi đực to khỏe nhất đàn, không ai thuần dưỡng được. Bao nhiêu tướng lĩnh giỏi phải chịu bó tay trước con voi hung dữ. Trong bản có một người quản voi dũng cảm xin đảm nhận công việc này. Ngày đầu tiên, ông cho già trẻ, trai gái trong bản dùng đất đá chặn tất cả những dòng suối, khe lạch xung quanh vùng rừng voi sinh sống. Ba ngày sau voi đực khát nước, lúc này ông mới đổ rượu vào hõm đá cho voi uống thay nước. Năm ngày, rồi mười ngày, voi uống rượu thay nước, lâu dần thành quen với rượu và người quản tượng. Ông đã thuần dưỡng được chú voi đực hung dữ, có thể đặt bành lên lưng điều khiển voi làm theo mệnh lệnh. Từ đó người dân trong bản gọi là “voi rượu”. Đến ngày xuất trận “voi rượu” hùng dũng xông ra trận tiền phá tan đội hình quân giặc. Chiến thắng trở về, “voi rượu” được nhà vua phong làm “Voi Quận công” và mở yến tiệc linh đình chiêu đãi tướng sỹ. “Voi rượu” hút hết nậm rượu này đến nậm rượu khác. Say quá “voi rượu” tắt thở. Nhưng kỳ lạ thay, voi chết mà vẫn đứng sừng sững uy nghiêm, dáng vẻ hùng dũng như lúc xung trận. Đêm ấy trời mưa tầm tã, gió rít ào ào như bày tỏ niềm tiếc thương của dân bản đối với “voi rượu”. Sáng hôm sau người ta thấy cả voi và nậm rượu đã hóa đá, khối đá ấy mỗi ngày một lớn dần lên thành ngọn núi Pắc Tạ ngày nay. Vượt qua trở ngại về đường giao thông, du khách hãy một lần đến với huyện vùng cao Na Rang, Tuyên Quang, đến thăm núi Pác Tạ để khám phá vẻ đẹp đầy huyền bí, để thưởng thức trọn vẹn kiệt tác của tự nhiên ban tặng cho vùng đất này.
Tuyên Quang 1962 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Hạ Tuyên Quang là một công trình lâu đời, có kiến trúc đẹp với nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh xảo, tọa lạc giữa không gian u tịch, lưng tựa núi, mặt hướng ra dòng sông Lô lịch sử. Đền Hạ Tuyên Quang thờ ai : Mẫu Thượng ngàn, là nàng Phương Dung công chúa, con gái của vua Hùng. Tên gọi của Đền : Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đền có các tên gọi khác nhau như: vào đời Lý gọi là đền Tam Kỳ, đời Trần có tên là đền Hiệp Thuận. Các thời này, Đền thuộc thôn Hiệp Thuận, xã Ỷ La. Đến thời hậu Lê mới có tên là Đền Hạ như ngày nay, và giữ tên chữ là “Hiệp Thuận linh từ”. Sự tích Đền Hạ Tuyên Quang : Tương truyền, hai công chúa được nhà vua cử đi thị sát phong tục tập quán ở địa phương, đến bến Tam Cờ thì dừng chân, đêm xuống gặp một cơn giông tố, hai công chúa đã bay về trời. Mỗi khi có mưa to gió lớn, dân làng đến cầu nguyện và thấy linh nghiệm, từ đó lập nên đền thờ này. Các mốc lịch sử Đền Hạ Tuyên Quang : Đền được xây dựng năm 1738. Đền trải qua đợt trùng tu lớn vào năm 1878. Đến năm 1991, đền được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Và năm 1994, Đền tiếp tục được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cổ. Đền có kiến trúc theo lối nội công ngoại quốc, hướng chính Đông nhìn thẳng ra sông Lô. Trước sân chầu là hệ thống cổng phụ gồm bốn trụ, trên mỗi đỉnh trụ là một con phượng đắp nổi. Cạnh sân chầu là hai miếu còn gọi là Lầu Cô. Tiếp đến là Lầu Tế, thờ Đệ nhị Thượng ngàn, sau là Tam phủ thờ Đệ nhất Thượng ngàn, gian chính bố trí hình chữ tam gồm ba cung. Trong cung, trên bệ thờ đặt một bộ đỉnh, cạnh bệ thờ treo chuông, khánh... Nghệ thuật kiến trúc cổ nổi bật của đền là chạm khắc gỗ công phu. Các cột, kèo, thượng lương, cửa võng, cửa xếp đều được chạm trổ tinh xảo, với đề tài là tứ linh và tứ quý. Trên thân cột chạm hình Long Giáng thủy cung. Đặc biệt những hình cây, hoa trên cửa võng mềm mại như tranh vẽ. - Giá trị nghệ thuật của các tượng thờ trong Đền cũng rất đáng chú ý. Nét mặt các pho tượng toát lên vẻ thanh tao mà uy nghiêm. Các tư thế của tay, các nếp khăn áo, các hình trang trí trên đồ thờ đều được bàn tay khéo léo của người thợ thể hiện rất sinh động. Trong Đền còn giữ được nhiều bảo vật lâu đời có giá trị nghệ thuật cao, nổi bật là quả chuông đồng, khánh cỡ lớn được đúc vào thời Lê, 3 pho tượng cổ cùng 20 đạo sắc phong của các triều Lê, Nguyễn. Nội dung các sắc phong vừa mang dấu ấn lịch sử vừa mang tính chất văn chương, ca ngợi phẩm chất cao quý và sự linh thiêng của các nương thần, phù trợ cho dân cho nước.
Tuyên Quang 1966 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Suối khoáng Mỹ Lâm nằm tại xã Mỹ Lâm, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và cách trung tâm thành phố Tuyên Quang khoảng 25km. Suối khoáng mỹ lâm phú lâm yên sơn Tuyên Quang được ví như một viên ngọc quý giữa rừng núi đầy hoang sơ, nơi mà bạn có thể tìm thấy sự yên bình và thanh tịnh trong từng cơn gió thoảng qua, từng cánh chim hót líu lo, từng con cá bơi lội trong suối. Khoáng nóng mỹ lâm có nguồn nước chứa nhiều khoáng chất và vi lượng có lợi cho sức khỏe. Nước khoáng Mỹ Lâm có tính axit yếu, pH dao động từ 6,5 đến 7,2, chứa nhiều loại khoáng chất như canxi, magiê, sắt, kẽm và mangan. Nước suối khoáng Mỹ Lâm được cho là có tác dụng điều trị bệnh về xương khớp. Người bị các vấn đau lưng, đau khớp, viêm khớp được thuyên giảm, giúp tăng cường sức khỏe và giảm stress. Ngoài ra, khi đến với suối khoáng Mỹ Lâm, bạn còn được tham gia vào các hoạt động giải trí và thể thao. Bao gồm: bơi lội, đánh bóng, cắm trại, câu cá, leo núi, đi bộ đường dài và những trò chơi dân gian. Đây là cơ hội để bạn tận hưởng những phút giây thư giãn, hòa mình vào thiên nhiên và đắm chìm trong không gian yên tĩnh. Suối khoáng Mỹ Lâm được biết đến từ thế kỷ XIX, khi các nhà thám hiểm Pháp khám phá và ghi nhận về tài nguyên khoáng chất của khu vực này. Trong những năm 1920, nước khoáng Mỹ Lâm đã được sử dụng để điều trị các bệnh lý của người dân địa phương. Trong những năm 1960, nước khoáng Mỹ Lâm đã được khai thác và sản xuất đại trà, và trở thành một thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam. Điều này đã giúp tăng cường sức khỏe cho những người dân sử dụng và cũng giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế cho khu vực này.
Tuyên Quang 1814 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang, thác Mơ Tuyên Quang có ba tầng thác trùng điệp đẹp tựa chốn bồng lai. Cảnh quan kỳ vĩ kết hợp với cảnh sắc núi rừng xung quanh rất thích hợp cho những ai yêu thích sự phiêu lưu pha chút mạo hiểm. Thác Mơ là một địa danh thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hang, cách trung tâm thị xã Tuyên Quang tầm 100km. Nhiều người còn gọi nơi đây với cái tên khác là thác Pác Ban do vị trí nằm trên núi Pác Ban. Thác nước chảy thành nhiều tầng tung nước trắng toát vẽ nên một khung cảnh hết sức hùng vĩ giữa đại ngàn rừng cây. Được biết khởi nguồn của suối Mơ ở Tuyên Quang được bắt đầu từ một dãy núi có độ cao lớn, độ che phủ tốt, lưu vực lớn chảy đến hạ lưu thì đổ xuống thành thác. Nếu quan sát bằng giác quan bình thường thì nước ở đây rất trong, không màu, không vị cũng không có mùi. Bởi thế mà người dân bản địa đã dùng nước là thác Mơ Tuyên Quang để sinh hoạt và đánh giá là chất lượng của nước rất tốt, ổn định. Cho dù vào mùa mưa thì nước vẫn không đục. Về sau này, nghề nuôi cá lồng phát triển mạnh nên một số hộ gia đình cùng các công ty đã dùng nguồn nước sạch này để nuôi cá với chất lượng thơm ngon, năng suất tốt. Những người dân Tuyên Quang thường kể cho nhau nghe về một truyền thuyết thú vị về thác Mơ Tuyên Quang. Trước đây, ngọn thác này được đặt tên theo một thiếu phụ có nhan sắc kinh diễm nhất vùng và rất thủy chung, đó chính là cô Mơ. Chuyện kể lại rằng, ngay xưa ở dưới núi Pắc Ban chính là ngôi nhà sinh sống của vợ chồng nàng Mơ. Hàng ngày hai vợ chồng sống hạnh phúc với nhau bằng nghề hái thuốc. Nàng Mơ nổi tiếng với sắc vóc xinh đẹp, tính tình dịu dàng, làn da trắng bóc như hoa ban, đôi mắt trong veo như nước hồ, đôi môi hồng hào như hoa gạo. Có một hôm, người chồng đi hái thuốc trên núi mà mãi chẳng thấy trở về nhà, cô Mơ ở nhà thấp thỏm, nhớ thương chồng nên nàng quyết định đi lên đỉnh Pắc Ban để tìm chàng. Nàng cứ mải miết đi nhưng kỳ lạ là khi gần đến đỉnh thì bầu trời tối sầm lại khiến nàng phải dừng chân lại nghỉ ngơi. Khi tỉnh giấc thì đỉnh núi dường như cao hơn ngày hôm qua. Đi mãi cho đến một ngày đêm tối bao trùm khắp cả đỉnh núi mà nàng cứ tiếp tục đi. Bóng tối đã làm ngã xuống ở triền núi và thành một dòng thác. Từ xa đi tới du khách sẽ nghe được rõ tiếng nước đổ ào ào. Càng tiến lại gần thì không khí lạnh lan tỏa. Khi đến được thác bạn dường như đang được lạc vào một khung cảnh tiên giới. Thác nằm ẩn mình dưới chân núi, ngay dưới đó có một hồ nước trong xanh. Từ đây bạn sẽ ngồi xuống để tới thác. Ngồi trên con xuồng nhỏ, du khách có cơ hội được thả hồn mình thư giãn và ngắm cảnh sắc thiên nhiên mây, núi, cây, rừng "ôm ấp" nhau. Nếu nhìn từ dưới lên thì thác Mơ Tuyên Quang tung bọt trắng xóa giống hệt một chiếc bậc thang bắc cao lên trời. Thác được chia thành 3 tầng: Thác đầu tiên nước đổ rất mạnh, các con nước đua nhau quật dữ dội vào các khối đá nằm ngang tung bọt trắng xóa. Thác thứ hai chảy nhẹ nhàng, êm dịu hơn, từng dòng chảy rí rách luồn qua các kẽ đá. Ở trên những khối đá cao có nhiều lớp rêu xanh bao phủ. Ngay dưới chân thác sở hữu một hồ nước nhỏ trong xanh, người dân ở đây truyền tai nhau rằng đây chính là nước mắt nhớ thương chồng của nàng Mơ. Thác thứ 3 là nơi cao nhất của thác Mơ Tuyên Quang với các dòng nước khổng lồ chảy mạnh ngay dưới chân thác. Không khí ở đây lạnh hơn do hơi đá và hơi nước tạo nên sự kích thích, sảng khoái cho những vị khách ưa mạo hiểm.
Tuyên Quang 1910 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Trong nắng sớm, những vườn lê đơm hoa trắng tinh khôi ở xã Hồng Thái (Na Hang) đẹp tựa dải pha lê khổng lồ làm nao lòng du khách. Tiết xuân ấm áp cũng là dịp vườn lê bung nở hoa rộ nhất, đẹp nhất. Dù thời tiết mờ ảo bởi sương giăng dầy đặc hay trong xanh nắng vàng, được lẫn mình vào những vườn lê tuyệt đẹp ở Hồng Thái đều cho ta cảm giác tuyệt diệu chẳng muốn rời xa. Xưa, cây mận mọc hoang dã trong rừng, quả không to, màu sắc không bắt mắt nhưng ngon bởi vị chua dôn dốt, vỏ giòn và ngọt đậm. Gái Thượng Lâm duyên dáng, dịu dàng, chịu thương chịu khó. Vẻ đẹp thiên phú của người con gái Tày và đôi tay cán bông xe sợi, dệt vải, thêu thổ cẩm đã làm nên nét đẹp văn hóa ngàn đời nay của đồng bào nơi đây. Thật ngạc nhiên, hai vùng đất cách nhau cả trăm cây số, mà câu ca vẫn đưa con người và thiên nhiên đến gần nhau. Câu ca khiến đồng bào thêm tự hào, yêu quý thiên nhiên, con người miền núi xứ Tuyên. Mận và lê đã có từ xa xưa trên đất Hồng Thái, một miền đất nhiều mây trắng, lắm núi cao và lạnh hơn các vùng khác của Tuyên Quang đến vài độ. Cư dân sinh sống trên những triền núi cao, canh tác trên ruộng bậc thang chủ yếu là người Dao Tiền. Ngoài ra còn có đồng bào Mông, Tày. Sức lao động sáng tạo, cần mẫn từ đời này nối tiếp đời khác của họ đã tạc nên bức tranh quê hương miền sơn cước. Bấy lâu nay, quả mận và lê chỉ là thứ ăn chơi, đãi khách, biếu người thân, bạn bè. Rất ít khi là sản phẩm hàng hóa. Cây sống khiêm nhường trên nương đồi hay dốc núi. Xuân về, mỗi cây một dáng vẻ, dâng hiến cho đời mùa hoa trắng muốt, tinh khôi. Hình như chỉ khi cây diện áo mới, người ta mới giật mình nghĩ đến cây, đến vòng quay của tạo hóa. Hơn chục năm trở lại đây, khi du lịch phát triển, lê và mận đã trở thành điểm sáng của vùng đất này. Nhất là khi Ruộng bậc thang Hồng Thái được công nhận là Danh thắng Quốc gia, cây lê đã được bà con chú tâm phát triển, chăm sóc. Những rừng lê vài ha đất tới cả trăm cây được chăm chút, tỉa cành, đầu tư hệ thống tưới nước. Cả một con đường hoa lê, dài tới 6 km, ngót 1.000 cây từ bản Khau Tràng đi thôn Nà Mụ. Mới ngày nào lê được bà con bứng trồng dọc theo con đường bê tông uốn lượn, nay lê đã trổ hoa trắng cả góc trời. Những thân cây, cành lê mốc trắng, xù xì từng mảng địa y cộng sinh, đã nứt ra những chùm nụ bé xinh. Chúng xúm xít, chen chúc bên nhau, lóng lánh tựa chùm xà tích bạc của các thiếu nữ Dao. Muôn hạt mưa li ti, đậu hờ trên cánh mỏng. Mây và sương như dải khăn voan cũng tìm đến đây trú ngụ. Bầu trời trắng đục xà xuống thấp hơn. Chúng mang hơi nước cho cây. Dưới gốc cây, cỏ vừa kịp non xanh. Sắc trắng của hoa, màu xanh của cỏ, dường như chúng đang chạy đua với mùa Xuân. Không ít du khách bất chợt thốt lên câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du: “Cỏ non xanh rợn chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Cuối tháng 2, đầu tháng 3 là thời tiết đang rộ hoa. Từng cành hoa, chen nối nhau tựa cây cầu màu trắng vắt vẻo giữa không trung. Trên những thảm hoa, những chú ong mê mải kiếm mật, đã vô tình thụ phấn, kết trái cho cây. Khi người làm vườn quét vôi cho từng gốc cây, cây lê lúc này nhìn giống như cô gái Dao chân quấn xà cạp trắng, vừa bước lên từ cánh ruộng Khau Tràng. Đây đó, bên gốc cây lê là những mảng đá mốc meo, rêu mọc xung quanh. Đá đứng, nằm quây quần quanh gốc. Lạ thay, thứ cứng rắn, khô khốc lại hòa quyện cùng với hoa lê tinh khiết, trong ngần. Lang thang quanh bản, chúng ta sẽ gặp những mái ngói âm dương. Nhà người Dao rộng rãi, ấm áp như tấm lòng mình. Những ngôi nhà gần gụi, ở lưng núi, trên độ cao thấp khác nhau, tụ lại thành bản. Đồng bào dùng chung một nguồn nước. Mạch nước từ núi cao, quanh năm tuôn chảy, róc rách về bản, rồi chia đến mọi nhà. Nước tưới mát cho cây vườn, đồng ruộng. Hoa lê thắp sáng trên mái ngói thâm trầm, hay mái ngói làm ngời lên sắc hoa lê?. Trang phục của người Dao Tiền cũng vậy, giữa màu chàm tối, nổi lên điểm sáng của hàng khuy bạc. Thời gian trôi đi, trái lê âm thầm lớn lên, cho đến khi được thu hoạch, lại khiêm tốn trong màu nâu giản dị. Bạn có thể ngược dốc núi để khám phá những cây chè Shan tuyết cổ thụ. Tuổi cây có đến cả trăm năm. Muốn thu hoạch chè, người dân phải trèo lên cây, vin cành, hái búp. Lớp vỏ ngoài thân cây mốc trắng. Có cây một vòng tay ôm không xuể. Thời tiết lạnh giá, cây chè phải mặc thêm lớp áo ấm, đó là lớp địa y loang lổ. Chè vượt qua sương lạnh, gió rét, để quanh năm cho búp.
Tuyên Quang 1719 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 3
hác Lăn nằm cách trục quốc lộ số 2 km rất thuận tiện cho du khách đến vãn cảnh, thư giãn sau cuộc hành trình khám phá bí ẩn của động Tiên. Từ km 57 tuyến đường Tuyên Quang - Hà Giang rẽ trái về thác lăn, du khách có dịp đi qua những dãy nhà sàn sinh sắn lúc ẩn lúc hiện nằm xên kẽ vời những cánh rừng nguyên sinh, nơi đuôi của thác nước đi qua là những vườn cam vàng óng ả. Càng đi sâu vào chân thác sự hùng vĩ của thiên nhiên làm cho người ta có cảm nhận như lác vào một thế giới cổ tích. Thiên nhiên khéo ban tặng cho con người những gì tinh túy của trời đất - thác nước như một giải lụa trắng vắt qua 9 bậc đá tượng trưng cho 9 cung bậc của tình yêu thế nên người dân ở đây gọi Thác lăn là thác 9 tầng hay thác tình Yêu. Đến thác Tình yêu mọi mệt nhọc tan biến hết thay vào đó là một cảm giác thư thái dễ chịu. Dưới làn nước trong xanh là những chú cá khuy mình tròn thân dài như một cô thiêu nữ thẹn thùng nằm ẩn mình trong các kẽ đá rêu phong, trên cao là những nhánh lan rừng nằm rủ mình xuống mặt nước. Cá Khuy là giống cá cực kỳ quý hiếm mà người dân ở đây gọi là giống cá thần. Khi ánh bình minh buổi sáng lấp ló trên đỉnh thác các loại cá khuy, Cá Bảm, tôm càng, cua đá bơi lội tung tăng đùa rỡn với con người và cảnh vật thiên nhiên hoang sơ bí ẩn. Có thể nói rằng đến thác Lăn để chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoang sơ của thiên nhiên ban tặng. Đến lập nghiệp ở chân thác tình Yêu trên 20 năm cho đến hôm nay ông Nguyễn văn Tiếp - Một nông dân ở thôn 3 Thống Nhất mới thấm thía hết những giá trị mà thác Lăn đem lại cho con người thác lăn vừa là cảnh đẹp tự nhiên , vừa là nguồn cung cấp nước tưới cho đồng ruộng và trong tương lai nếu biết khai thác sử dụng hợp lý thác Lăn còn là nguồn cung cấp thủy điện quý giá phục vụ cho cuộc sống của con người. Thác Lăn là một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn được huyện Hàm Yên đưa vào chương trình phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010, vấn đề quan trọng ở đây là đảng bộ chính quyền và nhân dân địa phương xã yên Phú phú phải làm tốt hơn nữa trong công tác bảo quản giữ gìn như tích cực bảo vệ rừng đầu nguồn giữ trong lành môi trường sinh thái để thác Lăn giữ nguyen vẻ hoang sơ mà thiên nhiên đã ban tặng.
Tuyên Quang 1681 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thác Nặm Me thuộc xã Khuôn Hà, huyện Lâm Bình. Nặm Me (tiếng Tày) có nghĩa là Thác Mẹ, Suối Mẹ. Con thác bắt nguồn từ những cánh rừng đại ngàn của Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình đổ xuống khu vực núi Hát Nghiền xã Khuôn Hà tạo thành thác Nặm Me. Ngọn thác từ trên đỉnh núi, chảy xuống đến hạ nguồn rồi nhập vào lòng sông. Là một con thác lớn tiêu biểu trong vùng, có chiều dài khoảng 4.000m, cao trên 200m so với mặt nước biển với 15 tầng thác lớn, xen giữa các tầng thác lớn là những tầng thác nhỏ với lưu lượng nước khá đều quanh năm. Thác có bề mặt rộng và thoáng, nước chảy bốn mùa len lỏi qua những cánh rừng nguyên sinh và dãy núi đá vôi trùng điệp, cây rừng cổ thụ mang đặc trưng các loại gỗ quý hiếm vùng nhiệt đới, liền kề với mặt hồ tạo nên phong cảnh đẹp và hấp dẫn. Thác có nhiều tầng, nước chảy mạnh, tung bọt vào vách núi trắng xóa. Những giọt nước nhỏ theo gió bay ly ty tạo một không gian mát lạnh. Du khách leo lên đến đỉnh là tầng thác chính, thác dội từ trên cao xuống nhìn như “mái tóc nàng tiên giữa đại ngàn”. Thác Nặm Me Tuyên Quang là một thác nước lớn của tỉnh, có tổng chiều dài lên đến 4000 mét. Dòng nước chảy len lỏi giữa đại ngàn xanh ngát, băng mình qua những vách đá trước khi buông mình đổ xuống. Từ đỉnh thác đến chân thác cao khoảng 200 mét, chia đến 15 tầng lớn nhỏ nằm đan xen nhau. Sau hành trình vất vả để đến được thác Nặm Me, chắc hẳn du khách sẽ mê mẩn cảnh đẹp tuyệt sắc mà thiên nhiên ban tặng cho thác nước này. Những tầng thác lớn nhỏ xen lẫn nhau, đổ từ trên cao xuống như suối tóc dài của một người thiếu nữ tuổi trăng tròn. Ở đây, lượng nước gần như luôn dồi dào quanh năm nên mùa nào thác cũng đẹp. Nước ở thác Nặm Me chảy mạnh từ trên núi xuống, bọt nước tung trắng xóa và bay bay trong gió, phả ra thứ hơi nước mát lạnh rất dễ chịu. Nếu đi du lịch Tuyên Quang vào mùa hè và đến thăm con thác này, bạn sẽ càng cảm nhận trọn vẹn hơn vẻ đẹp của núi rừng và sự mát dịu mà ngọn thác mang lại. Thác Nặm Me Tuyên Quang dù nhìn từ xa hay nhìn gần đều xinh đẹp. Nếu nhìn tổng thể, thác nước tựa dải lụa trắng đối lập với gam màu xanh thẳm của rừng núi Lâm Bình. Tiếng thác nước rềnh vang như một giai điệu trong bản nhạc được mẹ thiên nhiên cất công dàn dựng. Tương tự như nhiều thác nước đẹp ở Tuyên Quang khác, dưới chân mỗi tầng thác hình thành nên một vực nước, một hồ nước nhỏ trong xanh. Du khách đến đây có thể chạm tay vào làn nước mát rượi mà rửa mặt, rửa tay, nạp lại năng lượng cho một hành trình dài vượt đường sá xa xôi đến thăm thác. Quanh thác Nặm Me còn có những vách đá dựng đứng phủ đầy cây cỏ, rêu phong, đan xen vào đó là những cây cổ thụ to lớn. Khung cảnh thác nước này lúc nào cũng hoang sơ, hùng tráng như thử thách du khách. Có lẽ nhờ vậy mà thác Nặm Me trở thành địa điểm du lịch xinh đẹp, mát lành. Đa phần du khách đến đây là để chiêm ngưỡng một dòng thác đẹp tráng lệ giữa rừng, chụp cho mình những bức ảnh kỷ niệm đẹp. Dành thời gian để dạo chơi, ngắm cảnh ở đây sẽ giúp bạn giải tỏa bớt căng thẳng và áp lực trong cuộc sống của mình. Ngoài ra, bạn có thể mang theo đồ ăn để tổ chức picnic ngay dưới chân thác. Thác Nặm Me Tuyên Quang là một địa điểm đẹp, mát lành và hoang sơ mà du khách nên ghé thăm nếu có dịp về huyện Lâm Bình. Thác nước giữa trời này không chỉ mang lại cảm giác của sự mát lành, an nhiên mà còn mang lại cho du khách nhiều hoạt động du lịch trải nghiệm hết sức thú vị.
Tuyên Quang 1134 lượt xem
Từ tháng 10 đến tháng 04 năm sau .
Được mệnh danh là Phong Nha Kẻ Bàng của vùng núi rừng Tây Bắc, động Tiên Tuyên Quang được xem là địa điểm du lịch nổi tiếng được rất nhiều người biết tới. Động Tiên là một trong những danh lam thắng cảnh nổi bật của tỉnh Tuyên Quang. Quần thể hang động này nằm ở thôn Thống Nhất, xã Yên Phú, huyện Hàm Yên. Nơi đây cách trung tâm thành phố chỉ khoảng 55km nên di chuyển và đi lại cũng không gặp quá nhiều khó khăn. Bạn chỉ cần đi dọc theo đường quốc lộ 2 về hướng phía Bắc là có thể tới được quần thể động Tiên. Quần thể này gồm bảy hang động khác nhau đó là Động Tiên, động Đàn Đá, động Thiên Đình, động Thiên Cung, động Thạch Sanh, động Tam Cung, động Âm Phủ. Tất cả các động này xếp thành hình vòng cung tạo thành một quần thể danh lam thắng cảnh rất đặc sắc và đẹp mắt. Trong số đó, động Tiên Tuyên Quang là hang động đẹp nhất. Hang động này thuộc ba vùng núi Châu Qùy, Bạch Mã và núi Tọa của xã Yên Phú. Nơi đây gắn liền với rất nhiều câu chuyện xưa kia. Do đó, khi tới đây tham quan, du lịch thì ngoài việc được ngắm cảnh, bạn sẽ được nghe rất nhiều câu chuyện ly kỳ xung quanh thắng cảnh động Tiên đẹp mê hồn này. Chuyện xưa kia kể lại rằng, mặt trăng nằm ở vị trí rất gần với trái đất, trăng sáng tròn vằng vặc chiếu sáng khắp mọi nơi. Bỗng có một ngày mảnh trăng vỡ ra và rơi vào bầu trời. Lúc đó có một chàng trai anh tú, sức lực phi thường đã gánh đá để vá lại mặt trăng. Khi gánh đá, chàng trai đã bỏ quên một hòn đá ở lại đó chính là núi Tọa. Lần tiếp theo gánh đá, chàng vì đòn gánh bị đứt gãy nên đã văng thêm một hòn đá ra ngoài và tạo thành núi Chân Qùy. Khi đang gánh đá vá trăng, chàng thấy một tiên nữ chạy ngựa đi qua nên đã nhờ cùng giúp sức vá trăng. Cả hai cùng cố gắng nhưng vì sọt đá quá năng, ngựa bị chìm xuống suối. Cả người và ngựa đều hóa đá ngay sau đó. Từ đó hòn Bạch Mã xuất hiện. Chính câu chuyện ly kỳ này đã khiến cho các hang động thuộc quần thể động Tiên càng trở nên bí ẩn và hấp dẫn hơn đối với du khách. Khi tới động Tiên tham quan, du lịch, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp của nơi đây thật cuốn hút và kỳ ảo. Chính sự hoang sơ và kỳ vĩ mà thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất Hàm Yên này đã giúp cho nơi đây ngày càng trở nên có sức hút đối với du khách trong và ngoài nước. Trong số đó, động Tiên ở Tuyên Quang là địa điểm tham quan có sức hấp dẫn nhất hiện nay. Tại đây, bạn sẽ bắt gặp những bậc đá được xếp chồng lên cao tạo nên một con đường mà chỉ cần đi tiếp rẽ phải bạn sẽ thấy cổng đá với đủ mọi hình thù khác nhau. Đây là cổng đá đã được kết tinh từ hàng ngàn năm trước. Do đó, nói khu vực cổng đá thuộc động Tiên Tuyên Quang là hiện sắc của thiên nhiên của tạo hóa quả thực không sai. Vào mùa lễ hội, khi du khách ghé thăm, ai ai cũng phải trầm trồ khen ngợi bởi vẻ đẹp của kiệt tác có 1 không 2 này. Thêm nữa, khi tới động Tiên khám phá, bạn sẽ được chiêm ngưỡng và khám phá cả một vùng trời rộng đất của xã Yên Phú. Cảm giác được hít thở bầu không khí trong lành và đón nhận làn gió mát nhè nhẹ đu đưa thật tuyệt. Nó giúp cho tâm hồn bạn thêm thư thái và thanh thản, nhẹ nhàng hơn. Chính vì vậy, động Tiên chính là một trong những địa điểm du lịch Tuyên Quang huyền ảo mà bạn nên ghé thăm khi có dịp. Du khách khi bước vào khu vực cửa động sẽ được tận mắt ngắm nhìn cả một thế giới lung linh và huyền ảo mà thiên nhiên đã ban tặng cho động Tiên. Thật khó có nơi nào lại sở hữu vẻ đẹp kỳ ảo và lung linh như ở đây. Theo thời gian, dưới sự bào mòn của gió của nước, các khối nhũ đá này đã hóa thân thành rất nhiều các hình hài khác nhau. Do đó, bạn sẽ được chiêm ngưỡng rất nhiều hình ảnh vạn vật trần gian khi ghé thăm danh thắng độc đáo này. Nào là hình ảnh Tiên Ông ngồi đăm chiêu tư lự hay hình con ba ba, cá sấu, khủng long và rất nhiều con vật muông thú khác nhau đều được tề tựu đầy đủ tại đây. Đặc biệt, trên vòm đá cao và rộng còn có hình ảnh một con Linh Điều với đôi cánh xòe dang rộng đang cắp một thiếu nữ bay vào khu vực cửa hang. Hình ảnh này khiến chúng ta gợi nhớ tới câu chuyện Thạch Sanh xưa kia. Tiếp theo khi đi sâu vào bên trong động Tiên Tuyên Quang, bạn sẽ được nhìn thấy một khối thạch trụ chống trời có màu sắc rất lung linh và huyền ảo. Phía sau khu thạch trụ này là các khối đá cẩm thạch có hình dáng một người phụ nữ đang đứng theo hình bán nguyệt. Đây chính là hình tượng người mẹ đang mang thai. Con đường đi sâu uốn lượn theo vách núi sẽ dẫn bạn tới khu cửa hang thật rộng lớn. Tại đây, bạn sẽ được hít hà bầu không khí trong mát và được ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên bao la, rộng lớn với núi biếc, điểm trên đó là những bông hoa chuối đỏ ửng hay những cánh đồng trải dài một màu xanh biếc. Hòa cùng với đó là hình ảnh làng quê mộc mạc, bình yên. Tất cả chúng đều đã góp phần tạo nên một bức tranh thiên nhiên động Tiên trù phú và cuốn hút đến lạ thường. Hàng năm cứ vào ngày mùng 8, mùng 9 tháng giêng Âm lịch, lễ hội lại được tổ chức tại Động Tiên Tuyên Quang nhằm mục đích quảng bá hình ảnh con người, vùng đất và bản sắc văn hóa truyền thống của người dân nơi đây. Đây được xem là lễ hội Tuyên Quang lớn nhất trong năm mà rất nhiều người chờ đợi. Với vẻ đẹp độc đáo, đạo Tiên Tuyên Quang được mệnh danh là một Phong Nha giữa đại ngàn Đông Bắc.
Tuyên Quang 1024 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 03
Những thửa ruộng bậc thang tại xã Hồng Thái, Tuyên Quang góp phần vào bức tranh sinh động và rực rỡ của mùa lúa chín vùng cao. Mùa lúa chín ở Hồng Thái, Tuyên Quang rực rỡ theo một cách yên ả, thanh bình nhưng không kém phần cuốn hút. Nằm ở độ cao trên 1.200 mét so với mực nước biển, xã Hồng Thái, cách trung tâm huyện Na Hang tầm 50km là một trong những nơi cao nhất của tỉnh Tuyên Quang. Đến đây vào những ngày tháng 9, tháng 10 trong năm, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một bức tranh tuyệt đẹp từ công trình lao động của người dân địa phương - những thửa ruộng bậc thang đẹp mắt. Trải dài trên tổng diện tích là 82ha, các thửa ruộng tầng tầng lớp lớp này tập trung nhiều nhất tại các thôn Khau Tràng, Pắc Khoang, Nà Mụ và phân bố suốt dọc con đường liên xã, quanh khu vực trung tâm xã Hồng Thái. Có những lớp ruộng cheo leo trên lưng chừng núi, sát đường đi, có những nơi lại nối liền từ đỉnh núi xuống khe suối. Cứ đến độ thu sang, cả khu vực dần chuyển mình từ sắc xanh thắm mướt mát sang lớp áo sóng sánh vàng, uốn lượn uyển chuyển như ôm lấy một góc trời. Tùy vào địa hình mà độ dài ngắn của những thửa ruộng cũng khác nhau, có đoạn chỉ dài độ 3 - 4 mét , nhưng cũng có những vạt dài vắt qua nhiều khúc cua, trải khắp từ sườn đồi này sang sườn đồi khác đầy ngoạn mục. Bức tranh vùng cao ấy như hút hồn người lữ khách, mời gọi và chào đón mọi tâm hồn yêu cái đẹp và tận hưởng sự chuyển mình của thiên nhiên. Đến với Hồng Thái những ngày này, đắm chìm trong không khí mát mẻ, trong lành, phóng tầm mắt ra xa thu trọn những dãy núi kỳ vĩ thấp thoáng dưới bóng mây mù, xa xa là những bản làng nho nhỏ điểm tô cho bức tranh mùa vàng rực rỡ, du khách như được tưới mát tâm hồn, bao phiền muộn cũng tan biến trước sự thơ mộng thanh bình của một vùng quê nguyên sơ. Bên cạnh việc tận hưởng cái đẹp của thiên nhiên, du khách còn có cơ hội giao lưu và tìm hiểu thêm văn hóa và con người ở xã Hồng Thái. Bằng việc khám phá cách những đôi bàn tay khéo léo đã khắc tạc nên giữa đất trời những công trình tự nhiên độc đáo, bạn sẽ càng cảm nhận được rõ hơn cái đẹp của những thửa ruộng bậc thang đầy mê hoặc. Đó là cái đẹp của sự lao động cần mẫn, sáng tạo từ cộng đồng người dân Dao, Mông, Tày sinh sống nơi đây. Ruộng bậc thang ở Hồng Thái với sự thanh bình nhưng đầy rực rỡ chắc chắn sẽ không làm du khách thất vọng.
Tuyên Quang 1140 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 10 .
Đến với vùng đất Tuyên Quang bạn sẽ được khám phá rất nhiều điều mới lạ. Trong đó, khu du lịch Na Hang là một trong những điểm đến bạn tuyệt đối không nên bỏ qua. Bởi khu du lịch này sẽ giúp bạn có được một chuyến đi du lịch thực sự với thật nhiều những trải nghiệm đáng nhớ. Khu du lịch này thuộc địa bàn của hai huyện Na Hang và Lâm Bình. Nơi đây cách trung tâm thành phố khoảng hơn 100km nên việc di chuyển tới địa điểm du lịch Tuyên Quang này cũng rất thuận tiện và không gặp quá nhiều khó khăn. Điểm đến này là nơi sẽ mang lại cho bạn rất nhiều điều mới lạ. Nơi đây có tổng diện tích là 15.000ha nên khi tới Na Hang du lịch, bạn sẽ có cả một khoảng không gian rộng lớn để khám phá và nghỉ ngơi, thư giãn. Trong đó, có tới 8000ha là phần diện tích mặt nước. Chính bởi vậy khi tới khu du lịch Na Hang , bạn sẽ cảm thấy rất thư giãn tinh thần. Bởi cảnh sắc nơi đây luôn tràn ngập màu xanh bắt mắt và luôn mang lại cho bạn bầu không khí trong lành, mát mẻ để nghỉ ngơi. Hiện nay, con đường dẫn tới khu du lịch này đã được mở rộng nên khách du lịch khi di chuyển tới đây sẽ không phải mất quá nhiều thời gian. Trung bình sẽ mất khoảng 2h là bạn có thể tới vùng đất này tham quan. Nơi đây có vẻ đẹp hoang sơ kỳ bí nên chắc chắn sẽ là điểm đến lý tưởng nhất dành cho chuyến đi du lịch Na Hang - Tuyên Quang của bạn. Bất cứ ai khi tới Na Hang du lịch đều có chung một cảm nhận đó là nên đi tới đây du lịch vào mùa hè. Bởi mùa hè là lúc nơi đây có cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và cũng là lúc mùa nước về. Do đó, khi tới đây, du khách sẽ được thỏa thích tắm mát, nô đùa dưới những con suối thơ mộng, bình yên. Cảm giác được hòa mình vào đất trời vào thiên nhiên bao la sẽ khiến bạn cảm thấy rất thú vị. Dường như tâm hồn cũng trở nên rộng mở, thư thái và khoan khoái hơn. Ngoài ra, nếu đi vào mùa xuân khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 4, Na Hang cũng rất đẹp. Bởi lúc này cảnh sắc thiên nhiên nơi đây luôn tràn ngập sắc xuân, muôn hoa khoe sắc thắm. Đặc biệt, vào dịp này, Tuyên Quang còn diễn ra rất nhiều các lễ hội đặc sắc để bạn được tham gia và trải nghiệm. Vào thời điểm mùa thu, khu du lịch Na Hang có thời tiết rất mát mẻ nên khi đi du lịch cũng sẽ rất dễ chịu. Thời điểm này rất thuận tiện để du khách có thể đi được nhiều nơi hơn mà không cảm thấy mệt mỏi vì thời tiết không quá nóng bức cũng không quá lạnh buốt. Nếu bạn đi vào thời điểm mùa đông, bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời đang chìm trong lớp sương trắng xóa phủ kín mọi nơi. Các hoạt động thú vị khi du lịch Na Hang Tuyên Quang : dạo chơi tại các bản làng. Na Hang hiện vẫn là địa bàn sinh sống của một số đồng bào dân tộc ít người. Do đó, bạn có thể ghé qua các bản làng để giao lưu văn hóa hoặc tham gia các công việc thường ngày của người dân bản địa khi có cơ hội du lịch Na Hang Tuyên Quang. Đặc biệt là các hoạt động: bắt cá suối, dệt thổ cẩm truyền thống, đan lát, ủ men rượu… sẽ để lại trong bạn nhiều kỷ niệm thú vị về mảnh đất bình dị này. Ở Na Hang có rất nhiều con thác nổi tiếng như: Thác Pác Ban, Thác Khuổi Nhi quanh năm tung bọt trắng xóa. Đặc biệt nước dưới suối vô cùng trong lành, mát lạnh sẽ giúp xua tan cái nóng bức và là liệu pháp giải tỏa tinh thần hiệu quả. Vậy nên đừng bỏ lỡ cơ hội hòa mình vào làn nước trong xanh, tận hưởng sự mát mẻ của thiên nhiên khi có dịp du lịch Na Hang Tuyên Quang bạn nhé! Với khung cảnh hùng vĩ, thoáng đạt, khu du lịch này được nhiều gia đình, nhóm bạn lựa chọn tổ chức cắm trại vào dịp cuối tuần. Bạn có thể mang theo lều bạt, ghế xếp ngồi chill chill ngắm mây trời sông nước hoặc chuẩn bị 1 vài món ăn để tự tay chế biến cùng những người thân yêu! Chắc chắn khoảnh khắc cùng nhau cười nói, vui chơi giữa không gian xanh mát bạt ngàn núi rừng sẽ để lại cho du khách những trải nghiệm khó quên! Nếu đã từng có cơ hội du lịch Na Hang Tuyên Quang, du khách chắc chắn sẽ không khỏi cảm thấy ngỡ ngàng trước sự mênh mông rộng lớn của hồ nước xanh biếc. Đặc biệt là thời điểm mặt trời lên chiếu muôn vàn tia nắng long lanh ảo diệu soi bóng xuống mặt hồ. Vì thế, đừng bỏ qua cơ hội lưu giữ những hình ảnh mây trời non nước thật đẹp này để làm phong phú thêm bộ ảnh của bạn . Bên cạnh đó du khách còn được khám phá vẻ đẹp của khu rừng nguyên sinh : Vẻ đẹp còn chứa đựng nhiều nét nguyên sơ của Na Hang đã thu hút tính tò mò, ưa khám phá của không ít bạn trẻ. Len lỏi giữa những cây cổ thụ tỏa bóng mát, lắng tai nghe tiếng chim hót, động vật kêu sẽ khiến mọi buồn phiền của cuộc sống tan biến. Đặc biệt nếu đi tham quan rừng theo nhóm sẽ vui và hấp dẫn hơn nhiều… Tuy nhiên đặc trưng của rừng là khá ẩm ướt nên bạn cần lưu ý đi giày thể thao và ăn mặc gọn gàng để dễ dàng di chuyển nhé! Nhiều du khách ưa khám phá đã lựa chọn hoạt động chèo thuyền Kayak khi du lịch Na Hang Tuyên Quang. Chiếc thuyền nhẹ nhàng lướt đi trên mặt nước khiến người chơi có cảm giác tận hưởng từng nhịp chèo. Vì thế chỉ cần một chút gợn sóng hay cơn gió thoảng qua đưa đẩy thuyền cũng đủ làm cho khách du lịch thích thú.
Tuyên Quang 1054 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12