Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
An Giang đón lũ từ thượng nguồn sông Mekong. Nước lũ mang theo những đàn cá tôm về sinh sống trên những cánh đồng, là thời điểm lý tưởng để người dân đánh bắt. Hãy nghe Nguyen van nghia một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Nhiếp ảnh gia Huỳnh Phúc Hậu thực sự có tình cảm sâu sắc với vùng đất An Giang và thể hiện điều đó qua những bức ảnh đầy cảm xúc về cuộc sống và vẻ đẹp tự nhiên của vùng đất này. Việc chụp lại những khoảnh khắc đặc trưng trong mỗi mùa nước lũ chắc chắn đã giúp ông tạo ra những bức ảnh rất đặc sắc và ý nghĩa.
Vẻ đẹp của những cánh đồng mênh mông nước vùng Châu Đốc.
Những bức ảnh mênh mông về cánh đồng nước nổi của vùng Châu Đốc và Tịnh Biên do nhiếp ảnh gia Huỳnh Phúc Hậu thực hiện chắc chắn sẽ là một nguồn cảm hứng vô cùng quý báu. Việc ông thể hiện vẻ đẹp tự nhiên của vùng đất quê hương qua ống kính chứng tỏ sự tận tâm và tình yêu đối với văn hóa và phong cảnh đặc trưng của An Giang. Điều này càng được củng cố bởi việc ông đã tổ chức triển lãm cá nhân với chủ đề mùa nước nổi vào năm 2016, giúp lan tỏa tới công chúng đẹp và giá trị văn hóa của vùng đất này.
Ảnh đón lũ từ thượng nguồn sông Mekong.
Dường như tác giả đang miêu tả một cảnh tượng rất đẹp và sống động về cuộc sống đồng bằng sông nước ở An Giang. Cảnh tượng của cậu bé đánh bắt cá trong ánh hoàng hôn tại Tha La, Vĩnh Tế, Châu Đốc thực sự là một hình ảnh rất đặc sắc và tượng trưng cho vẻ đẹp tự nhiên và sinh hoạt của vùng đất này. Việc tái hiện những khoảnh khắc như vậy qua ống kính của nhiếp ảnh gia Huỳnh Phúc Hậu chắc chắn sẽ giúp người xem cảm nhận được sự gắn kết chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên trong vùng đất An Giang.
Đàn bò đi về trên bờ kênh Tha La, Châu Đốc.
Đây là một miêu tả về vùng đất Châu Đốc và An Giang ở Việt Nam, nơi có các truyền thống văn hóa độc đáo và lễ hội đặc sắc. Đua bò Bảy Núi là một trong những lễ hội quan trọng và nổi tiếng của khu vực này. Được biết, Covid-19 đã ảnh hưởng đến nhiều sự kiện và hoạt động văn hóa, bao gồm việc hủy lễ hội đua bò trong 2 năm gần đây. Nỗi buồn này là điều tiếc nuối, nhưng cũng là cơ hội để mọi người hợp tác và chăm sóc lẫn nhau trong thời kỳ khó khăn này.
Chăn vịt trên đồng lũ ở Nhơn Hưng, Tịnh Biên.
Việc chăn vịt trên đồng lũ ở Nhơn Hưng, Tịnh Biên cho thấy sự thông minh của người dân trong việc tận dụng tài nguyên tự nhiên để nuôi vịt một cách hiệu quả. Do lũ đem đến phù sa bồi đắp, giúp cải thiện đất đai, còn hạt lúa và ốc sau mùa gặt là nguồn thức ăn dồi dào cho vịt. Nhờ vậy, người dân có thể tiết kiệm chi phí cho thức ăn cho vịt, đồng thời giúp họ duy trì hoạt động chăn nuôi một cách bền vững.
Đôi vợ chồng đang hái bông súng ma ở Vĩnh Tế, Châu Đốc.
Đôi vợ chồng hái bông súng ma ở Vĩnh Tế, Châu Đốc, giúp khám phá cuộc sống và công việc của người dân địa phương. Việc hái bông súng ma không chỉ mang lại thu nhập cho họ mà còn là cơ hội để tiếp xúc với thiên nhiên và tận hưởng vẻ đẹp của loài hoa đặc trưng này. Sự mài mò, cần cù và kiên trì của họ khi di chuyển vào bưng đồng xa xôi để hái hoa cũng thể hiện lòng say mê và tâm huyết với nghề. Câu chuyện này cũng phản ánh sự đồng cảm của tác giả đối với cuộc sống và nét đẹp tự nhiên của vùng đất Châu Đốc và An Giang.
Ảnh được chụp vào một buổi chiều nắng vàng trên dòng kênh Trà Sư, Nhơn Hưng, Tịnh Biên.
Bức ảnh được miêu tả tạo ra cảm giác rất thân thiện và mô tả sinh động về cuộc sống và nguồn thu nhập từ việc trồng và chế biến các loại rau đặc sản tại miền Tây, như rau nhút, bông súng, bông điên điển và hẹ nước. Miền Tây nổi tiếng với những con kênh và nguồn nước phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loại rau thủy sản như rau nhút.
Cách sử dụng rau nhút trong ẩm thực cũng tạo ra hình ảnh một bữa ăn đậm đà với hương vị đặc trưng của vùng đất sông nước. Một khiến cưỡi ngựa xem hoa, bức ảnh này không chỉ giới thiệu về cảnh đẹp mà còn tận dụng cơ hội để kể về nét văn hóa ẩm thực độc đáo và đa dạng của miền Tây.
Thôn nữ hái bông điên điển dọc bờ kênh Vĩnh Tế, Châu Đốc.
Thôn nữ hái bông điên điển dọc bờ kênh Vĩnh Tế ở Châu Đốc tạo ra một bức tranh về người phụ nữ đang thực hiện công việc vất vả, nhưng cũng đầy ý nghĩa và tình yêu thương. Bông điên điển không chỉ là nguồn thu nhập mà còn là một phần quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người dân nơi đây. Mô tả về cách sử dụng bông điên điển trong ẩm thực cũng tạo ra hình ảnh một bữa ăn đậm đà với hương vị đặc trưng của vùng đất sông nước.
Những chi tiết về các món ăn từ bông điên điển thể hiện sự đa dạng và sáng tạo trong việc sử dụng nguyên liệu địa phương, cũng như tình yêu và kính trọng đối với thiên nhiên và nguồn sống. Bức ảnh này không chỉ là một hình ảnh tươi đẹp, mà còn là một câu chuyện về sự kiên trì, sự phối hợp và tình yêu với đất đai và nguồn thực phẩm tự nhiên.
Sự kết hợp giữa bông điên điển và cá linh tạo ra một hình ảnh tuyệt vời về mùa lũ ở vùng nước nổi An Giang. Khi bông điên điển nở vàng rực, đồng nghĩa với việc cá linh cũng khai hoang theo dòng nước lũ đổ về trên các sông và ao rạch. Mùa cá linh là mùa hấp dẫn với người dân với những món ăn đặc sản như cá linh nhúng giấm và mắm cá linh, tạo ra hương vị đậm đà khó quên.
Việc thưởng thức các món ăn từ cá linh và hương vị đặc trưng của bông điên điển là điều mà nhiếp ảnh gia đã tận hưởng và chia sẻ. Điều này thể hiện sự tôn trọng và yêu thương đối với phong cảnh và ẩm thực đặc biệt của vùng đất nổi tiếng An Giang.
Người đàn ông lùa trâu qua kênh Vĩnh Tế.
Bức ảnh mô tả việc người đàn ông lùa trâu qua kênh Vĩnh Tế để đến vùng đất cao với cỏ nước chưa ngập là một cảnh hình thường thấy trong cuộc sống nông nghiệp ở miền Tây, nơi mà trâu được chăm sóc và nuôi dưỡng để phục vụ cho việc canh tác. Việc lùa trâu qua kênh và đến những vùng đất có cỏ nước tươi tốt giúp trâu có các nguồn thức ăn phong phú và dinh dưỡng.
Sự liên kết giữa bức ảnh và bộ phim "Mùa len trâu" của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh đã tạo ra sự gợi nhớ về những cảnh quay xúc động về cuộc sống, lao động của người dân miền Tây, đặc biệt là ở tỉnh An Giang. Đạo diễn đã thành công trong việc tạo nên những hình ảnh sống động và lưu giữ văn hóa truyền thống độc đáo của vùng đất nổi tiếng này.
Bà má An Giang đang bó bông súng trên bờ kênh Vĩnh Tế.
Bức ảnh "Bà má An Giang" bó bông súng trên bờ kênh Vĩnh Tế chứa đựng rất nhiều cảm xúc sâu sắc và tình cảm. Bức ảnh chụp lại hình ảnh của một người phụ nữ già đẹp lão, nở nụ cười tươi tắn bên những bông súng, tạo nên một bức tranh đẹp và yên bình. Việc tác giả dừng lại để chụp ảnh và sau đó quay trở lại tặng ảnh cho bà đã là một hành động rất ý nghĩa, và thông tin về việc bà đã mất khiến bức ảnh trở nên ý nghĩa và đáng quý hơn nữa.
Bức ảnh này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đẹp mắt, mà còn là một cách để ghi lại và tôn vinh nét đẹp đời thường và tình cảm của người phụ nữ già đẹp lão An Giang, cũng như để gợi nhớ đến giá trị của những khoảnh khắc đơn giản nhưng ý nghĩa trong cuộc sống hàng ngày.
"Vũ điệu" cất vó lúc hoàng hôn trên cánh đồng ngập nước Tha La.
"Vũ điệu" cất vó lúc hoàng hôn trên cánh đồng ngập nước Tha La tạo nên một bức tranh thiên nhiên độc đáo. Mỗi ngày, bầu trời bình minh hoặc hoàng hôn mang đến những gam màu đa dạng và đặc biệt không trùng lặp, tạo nên một không gian thơ mộng và huyền bí trong cảnh đẹp tự nhiên này. Điều này thể hiện sự phong phú và đa dạng của cuộc sống, cũng như giá trị độc đáo mà thiên nhiên mang lại cho chúng ta mỗi ngày.
Nhiếp ảnh gia Huỳnh Phúc Hậu chia sẻ về ý nghĩa đặc biệt của mùa nước nổi trong cuộc sống, đặc biệt là tại đồng lũ Trà Sư, Tịnh Biên. Ông mô tả về sự hối hả, đầy sức sống của mùa lũ trong những năm 2000, khi nước ngập cả cánh đồng với bức tranh nhịp sống rất sôi động.
Chiều yên bình trên đồng lũ Trà Sư, Tịnh Biên.
Tuy nhiên, với sự thay đổi của thời gian và tình hình thế giới, mùa nước lũ trở nên chỉ còn tồn tại trong ký ức của ông. Năm trước, vì lũ về ít và tình hình dịch Covid-19, ông không thể đi chụp ảnh như thường lệ. Đến năm nay, vào đầu tháng 10, lũ vẫn chưa đến và mực nước chưa ngập đồng bên biên giới Campuchia, khiến ông vẫn đang trông ngóng, chờ đợi mùa nước lũ trở lại. Điều này thể hiện sự mong đợi và khát khao của ông với mùa nước lũ, cũng như sự liên kết sâu sắc của ông với vùng đất và với cảm giác biến đổi của thiên nhiên theo từng thời kỳ.
An Giang vào mùa nước nổi thực sự tạo nên một bức tranh hùng vĩ và đầy sức sống. Những cánh đồng lúa, những con kênh, những ngôi nhà sàn, và cả con người, tất cả đều hài hòa hoà quyện trong một vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt diệu. Mùa nước nổi không chỉ là thời điểm để người dân đánh bắt cá tôm, mà còn là thời điểm để họ cùng nhau chia sẻ niềm vui và khát khao trong cuộc sống. An Giang mùa nước nổi đem đến một trải nghiệm đặc biệt và khó quên, khiến cho du khách không thể không ngưỡng mộ và say đắm trước vẻ đẹp bình dị và hiền hòa của vùng đất này.
Nếu như trước đây đa số du khách biết đến Châu Đốc vì có Miếu Bà Chúa Xứ là điểm hành hương linh thiêng, thì ngày nay, Châu Đốc còn được biết đến với nhiều điều tuyệt vời khác. Từ trung tâm thành phố Châu Đốc, ngược dòng sông Hậu, du khách sẽ thấy làng nổi cá bè Châu Đốc – một trong những điểm du lịch Châu Đốc rất đặc biệt. Nằm về phía Tây trung tâm thành phố Châu Đốc khoảng 3km đường sông theo hướng đầu nguồn châu thổ sông Cửu Long huyện An Phú. Những căn nhà nổi cùng các bè cá nép gần nhau tạo thành “làng”, kéo dài khoảng vài km. Nếu về hướng huyện Châu Phú, làng nổi có vẻ xôm tụ hơn, kéo dài hơn. Đông đúc nhất là những nhà nổi quy tụ ở khúc sông thuộc huyện Tân Châu, làng trải dài đến gần 10km. Làng bè nổi trên sông Châu Đốc là làng bè nuôi cá nước ngọt được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ trước. Lúc đầu nơi đây chỉ có vài bè nổi nuôi cá theo kiểu tự nhiên, không cần cho ăn vì nguồn nước tốt. Tuy nhiên, từ những năm 70 trở đi, do nguồn lợi kinh tế đem lại cao, số lượng bè cá đã tăng lên đáng kể và dần trở thành điểm kinh tế trọng điểm của An Giang. Điểm nhấn là trong khoảng 1990 đến năm 2005, các vùng Châu Phú, Phú Tân, Chợ Mới, Vĩnh Ngươn có trên 2.000 bè cá với sản lượng trung bình thu hoạch hàng năm trên 20.000 tấn/ năm. Đa phần cá nuôi tại các bè nổi của các vùng đều là các giống cá da trơn như cá tra, cá ba sa chủ yếu phục vụ xuất khẩu sang thị trường Tây Âu và Bắc Mỹ. Vài năm trở lại đây, do biến đổi khí hậu nên sông Mekong cạn dần. Cộng thêm đó là nguồn nước ngày càng ô nhiễm dẫn đến việc cá nuôi tại các nhà bè bị thất thu, một số hộ trắng tay, phá sản. Chính vì vậy mà số lượng bè cá ngày càng giảm và ít dần. Giờ đây, khi các ba sa, cá tra không còn được thị trường ưa chuộng thì người dân chuyển sang nuôi đủ các loại cá thịt như: cá bông, cá he, cá mè dinh, cá mú,cá chim…Nhờ giá cả các loại cá thịt ngày càng tăng lên nên những người nuôi cá bè ở Châu Đốc ăn nên làm ra, mang lại hiệu quả kinh tế cao giúp nhiều gia đình có cuộc sống khá giả. Vì là điểm du lịch trên sông nên việc di chuyển hoàn toàn phải sử dụng bằng tàu hoặc thuyền. Do vậy mà muốn đến làng bè nổi trên sông Châu Đốc bắt buộc bạn phải đến ngã ba Châu Đốc (cách khách sạn Victoria khoảng 500m) hoặc tại bến đò Châu Giang nằm bên kia thị xã Châu Đốc để thuê thuyền. Giá thuê thuyền tại mỗi điểm sẽ có nhiều mức khác nhau, tùy theo chuyến đi của bạn đến những điểm nào và đi bao nhiều người. Tuy nhiên một điều mà bạn có thể an tâm là giá tương đối rẻ và hợp lý. Bên cạnh việc thuê thuyền tại bến thuyền, nếu bạn muốn nhanh và không lo bị chặt chém giá cả. Bạn có thể nhờ nhân viên lễ tân tại khách sạn thuê dùm hoặc mua tour du lịch An Giang trọn gói để chuyến đi được thoải mái mà không lo điều gì. Đến đây bạn sẽ được hòa mình vào không gian của những ngôi nhà nổi đang đung đưa theo dòng thượng nguồn Châu thổ của Cửu Long và hai nhánh sông Tiền sông Hậu. Kiến trúc của những “ngôi nhà” ở làng nổi cũng rất độc đáo. Những ngôi nhà gỗ được sơn nhạt, trần lợp simili hoa văn với đầy đủ tiện nghi, có đáy sâu 5m được cấu tạo bằng gỗ sao, chung quanh bọc lưới inox để nuôi cá ba sa và một số loại cá khác. Phương tiện chính đi lại của người dân là bằng ghe, thuyền. Bạn sẽ được người dân giới thiệu về quy trình nuôi cá trên sông, kể những câu chuyện thăng trầm và lí do vì sao họ bám trụ với nghề đến bay giờ. Tự mình trải nghiệm cho cá ăn, mồi được thả xuống bè, cả một đàn cá phóng lên tranh giành thức ăn trông thật hào hứng, hàng ngàn con cá ba sa đồng cỡ hạng, khoẻ mạnh, quẫy nước tranh ăn làm văng lên tung toé ướt sũng cả mặt sàn. Ngoài những trải nghiệm và tìm hiểu thức tế về nghề nuôi cá bằng bè nổi trên sông. Tại đây bạn còn được hòa mình vào cuộc sống văn hóa miền sông nước đã nổi tiếng bao đời nay. Một cuộc sống không chỉ ăn, chở ở, trên sông mà còn là nơi sinh hoạt đa điều liên quan đến cuộc sống cư trú và sinh tồn. Đây chính là điều làm nên tính đặc sắc có một không hai của người dân miền Tây Nam Bộ. Ngồi trên bè, ngắm những khóm lục bình trôi, cảm nhận luồng gió mang hơi nước mát lạnh từ ngoài sông thổi vào xua tan những căng thẳng mệt mỏi của cuộc sống hàng ngày. Khung cảnh trên dòng sông bình lặng và thơ mộng hơn khi trời vừa sẫm tối. Lúc này các hoạt động buôn bán trên làng bè không còn rộn ràng, những gia đình quây quần bên nhau sau một ngày lao động hăng say. Làng bè nổi trên sông Bassac bắt đầu lên đèn. Ánh sáng từ các nhà bè phản chiếu xuống nước trông giống như thành phố về đêm nổi trên sông, khung cảnh thật lung linh huyền ảo. Nếu đến với Châu Đốc mà không một lần đến với làng nổi thì quả là một điều thiếu sót. Bạn có thể kết hợp tham quan Chợ nổi, làng Chăm Châu Phong và làng Chăm Châu Giang gần đó. Hai làng Chăm hồi giáo nổi tiếng tại An Giang khi sở hữu cho mình nhiều nét văn hóa giao hòa đặc biệt. Tại đây, bạn sẽ được tìm hiểu cuộc sống trong phong tục, tập quán của người Chăm theo đạo hồi. Cùng với đó là tham quan, tìm hiểu thánh đường hồi giáo … và nghề dệt thổ truyền thống đã lưu truyền bao đời nay.
An Giang 2098 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Huyện Tri Tôn, An Giang với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, hoang sơ cùng những di tích văn hóa, lịch sử cách mạng hào hùng đã thu hút rất nhiều du khách đến đây khám phá, tìm cho mình phút giây thư giãn và lưu lại những bức ảnh ấn tượng. Du lịch An Giang, nếu bạn muốn tìm một nơi để cắm trại qua đêm trên núi ở Tri Tôn thì Cô Tô là một lựa chọn tuyệt vời. Núi Cô Tô là một nơi ngắm hoàng hôn lý tưởng, từ đây bạn có thể phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh huyện Tri Tôn hay một vùng đất giáp biên giới Campuchia của An Giang, với nhiều núi đồi, đồng lúa cũng như những mảnh ruộng của người Khmer sinh sống tại đây. Núi Cô Tô gọi tắt là núi Tô, còn có tên gọi khác là Phụng Hoàng sơn, tên Khmer là Phnom-Ktô, nằm trong dãy Thất Sơn, thuộc xã Cô Tô, Huyện Tri Tôn (An Giang). Núi Cô Tô có chiều cao 614m, dài 5.800m và rộng 3.700m, nơi đây được tạo hóa ban tặng hàng trăm hệ thống hang động ngầm rộng lớn và vững chắc, đây cũng chính là điểm thu hút hàng ngàn lượt du khách đến tham quan mỗi năm. Đến với Cô Tô, du khách sẽ được lắng nghe câu truyện truyền thuyết lý thú được người dân lưu truyền hàng trăm năm qua, rằng các nàng tiên nữ thường hạ phàm xuống vùng núi Thất Sơn những đêm trăng sáng để dạo chơi và vui đùa. Một hôm các nàng chơi trò ném đá và sáng hôm sau nơi ấy xuất hiện một ngọn núi nhỏ, đá chồng chất lên nhau với muôn hình thù hấp dẫn, đó chính là Cô Tô ngày nay. Một giả định khác không gắn với truyền thuyết là do núi có hình dáng giống như cái tô lật úp, nên gọi là núi Tô. Nằm giữa những cánh đồng bao la, bát ngát, ngọn núi Cô Tô khoác trên mình vẻ đẹp hoang sơ, kỳ vĩ say đắm lòng người. Những ngôi nhà được xây dựng trên các vách đá dựng đứng, từng rặng cây đung đưa theo gió như cơn sóng biển đang gợn từng cơn, đem lại khí hậu mát mẻ quanh năm. Khi đặt chân đến nơi bạn còn không khỏi ngỡ ngàng trước khung cảnh bao la rộng lớn và núi non hùng vĩ trước mặt. Núi Cô Tô không có một địa chỉ chính xác trên bản đồ như những chung cư hay hàng quán. Tuy nhiên, bạn đừng lo rằng không tìm được, xét về kích cỡ khổng lồ của chúng thì nhìn từ xa thôi cũng đủ để thấy rồi. Để dễ dàng hơn, bắt đầu từ hướng Long Xuyên khách có thể đi theo đường tỉnh lộ 943 xuôi về thị trấn Núi Sập. Từ đây hỏi đường đến núi Cô Tô sẽ rất dễ dàng. Hoặc bạn cũng có thể đi con đường khác. Rất nhiều hướng đều dẫn tới núi, tuy nhiên với tỉnh lộ 943 thì khách sẽ được tận hưởng nhiều trải nghiệm thú vị hơn. Có nhiều cách để bạn leo tới đỉnh núi, bằng cách đi bộ leo núi, xe ôm, hay xe máy tự túc. Đội xe ôm tự quản của núi Cô Tô có bảng giá niêm yết rõ ràng trong đó mức tiền được tính theo điểm đến cao dần theo độ cao của núi. Nếu bạn chọn phương thức là xe máy thì chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ bạn sẽ đi hết tất cả các điểm lễ bái và ngắm cảnh. Đối với những ai yêu thích khám phá và thử thách có thể đi bộ men theo những bậc thang, ngôi chùa, các bụi cây và những hàng cây cổ thụ, vừa đi vừa cảm thụ khí trời thiên nhiên. Leo núi Cô Tô đơn giản không phải đi qua nhiều địa hình với lối mòn hóc hiểm. Đi bộ, bạn phải mất trọn vẹn 1 ngày mới có thể thăm được núi Cô Tô, chiều lên đi nhanh cũng phải gần hai tiếng, còn đi chậm phải mất đến 3 tiếng. Bạn cần chuẩn bị đôi giày leo núi chuyên dụng. Ở khu vực “Sân Tiên” gần điện Năm Căn có biểu tượng chữ “TRI TÔN” tuyệt đẹp, trở thành điểm check-in gây sốt trong suốt thời gian qua. Được các bạn trẻ ví là “cánh cửa thiên đường”. Mỗi chữ cái cao 7m, nằm trên bệ đỡ cao từ 1,5 – 2m, có lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng bằng năng lượng mặt trời, hàng rào xung quanh để bảo vệ du khách. Nhìn từ chân núi Cô Tô, có thể thấy và chụp hình rõ chữ “TRI TÔN”, xem như lời chào mời của huyện đối với du khách. Còn từ vị trí chữ “TRI TÔN” trên núi, có thể quan sát được toàn cảnh đẹp bên dưới, những cánh đồng lúa vàng, làng xóm và cảnh sông nước hữu tình, bạn sẽ có cảm giác như đang ôm trọn cả thế giới vào lòng mình. Sân Tiên là nơi còn lưu giữ dấu chân khổng lồ in hằn trên đá. Núi Cô Tô có một dấu chân của bàn chân phải, còn núi Cấm còn lưu giữ dấu chân của bàn chân trái. Để nhìn thấy được dấu chân này bạn đi qua ban thờ trên Sân Tiên ra phía mép đá ngoài cùng. Ở sát mép đá có những bậc xuống nhỏ được tạc sẵn. Cô Tô được nhiều du khách chọn là nơi hành hương bởi trên núi có rất nhiều ngôi chùa và miếu thờ, du khách sẽ được phục vụ ăn uống, ngủ nghỉ và tìm hiểu về đời sống chay tịnh nơi đây. Từ điện Năm Căn đi lên khoảng trên trăm bậc đá sẽ gặp miếu Bà Cố rồi tiếp đến Vồ Hội người dân gọi là Dồ Hội. Dồ Hội Lớn và Dồ Hội Nhỏ là hai tảng đá cực lớn của núi Cô Tô mà từ dưới chân núi trên đường đi vào hồ Soài So bạn đã nhìn thấy nó. Để ra sân đá đó, bạn sẽ phải đi qua một ngôi nhà được làm ở phía trước. Dồ Hội là nơi thờ Phật và những vong linh đã mất. Vì vậy trên những bệ đá có hình kim tự tháp nổi bật giữa trời đất bạn sẽ nhìn thấy những câu thư pháp ngắn gọn để tưởng nhớ những người đã đi qua thế giới này về với thế giới khác. Dồ Hội có tầm nhìn cực rộng và thoáng, toàn bộ cánh đồng Tà Pạ sẽ trải ra trước mắt bạn với những tán cây rất đặc trưng khắp mọi nơi tạo thành một nét riêng biệt khác hoàn toàn với những vùng lúa khác của Việt Nam. Từ đây, bạn cũng nhìn thấy núi Cấm và cả núi Tà Pạ đối diện kế bên. Nếu ngắm hoàng hôn thì đến Vồ Hội lớn, ngắm bình minh thì đến Vồ Hội nhỏ, hai nơi cách nhau tầm 50 mét thôi. Vồ Hội lớn là nơi hành hương, cúng bái nên ít góc chụp ảnh hơn. Còn Vồ Hội nhỏ vắng vẻ hơn, bạn tha hồ chụp ảnh. Nếu muốn tìm một nơi để cắm trại qua đêm trên núi ở Tri Tôn thì Cô Tô là một lựa chọn tuyệt vời. Buổi sáng, bạn có thể dậy sớm ngắm bình minh và cảnh vật xung quanh. Buổi tối, từ đỉnh núi Tô, bạn sẽ quan sát được toàn bộ Tri Tôn nhỏ bé ở dưới, với những ánh sáng lập lòe hòa vào những làn sương nhẹ rất tuyệt. Ghé thăm núi Cô Tô bạn sẽ cảm nhận được sự bình yên và thanh thản trong tâm hồn. Xuống đến chân núi, bạn hãy ngồi thư giãn bên hồ Soài So thơ mộng, đây là một hồ nước ngọt nhân tạo do người ta đắp đập chận dòng chảy của suối Vàng, suối Bạc, phục vụ tưới tiêu cho hàng ngàn héc ta đất quanh khu vực núi Cô Tô trong mùa khô hạn. Hồ Soài So cũng là một thắng cảnh nổi tiếng của vùng Bảy Núi bởi yếu tố “sơn” và “thủy” tạo nên “non nước Cô Tô” hữu tình làm say lòng bao lữ khách.
An Giang 2192 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chợ Tịnh Biên là khu chợ nằm tiếp giáp giữa Việt Nam và Campuchia. Chợ không chỉ là nơi mua sắm quen thuộc của người dân địa phương mà còn là điểm dừng chân lý tưởng của rất nhiều khách du lịch An Giang. Do, hàng hóa dồi dào, vừa có sản phẩm nội địa, vừa có hàng tiêu dùng đến từ Campuchia, Thái Lan… giá cả lại rất bình dân. Đặc biệt, tiểu thương ở đây niềm nở, vui vẻ nên việc mua sắm rất thoải mái luôn tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách. Muốn đi chợ Tinh Biên, nếu xuất phát từ thành phố Long Xuyên, du khách có thể đi theo Quốc lộ 91, chạy khoảng 60km sẽ đến thành phố Châu Đốc. Tiếp tục xuất phát từ Châu Đốc, du khách chạy thêm 30 phút nữa thì đến thị trấn Nhà Bàng. Sau đó, du khách rẽ về đường Xuân Tô khoảng 10km sẽ đến chợ Tịnh Biên. Toàn khu chợ bao gồm các sạp bán liền kề nhau bày bán đa dạng các mặt hàng nội địa và ngoại nhập với mức giá tương đối rẻ như khăn, chăn mền, áo quần, mỹ phẩm,… Các loại đồng hồ cao cấp ngoại nhập, đa dạng kiểu dáng cũng được bày bán rất nhiều. Nổi bật ở khu thực phẩm là các loại khô mắm thơm ngon, đẹp mắt được rất nhiều các du khách mê mẩn như mắm cá linh, khô cá tra phồng, khô cá sửu, mắm thái, mắm sặc, mắm trê, mắm lóc,…tất cả đều có hương vị đặc trưng hấp dẫn với giá chỉ vài chục ngàn đồng. Chợ Tịnh Biên luôn tấp nập người mua kẻ bán vì nơi đây được xem là chợ đầu mối lớn cho toàn khu vực đồng bằng sông Cửu Long, với nguồn hàng dồi dào, đa dạng và giá rẻ. Nhưng đông nhất là vào dịp lễ hội Bà Chúa Xứ, cảnh tượng khu chợ trở nên kín người, mọi người phải chen lấn mới vào được bên trong mua hàng. Một đặc điểm cũng không kém phần thu hút tại Tịnh Biên là khu chợ duy nhất tại miền Tây chuyên bán các loại côn trùng, bao gồm cả các loài cực độc, rất nhiều các khách hàng săn mồi đã tìm đến đây để mua hàng. Các loại côn trùng được bày bán rất phổ biến và bắt khách như mối chúa, tắc kè, bọ cạp, rết, rắn mối, bìm bịp, nhện,… Đặc biệt thỉnh thoảng có nhiều loại rắn độc khá hiếm như rắn hổ, rắn đuôi chuông,… Côn trùng ở đây được bán dưới nhiều hình thức: tươi sống, ngâm rượu, chế biến thành món ăn như chiên giòn hay nướng muối ớt…khiến chợ biên giới Tịnh Biên trở thành khu chợ côn trùng nổi tiếng nhất cả nước. Sau khi mua sắm thả ga, ngay trong khu chợ du khách có thể ghé chân vào các hàng đồ ăn vặt, hàng nước, hàng chè để thưởng thức các món ăn đặc sắc và đậm đà như bún mắm, bún khô, bún riêu, bánh bò thốt nốt, bánh da lợn, bánh bao,…chè, đặc biệt là đừng quên uống 1 ly nước thốt nốt tươi ngon mát lạnh. Đừng quên mua các đặc sản An Giang về làm quà như mắm, đường thốt nốt, quả mây gai, me thái… Đến với Tịnh Biên, ngoài việc sở hữu những món hàng phong phú, chất lượng và những thực phẩm độc đáo, bạn còn có cơ hôi hiểu thêm về cuộc sống và sinh hoạt của người dân vùng biên giới. Chợ Tịnh Biên không những là địa chỉ mua sắm của du khách khi đến với An Giang, mà còn là nơi để trao đổi hàng hóa của người dân giữa 2 nước, góp phần thắt chặt tình hữu nghị, thúc đẩy phát triển kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia.
An Giang 1871 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Du khách có thể tới với Búng vào bất cứ thời điểm trong năm, tuy nhiên theo kinh nghiệm của những người đi rồi cho biết du lịch vào mùa nước nổi là đẹp nhất(từ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch). Vào mùa nước nổi, Búng Bình Thiên như khoác lên mình một chiếc áo mới đầy sức sống. Lý do là diện tích mặt nước của hồ sẽ tăng gấp nhiều lần so với các tháng khác trong năm. Bạn sẽ có giác mặt hồ như rộng hơn và có thể thoải mái khám phá hệ động thực vật dưới nước. Do đây là hồ nước cho nên phương tiện chủ yếu để tham quan đó là đi bằng thuyền. Thông thường, mỗi thuyền sẽ chở khoảng 4-10 du khách đi tham quan với mức giá giao động từ 150.000 – 300.000 VND một người. Theo như những người chèo thuyền cho biết, do búng có độ dài khoảng 500m cho nên đi một vòng sẽ mất một khoảng thời gian là 40 phút. Đến với Búng Bình Thiên, du khách sẽ được trải nghiệm những cảm giác mới lạ khi đên trên lòng búng bình yên, khám phá nhà bè, lồng nuôi cá và chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên xanh mát. Đặc biệt, tại một góc khuất của búng thì du khách sẽ được ngắm nhìn những bông hoa sen hồng tươi đang đua nhau khoe sắc. Các đó không xa, xuôi theo dòng nước sẽ đưa du khách tới với khoảng trời vàng rực của loài hoa nhút. Màu vàng của hoa hòa quyện cùng với màu đỏ của phù sa, xanh của hàng cây ven bờ khiến bạn nghĩ tới câu “Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh”. Bên cạnh hoạt động ngắm cảnh và chụp ảnh ra thì du khách còn được giăng lưới bắt cá linh, hái bông điên điển,… Trong đó, hoạt động tìm hiểu về cuộc sống của người Chăm sinh sống quanh búng lại được rất nhiều người tham gia. Với những nét sinh hoạt văn hóa rất riêng và đặc sắc của người Chăm sẽ mang đến cho chuyến đi nhiều trải nghiệm về mảnh đất An Giang. Vào dịp lễ 2 tháng 9 hàng năm, du khách tới Búng Bình Thiên sẽ được tham dự vào lễ hội Liên hoan Văn hóa mùa nước nổi. Ban ngày thì diễn ra rất nhiều trò chơi như đua thuyền, bơi lội, chống xuồng đua, nơm cá,… Về đêm, ở trên mặt hồ sẽ diễn ra hoạt động văn nghệ tại một sân khấu nổi mang đậm chất dân gian. Không chỉ thu hút du khách bằng nét vẻ đẹp bình dị, mộc mạc của một vùng quê yên tĩnh, Búng Bình Thiên còn níu giữ thực khách ở lại bằng những món ăn dân dã. Một trong những đặc sản tại Búng Bình Thiên mà bạn nên thưởng thức khi tới đây đó là món cá đồng. Còn nếu như bạn đang chỗ người Chăm thì cà ri và lạp xưởng bò là ngon nhất. Ngoài ra vào mùa nước nổi, du khách còn được thưởng thức các món ăn khác như bông súng bóp gỏi, chuột đồng chiên sả ớt, cá linh non kho tiêu, lẩu cá linh bông điên điển, lẩu mắm bông điên điển, gỏi hoa súng, chả cá linh,…
An Giang 1821 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Mùa nước nổi, từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, được coi là thời điểm đẹp nhất để trải nghiệm vẻ đẹp rừng tràm. Nước đổ về khiến rừng cây xanh tốt, kết hợp cùng những lớp bèo phủ xanh mặt nước, tạo nên khung cảnh đẹp. Mùa nước nổi cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài cá tôm và là điểm đến hấp dẫn cho nhiều loài chim. Hãy dành một ngày ở rừng tràm Trà Sư để tận hưởng hết các không gian trong rừng, ăn bữa trưa với các món đặc sản miền Tây. Để thuận tiện di chuyển, du khách nên nghỉ đêm ở thành phố Châu Đốc, khởi hành đi rừng tràm vào buổi sáng, ở lại đến chiều. Rừng tràm Trà Sư nằm cách thành phố Châu Đốc khoảng 30 km, thời gian di chuyển 30 đến 40 phút bằng ôtô hoặc xe máy, đường đi thuận tiện. Thời điểm tốt nhất trong ngày để khám phá rừng tràm là vào sáng sớm hoặc hoàng hôn. Khoảng 15-17h, các loại chim, cò tụ tập về rừng nhiều, tạo nên cảnh thiên nhiên đẹp. Vé tham quan bao gồm toàn bộ khu rừng tràm và thưởng ngoạn cầu tre dài nhất Việt Nam: 100.000 đồng một người. Đây là vé bắt buộc vào rừng, miễn phí với trẻ em dưới 1m3 và người trên 70 tuổi. Vé dịch vụ tàu (xuồng máy): 50.000 đồng một người Vé dịch vụ xuồng chèo (3-4 người một xuồng): 50.000 đồng một người Các tour và nhóm đối tác sẽ có mức giá ưu đãi riêng, liên hệ trước với khu du lịch. Cầu tre xuyên rừng tràm Trà Sư được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận dài nhất Việt Nam, với tổng chiều dài 10 km và kinh phí xây dựng trên 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, cầu mới hoàn thành giai đoạn 1 và đưa vào hoạt động đầu năm 2020 với chiều dài gần 4 km. Đoạn cầu đã khánh thành sử dụng trên 500.000 cây tre các loại và kinh phí xây dựng hơn 5 tỷ đồng. Giai đoạn 2 với chiều dài khoảng 6 km đang được triển khai xây dựng. Dọc tuyến cầu tre được chia thành 5 nhánh có thiết kế chòi nghỉ tại mỗi nhánh. Càng đi vào sâu, khung cảnh hai bên cầu càng đẹp, không gian yên tĩnh và mát mẻ. Cầu dẫn vào bến xuồng máy, nơi du khách có thể lên xuống để thay đổi lộ trình. Ngoài ra, bạn có thể Tham quan rừng bằng thuyền máy hoặc xuồng. Từ bến, du khách có thể lựa chọn xuồng máy (tắc ráng) hay thuyền ba lá. Thuyền máy sẽ đi tốc độ cao, xa hơn. Du khách sẽ trải qua một cuộc hành trình vượt qua những con rạch, chạy thẳng vào lòng rừng tràm. Dọc đường đi, có thể quan sát người dân địa phương thu hoạch mật ong hoa tràm từ các thùng nuôi được đặt trong rừng. Đây là một cơ hội để thư giãn, tận hưởng cảnh đẹp, và cuộc sống của người dân nơi đây. Tham quan rừng tràm bằng thuyền máy hay xuồng ba lá cũng đều là cơ hội cho du khách chụp được những bức ảnh đẹp giữa không gian xanh, bèo phủ kín mặt nước. Nếu may mắn đi vào ngày có nắng, những tia nắng xuyên qua tán cây chiếu xuống sẽ khiến không gian huyền ảo. Nếu muốn quan sát bao quát hơn về rừng tràm, du khách nên ghé lầu vọng cảnh và sử dụng kính viễn vọng. Với tầm nhìn 25 km, du khách có thể ngắm toàn bộ rừng tràm, những chú chim đang bay lượn, hay làm tổ trên các tán cây. Từ đây, cũng có thể nhìn được ngôi làng của người Khmer sinh sống cách đó vài km. Ngay gần lối vào, từ bên khu vực phòng vé chính, cách một con kênh Trà Sư, du khách có thể nhìn thấy những ngôi nhà của chim bồ câu. Nơi đây có khoảng 400 con chim được nuôi thả trong rừng nên được gọi là "Thành phố Bồ Câu". Khung cảnh sân chim khá lãng mạn, du khách có thể chụp ảnh check in, chụp ảnh cưới, cho chim ăn và nhiều hoạt động khác. Lưu ý khi đến Rừng Tràm Trà Sư, đầu tiên Mùa nước nổi cũng là mùa mưa, nên du khách lưu ý mang theo áo mưa hay ô đề phòng những cơn mưa bất chợt. Thứ hai, Sử dụng kem chống nắng, các sản phẩm chống côn trùng, nước uống, đồ ăn nhẹ khi đi vào rừng. Cuối cùng, Tuân thủ theo quy định để đảm bảo an toàn khi đi xuồng tham quan.
An Giang 1847 lượt xem
Từ tháng 9 đến tháng 11
1. Đôi nét về Cù Lao Giêng. Cù lao Giêng có chiều dài khoảng 12km và chiều rộng khoảng 7km. Địa danh này còn có nhiều tên gọi khác nhau như Cù lao Đầu Nước, Dinh Châu hay Diên, Riêng, Den, Ven… Người Khmer thường gọi là Koh Teng. Tên gọi “Cù lao Giêng” mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Có nhiều tài liệu giải thích, dọc sông Cửu Long có nhiều cồn bãi, nhiều cù lao, trong đó cù lao Giêng là nơi được hình thành đầu tiên nên gọi là “giêng” (ý nói đến tháng giêng là tháng đầu tiên của năm). Tuy nhiên, cách lý giải trên chưa được thuyết phục. Theo người dân thì tên gọi “cù lao Giêng” xuất phát từ chữ “Giêng” do chữ “Doanh” (hay “Dinh”, nghĩa là nơi đóng quân) đọc trại (lái) ra. 2. Đường đi Cù Lao Giêng. Cù Lao Giêng cách trung tâm TP Long Xuyên khoảng 25 km, cách TP Châu Đốc khoảng 60km. Muốn đến đây, từ Long Xuyên đi phà An Hoà để qua Chợ Mới. Đi thẳng đến cuối đường quẹo trái, đi thẳng tới hướng cầu Mỹ Luông – Tấn Mỹ. 3. Các điểm thăm quan ở Cù Lao Giêng. Nằm biệt lập giữa bốn bề sông nước, du khách không khỏi ngạc nhiên và đầy thú vị bởi vùng đất nhỏ bé này ẩn chứa cả một quần thể di tích nhiều tôn giáo khác nhau. Du lịch Cù Lao Giêng, bạn còn được hòa mình vào không khí trong lành, tươi mát của “vương quốc xoài”, thưởng thức các món ăn vùng sông nước Miền Tây…Xin giới thiệu đến du khách các điểm tham quan không thể bỏ qua tại Cù Lao Giêng: - Nhà thời Cù Lao Giêng; - Tu viện Chúa Quan Phòng; - Tu viện Phanxico; - Nhà thờ Rạch Sâu; - Chùa Bà Lê (Phước Hội Tự); - Thành Hoa Tự (còn gọi là chùa Ông Đạo Nằm); - Chùa Bà Vú; - Chùa Phước Thành; - Di tích Cột Dây Thép; - Lăng Ba Quan Thượng Đẳng; - Phủ thờ Nguyễn Tộc; 4. Khách sạn, homestay Cù Lao Giêng Chợ Mới. Đến Cù Lao Giêng bạn nên ở lại để cảm nhận cuộc sống bình dị thường ngày của người dân xứ cù lao. Bạn có thể nghỉ lại tại các nhà trọ, nhà nghỉ, khách sạn…trên địa bàn. Đặc biệt có các cơ sở dịch vụ có đủ điều kiện tiếp khách quốc tế như: Happy homestay An Giang ở xã Bình Phước Xuân, khách sạn 1 sao Thanh Bình (thị trấn Mỹ Luông) và khách sạn Lê Ngọc (xã Tấn Mỹ), Út Hùm Homestay… Với loại hình homestay du khách sẽ được cùng gia chủ trải nghiệm câu cá, gói bánh tét, làm đậu hủ, làm nhang… thực sự thú vị. 5. Đặc sản Cù Lao Giêng Đến đây, du khách sẽ được thưởng thức các món ăn dân dã miệt vườn, trong đó có món cá bông lau, xôi phồng, dưa xoài, dưa cóc, rượu chanh chuối… Món ngon nổi tiếng nhất phải kể đến đó là dưa xoài. Xoài non chừng bằng ngón chân cái, gọt vỏ, xẻ đôi, hoặc xẻ tư, bỏ hột rồi cho vô nước ngâm. Sau đó, người ta rửa sạch, ngâm muối rồi đem xả một lần nữa khi ướp nước đường thắng cùng ớt đâm. Sau đó cho xoài đã ướp gia vị vào bọc ni lông, cột chặt miệng, đặt trong thùng xốp, dằn nước đá. Để có những miếng dưa xoài ngon là bí quyết ướp gia vị đúng liều lượng nhưng không sử dụng phèn chua hoặc hàn the để tạo độ giòn. Bốc miếng dưa có màu vàng nghệ đưa lên miệng cắn, dưa giòn trong răng nghe thấy “đã”, nhai nhẹ: vị mặn ngọt chua cay của nó thấm nhanh trong miệng. Muốn mặn, ngọt và cay “nặng” hơn thì chấm dưa vào dĩa muối ớt. Ngoài ra bạn đừng quên mua dưa xoài hay xoài tươi về làm quà cho người thân và bạn bè. Hiện trên địa bàn có 500 ha xoài sạch, an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP. Bạn có thể mua sắm tại các cửa hàng trái cây ở chợ Tấn Mỹ, các vườn xoài, cơ sở sản xuất dưa xoài Hương Giang, dưa xoài Trường Giang… Đứng trên cầu Mỹ Luông – Tấn Mỹ nhìn bao quát dãy đất cù lao xanh mượt trong làn gió sông Tiền đang ầm ập tràn về quả là điều thú vị và nghe lòng thư thái, lãng mạn vô ngần. Xa xa tiếng chuông ngân trong trẻo với bao thanh âm huyền bí từ các nhà thờ làm du khách phải xao lòng. Cù lao Giêng xứng đáng là một đồng bằng sông Cửu Long thu nhỏ, đại diện cho nền văn minh sông nước miệt vườn. Nguồn: thamhiemmekong.com
An Giang 2823 lượt xem
Từ tháng 9 đến tháng 11
Núi Cấm nằm trong vùng Thất Sơn An Giang và là ngọn núi cao nhất miền Tây Nam Bộ với độ cao 716m. Ngoài ra, núi Cấm còn được mệnh danh là nóc nhà của Đồng bằng sông Cửu Long. Đến đây, các bạn sẽ được tham quan và chiêm bái những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Chùa Vạn Linh, Hồ Thủy Liêm… Ngoài ra, bạn sẽ có được những cung bậc cảm xúc khác nhau khi khám phá những địa điểm thú vị có có trong Khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm này.Thời gian đẹp nhất để đến Khu du lịch Núi Cấm An Giang là mùa xuân. Khi mà cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa nở khắp nơi làm cho khung cảnh núi Cấm An Giang tràn ngập màu sắc tươi mới. Tiết trời mùa xuân cũng là lúc mà khí hậu tại Thiên Cấm Sơn dễ chịu nhất. Buổi sáng, sương sẽ giăng đầy mọi nẻo đường trên núi và sẽ tan khi nắng lên, thời tiết cũng nhờ vậy mà ấm lên. Đến chiều tối, khi ngước lên bầu trời bạn sẽ thấy mây trôi bềnh bồng và thời tiết se lạnh mang đến cảm giác như đang lạc vào tiên cảnh.Chùa Vạn Linh còn có tên gọi khác là chùa Lá bởi ban đầu chùa được dựng lên chỉ là một ngôi tự bằng tranh đơn sơ do hòa thượng khai sơn Thích Thiện Quang xây dựng năm 1927. Đến năm 1995, chùa được thiết kế lại và xây mới theo lối kiến trúc cổ truyền phương Đông với 3 ngọn tháp sừng sững uy nghi được đặt tại 3 vị trí khác nhau trước tiền đường. Tháp chuông 9 tầng là nơi đặt Đại Hồng Chung khổng lồ nặng 1,2 tấn vô cùng nổi bật, tháp Quan Âm 9 tầng cao hơn 35 mét và tháp tưởng nhớ Hòa thượng khai sơn Thích Thiện Quang có 3 tầng. Cả ba ngọn tháp đều là những điểm thu hút mọi người đến thăm viếng, bái lạy, cầu khấn. Đây cũng là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng bậc nhất tại Khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm An Giang.Tiếp đến, chúng ta sẽ lại đến với một kiến trúc Phật giáo khác tại Khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm An Giang đó là chùa Phật Lớn. Chùa Phật Lớn hay còn gọi là Thiền viện chùa Phật Lớn được khởi công xây dựng năm 1912. Nếu Khu du lịch Cáp treo Núi Sam nổi tiếng với tượng Phật ngọc thì tại đây có bức tượng Phật Di Lặc khổng lồ có thể được nhìn thấy từ tít phía xa. Tượng cao 33,6 mét và được sách Kỷ lục Việt Nam ghi nhận là tượng Phật Di Lặc lớn nhất.Sau khi chiêm bái hai địa điểm trên, các bạn có thể đến nghỉ chân tại hồ Thủy Liêm. Hồ Thủy Liêm sở hữu vị trí đắc địa ngay tại trung tâm núi Cấm An Giang. Chỉ cần phóng tầm mắt ra xa, bạn có thể nhìn thấy cảnh quan hữu tình của núi non và sự thơ mộng, lãng mạn của hồ nước trong vắt, xanh như ngọc. Với diện tích hơn 60.000 mét vuông và sức chứa lên đến 300.000 mét khối nước, quả không ngoa khi nói rằng đây là một hồ nước kỳ vĩ. Bao quanh hồ Thủy Liêm là hoa cỏ đầy màu sắc và những cây cầu kiểu cách được sắp xếp đầy nghệ thuật tạo nên một phong cảnh mỹ lệ khó mà miêu tả được bằng lời. Cùng với hệ thống quán cà phê xung quanh, nơi đây quả là vị trí thư giãn lý tưởng sau khi tham quan nhiều cảnh quan hùng vĩ khác. Đến với hồ Thủy Liêm, bạn sẽ có cơ hội trò chuyện, tiếp xúc với người dân bản địa. Họ sẽ kể bạn nghe về các đạo sĩ ẩn cư nơi núi Cấm An Giang ngày nào và những giai thoại ly kỳ của vùng đất đã góp phần tạo nên Thất Sơn huyền bí.Lên cao hơn nữa, chúng ta sẽ đến với Vồ Bồ Hong. Vồ Bồ Hong ngày nay thường được nhắc đến bằng cái tên Điện Bồ Hong là nơi cao nhất trên đỉnh núi Cấm nói riêng và cả dãy Thất Sơn nói chung. Lên đến đỉnh Bồ Hong, bạn sẽ được trải nghiệm cảm giác như bắt được mây, chiêm ngưỡng toàn cảnh vùng núi Cấm Tịnh biên An Giang với những cánh đồng lúa trải dài như vô tận đến tận vùng biển Hà Tiên và biên giới Tây Nam. Điện Bồ Hong có thờ tượng Ngọc Hoàng cũng vì thế mà hàng năm có vô số tín đồ đến đây để tham quan, chiêm bái. Về tên gọi Vồ Bồ Hong, tương truyền ngày xưa đây là nơi cư trú của một loại côn trùng tên bồ hong nên mới được gọi như vậy.Sau những vị trí mang tính tôn giáo trang nghiêm, núi Cấm Tịnh biên An Giang còn có một khu vui chơi dành cho những bạn thích vận động vui đùa - Công viên nước Thanh Long. Nằm tựa mình vào núi Cấm Tịnh biên An Giang hùng vĩ, công viên nước Thanh Long hội tụ nhiều yếu tố chủ chốt để tạo nên một trải nghiệm tuyệt vời: khí hậu mát mẻ, phong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, hệ thống thác nước nhân tạo hoành tráng và cuối cùng là vô số những trò chơi mạo hiểm đang chờ bạn khám phá.
An Giang 1194 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Thánh Đường Masjid Al Ehsan là một trong những địa điểm du lịch văn hóa và tâm linh nổi tiếng ở tỉnh An Giang. Khám phá thánh đường, du khách sẽ có những trải nghiệm tuyệt vời với lối kiến trúc tuyệt đẹp và nét văn hóa người Chăm độc đáo.Khi đến An Giang, du khách có thể bắt gặp dễ dàng những tòa nhà có lối kiến trúc độc đáo, tương tự như trong xứ “Nghìn lẻ một đêm". Những tòa nhà này đều toát lên vẻ đẹp huyền bí và uy nghiêm. Thánh đường Masjid Al Ehsan được xem là một trong những tòa nhà có quy mô và kiến trúc đẹp nhất ở đây.Năm 1937, thánh đường hồi giáo Masjid Al Ehsan được bắt đầu khởi công xây dựng. Sau khi tồn tại mấy chục năm, đến năm 1992, thánh đường được trùng tu lại và có hiện trạng như ngày nay. Thánh đường thường được cộng đồng người chăm ở tỉnh An Giang thường xuyên lui tới để cầu nguyện, mong cuộc sống luôn bình an và hạnh phúc. Nơi đây cũng là địa điểm thường xuyên tổ chức các bữa tiệc ăn uống vào những ngày lễ lớn của đạo Hồi. Ngoài ra, thánh đường còn được coi như là một trung tâm giáo dục đặc biệt và là địa điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh An Giang, thu hút du khách gần xa đến tham quan.Hiện tại, thánh đường hồi giáo Masjid Al Ehsan có 1 tầng trệt và 1 tầng lửng. Nhìn từ xa, thánh đường cực kỳ nổi bật với tông màu trắng tinh khôi chủ đạo. Xen kẽ là những hoa văn và đường viên được phủ một màu xanh lục. Thánh đường Masjid Al Ehsan sở hữu lối kiến trúc rất giống với những thánh đường hồi giáo ở khu vực Trung Đông và ở Dubai. Thành đường có hình dáng như một củ hành với phần dưới rộng và phần mái được bo tròn, có phần chóp đỉnh. Phía phần chóp đỉnh của thành đường có biểu tượng vầng trang khuyết và biểu tượng ngôi sao – những biểu tượng đặc trưng của những thánh đường Hồi giáo.Khi vừa mới đến thánh đường, bạn sẽ bắt gặp hình ảnh những người Chăm rất đặc biệt. Những người Chăm ở đây mặc trang phục truyền thống của họ với quần rộng, đội mũ và phụ nữ thì thường bịt khăn quanh mặt. Những hình ảnh này khiến cho bạn cảm tưởng như đang bước vào một thế giới khác, vô cùng mới lạ và thú vị. Thánh đường Masjid Al Ehsan có một hành lang rộng rãi. Phía bên ngoài có một khu nghĩa trang, là nơi an táng của những người theo đạo Hồi ở đây. Phía bên trong thánh đường được trang trí bởi những chùm đèn lộng lẫy, những hoa văn và các cột đá tinh xảo. Các chi tiết trang trí được sắp xếp, tạo nên một không gian nghệ thuật vô cùng đẹp mắt và huyền bí.Sau khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền bí, cổ kính của thánh đường, bạn có thể đến làng Chăm ở gần đó để tiếp tục tham quan. Đây là một trong những ngôi làng người chăm tiêu biểu nhất ở tỉnh An Giang. Người chăm ở đây vẫn giữ được các nét truyền thống như ở nhà sàn, dệt thổ cẩm và theo tín ngưỡng Hồi giáo.Thánh đường Masjid Al Ehsan là địa điểm dừng chân lý tưởng khi đi du lịch An Giang. Không chỉ được tham quan, khám phá nét văn hóa, kiến trúc của đạo Hồi mà bạn còn có thể bỏ túi những bức hình sống ảo cực chất.
An Giang 1209 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Hồ Ô Thum là khu du lịch sinh thái nổi tiếng tại An Giang với phong cảnh núi non hùng vĩ, hoang sơ và cảnh quan sơn thủy hữu tình như bức tranh thủy mặc được thiên nhiên khắc họa. Đây là điểm đến lý tưởng cho những người yêu thích đắm mình vào không gian thiên nhiên bình yên, tĩnh lặng và khám phá vẻ đẹp của núi rừng.Hồ Ô Thum nằm trên đoạn đường tỉnh D15 đi vào, gần đồi Tức Dụp, Thốt Nốt Trái Tim. Nhắc đến Hồ Ô Thum, người ta thường nhớ đến phong cảnh thiên nhiên nên thơ, hữu tình và món gà đốt rất nổi tiếng ở nơi đây. Không chỉ vậy, nơi đây còn là điểm du lịch tâm linh của đông đảo mọi người. Bất kỳ ai có tín ngưỡng Phật pháp đều biết đến vùng đất linh thiêng Bảy Núi của tỉnh An Giang. Vùng đất này cũng sở hữu nhiều ngôi chùa độc đáo và đẹp nhất Việt Nam. Hồ Ô Thum được người dân nơi đây phát hiện từ rất lâu và xem đây như một không gian thiên nhiên yên bình, chưa khai phá nhiều. Mặc dù diện tích Hồ Ô Thum không quá rộng lớn nhưng nó lại nằm tựa lưng vào triền núi nên tạo cảm giác rất thơ mộng và yên bình.Quang cảnh xung quanh của Hồ Ô Thum rất yên bình, từng làn sóng nước gợn lăn tăn, gió thổi nhẹ nhàng đưa chút hương cỏ cây quanh quẩn quanh chóp mũi. Mặt nước phẳng lặng hòa cùng với với sắc xanh tươi của núi rừng hùng vĩ đã làm cho Hồ Ô Thum trở nên như một bức tranh thủy mặc vô cùng sinh động và hết sức nên thơ. Do đó, nơi đây đã trở thành điểm đến du lịch nổi tiếng thu hút rất đông đảo khách du lịch đến tham quan và chiêm ngưỡng không gian. Đặc biệt, bất kỳ du khách nào khi đến với vùng đất này cũng đều có kỉ niệm khó phai với món gà đốt trứ danh của vùng đất An Giang. Ngoài gà đốt lá chúc đặc trưng, nhiều người cũng thích các món ăn được chế từ đường thốt nốt đặc sản ở đây. Dù là món gà đốt đậm đà hương sắc hay vị đường thốt nốt ngọt ngào thì khi kết hợp với non nước thiên nhiên hữu tình ở Hồ Ô Thum cũng đều khiến bao trái tim du khách mê mẩn quên lối về.Theo những kinh nghiệm du lịch Hồ Ô Thum của khách du lịch trong và ngoài tỉnh thì thời gian lý tưởng nhất để đến đây tham quan là vào mùa mưa. Trong khoảng thời gian này, nước ở Hồ Ô Thum An Giang dâng cao lên đến bờ, hai bên vô cùng mênh mông nước và tiết trời An giang lúc này cũng rất trong lành, cực kỳ phù hợp với những ai muốn hòa mình vào thiên nhiên và chìm đắm trong cảnh sắc nên thơ hữu tình này để xua tan đi mọi căng thẳng mệt nhọc của công việc, cuộc sống.Khi đến tham quan Hồ Ô Thum, bạn có thể dạo chơi theo con đường ven hồ, ngắm nhìn những hàng cây thốt nốt mọc xanh tươi quanh hồ, cảm nhận sự bình yên, tĩnh lặng của không gian núi rừng An Giang. Khi đưa mắt nhìn xung quanh khu vực Hồ Ô Thum, bạn sẽ thấy có rất nhiều cây thốt nốt mọc rải rác quanh hồ. Cây thốt nốt là một biểu tượng gắn liền bao đời của vùng đất An Giang này. Giữa mặt Hồ Ô Thum có một gò đất nhô lên khá cao, nằm tách biệt so với mặt nước như một hòn đảo nho nhỏ nằm giữa mặt hồ bao la. Người dân xung quanh nơi đây đã cùng chung tay góp sức để xây dựng thêm một cây cầu bằng gỗ nối liền giữa hai bên bờ và gò đất, vừa thuận tiện cho việc đi lại vừa tạo nên một dấu ấn đặc biệt tô điểm thêm cảnh sắc của Hồ Ô Thum khiến không gian càng thêm lãng mạn, nên thơ. Đặc biệt, cây cầu gỗ bắc ra giữa sông cũng là điểm nhấn giúp khách du lịch có được những bức hình check-in đầy thơ mộng. Sau một vòng dạo chơi quanh hồ và chiêm ngưỡng cảnh sắc nơi đây thì bạn có thể mua vé trải nghiệm tự chèo thuyền quanh hồ. Ngồi trên con thuyền thôi lản tản giữa biển hồ rộng lớn ấy, lướt nhẹ qua những làn nước xanh, chạm tay vào làn nước mát rượi và chìm đắm trong không gian đầy lãng mạn cùng bầu không khí thoảng hương thơm nhè nhẹ của cỏ cây, tất cả những muộn phiền trong cuộc sống dường như trôi hết đi, chỉ còn lưu giữ ở đây những bình yên và thư thái trong tâm hồn. Còn gì tuyệt hơn nếu bạn đến đây cùng những người mình yêu thương, cùng nhau chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên lắng đọng và tỉ tê cho nhau nghe những điều muộn phiền trong cuộc sống, để gió cuốn đi.
An Giang 878 lượt xem
Từ tháng 05 đến tháng 11
Cù lao Giêng thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang tuy nhỏ nhưng con người thì hiền hòa, chất phác, phóng khoáng. Không chỉ là vùng đất màu mỡ, khí hậu trong lành, cây trái xum xuê và dồi dào sản vật, mà quần thể kiến trúc tôn giáo đồ sộ nơi đây còn là điểm đặc biệt, tạo nên sự khác biệt trên đất cù lao, nhất là thánh đường Cù Lao Giêng.Thánh đường cù lao Giêng hay còn gọi là Thánh đường họ Đầu Nước, là nhà thờ thuộc Giáo phận Long Xuyên, tọa lạc tại ấp Tấn Bình, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới. Theo tư liệu cũ, đây là ngôi thánh đường đầu tiên của xứ Nam kỳ xây dựng trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn đến 13 năm.Theo sử cũ, đầu thế kỷ 18, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thoát, do ban nhiều chỉ dụ gắt gao cấm việc truyền bá đạo Thiên Chúa, nên một số người theo đạo (có cả các Cha cố người Pháp) đã đến cù lao Giêng trốn tránh, rồi lập ra các cơ sở tôn giáo ở đây. Năm 1778, một đoàn lưu dân Thiên Chúa kéo đến ngụ ở cù lao Giêng, mở đất, lập giáo đường. Nếu tính theo dòng chảy của sông Tiền, thì đây là nhà thờ đầu tiên và lớn nhất được xây dựng ở Tây Nam bộ tính từ hạ lưu sông Mê Kông. Cho nên, Họ đạo nơi đây có tên là “Họ đạo Đầu Nước”, cù lao Giêng có thêm tên là “cù lao Đầu Nước”. Nhà thờ Cù lao Giêng là công trình kiến trúc cổ được linh mục Gafignol (thường gọi là cha Nho) cho khởi công xây dựng từ năm Ất Hợi 1875, đời Tự Đức. Việc xây dựng nhà thờ lớn ở một vùng đất cù lao hầu như cách biệt với thế giới bên ngoài lúc bấy giờ vô cùng khó khăn. Phần lớn các nguyên vật liệu phải mang từ bên Pháp qua. Năm Đinh Hợi 1887 đời Đồng Khánh, công trình hoàn thành.Năm 1924, thời cha sở M. Hion, nhà thờ được xây phía sau thêm 1 căn làm phòng thánh. Từ khi xây dựng đến nay, nhà thờ qua nhiều đợt trùng tu vào các năm: 1924, 1960, 1994, 2003 nên ngày càng khang trang.Nhà thờ cù lao Giêng được thiết kế theo mô-típ Romane, xây dựng trên diện tích 7.367m2. Tòa tháp chuông cao 35m, trên hình bầu tròn, dưới hình vuông với nhiều đường nét hoa văn chạm trổ công phu, tinh xảo. Tường vách của nhà thờ được xây dựng từ gạch đặc ruột, bản to và chắc chắn cùng với các chất kết dính như hồ ô dướt và phụ liệu. Tường nhà thờ khá dày nên bên trong nhà thờ luôn thoáng mát. Nơi đây, du khách đến tham quan còn thấy gạch lót nền suốt hơn trăm năm qua vẫn còn giữ nguyên màu sắc, hoa văn. Khi bước qua khỏi cánh cửa lớn làm bằng gỗ thấy ngay mái vòm ngôi nhà thờ cao vút. Hai bên là những hàng cột uy nghi và sang trọng, tạo cho người ta có cảm giác như đang bước vào không gian cổ xưa của châu Âu.Trần nhà thờ là mái vòm hình bán nguyệt cao vút với những đường viền hoa văn rất đẹp. Chánh điện thờ tượng Đức mẹ Vô nhiễm Nguyên tội được mang từ Pháp sang, đến nay vẫn còn nguyên vẹn chất liệu và màu sắc.Phía trước mặt nhà thờ là tháp chuông cao, trong tháp chuông có hai quả chuông đồng đúc tại Pháp do gia đình ông Phaolô Lê Văn Sang kính dâng, đặt ở lầu một và lầu thượng. Lòng nhà thờ có ba căn, căn chính rộng 8m, hai căn phụ mỗi căn rộng 4m. Hiện nay hầm mộ Cha Augustinus- Baptista Gazignol và hai cha phó vẫn ở giữa phía dưới lối đi bên trong nhà thờ.Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, nhà thờ Cù Lao Giêng vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn. Có thể nói đây cũng là một di tích cổ xưa của lịch sử Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam và là niềm tự hào của kiến trúc tôn giáo trên đất Cù Lao Giêng.Du lịch An Giang, đến thăm Thánh Đường Cù Lao Giêng khách tham quan còn thấy gạch lót nền suốt hơn trăm năm qua vẫn còn giữ nguyên màu sắc, hoa văn. Khi bước qua khỏi cánh cửa lớn làm bằng gỗ thấy ngay mái vòm ngôi nhà thờ cao vút. Hai bên là những hàng cột uy nghi và sang trọng, tạo cho người ta có cảm giác như đang bước vào không gian cổ xưa của châu Âu bề thế, đẹp mắt và hoành tráng.Cách nhà thờ cù lao Giêng không xa là tu viện Phan-xi-cô và tu viện Chúa Quan Phòng. Những công trình kiến trúc độc đáo gần kề nhau nằm dọc theo bờ cù lao, mặt hướng ra sông Tiền, góp phần tạo cho cù lao Giêng thêm hấp dẫn bởi nét cổ kính của miệt vườn sông nước Cửu Long mà ít nơi nào có được.
An Giang 915 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Di tích Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Cột dây thép được thực dân Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ 19, làm hệ thống thông tin liên lạc nối giữa 2 xã Long Điền và Tấn Mỹ, được bố trí nằm sát bên một nhánh sông Tiền. Thân cột được làm từ 4 cột trụ thép, gắn kết vào nhau tạo thành hình tháp, chóp vuông, với tổng chiều cao hiện nay hơn 30m, rất vững chắc. Mỗi chân bằng thép hình chữ (L) nối kết không đều, cách nhau khoảng 1,5m. Cột có bệ đá bao xung quanh, nằm ở vị trí giữa cổng chính vào khu di tích. Khu di tích có diện tích khoảng 3.000m2. Ngoài khuôn viên rộng lớn dành tổ chức kỷ niệm hay các sự kiện, bên trong còn có nhà truyền thống, lưu giữ những đồ vật, hình ảnh một thời của lãnh đạo và nhân dân địa phương. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở thống nhất 3 tổ chức Đảng ở nước ta, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Đảng ra đời như ánh hào quang soi sáng con đường cho cách mạng Việt Nam, vận động thu hút đông đảo quần chúng nhân dân giác ngộ và đi theo con đường cách mạng của Đảng. Tại An Giang, tỉnh đã chọn Chợ Mới làm điểm phát triển tổ chức. Từ đây, chi bộ Đảng đầu tiên cũng được thành lập tại xã Long Điền vào tháng 4/1930. Lúc đầu gồm 3 đồng chí: Lưu Kim Phong, Bùi Trung Phẩm và Đoàn Thanh Thủy. Nhằm phát triển mạnh cơ sở, các đồng chí đã đi sâu vào vận động quần chúng nhân dân, thợ thủ công. Để qua mắt bọn tay sai và thực dân, lợi dụng phong trào bóng đá ở sân vận động Mỹ Long (xã Long Điền), các đồng chí đã bí mật truyền tay nhau để tuyên truyền Đảng Cộng sản sâu rộng. Chúc mừng sự kiện hình thành chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh An Giang, một lá cờ Đảng đã được treo trên đỉnh Cột dây thép, nhưng sớm bị thực dân Pháp lấy xuống. Mấy hôm sau, lá cờ Đảng thứ 2 được treo lên trong đêm khuya. Sáng hôm sau lá cờ đỏ “búa liềm” phất phơ tung bay như “Ánh hào quang trên dòng sông Tiền”, khiến kẻ thù vừa phẫn nộ và lo sợ, còn nhân dân vô cùng phấn khích. Từ đây, Cột dây thép chính là địa điểm mà Đảng ta đã tập hợp quần chúng nhân dân 2 lần biểu tình. Nhiều chi bộ Đảng cũng được thành lập và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành nhiều thắng lợi. Khu di tích hiện còn lưu giữ một số đồ vật trong nhà truyền thống. Với những dấu mốc son trong phong trào đấu tranh giành độc lập, Cột dây thép trở thành địa danh lịch sử cách mạng tiêu biểu và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 9/1/1990. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 2918 lượt xem
Chùa Phước Hội được người dân địa phương gọi với tên thân thương là chùa Bà Lê toạ lạc tại xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Sở dĩ có tên gọi này bởi ngôi chùa được xây dựng trên phần đất của bà Lê, một người Việt gốc Hoa sống tại địa phương. Chùa Bà Lê theo hệ phái Đại thừa, được xây dựng vào cuối năm 1897, bằng tre, lá đơn sơ làm nơi tín ngưỡng của người dân địa phương. Chùa Phước Hội thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát, Địa Tạng bồ tát... Không chỉ thờ Phật, tại chính điện chùa Bà Lê còn thờ các vị: Ngọc Hoàng đại đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tứ đại Thiên Vương… Ngoài ra, trong chùa còn có khu vực thờ những người có công, hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ đất nước. Không chỉ là nơi thờ tự, chùa Phước Hội còn là “địa chỉ đỏ”, ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử của địa phương. Đặc biệt, ngay từ những năm đầu thành lập, chùa là nơi tụ họp của nhân dân đấu tranh chống lại quân thù. Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ của quân và dân tỉnh An Giang, chùa Phước Hội là một trong những cơ sở cách mạng vững chắc. Từ năm 1920-1965, khi hòa thượng Thích Quảng Đạt về làm trụ trì tại chùa, đã có công lớn trong công tác, hoạt động cách mạng như: Tiếp tế lương thực, vũ khí, đạn dược và nuôi chứa nhiều cán bộ cách mạng cấp tỉnh, huyện. Trong những năm 1945-1946, chùa Bà Lê là cơ sở Văn phòng của Ủy ban Hành chánh Kháng chiến; là nơi tổ chức thanh niên tập luyện quân sự chống Pháp. Đây còn là cơ sở chế tạo vũ khí thô sơ và in ấn truyền đơn, tài liệu... Chùa Bà Lê là nơi đào tạo nhiều thế hệ quần chúng yêu nước. Nhiều cán bộ địa phương đã trưởng thành, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Đặc biệt, nhiều cán bộ xuất thân từ ngôi chùa đã đóng góp xương máu và cả tính mạng cho Tổ quốc. Nổi bật trong đó có chị Huỳnh Thị Hưởng, liệt sĩ được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng của chị Huỳnh Thị Hưởng đã làm sáng ngời truyền thống vẻ vang cho quê hương, xứ sở. Đồng thời làm sáng lên tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân An Giang. Ngày nay, trên quê hương Hội An có một ngôi trường được xây dựng khang trang mang tên Huỳnh Thị Hưởng, lưu dấu cho các thế hệ học sinh nhớ đến tấm gương bất khuất của người nữ du kích anh hùng. Ngày 12/12/1986, Bộ Văn hóa công nhận chùa Bà Lê (Phước Hội Tự) là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đặc biệt, hàng năm, vào dịp kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chùa đón tiếp nhiều cán bộ, chiến sĩ đến dâng hương, thành tâm kính bái trước anh linh của các anh hùng liệt sĩ được thờ phụng trong chùa. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng trên mảnh đất anh hùng. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 2309 lượt xem
Di Tích Nhà mồ Ba Chúc thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 10/7/1980. Nơi đây lưu giữ hài cốt của những người dân vô tội bị sát hại và được xem là một bản cáo trạng về tội ác diệt chủng của Pôn Pốt, muôn đời còn ghi nhớ. Đồng thời khẳng định giá trị nhân văn, tính chính nghĩa và nghĩa vụ quốc tế cao cả của Quân tình nguyện Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng và tái thiết đất nước. Vào đêm 30-4-1977, cùng lúc với 14 xã biên giới của tỉnh An Giang, Pôn Pốt đã xua quân tấn công, tàn sát đồng bào ta một cách man rợ. Đỉnh cao của tội ác này là cuộc thảm sát 3.157 người dân Ba Chúc từ ngày 18-4 đến 30-4-1978. Qua 12 ngày đêm bị bọn Pôn Pốt chiếm đóng, Ba Chúc bị dìm trong biển máu. Đi đến đâu chúng cũng cướp bóc tài sản, đốt phá nhà cửa các công trình công cộng; tàn sát đồng bào ta không kể già trẻ, nam nữ. Phần lớn nạn nhân bị bắn, chém, chặt đầu. Nhiều phụ nữ bị hãm hiếp, bị đóng cọc vào chỗ kín, trẻ em thì bị đâm lê trước khi giết chết hoặc xé đôi người, nắm hai chân đập đầu vào gốc cây… Chùa Phi Lai là một trong những địa điểm bị phá hủy nặng nề. Nơi đây, bọn Pôn Pốt giết gần 300 người dân vô tội. Dưới bàn thờ của chùa có 43 người lẩn trốn, cũng bị chúng dùng lựu đạn giết chết 40 người. Tại chùa Tam Bửu, quân Pôn Pốt bắt hơn 800 người. Sau thảm sát, Ba Chúc chỉ còn lại là một vùng đất tan hoang với những nỗi đau thương đến tận cùng. Đó là giai đoạn khó khăn nhất của Ba Chúc. Mọi cơ sở vật chất gần như bị san bằng, Ba Chúc chìm trong tang thương và đầy rẫy mùi tử khí. Thảm sát qua đi, hơn 30 phái đoàn ngoại giao, báo chí và Liên Hiệp quốc đã đến nơi để chứng kiến tận mắt tội ác của bọn Pôn Pốt đối với đồng bào Ba Chúc. Nhà mồ đầu tiên được xây dựng ngay sau khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc vào năm 1979. Khi đó nhà mồ xây dựng khá đơn giản theo hình lục giác với đặc điểm nổi bật là 4 cánh tay cầm 4 thanh kiếm đẫm máu cắm thẳng xuống đất, thể hiện ý chí căm thù của người dân Việt Nam đối với bọn giết người man rợ Pôn Pốt. Năm 2013, nhà mồ được xây dựng lại, là một quần thể công trình rộng khoảng 5ha, gồm nhà mồ, nhà lưu niệm, hội trường và chùa Tam Bửu, Phi Lai. Điểm nhấn công trình Nhà mồ Ba Chúc hiện tại được thiết kế hình hoa sen úp ngược, với 8 cánh hoa sen được sơn màu trắng, nhằm giảm bớt cảnh tang thương chết chóc. Mỗi cánh hoa sen là nơi trưng bày một nhóm hài cốt theo độ tuổi, giới tính khác nhau như: 86 phụ nữ trên 60 tuổi; 155 phụ nữ từ 21 đến 40 tuổi; 88 thiếu nữ từ 16 đến 20 tuổi; 264 trẻ em từ 3 đến 15 tuổi; 23 nam từ 16 đến 20 tuổi… Những vật dụng như cọc, dùi, dao, búa… mà quân Pôn Pốt dùng để hành hạ, giết chóc người dân Ba Chúc, được đặt nằm im ắng trong các lồng kính, nhưng chứa đựng sức mạnh tố cáo tội ác ghê gớm. Ở nơi đây, nhang khói không bao giờ tắt, luôn có người đến thăm viếng, tham quan. Không ít người đã không kìm được nước mắt thương cảm, xót xa cho những con người vô tội. Hàng năm, lễ giỗ tập thể nạn nhân Ba Chúc được tổ chức vào ngày 16/3 (âm lịch). Đây được xem là lễ giỗ tập thể rất lớn tại Việt Nam, thu hút hàng ngàn du khách, tín đồ tôn giáo và thân nhân các nạn nhân tham gia cúng viếng, cầu nguyện. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1989 lượt xem
Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng nằm ở Cù lao Ông Hổ, giữa sông Hậu, tổ 4, ấp Mỹ An 2, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1980) là Chủ tịch nước thứ hai và cuối cùng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Chủ tịch nước đầu tiên của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ca ngợi ông "là gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân". Ông là người đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, năm 1958. Cũng trong dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90, đoàn Chủ tịch Quốc hội Mông Cổ đã trao tặng Chủ tịch Tôn Đức Thắng Huân chương Xukhe Bato - Huân chương cao quý nhất của Mông Cổ. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận được Giải thưởng Lê nin vì hòa bình và hữu nghị các dân tộc (năm 1955) và Huân chương Lê nin - năm 1967 do Chính phủ Liên bang Xô viết trao tặng. Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia năm 1984. Đây là nơi Bác Tôn đã sinh ra, trưởng thành. Khu di tích này rộng khoảng 3.102m2, nằm trong một tổng thể không gian cảnh quan thoáng mát như bao nhiêu làng quê Nam Bộ, bao gồm các hạng mục: - Ngôi nhà sàn: do ông Tôn Văn Đề, thân sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, dựng năm 1887, trên nền đất hương hỏa dòng họ Tôn. Năm 1888, Bác Tôn sinh ra tại ngôi nhà này và sống ở đây suốt thời niên thiếu đến khi rời quê lên Sài Gòn học nghề (năm 1906). - Khu mộ chí: nằm trong khu vực vườn cây ăn quả, có diện tích nền 110m2, thẳng phía sau nhà sàn, là nơi an nghỉ cuối cùng của hai thân sinh và vợ chồng người em trai thứ tư của Bác Tôn là bác Tôn Đức Nhung. - Vườn cây: gồm các loại cây, hoa trái tiêu biểu của vùng đất Nam Bộ như: mai, tre xanh, vú sữa, xoài... - Công trình Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Bác Tôn, gồm 3 hạng mục: + Đền tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng; + Nhà trưng bày: giới thiệu toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn; + Quảng trường: nằm bên bờ sông Hậu, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, mít tinh. lễ hội.... - Công trình Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Bác Tôn, gồm 7 hạng mục: + Nhà làm việc của Bác Tôn; + Chiếc Ca nô: mang tên Giải phóng, đây là chiếc ca nô mà Bác Tôn Đức Thắng đã điều khiển, đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo Đảng và cán bộ cách mạng bị tù Côn Đảo trở về, chấm dứt 15 năm Bác Tôn bị tù đày tại địa ngục Côn Đảo; + Máy bay Y-A-K40 số 452: đã đưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ Hà Nội vào Sài Gòn ngày 11/5/1975 để dự lễ mít tinh kỷ niệm 30/4/1975; + Tàu Giang cảnh: là phương tiện đưa Bác Tôn từ Long Xuyên về thăm quê nhà cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tháng 10 năm 1975; + Nhà trưng bày các tác phẩm điêu khắc: gồm 23 tác phẩm điêu khắc, bằng gốc cây lâu năm, chủ đề về Bác Tôn và quê hương Mỹ Hòa Hưng. Trong ngôi nhà sàn vẫn lưu giữ 12 hiện vật gốc được gia tộc họ Tôn sử dụng từ khi dựng nhà, tiêu biểu như: bộ ngựa gõ, bộ bàn ghế tiếp khách, tủ thờ, đỉnh trầm, tủ áo... Nhà Trưng bày thân thế, sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng có 36 hiện vật gốc gắn với cuộc đời niên thiếu và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác Tôn, tiêu biểu như: đôi hài hàm ếch, đồng hồ đeo tay, quần kaki, ... và nhiều hiện vật phục chế khác. Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, du lịch. Ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
An Giang 1781 lượt xem
Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành (xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang). Đây là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh hào hùng của Quản cơ Trần Văn Thành cùng các nghĩa binh Gia Nghị trong cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa chống thực dân Pháp. Quản cơ Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông khá giả ở xã Bình Thạnh Đông (huyện Phú Tân), khi vừa lớn lên, ông được đi học chữ Nho. Ông học ít nhưng biết nhiều, sau đó ông được cụ thân sinh rước thầy về nhà dạy thêm võ nghệ, trước hết là để phòng thân và sau là có điều kiện giúp người dân lương thiện. Từ năm 1840, ông Trần Văn Thành nhập ngũ, đến năm 1845 ông làm Chánh quản cơ nên còn được gọi là Quản cơ Thành. Năm 1867, Pháp chiếm thành Châu Đốc (tỉnh An Giang). Không khuất phục giặc, ông kéo lực lượng dân binh về Bảy Thưa xây dựng căn cứ, phối hợp với nghĩa quân Nguyễn Trung Trực kháng Pháp trong vùng Long Xuyên, Rạch Giá. Sau khi Nguyễn Trung Trực bị Pháp xử tử (năm 1868), Quản cơ Trần Văn Thành quy tụ nghĩa quân khắp vùng miền Tây về Láng Linh xây dựng đồn lũy, rèn đao, đúc kiếm, đánh phá đồn bót giặc... Quân Pháp nhiều lần đánh vào Láng Linh - Bảy Thưa nhưng không đạt kết quả. Đầu năm 1873, Pháp cho người mang thư đến mua chuộc nhưng Quản cơ Trần Văn Thành cương quyết không chịu quy thuận. Không mua chuộc được ông, Pháp huy động lực lượng lính mã tà của Long Xuyên, Cần Thơ, Châu Đốc tấn công vào vùng Châu Phú. Từ ngày 19 đến 20/3/1873, Quản cơ Trần Văn Thành trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chống giặc và hy sinh anh dũng. Nhân dân thương tiếc tôn gọi ông là Đức Cố Quản, lập đền thờ ở Láng Linh. Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành, còn gọi là Bửu Hương tự hay dinh Đức Cố Quản được xây dựng vào năm 1897, là nơi tưởng nhớ Quản cơ Trần Văn Thành và nghĩa binh Gia Nghị đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa (1867-1873) cũng là nơi tập hợp nhân dân và tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương yêu nước chống thực dân Pháp. Tháng 2/1913, nhân ngày giỗ của Quản cơ Trần Văn Thành và nghĩa binh Gia Nghị, ông Trần Văn Nhu tổ chức lễ khá lớn, nhân dân yêu nước quanh vùng và con cháu nghĩa binh tham dự rất đông. Thực dân Pháp lo sợ nên đã đến vây bắt và đốt đền thờ nhằm thủ tiêu vết tích của Quản cơ Trần Văn Thành. Đến năm 1938, ông Nguyễn Văn Tịnh là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đứng ra xây dựng lại đền thờ tại nền cũ, lợp ngói, xây tường gạch, cột gỗ, nền lát gạch khang trang và rộng rãi. Năm 1947, lực lượng cách mạng từ đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành đã tiêu diệt đồn thực dân Pháp tại xã. Để trả thù, thực dân Pháp tiến hành khủng bố và đốt đền thờ một lần nữa, chỉ còn lại 4 cây cột ở chánh điện. Đến năm 1952, nhân dân quanh vùng góp tiền xây dựng lại đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành khang trang như ngày hôm nay. Đền xây theo lối kiến trúc cổ kính, dạng chữ “tam” gồm có chánh điện, đông lang và tây lang, mái lợp ngói đại ống, trên nóc có tượng lưỡng long tranh châu, cột gỗ căm xe, tường gạch, nền lát gạch bông. Từ năm 1955-1975, đền thờ là cơ sở cách mạng của xã, nơi tiếp tế, liên lạc và nuôi chứa cán bộ hoạt động ở địa phương. Ngày 12/12/1986, đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Hàng năm, vào các ngày 20, 21 và 22 tháng 2 (âm lịch), chính quyền địa phương cùng đông đảo nhân dân tổ chức long trọng lễ giỗ theo nghi thức truyền thống. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 1721 lượt xem
Chùa Hòa Thạnh hay Hòa Thạnh Cổ Tự, dân gian thường gọi là chùa Cây Mít tọa lạc tại xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa Hòa Thạnh do nhân dân thôn Nhơn Hưng xây dựng từ năm 1847, ban đầu rất đơn sơ bằng cây tạp, vách lá, mái tranh. Năm 1913, chùa bị cháy, nhân dân đóng góp để xây dựng lại chùa bằng danh mộc, vách ván, mái lợp ngói âm dương. Năm 1925, hòa thượng Huỳnh Hồng Diệp cho xây dựng lại chùa khang trang như hiện nay. Tổng diện tích xây dựng chùa khoảng 500m2, kiến trúc gồm 4 bộ nóc, cột gỗ tròn, vách xây hồ vôi ô dước trộn đá trứng. Chùa Hòa Thạnh được xây theo bố cục kiến trúc thống nhất. Có hai mái chính ở đằng trước và đằng sau, và hai mái bên, được dựng trên nền cao 0,5 m, các mái lan xuống thấp với các đầu đao ở bốn góc cong lên. Chính diện chùa là ao Liên Trì được xây dựng vào năm 2009. Trên ao có lối đi dẫn đến tượng Phật Bà Quan Âm cưỡi rồng rất đẹp. Bên trái là đền thờ Phật Di Lặc, bên phải chùa là hai bảo tháp. Trong chính điện, chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật độc đáo. Trước chùa Hòa Thạnh hiện có một tấm bia tưởng niệm có hình quốc huy Việt Nam, ở giữa quốc huy là một tấm bảng ghi ngày tháng năm cụ Nguyễn Sinh Sắc đến chùa. Nghệ thuật nổi bật của ngôi chùa là các tượng thờ, hầu hết đều bằng gỗ mít do nghệ nhân tại địa phương đã khéo tay tạc 19 loại tượng, cao từ 0,4m đến 1,4m. Theo một số vị cao niên trong làng kể lại, nơi đây toàn rừng rậm, cây cối mọc um tùm, và có rất nhiều gỗ mít. Thấy vậy, các vị sư mới dùng gỗ mít cất chùa và chạm khắc tượng để thờ cúng. Năm 1913, trong lúc chùa bị cháy người dân ở gần chùa cùng các vị tu hành kịp khiêng, vác các pho tượng ra khỏi chùa. Cho nên, nhà chùa mới giữ được các pho tượng gỗ quý đến ngày nay. Riêng pho tượng Ngọc Hoàng thì bị cháy nám, nay còn dấu tích để lại. Các tượng Phật được thể hiện kỹ thuật tạo hình khá chính xác theo từng khuôn mẫu, tướng mạo trang nghiêm, y trang tươm tất. Từ các chi tiết tay cầm bửu bối, đầu đội mão, dáng đứng trên bục hoặc ngồi cỡi thú, đề thính hay tòa sen… đều được phác họa rất chuẩn mực, đường nét sắc sảo, với màu sắc sơn son thếp vàng rất rực rỡ. Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật, chùa Hòa Thạnh còn là nơi cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã từng ở. Sau khi từ quan, để tránh sự theo dõi của mật thám và chính quyền thực dân Pháp, cụ Sắc đã đi qua nhiều tỉnh ở Nam Bộ, trong đó có An Giang. Từ năm 1921 đến 1923, cụ thường lui tới chùa Cây Mít (tên gọi chùa Hòa Thạnh phổ biến lúc bấy giờ), lúc đó chùa do hòa thượng Huỳnh Hồng Diệp, đồng thời là một sĩ phu yêu nước, trụ trì. Hòa Thạnh được sử dụng như một địa điểm gặp gỡ, liên lạc giữa cụ Phó Bảng với các sĩ phu khắp các nơi. Và cũng từ chùa Hoà Thạnh, tinh thần yêu nước, sự bất hợp tác với thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã có ảnh hưởng rộng lớn tới nhân dân trong vùng. Trong những kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, chùa Hòa Thạnh là cơ sở vững chắc của cách mạng và bộ đội. Khuôn viên nhà chùa có hầm bí mật che giấu cán bộ và tổ chức hoạt động. Do vậy, người dân vùng Bảy Núi coi chùa Cây Mít – Hòa Thạnh là công trình văn hóa và là di tích ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử vẻ vang trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng quê hương. Ngày 4-8-1992, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Hòa Thạnh Cổ Tự là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1688 lượt xem
Chùa Giồng Thành hay còn gọi là Long Hưng Tự thuộc xã Long Sơn, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Chùa được hòa thượng Trần Minh Lý xây dựng lần đầu vào năm 1875 bằng vật liệu tre lá đơn sơ. Đến năm 1927, Hòa thượng Chánh Hường (1879 – 1947), là người xã Long sơn, nhận thấy cửa thiền ngày càng đông tín đồ mà chùa thì quá cũ kỹ và chật hẹp, nên đã xin với nhà cầm quyền Pháp, cho đi quyên góp để xây cất lại ngôi thờ Phật. Năm 1970, Hòa thượng Chơn Như (1925 – 1972) cho trùng tu lại chùa theo kiến trúc kiểu Ấn Độ. Và đây là lần trùng tu lớn nhất, và tồn tại cho đến ngày nay. Về tên gọi chùa Giồng Thành, theo một số tài liệu cho biết là xuất phát từ chỗ chùa được xây trên nền đất của hào thành triều Nguyễn. Nhìn từ bên ngoài, chùa mang dáng dấp kiến trúc Ấn Độ với mái tháp có hai tầng hình phễu, trang trí nhiều họa tiết hoa văn trang nhã nhưng về đại thể, chùa Giồng Thành là khối kiến trúc hài hòa theo phong cách Á – Âu với lối xây dựng theo hình chữ “song hỷ”, gồm 3 gian, mái lợp bằng ngói móc, trên cột chánh điện có vẽ hình rồng. Ở chánh điện có nhiều pho tượng cổ như tượng đức Phật A Di Đà, bộ tượng Thập Điện Minh Vương…Hai ngôi tháp mộ lớn ở chùa là tháp của Hòa thượng Đạt Điền (đời 38) và Hòa thượng Chơn Như (đời 40). Ngoài vẻ uy nghiêm, chùa Giồng Thành còn được nhiều người biết đến như địa chỉ đỏ của phong trào yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Tại đây vào những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, tổ chức Kèo Vàng, Kèo Xanh của Phan Xích Long đã nhóm họp để thu hút người yêu nước chống thực dân Pháp, mở đầu cho hàng loạt hoạt động yêu nước. Đây còn là nơi cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – truyền bá chủ nghĩa yêu nước chân chính cho đồng bào (1928 – 1929). Trong những năm tháng chống Mỹ hào hùng, chùa Giồng Thành tiếp tục là cơ sở của Tỉnh ủy Châu Đốc, Huyện ủy Tân Châu và là điểm giao liên của Khu 8, Trung ương cục miền Nam. Đặc biệt nơi đây từng là chỗ trú ngụ an toàn cho nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước trong những năm tháng kháng chiến đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụỵ nhào như: Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt…. Hàng năm vào các ngày rằm tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười (âm lịch), khách thập phương đến viếng và lễ chùa rất đông. Bên cạnh là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, di tích chùa Giồng Thành còn gắn liền với những dấu ấn lịch sử, khi chùa đã từng là nơi ẩn náu của nhiều chiến sĩ cách mạng và là nơi tổ chức các hoạt động chính trị, chống lại thực dân Pháp. Nhờ những công lao to lớn mà vào ngày 12/12/1986, di tích chùa Giồng Thành đã được Bộ văn hoá, thể thao và du lịch công nhận là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch an Giang
An Giang 1588 lượt xem
Lăng Thoại Ngọc Hầu (còn được gọi là Sơn Lăng) thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, là một di tích lịch sử rất giá trị của Châu Đốc nói riêng và của cả nước nói chung. Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, Lăng Thoại Ngọc Hầu còn là địa điểm tham quan ở Châu Đốc không thể thiếu trong bất kỳ một tour du lịch Châu Đốc nào. Đây là một công trình kiến trúc cổ tiêu biểu thời phong kiến và là một di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia. Khuôn viên lăng mộ có đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu (một trong những người có công khai phá bờ cõi, mở rộng vùng Châu Thổ sông Cửu Long nói chung và Châu Đốc nói riêng). Bên cạnh đền thờ Thoại Ngọc Hầu còn có khu mộ của hai phu nhân được xây vào thập niên 30 của thế kỷ 20. Vị trí của Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm cạnh chùa Tây An dưới chân núi Sam và cách miếu Bà Chúa xứ khoảng 20m. Lăng Thoại Ngọc Hầu là một công trình kiến trúc khá đồ sộ có sự kết hợp hài hòa trong bố cục thiên nhiên toàn cảnh ở khu vực núi Sam. Vì thế, điểm tham quan này để lại ấn tượng sâu sắc với du khách qua các tour du lịch Châu Đốc. Theo tư liệu lịch sử về Thoại Ngọc Hầu cho thấy, Ông đã cho xây dựng Lăng từ khi còn sống bởi một vợ thứ và vợ chính của ông – bà Châu Thị Tế khi mất đều được ông cho chôn cất lần lượt phía trái và phía phải mộ của ông sau này. Lăng Thoại Ngọc Hầu có khuôn viên khá rộng, có tường thành bao bọc và cổng vào đúc khá dày có hình bán nguyệt tạo nên thế vững chãi và chắc chắn. Nơi tường thành có năm tấm bia đá gắn chặt vào tường thành. Trong số này có bia chính giữa được cho là bia Vĩnh Tế Sơn được xây dựng năm 1828 – sau 4 năm kênh Vĩnh Tế được hoàn thành. Mộ của Thoại Ngọc Hầu và hai người vợ được xây bằng hồ vôi ô dước, đầu mộ là bình phong có đắp chữ Hán, chân mộ có bi kí. Bên ngoài vuông lăng, sau này có đền thờ ông Thoại được xây dựng với thế tựa lưng vào núi Sam để tưởng nhớ Thoại Ngọc Hầu. Bên trong đền được trang trí khá tỉ mỉ, kỹ lưỡng, có tượng bán thân của ông. Khu đất rộng ngoài vuông lăng còn có vô số các ngôi mộ của những người đã bỏ mình trong quá trình đào kênh Vĩnh Tế, được ông Thoại quy tụ cả về đây chôn cất. Bên cạnh khu lăng mộ Thoại Ngọc Hầu là Nhà trưng bày các hiện vật cổ quý hiếm của ông, bộ sưu tập bao gồm những đồ vật của hai ông bà sử dụng trong những dịp lễ triều như: mão bằng vàng và những vật sử dụng hằng ngày rất phong phú của VN, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia cho tới châu Âu như các loại đồng tiền bằng vàng, bạc, các loại đồ gốm: bát, muỗng, đĩa, thố, ống nhổ, bình rót...; đồ thủy tinh như: kính đeo mắt, bình, ly chân cao, lọ hít...; đồ đồng gồm: đồng chạm, đồng tam khí, pháp lam (đồng tráng men); antimol như: nồi, mâm, ấm, chân đèn, hộp đựng nữ trang, ô trầu, chảo, khay, chậu (thau), mâm bồng, đĩa chân cao, ống điếu, lệnh bài...; đồ bạc như: muỗng, hộp...; và những tàn tích của những chiếc hộp gỗ, rương gỗ... Bộ sưu tập bao gồm nhiều hiện vật quý hiếm trong đó có những hiện vật thuộc diện bảo vật quốc gia như chiếc mão vàng, thỏi, hộp vàng, đồng tam khí...; nhiều hiện vật được xác định là của vua Gia Long - Minh Mạng ban tặng cho cả hai ông bà có giá trị cao về lịch sử văn hóa, thẩm mỹ, khắc họa rõ nét sinh hoạt của tầng lớp quan lại cao cấp thời kỳ đầu triều Nguyễn tại vùng đất cực Nam Tổ quốc, góp phần bổ sung những phần khuyết thiếu trong việc nhận thức về cổ vật thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thành Phố Châu Đốc Tỉnh An Giang
An Giang 1498 lượt xem
Thánh đường Mubarak tọa lạc trên một khu đất rộng, bên bờ Châu Giang, thuộc ấp Châu Giang, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang (trước đây là xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Người địa phương thường gọi nôm na các thánh đường Hồi giáo ở đây là chùa. Thánh đường được xây dựng khá sớm, từ năm 1750 bằng gỗ lợp lá. Tính đến nay, thánh đường đã trải qua 4 lần xây dựng và sửa chữa lớn. Lần xây dựng gần nhất vào năm 1965, theo phong cách kiến trúc các kiểu thánh đường ở các nước Trung Đông. Thoạt nhìn, thánh đường Mubarak mang đến cảm giác choáng ngợp vì vẻ lộng lẫy và những họa tiết lạ mắt nhưng không kém phần tinh tế. Thánh đường Mubarak được thiết kế theo dạng 1 tòa nhà rộng, có những dãy hành lang dài thẳng tắp, với gam màu chủ đạo là xanh và trắng. Bên trên dọc theo hành lang là những bức tường được trang trí các họa tiết cùng với những dòng chữ Chăm được trích từ kinh thánh Qur’an. Mubarak được xem là một thánh đường có lối kiến trúc tiêu biểu của cộng đồng làng Chăm Châu Giang. Kiến trúc công trình thể hiện đường nét riêng, mang đậm văn hóa Hồi giáo nói chung và văn hóa của người Chăm ở Nam bộ nói riêng. Từ ngoài nhìn vào thánh đường chúng ta sẽ nhìn thấy cổng chính có hình vòng cung, phía trên nóc có một tháp lớn 2 tầng, nóc tháp hình bầu dục, dưới chân tháp có hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao tượng trưng cho đạo Hồi giáo. 4 góc trên nóc thánh đường đều có 4 tháp nhỏ, giữa nóc thánh đường có 2 tháp bầu tròn nhô cao.Từ cửa chính của thánh đường trở ra 2 bên, mỗi bên có 2 vòm hình vòng cung nhọn đầu, mỗi vòm cách nhau 2,4m, bên trái và phải mỗi bên cũng có 6 vòm hình vòng cung nhọn đầu, mỗi vòm cách nhau 2,4m. Là nơi thường xuyên tập trung đông người đến cầu nguyện nên thánh đường có khá nhiều cửa ra vào cùng 8 cây cột chắc chắn ở bên trong. Những chiếc cột theo dạng trụ tròn này được thiết kế to nhưng cân đối, đều đặn. Bên trong thánh đường hết sức rộng lớn và thoáng mát được thiết kế đơn giản nhưng phải có hậu tẩm. Hậu tẩm được thiết kế là vòm lõm sâu vào tường sao các tín đồ khi cầu nguyện luôn hướng về phía mặt trời lặn, đây là nơi dành riêng cho các vị Imam (người chủ lễ) có nhiệm vụ hướng dẫn các tín đồ làm lễ. Bên cạnh hậu thẩm là một bục cao còn gọi là “minbar” dành cho người thuyết giảng giáo lý trong các buổi lễ thứ sáu hàng tuần. Bốn bề của bức vách bên trong thánh đường được tô điểm bởi màu trắng và xanh, nền được lát gạch, trần nhà treo những chùm đèn điện sáng rực tô điểm thêm vẻ trang trọng, tôn nghiêm. Lúc ấy, lòng du khách khoan khoái lạ thường, tín tâm trỗi dậy, lòng tà tiêu tan. Hàng năm, thánh đường tổ chức 3 kỳ lễ lớn: lễ sinh nhật giáo chủ Muhammed ((người sáng lập đạo Hồi) vào ngày 12/3 Hồi lịch, lễ Roja (lễ hành hương đến thánh địa La Mecque) vào ngày 10/12 Hồi lịch, lễ Ramadan (tháng ăn chay) kéo dài từ ngày 1 đến 30 tháng 9 Hồi lịch. Trong những ngày lễ lớn này, người Chăm tề tựu về hành lễ tại thánh đường rất đông, tạo thành nét sinh hoạt văn hóa truyền thống hết sức độc đáo và thú vị của cộng đồng người Chăm ở đây. Di tích Thánh đường Mubarak đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia vào ngày 12/12/1986. Với những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang đậm màu sắc tôn giáo của người Chăm và những lễ hội truyền thống mang tính đặc trưng của đạo Hồi. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1488 lượt xem
Chùa Ông Bắc còn gọi là Bắc Đế Miếu – Hội quán đầu tiên của người Hoa ở An Giang nằm trên đường Phạm Hồng Thái, bên bờ sông Long Xuyên, thuộc phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Bắc Đế Miếu được xem như cơ sở thờ tự của những người Hoa di cư từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) đến sinh cơ lập nghiệp tại An Giang. Họ cùng nhau xây dựng Hội quán, thực chất là văn phòng hành chính để làm hội sở liên lạc đồng hương, nhưng thường đưa thêm các tượng thần Bắc Đế, Thiên Hậu, Ngọc Hoàng, Quan Công vào thờ nên người Việt gọi là chùa. Như chùa Ông Bắc tức là thờ Bắc Đế. Hội quán này được xây dựng cách đây trên 100 năm, khi vùng đất này còn mang tên Đông Xuyên, sau đó thuộc thôn Mỹ Phước, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Kiên, tỉnh An Giang thời Nhà Nguyễn. Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lại lịch sử chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ. Đến năm Giáp Ngọ (1887), ông Quảng Thành Lợi và Hòa Mậu Xương là hai người Hoa giàu có trong vùng, đứng ra vận động đồng hương và người dân tín ngưỡng, đóng góp tiền của, khởi công sửa chữa lần thứ hai. Qua 4 năm xây dựng, đến năm Mậu Tuất (1891), chùa được hoàn thành và trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và tiêu biểu của thành phố Long Xuyên. Đây là một công trình đặc thù lối Quảng Đông, màu vàng sậm kết hợp với đỏ và nâu, cùng hoa văn uốn lượn trên nóc mái ngói. Chùa đã được công nhận di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia vào tháng 6 năm 1987. Nối liền với tiền sảnh và khánh thờ Bắc Đế là hai con đường đi vào song song nhau. Tiền điện- sân thiên tỉnh (còn gọi là giếng trời) được coi là khu vực giao lưu phong thủy, hai bên là hai cửa vòng tròn, qua Đông lang và Tây lang. Mái nóc chùa lợp ngói đại ống tráng men xanh, trên cạnh nóc chạm khắc hình bát tiên, voi, rồng, phượng, cá… cùng những bức phù điêu, hoa văn cổ, đẹp mang sắc thái nghệ thuật nhà Nguyễn pha lẫn kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc. Người được thờ chính tại chính điện là Bắc Đế, tướng ngồi trông rất oai phong, đường bệ, đầu đội mão bình thiên đế vương, tay bắt ấn, tay cầm đao, chân đạp rắn, chân đạp linh xà… Trước khánh thờ Quan Công và khánh thờ bà Thiên Hậu có đôi Long trụ, bên trên khánh thờ là bộ Bát tiên kỵ thứ… Ngoài ra Phật Thích Ca, Địa Tạng bồ tát, Ngọc hoàng Thượng đế… cũng được tôn thờ tại đây. Tất cả tập họp thành một bản sắc văn hóa của người Hoa, đã hòa nhập lâu đời vào nền văn hóa Việt Nam. Nhìn chung, màu sắc trang trí nội thất Bắc Đế miếu được tô điểm rất rực rỡ nhưng hài hòa; các hoa văn, liễn đối, phong thủy đều được thể hiện bằng những đường nét nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ rất đặc sắc, tinh xảo. Dù thời gian xây dựng đã hơn một thế kỷ và qua nhiều lần sửa chữa, nhưng di tích Bắc Đế miếu vẫn còn giữ được nguyên trạng. Nơi đây vẫn còn lưu giữ nhiều di vật quý báu trên 100 năm tuổi, như: Ba bia ký ghi lại công đức của những người đóng góp xây dựng, sữa chữa trong Hội quán; các chuông đồng (chuông đại hồng chung), đỉnh sắt, ba khám thờ (khánh); biển điêu khắc cõi tam giới với kiểu dáng kiến trúc thuần túy của dân tộc Hoa. Đặc biệt, chiếc chuông đúc bằng đồng đến nay vẫn được ngân vang hàng ngày. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1482 lượt xem