Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Di tích Nhà ông Trần Đình Khánh - Trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến đầu tiên của tỉnh Yên Bái tọa lạc tại làng Vần, xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên. Đây là một trong 4 điểm di tích nằm trong Cụm di tích lịch sử Quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia ngày 4/9/1995. Trong đời sống hàng ngày, ngôi nhà của ông cũng bình dị như những ngôi nhà khác trong bản Tày, nhưng trong những năm tháng kháng chiến lại “sục sôi”, “hăng hái” như chính những con người vùng đất cách mạng này. Năm 1995, nơi đây cùng với các điểm Hang Dơi, đình Chung, gò cọ Đồng Yếng đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống chống thực dân Pháp xâm lược của cha ông. Ông Trần Đình Khánh là một Chánh tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên làm việc dưới chính quyền cai trị của Pháp. Ông là người có tư tưởng tiến bộ, yêu nước thương dân, bất mãn với chế độ bóc lột của thực dân Pháp. Được các cán bộ Việt Minh giác ngộ cách mạng, với tầm ảnh hưởng của mình, ông đã vận động nhân dân trong vùng tham gia Đội du kích Âu Cơ, quyên góp ủng hộ lương thực, thực phẩm, tiền vàng, vũ khí cho kháng chiến. Bản thân gia đình ông ủng hộ cách mạng hàng chục tấn thóc gạo, cùng nhiều trâu bò, tiền bạc và dùng ngôi nhà của mình làm căn cứ hoạt động của Việt Minh, trở thành địa điểm tiếp nhận sự quyên góp, ủng hộ của nhân dân cho kháng chiến, là nơi tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của Đội du kích Âu Cơ và căn cứ địa cách mạng. Ngôi nhà sàn có kiến trúc cột gỗ, 5 gian, 2 chái, 4 hàng chân, thiết kế theo kiểu chồng bồn, kẻ truyền, có hành lang phía trước. Nhà chính nối liền với nhà bếp, mái lợp cọ. Phía sau tựa lưng vào núi, phía trước hướng ra cánh đồng cây Gạo. Tại đây, đã diễn ra nhiều sự kiện, nhiều cuộc họp đưa ra những quyết định quan trọng của chiến khu Vần - Hiền Lương, đồng thời là nơi tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh giành chính quyền trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong thời kỳ kháng chiến, Việt Hồng - cái nôi của cách mạng Yên Bái, nhân dân có tinh thần yêu nước và truyền thống đấu tranh quả cảm không chịu khuất phục trước sự đàn áp của chế độ thực dân nửa phong kiến. Từ khi có ánh sáng cách mạng soi sáng, phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, chiến khu Vần – Hiền Lương được thành lập có nhiệm vụ đón các chiến sỹ cách mạng vượt ngục từ nhà tù Sơn La và từ Căng đồn Nghĩa Lộ về; tổ chức huấn luyện lực lượng vũ trang các địa phương chiến đấu; tuyên truyền giáo dục đường lối cách mạng của Đảng, chính sách của mặt trận Việt Minh. Một sự kiện quan trọng trong giai đoạn này diễn ra là ngày 14/6/1945 đội du kích Âu Cơ được thành lập tại Hiền Lương đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang cách mạng. Đến sáng hôm sau, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Minh Loan đội du kích đã hành quân vào Đồng Yếng (Vân Hội) và làng Vần. Trước khi vào làng Vần, các cán bộ Việt Minh cử vào giác ngộ cách mạng cho nhân dân trong vùng, nhờ chính sách tuyên truyền sâu rộng nên được nhân dân giúp đỡ, đồng thời cử con em tham gia đội du kích nên chỉ trong thời gian ngắn lực lượng đã tăng lên hàng trăm người. Năm 1946, ông Trần Đình Khánh vinh dự được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa 1 của Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Di tích Nhà ông Trần Đình Khánh là một trong 4 điểm di tích nằm trong cụm Di tích lịch sử Quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia ngày 4/9/1995. Nguồn: Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái
Yên Bái 1249 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6794 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6160 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4153 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4115 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4047 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3809 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3735 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3629 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3544 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3356 lượt xem
Trong những năm gần đây, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng 10 hàng năm, du khách khắp mọi miền tổ quốc đều đổ về Mù Cang Chải để chiêm ngưỡng khung cảnh đẹp tuyệt vời của mảnh đất vùng cao này. Đến với nơi đây, du khách không chỉ được thưởng ngoạn vẻ đẹp của những thửa ruộng bậc thang, những biển mây trắng trên đỉnh đèo Cao Phạ mà còn được đắm mình vào những lễ hội văn hóa độc đáo của đồng bào Mông. Mù Cang Chải là huyện vùng cao phía Tây của tỉnh Yên Bái, cách trung tâm thành phố Yên Bái 180km, cách thủ đô Hà Nội hơn 300km về phía Tây Bắc. Vùng đất này nằm dưới chân của dãy núi Hoàng Liên Sơn, ở độ cao trên 2.000m so với mặt biển. Đến Mù Cang Chải, du khách có thể đi đường Quốc lộ 32 bằng hai hướng. Nếu từ Hà Nội, sẽ lên Yên Bái, từ Yên Bái đến Mường Lò 70km, ngủ tại đây để sáng sớm mai đi xe từ Mường Lò, xế trưa sẽ đến Mù Cang Chải. Đoạn này dài gần 100km, nhưng hơn 80km là đường đèo dốc tiến lên liên tục, chừng nào leo đến độ cao 1.750m, sương mây mù mịt là sắp đến thị trấn Mù Cang Chải. Chặng giữa đèo có một miền đất phẳng, hãy nghỉ chân ở đây để thưởng thức thứ cơm lam nếp Tú Lệ dẻo thơm nức tiếng khắp vùng. Hướng thứ hai, du khách đi hết đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, lên Sa Pa và qua đèo Ô Quy Hồ, sau đó qua Tân Uyên và Than Uyên của Lai Châu để tới Mù Cang Chải. Đến với Mù Cang Chải dù chỉ một lần, du khách cũng cảm nhận được sự trù phú của thiên nhiên, sự đặc sắc của văn hóa, sự ấm áp tình người. Đường lên Mù Cang Chải tuy xa và khó khăn song lại rất thú vị. Quang cảnh thay đổi liên tục trên đường, du khách chưa kịp ngắm hết những ngôi nhà sàn Thái trên cánh đồng Mường Lò rộng lớn với bạt ngàn hoa ban trắng đã được đến với những con đường quanh co, uốn khúc trên các sườn đồi dốc đứng. Các vận động địa chất đã tạo cho Mù Cang Chải những đỉnh núi cao như: Púng Luông (2.985m), Phu Ba (2.512m), Mồ Dề (2.100m)… Qua đèo Khau Phạ (cao 2.100m), đây là đỉnh núi cao nhất trong "tứ đại đỉnh đèo" Tây Bắc được bao phủ trong biển mây bồng bềnh, khí hậu mát mẻ quanh năm. Đỉnh đèo Cao Phạ còn là địa điểm đẹp đứng thứ 4 trên thế giới để cho các phi công bay dù lượn, cho những ai ưa thích cảm giác mạnh, trò chơi mạo hiểm để chinh phục bầu trời và cùng được thỏa sức chiêm ngưỡng, khám phá vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của đất trời từ trên không trung qua trò chơi dù lượn. Từ đây, cứ từ đèo này qua đèo khác, núi này qua núi khác, du khách sẽ cảm nhận rõ nét sự thay đổi của độ cao, hai bên đường là những triền ruộng bậc thang đẹp mê hồn khiến mỗi chúng ta đều thấy choáng ngợp. Thị trấn Mù Cang Chải nhỏ xinh nằm gọn giữa hai sườn núi với những bản làng thanh bình dưới thung lũng xanh hay trên đèo Khau Phạ. Chiếm 90% dân số toàn huyện, người Mông ở Mù Cang Chải có 4 nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng); Mông Đu (Mông Đen); Mông Lình (Mông Hoa); Mông Si (Mông Đỏ), họ cư trú ở những sườn núi cao từ 800 đến 1.700m với những nét văn hóa đậm đà truyền thống, đặc sắc luôn thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Đến nơi đây, du khách có thể vào thăm các bản làng dân tộc Mông, khám phá nét văn hóa cũng như những phong tục tập quán nơi vùng cao Tây Bắc với nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian đặc sắc và sản vật nổi tiếng. Xem múa khèn, cùng trai gái Mông đi hội Sải Sán, trải nghiệm một số nghề thủ công truyền thống như: nghề rèn đúc, dệt vải bằng sợi lanh, làm đồ trang sức và thưởng thức các món ăn truyền thống của đồng bào Mông. Đặc biệt du khách cũng không thể bỏ qua và nghé thăm bản Thái, chỉ cần đi qua cây cầu ở ngay trung tâm huyện (hướng về xã Chế Tạo nơi có khu bảo tồn loài sinh vật cảnh) rồi rẽ trái đi khoảng 1km sẽ tới bản Thái. Một bản nhỏ bình yên nằm giữa thung lũng, lưng tựa vào núi. Ở đây, du khách sẽ được thưởng thức các món ăn đặc sản của người Thái, tắm lá thuốc theo cách cổ truyền của người Thái, nghỉ ngơi tại nhà sàn và cùng tổ chức giao lưu, đốt lửa trại, múa xòe. Đến Mù Cang Chải, du khách được thưởng ngoạn vẻ đẹp của quần thể Danh thắng Quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải với tổng diện tích 330 ha phân bố chủ yếu trên 3 xã Chế Cu Nha, La Pán Tẩn và Dế Su Phình, nơi đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận Danh thắng Quốc gia từ năm 2007. Những thửa ruộng bậc thang nơi đây đẹp tựa vân tay của trời, một công trình kiến trúc nghệ thuật mang đầy tính sáng tạo từ đôi bàn tay khéo léo của đồng bào Mông. Không phải chỉ mới bây giờ mà đã từ lâu lắm, cái vùng đất khắc nghiệt Mù Cang Chải với ý nghĩa “làng cây khô” trong ngôn ngữ Mông đã trở thành biểu tượng sức cần cù, sáng tạo bền bỉ của con người. Từ một vùng đất khô cằn hoang hóa, những người Mông giỏi trèo đèo vượt núi đã khéo vận dụng biến từng luống đất, từng vạt đồi thành những thửa ruộng bậc thang tuyệt đẹp, không chỉ đem lại nguồn lương thực nuôi sống cộng đồng mà còn điểm thêm nét nhấn nhá vào thiên nhiên, biến núi đồi hoang vu thành những kiệt tác độc đáo in đậm giá trị văn hóa truyền thống cùng kỳ công sáng tạo của người Mông. Những thửa ruộng cứ từng cấp, từng cấp ôm theo triền núi đồi. Khắp 13 xã, thị trấn của Mù Cang Chải chỗ nào cũng có ruộng bậc thang. Ruộng bậc thang đẹp nhất vào tháng 5-6 khi những thửa ruộng vào mùa nước đổ và tháng 9-10 khi lúa nếp chín vàng óng ả trải dài khắp các triền đồi. Du khách đến Mù Cang Chải vào hai thời điểm này để được tận mắt chứng kiến những mâm xôi xanh, vàng hiện lên giữa bạt ngàn đồi núi. Dừng chân tại 3 xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Dế Su Phình, ở đâu du khách cũng nhìn thấy những thửa ruộng bậc thang tầng tầng lớp lớp trải rộng khắp các quả đồi. Du khách sẽ không khỏi ngưỡng mộ, trầm trồ, tán thưởng bức tranh thổ cẩm huy hoàng giữa đất trời do những người "nghệ sĩ nông dân" xứ Tây Bắc thêu dệt nên. Cả một vùng núi non trùng điệp này chính là bức tranh vùng cao Tây Bắc tuyệt đẹp được vẽ nên bởi trời xanh, mây trắng, những thửa ruộng cao và một cuộc sống đơn giản, bình dị mà chân thực đến từng ánh mắt, nụ cười.
Yên Bái 1972 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 6
La Pán Tẩn là một xã vùng cao thuộc huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Với vị trí nằm trên đỉnh Khau Phạ, cao gần 2000 mét so với mực nước biển, xã La Pán Tẩn sở hữu bức tranh thiên nhiên cực kỳ đẹp với ruộng bậc thang, với núi đồi cao chót vót và nét văn hóa bản địa của đồng bào người H’mông. Từ thị trấn Mù Cang Chải về xã La Pán Tẩn khoảng 15km, du khách đi theo hướng Đông Bắc là dễ dàng đến nơi. Sau hành trình băng qua những cung đường đèo sát sườn núi, bạn sẽ đến với một miền đất xinh đẹp có đến 2200 ha diện tích ruộng bậc thang xếp thành tầng tầng lớp lớp. Xưa kia, xã La Pán Tẩn từng là một xã nghèo, là “thủ phủ” thuốc phiện khi có đến 80% dân số nghiện ngập. Tuy nhiên giai đoạn “đen tối” ấy đã dần qua khi xã được đầu tư đúng mức để phát triển du lịch. Đời sống cư dân địa phương đã khấm khá hơn. Năm 2007, La Pán Tẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích danh thắng cấp Quốc gia. Với vị trí đắc địa trên miền núi cao, khí hậu mát mẻ cùng nhiệt độ trung bình khoảng 19 độ C, nơi này trở thành điểm đến ở Mù Cang Chải được nhiều du khách yêu thích. Hành trình khám phá xã La Pán Tẩn mang lại cho bạn vô vàn trải nghiệm đáng nhớ cả về cảnh đẹp lẫn văn hóa, con người nơi đây. Nếu lần đầu tiên khám phá xã La Pán Tẩn, có lẽ bạn sẽ ngay lập tức choáng ngợp trước cảnh đẹp nơi đây. Trên hành trình về thăm xã vùng cao Tây Bắc này, du khách sẽ được thưởng ngoạn cảnh đẹp của ruộng bậc thang điệp trùng bủa vây tứ phía. Là một trong những xã có ruộng bậc thang nhiều nhất Mù Cang Chải nên nhìn đâu bạn cũng thấy ruộng lúa điệp trùng. Thật khâm phục những người nông dân nơi đây, bằng sức người và nông cụ thô sơ có thể biến núi đồi trở thành những thửa ruộng xinh đẹp, uốn cong bên dưới những triền núi. Ruộng bậc thang nằm thoai thoải theo các sườn đồi, kéo dài ra tận bờ suối, len lỏi vào cả những bản làng. Đâu đâu cũng là ruộng lúa. Khám phá xã La Pán Tẩn, du khách có thể check in rất nhiều địa điểm đẹp của nơi đây. Trong đó đồi Mâm Xôi chính là tọa độ hot nhất mỗi mùa lúa chín. Ngọn đồi này được nâng đỡ bởi những thửa ruộng bậc thang bên dưới, bên trên có dáng tròn tựa một chiếc mâm dâng lên trờ. Mỗi mùa lúa chín vàng, đồi Mâm Xôi thu hút rất nhiều du khách đến check in, chụp ảnh. Theo kinh nghiệm đi Mù Cang Chải của nhiều du khách, đồi Mâm Xôi đẹp nhất vào sáng sớm bình minh khi nắng vàng vừa len nhẹ lên những thửa ruộng, chung quanh còn những làn sương trắng lờ mờ bao phủ, vẽ nên một bức tranh đẹp như tiên cảnh. Gần đồi Mâm Xôi có một lán gỗ nhỏ của người dân, là nơi mà du khách có thể ngồi ngắm cảnh và thỏa thích chụp ảnh. Vi vu La Pán Tẩn đúng mùa lúa chín vào tháng 9 – 10, du khách vừa được ngắm cảnh ruộng bậc thang tuyệt đẹp, vừa có cơ hội xem người dân thu hoạch lúa bằng phương pháp thủ công. Hình ảnh phụ nữ H’mông với chiếc lưỡi liềm nhỏ thoăn thoắt gặt từng khóm lúa trên đồng thật đẹp và bình dị làm sao. Về La Pán Tẩn huyện Mù Cang Chải, ngoài ruộng bậc thang, du khách còn có thể khám phá thác nước tuyệt đẹp ở đây. Đó là thác Pú Nhu có độ cao hơn 20 mét, đổ ầm ầm xuống hồ Rồng và tạo nên một khung cảnh hết sức hùng vĩ, bí ẩn. Quanh thác Pú Nhu là những tảng đá lớn nhỏ phủ đầy rêu phong, ra rừng cây cổ thụ xanh mướt êm đềm thật bình yên, thi vị. Đến thác Pú Nhu, bạn có thể dành thời gian ngắm cảnh đẹp, chụp ảnh hay cắm trại quanh bờ hồ. Người dân bản địa cho rằng hồ Rồng là nơi linh thiêng nên không ai xuống tắm. Tuy nhiên về sau khi các hoạt động du lịch ở địa phương được đẩy mạnh, du khách có thể trải nghiệm tắm thác để cảm nhận dòng nước mát lành nơi đây.
Yên Bái 1713 lượt xem
Tháng 9 đến tháng 10
Suối Giàng Yên Bái nằm ở độ cao khoảng 1.300 - 1.400 m so với mực nước biển, quanh năm được bao phủ bởi tầng tầng lớp lớp mây trời, cộng thêm không khí luôn cực kỳ trong lành và mát mẻ khiến nơi đây trở thành địa điểm rất được du khách yêu thích, chọn làm nơi dừng chân. Bên cạnh đó, nơi đây còn có một điểm đặc sắc mà MIA.vn tin rằng khi nghe thôi là bạn đã muốn gói ghém đồ đạc lên Suối Giàng ngay lập tức, chính là bạn có thể cảm nhận được đủ bốn mùa trong năm chỉ trong… một ngày ở Suối Giàng. Nhắc đến Yên Bái là không thể không nhắc Suối Giàng, và nhắc đến Suối Giàng là không thể không nhắc đến chè Shan. Dừng ở đây một chút để MIA.vn kể chuyện cổ tích cho bạn nghe về loại chè đã gắn liền với Suối Giàng này. Sự tích kể lại rằng, ngày xưa có một nàng tiên đã gieo hạt xuống Suối Giàng và hạt giống thần này đã nảy mầm thành một cây xanh tươi tốt. Khi cây lớn lên, xòe lá tán rộng với những búp cây trắng muốt như tuyết. Lúc này, nhóm người Mông sinh sống tại đây đang chịu cảnh đói rét, họ đã sử dụng loại lá cây này để ăn, sau khi ăn xong thấy cơ thể khỏe mạnh hơn. Chính điều thần kỳ đó mà họ tin rằng trời đã giúp họ, vì thế họ quyết định lập bản làng tại đây sinh sống và gọi nơi này là Suối Giàng. Phải nói rằng những cây chè cổ thụ tại Suối Giàng cũng rất thần kì, chúng sống ở độ cao 1.400 mét so với mặt biển, cây "trẻ" ít tuổi cũng trên trăm năm, cây nhiều tuổi tới hơn 300 năm. Ấy vậy mà búp non vẫn lên xanh trên những thân chè xù xì, trắng mốc, bám chắc rễ trên sườn núi cheo leo, làm nên cảnh sắc vườn chè cổ thụ độc đáo. Ngoài ra những búp chè mập mạp ấy còn được phủ bởi một lớp trắng mờ nên được gọi là chè tuyết. Chè được hái, được sao bằng kinh nghiệm và bàn tay khéo léo của người Mông. Chè Shan tuyết Suối Giàng rất độc đáo, tuy sinh sống ở vùng núi hoang sơ nhưng trong bát nước chè xanh lại hội tụ đủ vị ngon hàng đầu của các loại chè đẳng cấp trên thế giới. Khi đến nơi đây du lịch, có rất nhiều hoạt động dành cho bạn để tận hưởng không gian sống xanh- sạch- đẹp này, như nhắm mắt lại và phiêu diêu nghĩ về một bát nước chè thơm nồng, hoặc vô tư lự đánh một giấc ngủ say dưới tán cây chè to lớn, hay hòa mình cùng cuộc sống của người dân tại đây qua hoạt động hái chè, sao chè, cuối cùng thưởng thức nước chè là thành phẩm do chính tay mình cất công làm ra. Quả là một điểm đến lý tưởng để chúng ta “thải độc” những mệt mỏi, ưu phiền từ cuộc sống nơi phố thị phải không nào! Du lịch Suối Giàng ngoài thưởng thức chè Shan ra, nơi đây còn có rất nhiều món đặc sản của người dân tộc Mông đang chờ đón bạn thưởng thức như: mèn mén, Thịt trâu gác bếp Yên Bái, lợn cắp nách, rau rừng, rượu sắn, rượu ngô,... và những món ăn lạ vô cùng độc đáo, hòa quyện trong hương vị của chè cổ như thịt cuốn lá chè nướng, lá chè non ăn sống kèm các loại rau thơm. Ẩm thực giản dị mộc mạc nhưng lại có hương vị say lòng đến khó quên. Thử tưởng tượng yên vị ngồi bên chiếc bàn ăn bằng gỗ, giữa cái tiết trời se lạnh của ban đêm tĩnh mịch thưởng thức những xiên thịt nướng nóng hổi, kèm theo đó là vị thơm nồng của rau rừng, cay nóng của bát rượu và thỉnh thoảng “tráng” miệng bằng cái ngọt bùi của món mèn mén làm từ ngô xem, chắc chắn sẽ làm bạn rục rịch muốn làm ngay một chuyến đi đã đời quên lối về cùng hội bạn thân rồi.
Yên Bái 1713 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm ở phía Tây Bắc Tổ quốc, hồ Thác Bà của tỉnh Yên Bái, nơi được ví như "Hạ Long trên núi" là một trong 3 hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam hình thành khi xây dựng Nhà máy thủy điện Thác Bà. Hồ nằm trên địa phận hai huyện Yên Bình và Lục Yên. Hồ rộng gần 20 nghìn ha mặt nước gồm hơn 1.300 đảo xanh lớn nhỏ, cùng hệ thống hang động đẹp ẩn sâu trong lòng những dãy núi đá vôi. Đến với hồ Thác Bà, du khách có thể thỏa thích ngắm nhìn biển nước mênh mông, những đảo cây ngút ngàn soi bóng xuống mặt hồ xanh ngắt. Con người nơi đây cũng hết sức thân thiện và mến khách. Ai đã một lần ghé thăm hồ Thác Bà chắc hẳn sẽ không khỏi ngỡ ngàng và lưu luyến không quên một hồ Thác trong xanh, nên thơ và kỳ vĩ. Không chỉ cung cấp nguồn nước để phát điện lưới quốc gia, hồ Thác Bà còn là nơi điều hòa không khí trong lành và điểm dừng chân của các tour du lịch. Đến thăm hồ Thác Bà, khi di chuyển bằng tàu thủy, du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành giữa mặt nước mênh mông, lung linh soi bóng những hòn đảo điệp trùng tưởng như vô tận, để quên hết những mệt mỏi ưu phiền của cuộc sống. Điểm đầu tiên du khách có thể đến thăm là khu vực Nhà máy Thủy điện Thác Bà, nơi có đền Thác Bà, đây là công trình thủy điện đầu tiên của Việt Nam sừng sững hiên ngang trên biển hồ. Được tận mắt tham quan công trình lịch sử của đất nước, nghe kể câu chuyện về những con người ngày đêm tận tụy xây dựng lên Nhà máy, mỗi du khách sẽ không khỏi xúc động và thêm tự hào về truyền thống dân tộc vẻ vang, sự hy sinh của thế hệ cha anh. Kết thúc hành trình tham quan Nhà máy Thủy điện Thác Bà, du khách còn có thể kết hợp đến thăm đền Mẫu Thác Bà - một địa điểm du lịch tâm linh cách đó không xa. Đền tọa lạc trên núi Hoàng Thi, với thế tựa lưng vào núi, nhìn ra sông Chảy theo hướng Đông Đông Bắc, xa xa là núi Cao Biền. Từ lâu, đền Mẫu Thác Bà đã nổi tiếng là chốn linh thiêng, được công nhận là Di tích Văn hóa Lịch sử cấp tỉnh năm 2004. Du khách viếng thăm đền Mẫu thắp một nén nhang, trút bỏ những tính toan bộn bề cuộc sống, cầu cho cõi lòng thanh thản nơi cửa Phật từ bi để tiếp tục cuộc hành trình đưa du khách khám phá vẻ đẹp kỳ ảo của nhũ đá, của những tượng đá tự nhiên kỳ lạ ẩn chứa bao khát khao hoài bão của con người tại quần thể hang động đá vôi trên hồ như: động Thuỷ Tiên, động Xuân Long, hang Bạch Xà, Thác Bà, Thác Ông... Động Thủy Tiên, nằm trong lòng núi đá dài khoảng 100m với những nhũ đá lấp lánh, trong đó có hình chín nàng tiên mỗi người một vẻ gắn với truyền thuyết tình yêu ly kỳ, hấp dẫn. Thăm động Xuân Long nằm ẩn trong núi đá, với những tượng đá tự nhiên và các nhũ đã gắn với những truyền thuyết mang màu sắc liêu trai. Cùng hệ thống hang động, du khách có thể lên núi Cao Biền, dãy núi lớn và dài nhất thắng cảnh hồ Thác Bà, đứng trên đỉnh núi có thể phóng tầm mắt để ngắm cảnh hồ chìm trong sương với vẻ đẹp lung linh huyền ảo, cảm nhận vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, để tìm lại dấu ấn xưa của chợ Ngọc, chợ Ngà nổi tiếng Thác Bà một thời bán, buôn sầm uất... Ngồi ca nô ngược dòng sông Chảy không bao xa du khách sẽ được thăm thú vùng đất Ngọc Lục Yên với những danh thắng nổi tiếng như động Chùa São, đền Đại Cại… và chiêm ngưỡng sự kỳ ảo của những tác phẩm tranh đá quý tự nhiên dưới bàn tay tài hoa của người thợ. Phong cảnh hữu tình, phong phú về nguồn lợi thủy sản, ven hồ còn là nơi sinh sống của nhiều dân tộc như: Kinh, Tày, Nùng, Mông, Dao, Phù Lá, Cao Lan... Người dân nơi đây vẫn giữ được bản sắc văn hóa bản địa, trong đó, nhiều lễ hội đặc sắc thường diễn ra như Lễ hội mừng cơm mới của người Tày, Tết nhảy của dân tộc Dao... Đề với Làng Văn hóa Ngòi Tu - xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, nơi quần tụ của 5 dân tộc (chủ yếu là đồng bào Dao Quần trắng), du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống thư thái dưới những mái nhà sàn thấp thoáng giữa rừng cọ, tìm hiểu nghề đan rọ tôm truyền thống, ngắm những thiếu nữ Dao má đỏ hây hây trong trang phục dân tộc rực rỡ. Đặc biệt, mỗi khi màn đêm buông xuống, bên ánh lửa trại bập bùng, du khách sẽ được nghe những làn điệu dân ca say đắm lòng người và thưởng thức hương vị tinh tế của những món ăn như: cơm lam, nộm hoa chuối rừng, thịt gà nấu măng chua hay món gỏi cá, nộm tôm... Hầu hết, các bản làng ven hồ Thác giờ vẫn giữ được nét hoang sơ, cùng bản sắc văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan... với nhiều lễ hội đặc sắc. Hiện nay thôn Ngòi Tu đã có nhiều hộ được đầu tư hoàn chỉnh đủ điều kiện để đón khách nước ngoài. Mỗi năm, thôn đã đón tiếp hàng trăm đoàn khách thăm quan, chủ yếu đến từ các nước Đức, Pháp, Ý, Thuỵ Điển, Úc và Việt kiều. Ngoài ra, du khách cũng có thể tham dự lễ hội đua thuyền độc đáo với tên gọi “Âm vang hồ Thác Bà” hay thăm làng bưởi Khả Lĩnh nổi tiếng. Và trong hành trình khám phá ấy, du khách cũng có thể thêm chút thời gian để đến với mảnh đất Lục Yên liền kề là vùng đá quý nổi tiếng cả nước, thăm Di tích lịch sử đền Đại Cại, hang Ma Mút, chùa São, núi Vua Áo đen... nơi mà các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những dấu vết của người Việt cổ. Được ví như vịnh Hạ Long trên núi - hồ Thác Bà hứa hẹn mang đến cho khách du lịch những trải nghiệm tuyệt vời, khó quên.
Yên Bái 2051 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Tỉnh Yên Bái vốn được nhiều người biết đến nhờ vào vẻ đẹp ấn tượng của khung cảnh thiên nhiên đẹp hữu tình, nổi tiếng nhất có lẽ là Mù Cang Chải. Nhưng mấy ai biết được rằng, đây còn là nơi cất tiếng vọng âm vang không ngừng của thác Pú Nhu hùng vĩ, xinh đẹp. Thác Pú Nhu nằm trong bản Pú Nhu, thuộc xã La Pán Tẩn, Mù Cang Chải với dòng thác tạo nên những thanh âm du dương như lời kể tự hào về những con người chân chất, bình dị của vùng đồi núi cao hùng vĩ Tây Bắc. Con thác nằm cách trung tâm huyện Mù Cang Chải khoảng chừng 10km về phía Tây, được bắt nguồn từ những con suối ở trên những cánh rừng đầu nguồn thuộc Lào Cai, Sơn La đổ về. Với địa hình núi cao vô cùng ấn tượng tại đây đã biến dòng nước đấy trở thành dòng thác hùng vĩ, ấn tượng như bây giờ. Đặc biệt nhất phải kể đến là vào những mùa nước nổi, nước ở đây được bù đắp thêm lớp phù sa màu mỡ giúp cây cối tươi tốt, mang đến hương sắc tươi mới, tràn đầy sức sống. Thiên nhiên thật khéo léo khi bao bọc con thác xinh đẹp này một cách đầy tinh tế, chỉ để “lộ” âm vang hùng vĩ của dòng thác cho những bạn ở từ phía xa. Chính vì thế mà thác Pú Nhu lại trở nên bí ẩn hơn, khiến ai nấy cũng tò mò được khám phá khi chỉ vừa nghe những thanh âm đấy. Khi chưa kịp nhìn ngắm thác Pú Nhu thì bạn đã có thể ngây ngất trước vẻ đẹp thơ mộng của lối đi dẫn vào đấy rồi. Đoạn đường di chuyển khá dễ dàng, chỉ cần bằng qua con suối và cánh đồng ngô là bạn có thể tận hưởng cảm giác mát lạnh của dòng nước mát tại đây. Còn nếu bạn chọn di chuyển theo con đường lớn thì rất khó để chiêm ngưỡng dòng thác này. Bạn biết vì sao không? Bởi thiên nhiên đã ôm ấp con thác này bằng những cây rừng cao lớn, tạo nên sự ẩn nấp tinh tế cho con thác. Với độ cao khoảng chừng 200m, dòng thác được chia thành nhiều bậc chảy khác nhau. Đẹp nhất là vào những ngày nắng đẹp, dòng thác Pú Nhu chảy xuống tựa tấm vải lụa trắng phất phơ theo những giai điệu vui tươi của tiếng gió rì rào, tiếng chim hót trong khu rừng hoang sơ xung quanh. Nếu có dịp khám phá Mù Cang Chải vào những ngày thời tiết tuyệt đến thế, chắc hẳn bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tinh khôi, âm hưởng hùng vĩ và đáng nhớ nhất là khoảnh khắc được thả hồn mình vào bầu không khí trong lành mà đất trời ban tặng cho nơi đây. Nằm hiên ngang giữa hai vách núi cao thẳng đứng, dòng thác Pú Nhu hiện ra tựa bức tranh thủy mặc. Hình ảnh ngọn núi cao hùng vĩ chẳng khác gì một vị tráng sĩ đang bao bọc, che chở nàng thiếu nữ xinh đẹp mang tên thác Pú Nhu qua bao thăng trầm cuộc sống. Xung quanh dòng thác còn có những tảng đá lớn phủ đầy lớp rêu tuy có phần ghê sợ, nhưng đấy cũng chính là điểm nhấn đặc biệt khiến bạn không thể rời mắt sự kỳ lạ đấy. Nếu bạn đang loay hoay tìm kiếm một nơi để trút đi mọi muộn phiền, được thư giãn cùng thiên thiên trong lành thì đây đích thực là nơi lý tưởng dành cho bạn. Với những gì mà thác Pú Nhu sở hữu, chắc hẳn bạn sẽ có chuyến đi thật đáng nhớ với khung cảnh tuyệt vời, ấn tượng tại đây. Bên dưới dòng nước chảy liên hồi của con thác còn có một hồ nước bí ẩn mang tên hồ Rồng. Theo như người dân ở đây kể lại, hồ nước này vô cùng linh thiêng bởi có một con rồng đang ngủ dưới lòng hồ, và tương truyền rằng dòng thác Pú Nhu chính là kết quả tuyệt mỹ được phun ra từ con rồng đấy. Tuy chỉ là một câu chuyện được truyền miệng cho đến ngày nay nhưng nó đã khiến cho mọi người không dám đằm mình dưới dòng nước này, bởi không một ai dám đánh thức giấc ngủ của con rồng. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một câu chuyện truyền thuyết. Ngày nay, kh dịch vụ du lịch ở đây đã phát triển hơn nhiều, bạn hoàn toàn có thể được đảm bảo an toàn trong chuyến tham quan của mình. Vì thế, bạn vẫn có thể thỏa thích đằm mình tận hưởng dòng nước mát ở nơi đây mà không phải lo lắng quá nhé.
Yên Bái 1700 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Bản Lìm Mông nằm tại huyện Mù Cang Chải, Yên Bái khoác lên mình vẻ đẹp xao xuyến lòng biết bao người. Bản Lìm Mông nằm ở nơi tận cùng của Yên Bái, được thiên nhiên ban tặng cho cảnh sắc đẹp đến ngất ngây cùng những cánh đồng lúa trải dài, xen kẽ là những mái nhà thấp thoáng ẩn hiện giữa chốn mây mù đẹp tựa thiên đường. Không hề ngoa khi nói Bản Lìm Mông chính là một trong những điểm tham quan, khám phá vô cùng thách thức những ai đam mê phượt. Với cung đường đi vô cùng hiểm trở và đầy những gian nan, thử thách, Bản Lìm Mông đáp lại sự kiên nhẫn của mọi người bằng khung cảnh thiên nhiên đẹp đến mê hồn, không hề thua kém Thị trấn Tú Lệ ở Yên Bái. Giữa tháng 9 và tháng 10 chính là lúc thích hợp nhất để bạn đến khám phá Bản Lìm Mông. Lúc này cũng là lúc Ruộng bậc thang Mù Cang Chải vào mùa đẹp nhất. Đến đây vào thời điểm này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên Yên Bái khoác lên mình sắc áo vàng óng ánh, đẹp như bức tranh được vẽ nên từ chính đôi tay của Mẹ thiên nhiên. Nếu như đã bỏ lỡ mùa vàng Yên Bái, bạn cũng có thể đến khám phá Bản Lìm Mông vào khoảng tháng 5 đến tháng 6. Lúc này Yên Bái đang vào mùa nước đổ nên cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng cực kỳ. Vào thời điểm này tại Bản Lìm Mông cũng vui tươi, nhộn nhịp hơn hẳn vì người dân bắt đầu í ới rủ nhau lên đồng cày cấy cho một mùa vụ mới đầy bội thu. Đến với Yên Bái mà bỏ lỡ cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp của Bản Lìm Mông thì quả là một thiếu sót cực kỳ lớn. Nằm ở tận cùng xứ mây mù, đường đến Bản Lìm Mông cũng vô cùng hiểm trở khiến nhiều phượt thủ đứng ngồi không yên, mong muốn xách balo lên để đến đây khám phá một trong những cung đường hiểm trở nhất Việt Nam. Để đến được Bản Lìm Mông, từ Hà Nội bạn di chuyển theo hướng đi cầu Trung Hà. Đến Thanh Sơn (Phú Thọ) thì tiếp tục di chuyển thẳng qua Quốc lộ 32 hướng về tỉnh Yên Bái. Sau khi đến chân đèo Khau Phạ thì phải băng qua bản làng người Thái ở suối Nậm thì mới đặt chân đến được Bản Lìm Mông tọa lạc bên kia con suối. Ngay từ lúc còn trên cung đường đến với Bản Lìm Mông bạn đã có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp đầy ấn tượng của đèo Khau Phạ. Với độ cao lên đến 1200m so với mực nước biển, đèo Khau Phạ đẹp kỳ vĩ mang đến một thử thách không hề nhỏ cho những ai đang có ý định đến khám phá Bản Lìm Mông. Đứng từ trên đỉnh đèo, bạn sẽ dễ dàng chiêm ngưỡng được cảnh sắc thiên nhiên của Bản Lìm Mông. Vẻ đẹp của núi rừng Yên Bái cứ thế được thu trọn vào trong tầm mắt. Đặc biệt là lúc Bản Lìm Mông vào mùa lúa chín, những cánh đồng lúa trải dài một màu vàng ươm vô cùng rực rỡ, tô điểm thêm cho bức tranh phong cảnh đẹp đến mê hồn người. Giới trẻ thường chọn đỉnh đèo này làm nơi ngắm Bản Lìm Mông, sống ảo và đặc biệt là đón khoảnh khắc hoàng hôn hoặc bình minh. Nếu như có ý định đến khám phá Bản Lìm Mông, một trong những việc bạn cần làm đầu tiên chính là kiểm tra thật kỹ lưỡng phương tiện di chuyển và nên đem đi bảo dưỡng nếu có thể. Đường đi đến bản vô cùng khó khăn, hiểm trở với nhiều đèo dốc, khúc cua tay áo nên nếu không cẩn thận rất dễ gặp phải rủi ro giữa đường. Đảm bảo một sức khỏe thật tốt trước khi lên đường vì đoạn đường đến đây không những xa mà còn muôn vàn gian nan, thử thách. Nếu không đủ tự tin để cầm lái thì bạn nên đi cùng với người có tay lái vững, có kinh nghiệm chạy xe đường dài cũng như quen thuộc với đường đi tại Yên Bái càng tốt. Nên xem trước dự báo thời tiết trước khi lên đường. Nếu thời tiết xấu thì nên cân nhắc thay đổi lịch trình đi những điểm khác rồi mới đến Bản Lìm Mông. Đặc biệt là không nên đổ đèo dốc vào ban đêm vì đường đi rất tối, vắng vẻ và cực kỳ nguy hiểm đối với những ai không quen thuộc đường xá Bản Lìm Mông. Ưu tiên những bộ đồ thoải mái, giày thể thao để thuận tiện di chuyển vì hầu hết người đến Bản Lìm Mông đều với mong muốn được khám phá nhiều nhất có thể. Địa hình nơi đây không thích hợp để diện những bộ váy, đầm quá cầu kỳ sống ảo.
Yên Bái 1748 lượt xem
Từ tháng 9 đến tháng 10
Cánh đồng Mường Lò thuộc địa phận thị xã Nghĩa Lộ, nằm trên Quốc lộ 32, cách trung tâm thành phố Yên Bái khoảng 80km về phía Tây. Cánh đồng bao la rộng lớn, thẳng cánh cò bay chính là nguồn sống của đồng bào dân tộc Thái, cũng là cái nôi của văn hóa ẩm thực cùng những điệu múa xòe cổ truyền thống đặc trưng của miền đất này. Nếu Tú Lệ, Mù Cang Chải đã vô cùng nổi tiếng với du khách thì Mường Lộ hiện nay vẫn chưa được nhiều người biết đến. Tuy nhiên nơi đây sở hữu vẻ đẹp rất riêng mà MIA.vn muốn gợi ý bạn ghé đến chinh phục. Bạn có thể tiện đường đi Mù Cang Chải bằng Quốc lộ 32 thì sẽ đi qua Cánh đồng Mường Lò để khám phá. Đến với Mường Lò, du khách sẽ bất ngờ vì vẻ đẹp quá đỗi thanh bình và êm ả. Những nếp nhà nhỏ bình dị, những rặng cây cao lớn, những người dân ngày ngày làm việc cần cù, tất cả tạo nên một miền đất tuyệt đẹp. Mường Lò có địa hình như một lòng chảo khổng lồ, thuộc địa phận thị xã Nghĩa Lộ cùng một vài xã khác thuộc huyện Văn Chấn. Từ trên cao nhìn xuống, nơi đây được ôm trọn bởi dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, sắc vàng của lúa chín và sắc xanh của cây cối đồi núi đan xen vào nhau trải rộng đến tận chân trời. Vùng lòng chảo Mường Lò là nơi cư trú của hơn 10 dân tộc anh em bao gồm Thái, Mường, Kinh, Tày, Nùng, Mông… Chính vì thế tạo nên một vùng văn hoá đặc sắc với những nét đan xen độc đáo có một không hai. Từ lâu, người dân đã gọi cánh đồng Mường Lò là vùng đất của gạo trắng nước trong cùng hương vị thơm lừng của của món nếp Tú Lệ. Thung lũng lúa Mường Lò hiện nay đang là vựa lúa rộng lớn thứ 2 của vùng Tây Bắc, chỉ sau Mường Thanh thuộc tỉnh Điện Biên, cung cấp nguồn lương thực rất lớn cho người dân tại đây. Với kinh tế còn nhiều hạn chế, chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, Mường Lò có vai trò rất lớn đối với đời sống của người dân. Nổi tiếng là miền đất “gạo trắng, nước trong”, Mường Lò đã trở thành cảm hứng đi vào nhiều tác phẩm thơ ca. Với vẻ đẹp ngây ngất lòng người, mỗi mùa đều hiện lên trước mắt du khách với những màu sắc riêng, vẻ đẹp riêng. Do diện tích Cánh đồng Mường Lò rất rộng lớn, lại thuộc địa phận nhiều địa phương nên tạo nên khung cảnh vô cùng đặc biệt. Cùng một thời điểm nhưng mỗi xã sẽ có lịch canh tác khác nhau. Bên này là Nghĩa Lộ lúa đã ngả chín vàng thì ở Văn Chấn cánh đồng vẫn xanh rì. Vì thế tạo nên cảnh quan của những thửa ruộng đan xen vào nhau rất đặc sắc. Mỗi sáng khi bình minh lên, những tia sáng đầu tiên chiếu xuống cả cánh đồng rộng lớn. Hình ảnh những người nông dân vác cuốc vác liềm ra đồng làm cỏ, gặt lúa, tiếng cười đùa nói chuyện vang vọng cả một vùng trời. Khi trời ngả dần về chiều, những cô cậu bé lùa trâu về chuồng, những bông lúa lấp lánh dưới ánh hoàng hôn, một vẻ đẹp vừa thanh bình vừa kì diệu khiến lòng người nôn nao. Đến mùa thu hoạch, những xe trĩu nặng lúa gạo đang người dân trở về nhà. Bỏ lại phía sau là những thửa ruộng ngập trong rơm rạ. Mùi rơm ngai ngái, khô vàng dưới ánh nắng mặt trời. Đến đây mùa này, bạn còn có cơ hội tham gia những lễ hội mừng lúa mới của người dân địa phương, thưởng thức rất nhiều món ăn ngon cùng những ché rượu thơm lừng.
Yên Bái 1787 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khau Phạ là một trong bốn đỉnh đèo hiểm trở nhất Việt Nam. Nơi đây không chỉ quanh co khúc khuỷu với những vách núi dựng đứng mà còn chênh vênh giữa thiên nhiên hùng vĩ. Con đèo này có tổng chiều dài khoảng 30km, ở độ cao hơn 1.200 mét và đồng thời cũng là điểm phân chia ranh giới của huyện Văn Chấn và huyện Mù Cang Chải. Kinh nghiệm khám phá đèo Khau Phạ tự túc nếu bắt đầu xuất phát từ Hà Nội thì bạn nên đi theo tuyến quốc lộ 32. Đoạn đường đến Yên Bái bạn có thể đi theo google map, kết hợp hỏi đường người dân. Từ Hà Nội, bạn sẽ đi qua tỉnh Phú Thọ rồi đến huyện Văn Chấn, qua Nghĩa Lộ thì sẽ tới đèo Khau Phạ. Tổng thời gian di chuyển vào khoảng 5 đến 6 giờ đồng hồ, tùy thuộc điều kiện thời tiết và tay lái của bạn. Hai phương tiện phổ biến được nhiều người lựa chọn là xe khách và xe máy. Lời khuyên là đi xe khách sẽ giúp bạn di chuyển nhẹ nhàng, ít tốn sức hơn, còn xe máy sẽ cho bạn cảm giác tận hưởng những cung đường núi đúng nghĩa. Nếu đi xe khách, bạn nên liên hệ đặt vé của các hãng xe uy tín, không nên bắt xe dọc đường tránh những rủi ro ngoài ý muốn. Còn nếu đi xe máy bạn phải kiểm tra thật kỹ khả năng vận hành của xe, đoạn đường dài băng qua những cung đường đồi núi Tây Bắc đòi hỏi một chiếc xe chất lượng và động cơ thật khỏe. Theo kinh nghiệm của đa số những người đã có cơ hội khám phá vẻ đẹp Đèo Khau Phạ thì từ tháng 9 và tháng 10 là thời điểm lý tưởng nhất. Đầu mùa thu nên thời tiết tại đây rất mát mẻ, có chút se se lạnh, tạnh ráo nên rất thích hợp cho các hoạt động du lịch. Ở vị trí hơn 1000 mét, từ đỉnh Khau Phạ bạn sẽ tha hồ tận hưởng vẻ đẹp của Ruộng bậc thang Mù Cang Chải, thu gọn vào tầm mắt toàn cảnh đời sống của người dân địa phương, và hấp dẫn nhất chính là hành trình săn mây siêu thú vị. Để săn mây được thuận lợi, bạn còn cần một chút “duyên phận” với thiên nhiên nơi đây. Thông thường vào mùa thu và mùa đông, mây trên đỉnh núi sẽ rất dày và bồng bềnh, mềm mại. Thế nhưng cũng có những ngày nắng đẹp, mây tan sớm nên bạn sẽ không có cơ hội săn mây. Tuy nhiên view từ đỉnh đèo thì vô cùng hoàn mỹ, thế nên bạn có thể yên tâm là chuyến đi của mình dù không săn được mây cũng không hề uổng phí đâu nha. Ngoài ra bạn cũng có thể cân nhắc thời gian đến Khau Phạ tháng 5 tháng 6 để ngắm nhìn những cánh đồng mùa nước đổ. Tất cả những thửa ruộng như một tấm gương khổng lồ ánh lên dưới ánh nắng mặt trời, mặt nước loang loáng lấp lánh khiến bạn say lòng. Quá trình lên đỉnh đèo Khau Phạ sẽ cần vượt qua 30km đường trekking vô cùng gian nan, đường đi nhiều sỏi đá lởm chởm. Vì thế bạn cần có tay lái vững, chọn chiếc xe máy chất lượng vận hành tốt để đảm bảo an toàn cho bản thân. Ngoài ra hành trình khám phá đèo Khau Phạ tự túc cũng đừng quên mang theo chiếc máy ảnh, điện thoại xịn sò để ghi lại những hình ảnh siêu ấn tượng nhé. View từ đỉnh đèo siêu đẹp nên bạn chắc chắn sẽ thu được hàng trăm góc hình chất như nước cất đấy.
Yên Bái 1985 lượt xem
Tháng 9 đến tháng 10
Đầm sen xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, Yên Bái đang ngập tràn hương sắc của hàng triệu bông sen. Đầm sen này có diện tích rộng nhất tỉnh Yên Bái. Đến với đầm sen xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái vào thời điểm này, du khách không chỉ ghi lại những khuôn hình thơ mộng, lãng mạn bên cánh hoa sen một loài hoa mộc mạc, thuần khiết mà còn để cảm nhận được sự gần gũi, yên bình từ thiên nhiên. Nơi đây có mặt nước hồ rộng, cảnh quan làng quê thanh bình, yên ả. Nhờ những lợi thế đó mà đầm sen được mệnh danh là đầm sen đẹp và rộng nhất tỉnh Yên Bái. Cây sen nằm sâu trong bùn lầy, vươn mình tỏa hương khoe sắc, lúc rực rỡ kiêu sa, nhưng cũng có khi e ấp dịu dàng. Nhắc đến hoa sen, người ta sẽ liên tưởng ngay đến sự thanh cao, tinh khôi cũng như sự tinh khiết của hương vị đất trời. Mùi của hoa sen không nồng đượm như hoa sữa, không quyến luyến như hoa hồng nhưng lại dịu dàng, say đắm, càng ngửi càng yêu. Mỗi dịp tháng 6 đến giữa tháng 8, người dân sinh sống nơi đây lại được hít hà mùi hương vừa thanh cao lại mang đến giá trị về kinh tế. Sắc hồng của hoa hòa cùng màu xanh của lá làm cho khung cảnh miền quê xã Vân Hội, huyện Trấn Yên càng trở nên thơ mộng, cuốn hút. Trong làn gió mát lành, hương sen thoang thoảng, tạo nên một cảm giác thanh tao, nhẹ nhàng. Dạo bước giữa cánh đồng sen rực rỡ, hít hà không khí tinh khiết buổi sớm mai và hòa mình giữa thiên nhiên tươi đẹp là trải nghiệm mà bất cứ ai cũng đều sẽ mê đắm khi đến với đầm sen này. Những cây cầu gỗ được dựng cùng với những ô chòi vươn ra giữa mặt hồ phủ kín lá sen xanh xen kẽ những nụ, những hoa rung rinh khoe sắc, thả hương theo gió, quyến rũ biết bao người đã từng đến đây. Bắt kịp xu thế, người dân xã Vân Hội đã cải tạo những đầm sen thành những điểm checkin tuyệt đẹp. Những năm trở lại đây, đầm sen luôn nhộn nhịp khách đến chụp ảnh checkin. Khi những đóa sen bắt đầu khoe sắc thì những thiếu nữ và du khách ở trong và ngoài huyện đều tìm về cánh đồng sen xã Vân Hội để ngắm, thưởng thức hương thơm dịu nhẹ, thanh khiết của sen và không quên lưu lại những khoảnh khắc đẹp. Với mặt nước hồ rộng, cùng cảnh quan làng quê thanh bình, yên ả, đầm sen này được mệnh danh là đầm sen đẹp và rộng nhất tỉnh Yên Bái. Du khách hãy đến để tận hưởng những giây phút thư giãn và hòa mình với không gian ngào ngạt hương sen tại đầm sen Vân Hội nhé !
Yên Bái 839 lượt xem
Từ tháng 05 đến tháng 08.
Tà Chì Nhù là ngọn núi cao nhất thuộc huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái, nơi đây là địa điểm săn mây lý tưởng của những du khách đam mê trekking, đứng thứ 7 trong số các ngọn núi cao nhất Việt Nam và có điểm nhấn là biển mây bồng bềnh trên những dãy núi màu tím. Đỉnh núi thuộc bản Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, Tỉnh Yên Bái, có độ cao là 2979m và là ngọn núi cao xếp thứ 7 của Việt Nam. Dưới chân núi là các bản làng của dân tộc H’mong và Thái vậy nên ngọn núi cũng được gọi với các tên gọi khác nhau như Phu Song Sung của người Thái hay Chung Chua Nhà của đồng bào H’mong. Tại nơi đây cảnh vật còn rất hoang sơ và đường vào cũng không mấy dễ đi nên để tận hưởng cảnh biển mây xa vút tầm mắt thì chỉ có duy nhất một con đường là đi bộ từ dưới chân núi lên đỉnh với khoảng cách tầm 8km. Thời gian phù hợp để chinh phục Tà Chì Nhù là từ khoảng tháng 9 cho đến tháng 4 năm sau, đây là mùa lạnh dễ có biển mây xuất hiện và không khí cũng mát mẻ, ít gặp mưa bão nên rất phù hợp với hoạt động đi bộ đường dài. Khoảng tháng 9 cho đến đầu tháng 11 thì nơi đây có một loại hoa của các bụi cỏ mọc phủ kín cả vạt núi, khi hoa nở có màu tím nên nhìn từ phía xa lên đỉnh núi sẽ thấy núi có màu tím cực kỳ mơ mộng và cả khi lại gần đứng giữa các bụi hoa nở rộ cũng sẽ chụp được những bức ảnh vô cùng nghệ thuật. Loại hoa này được mọi người gọi là hoa Chi Pâu, bắt đầu từ câu chuyện của một du khách khi hỏi porter là người dân tộc H’mong bản địa về tên của loài hoa này, người porter có trả trời là “chi pâu” trong tiếng H’mong có nghĩa là “không biết”, do sự nhầm lẫn này mà cái tên hoa Chi Pâu càng trở nên phổ biến đối với cộng đồng trekking. Kinh nghiệm trekking Tà Chì Nhù chắc chắn là thứ bạn cần mang theo khi đến với Yên Bái. Được ví như thiên đường mây giữa lưng chừng núi, Tà Chì Nhù luôn mang đến cảm giác khác lạ, thích thú cho bất cứ ai đến đây dù là lần đầu tiên. Cung đường trekking Tà Chì Nhù được đánh giá là khá khó khăn, địa hình nhiều núi đá vô cùng hiểm trở. Sau chặng đường không quá dài nhưng đầy gian nan, thử thách, bạn sẽ đặt chân đến đỉnh núi đẹp ngỡ ngàng, tha hồ ngắm cảnh đất trời Yên Bái từ trên cao. Tại đây có một lán ngựa để bạn có thể dừng chân nghỉ ngơi tại chỗ. Lán ngựa nằm gần với nguồn nước tự nhiên nên rất thích hợp cho những ai mong muốn cắm trại qua đêm ngay tại Tà Chì Nhù vì có thể tắm rửa, nấu ăn được. Một trong những điểm thu hút phượt thủ chinh phục đỉnh Tà Chì Nhù là cánh đồng hoa tím thần tiên quyến rũ. Khung cảnh này chỉ xuất hiện từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 11. Trong ngôn ngữ H’mông, cánh đồng này được gọi là Chi Pâu. Màu tím của hoa không quá chói lóa, mà lại mang lại một cảm giác dịu dàng. Bạn có thể gặp những chú ngựa của người dân tuần tra, vô tư ăn cỏ trong khu vực này. Tất cả tạo ra một bức tranh thi vị, như bạn đang sống trong một câu chuyện cổ tích. Đặc sản khác của Tà Chì Nhù là biển mây mềm mại và gió núi lưu luyến. Những đám mây trải dài từ trên cao, che phủ toàn bộ không gian xung quanh. Bạn sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về khung cảnh này khi leo núi vào mùa khô. Gió trên đỉnh núi cũng rất mãnh liệt. Bất kỳ mệt mỏi nào bạn trải qua trong quá trình leo núi sẽ tan biến khi bạn ngắm nhìn khung cảnh với biển mây và làn gió lạnh dịu bao quanh. Chúng như thổi đi mọi căng thẳng và đau đớn. Tuy nhiên, hãy chuẩn bị áo ấm kỹ càng và không nên ở trên đỉnh quá lâu để tránh bị cảm lạnh. Tà Chì Nhù là ngọn núi tuyệt đẹp và hoang sơ, không tấp nập như các điểm du lịch khác. Nơi này rất lý tưởng cho một cuộc phiêu lưu vào cuối tuần để rèn luyện thể chất và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi rừng. Sau khi chinh phục được đỉnh núi thì các bạn xuống theo đường cũ và về lại thị trấn Trạm Tấu ở đây có dịch vụ tắm suối khoáng nóng rất phù hợp để thư giãn cơ bắp sau một hành trình dài. Các bạn tham khảo khu suối khoáng nóng Cường Hải ở đây không gian được bày trí rất đẹp và có dịch vụ lưu trú. Nếu bạn đang tìm kiếm một điểm du lịch thú vị ở miền Bắc, hãy đến ngay Tà Chì Nhù – một địa điểm hấp dẫn cho những người yêu thích leo núi.
Yên Bái 841 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 04.