Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Every time I visit Hoi An, the irresistible aroma of Cao Lau draws me to roadside restaurants. It's not just a dish but also a story about the culinary culture of the people of Quang. Hãy nghe PHẠM THỊ MỸ DUYÊN một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Taste sublime
The first time I enjoyed Cao Lau, I was truly conquered by its special flavor. Golden noodles, moderately chewy, made from rice flour and Ba Le well water. The broth is rich and sweet, simmered from bones and esoteric spices. The roasted pork is soft and fragrant, and the skin is crispy. And of course, fresh raw vegetables such as lettuce, bean sprouts, herbs... All blend to create an unforgettable flavor.
Source: collected photo
Comments about the food
Every time I eat Cao Lau, I feel the sophistication in each ingredient and each processing step. The dish is not only delicious but also brings a feeling of warmth and closeness. Eating a hot bowl of Cao Lau on cold days is truly a wonderful experience.
Special ingredients of Hoi An Cao Lau dish
* Ba Le well water: This is one of the most important factors that create the unique flavor of Cao Lau. Ba Le well water has natural alkalinity, helping the noodles to be chewy and have a characteristic golden color. In addition, this type of water also brings a very unique cool flavor.
* Roasted pork: Pork is carefully selected, usually pork belly or shoulder. The meat is roasted golden brown, the skin is crispy, and the meat is soft and sweet. When eaten, the roasted pork will blend with the noodles and broth, creating an extremely attractive flavor.
* Garlic and purple onions: Garlic and purple onions are sauteed to create a fragrant flavor for the broth.
* Spices: In addition to common spices such as salt, sugar, and pepper, Cao Lau also uses some other special spices such as five spices, and cashew to create characteristic color and flavor.
* Raw vegetables: Raw vegetables served with Cao Lau often include lettuce, bean sprouts, herbs, basil... These vegetables help balance the fatty taste of meat and create a refreshing feeling when enjoying.
* Fried garlic: Crispy fried garlic sprinkled on top of the Cao Lau bowl will add a delicious and attractive flavor.
Source: collected photo
Why are these ingredients important?
* Ba Le well water: As mentioned above, Ba Le well water helps the noodles have a golden color and characteristic chewiness. In addition, this type of water also brings a very unique cool flavor, helping to balance the fatty taste of the meat.
* Roasted pork: Roasted pork is one of the main ingredients of cao lau, providing protein and fat for the body. Roasted pork when combined with noodles and broth will create an extremely attractive flavor.
* Spices: Spices help enhance the flavor of the dish, creating harmony between the ingredients.
* Raw vegetables: Raw vegetables not only help balance the fatty taste of meat but also provide additional vitamins and minerals for the body.
Interesting things about Cao Lau
* Special ingredients: Ba Le well water is one of the important factors that create the unique flavor of Cao Lau. This type of water is naturally alkaline, making the noodles chewy and golden in color.
* Sophisticated cooking method: To get a delicious bowl of Cao Lau, the chef must go through many meticulous processing steps, from choosing ingredients, and pre-processing to presenting the dish.
* Culinary culture: Cao Lau is not only a dish but also a part of the culture of the Hoi An people. This dish is often used during holidays or to entertain distinguished guests.
Source: collected photo
Advice for you
* You should enjoy Cao Lau at long-standing restaurants: These restaurants often have family recipes and retain the traditional flavor of the dish.
* Enjoy Cao Lau properly: You should mix the ingredients well before eating to fully enjoy the flavor of the dish.
* Combine with other dishes: You can combine cao lau with other Hoi An dishes such as bread, spring rolls, sweet soup... to have a complete meal.
Conclude
Hoi An Cao Lau is a dish that you must try when coming to Quang Nam. With its unique flavor and profound cultural significance, Cao Lau will leave you with unforgettable impressions.
Thánh địa Mỹ Sơn là công trình được vua Bhadravarman cho khởi công từ thế kỷ IV và kết thúc vào cuối thế kỷ XIII. Dưới triều đại vua Jaya Simhavarman III tại đầu thế kỷ XIV thì Mỹ Sơn là quần thể kiến trúc với hơn 70 ngôi đền với phong cách, kiểu dáng độc đáo đặc trưng của vương quốc Chăm Pa. Phần lớn các kiến trúc tại đây đều chịu ảnh hưởng từ văn hoá Ấn Độ giáo. Do sự tàn phá của chiến tranh mà đến năm 1975, Mỹ Sơn chỉ còn giữ lại được 32 công trình gồm 20 đền tháp là còn giữ được nét kiến trúc ban đầu. Đến ngày 1/12/1999 thì thánh địa Mỹ Sơn chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá Thế giới. Trải qua bao nhiêu sự thăng trầm của lịch sử, Mỹ Sơn vẫn đứng vững cho đến ngày hôm nay. Như đã biết thì kiến trúc của thánh địa Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng lớn từ Ấn Độ giáo. Toàn bộ đền tháp đều sử dụng chất liệu là gạch đá và quay mặt về hướng đông - đây là hướng mặt trời mọc và được xem là nơi thần linh trú ngụ. Cấu trúc đền tháp tại đây được chia làm 3 phần chính là: đế tháp, thân tháp và đỉnh tháp. Điều đặc biệt là mỗi đền tháp tại Mỹ Sơn sẽ thờ một triều đại vua hoặc một vị thần khác nhau, chính vì điều này mà mỗi một công trình được xem là mảnh ghép quan trọng qua từng triều đại của Chăm Pa. Khu di tích Mỹ Sơn sẽ có những khu vực gồm: Khu vực A: Là khu vực đầu tiên nên đến, tại đây có thể ngắm nhìn toàn bộ thánh địa Mỹ Sơn, nhưng hầu hết các công trình tại khu A đang trong quá trình trùng tu. Khu vực B: Thuộc khu vực đồi phía Tây, nơi đây có 1 tháp chính và 3 tháp phụ. Khu vực C: Toạ lạc tại đồi phía Nam và cũng là khu vực độc đáo nhất với nhiều đền, tháp, phù điêu, bia khắc, tác phẩm vô cùng ấn tượng. Khi đến Thánh địa Mỹ Sơn thì đừng bỏ qua cơ hội trải nghiệm lễ hội Katê độc đáo của người Chăm nữa nhé. Đây là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào tháng 7 mỗi năm tính theo lịch của người Chăm, là dịp để tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và cầu mong sự sinh sôi cho vạn vật. Du khách sẽ được chứng kiến nhiều nghi lễ truyền thống như: rước nước, cúng cầu an, kiệu rước hay chiêm ngưỡng các màn biểu diễn với nhiều nhạc cụ phong phú. Ngoài việc tham quan các công trình lịch sử, du khách còn được chiêm ngưỡng điệu múa Apsara được lấy cảm hứng từ tượng đá sa thạch điêu khắc Apsara. Điệu múa Apsara với tựa đề “Linh hồn của đá” cùng sự biểu diễn của những cô gái người Chăm xinh đẹp trong tiếng trống Paranưng và tiếng kèn Saranai sẽ làm mê hoặc mọi du khách. Về thời điểm nào thuận lợi nhất để đến Mỹ Sơn thì bạn cần lưu ý, tại Quảng Nam sẽ có hai mùa chính là mùa mưa (Tháng 9 - tháng 12) và mùa khô (tháng 2 - tháng 8). Mùa khô dĩ nhiên sẽ là thời điểm thuận lợi hơn rất nhiều. Để ghé thăm thánh địa Mỹ Sơn thì nên chọn từ tháng 2 đến tháng 4 nhé, lúc này thời tiết rất mát mẻ, nắng không quá gắt nên rất dễ dàng để di chuyển thăm thú.
Quảng Nam 1795 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cù Lao Chàm – địa điểm du lịch Hội An nằm ngay tại xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, cách bờ biển Cửa Đại khoảng 15 km đường lái xe. Cù Lao Chàm chính là di tích văn hoá lịch sử bao gồm 8 đảo tạo thành: hòn Ông, hòn Dài, hòn Lao, hòn Khô Con, hòn Lá, hòn Tai, hòn Mồ, hòn Khô Mẹ, trong số các đảo này thì đảo chính và lớn nhất tập trung đông đảo dân cư, tập trung các hoạt động thương mại, du lịch đó là hòn Lao. Với lợi thế về địa hình thuận lợi cũng như được tạo hoá ưu ái, Cù Lao Chàm nằm ở khu vực với sự đa dạng sinh thái lớn, xung quanh có rất nhiều loài hải sản quý hiếm có giá trị kinh tế cao, những rạn san hô màu sắc đa dạng được bảo tồn ngay tại môi trường dưới nước biển tự nhiên để phát triển, khiến cho nơi đây trở thành thiên đường dành cho những du khách có đam mê khám phá, chinh phục thiên nhiên, hay những người yêu mến cái đẹp sự hoang sơ của thiên nhiên dưới nước. Toàn bộ đảo chính có tới 7 bãi biển từ Tây Bắc xuống Đông Nam: bãi Bắc nơi có nhiều hang động tự nhiên; bãi Ông nhiều nhà hàng tấp nập cũng là bãi đông khách nhất; bãi Làng là bến cá với khu cư dân xóm Cấm; bãi Xếp còn nguyên vẻ hoang sơ vì chưa đi vào khai thác du lịch; bãi Chồng sở hữu biển đẹp, có khu phòng tắm nước ngọt, những hàng dừa thẳng tăm tắp trong khi bãi Bìm lại thu hút khách du lịch bằng cách mở cửa tắm miễn phí, nơi đây thường là địa điểm để chụp hình làm kỉ niệm vì nước trong xanh, có bãi đá nghệ thuật còn bãi Hương tuy khó tắm vì nhiều thuyền bè neo đậu tại đây nhưng cũng khá thu hút du khách bởi hải sản mới đánh bắt tươi sống. Mỗi một hòn đảo trong cụm Cù Lao Chàm đều có một nét đặc trưng riêng, hấp dẫn du khách. Thường thì khách du lịch sẽ lựa chọn địa điểm du lịch Hội An Cù Lao Chàm vào tháng 3 đến tháng 8 hàng năm, bởi đây là quãng thời gian khí hậu đẹp nhất, thời tiết ấm áp, có nắng vàng bao phủ, biển nước trong vắt và lặng sóng. Vào các tháng khác chỉ có cư dân định cư cố định sinh sống tại đây vì biển động, thường có những cơn bão bất ngờ hoặc kéo dài nhiều ngày, đảo trở thành vùng bị cô lập. Du lịch tại Cù Lao Chàm hấp dẫn, du khách sẽ có những giờ phút thật sự thoải mái hòa mình vào cảnh đẹp thiên nhiên, thư giãn đầu óc và được vui chơi hết mình với chuyến lặn biển được trang thiết bị lặn hiện đại, an toàn có người hướng dẫn tại bãi Xếp, bãi Ông, bãi Làng, du khách sẽ được khám phá cả thế giới đại dương bao la mà chỉ nhìn thấy qua phim ảnh, internet, du khách cũng có thể dạo chơi tại khu rừng sâu thẳm hay đêm đốt lửa trại bên bờ biển. Ngoài ra, du khách được thưởng thức ẩm thực có một không hai tại đây là món ốc vú nàng độc đáo hình chóp nón, vỏ ngoài đen xám hay cua đá to bằng nắm tay với thịt cua thơm ngon và không tanh, cùng thưởng thức bào ngư thịt giòn vị thơm và khai thác rất khó khan nên quý hiếm, các hải sản tươi ngon như tôm, mực, tôm hùm, yến sào, rau rừng với 16 loại cây lá rừng mang hương vị thuốc nam, mọc hoang tại các chân núi món này chấm với mắm tỏi ớt cũng là những ẩm thực độc đáo xứ này… tất cả đều được chế biến một cách cầu kỳ, hấp dẫn bất cứ một vị khách dù sành ăn. Nhiều khách du lịch không chỉ trong nước mà cả quốc tế khi đến Cù Lao Chàm đều dành ra một chút thời gian mua một ít mực một nắng, loại chỉ được làm từ mực ống được mang từ biển về hãy còn tươi, phơi duy nhất một lần nắng giòn, hay mực khô, yến sào đóng hộp mang hương vị rất đặc trưng của biển để về làm quà cho người thân, bạn bè. Năm 2003 vào tháng 10, khu bảo tồn thiên nhiên tại địa điểm du lịch Hội An Cù Lao Chàm được thành lập để giữ gìn sinh vật hoang dã trên đảo, được xếp vào 1 trong 15 khu bảo tồn biển của Việt Nam. Với vẻ đẹp tuyệt mỹ cùng với hệ động thực vật phong phú, những di tích lịch sử tồn tại theo hàng trăm năm thời gian Cù Lao Chàm chính thức được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 25- 05- 2009. Ngoài các hoạt động vui chơi, ẩm thực, tắm biển, du khách còn có thể tìm hiểu thêm và tham gia vào các lễ hội truyền thống nơi đây như lễ hội cầu ngư, ngày mà người dân khấn vái cầu xin thần biển ban cho sự yên bình, thuận buồm xuôi gió, đánh bắt được nhiều hải sản khi căng buồm cho thuyền ra khơi hay lễ hội giỗ tổ nghề Yến là dịp người dân tưởng nhớ, tri ân đến những người xưa đi trước có công trong việc khám phá ra ngành nghề khai thác yến sào – món ăn mang lại giá trị kinh tế rất cao cho người dân sinh sống trên đảo.
Quảng Nam 1783 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Hội An nổi tiếng bởi vẻ đẹp kiến trúc truyền thống, hài hòa của những ngôi nhà, bức tường và cả những con đường. Cùng với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, phố cổ Hội An vẫn giữ những nét đẹp xưa cổ trầm mặc rêu phong trong từng mái ngói, viên gạch, hàng cây… như chính nét bình dị trong tính cách, tâm hồn thuần hậu, chân chất của người dân địa phương. Kiểu nhà ở phổ biến nhất chính là những ngôi nhà hình ống chỉ một hoặc hai tầng với chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dài. Nhà được làm từ những vật liệu có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm khí hậu khắc nghiệt nơi đây. Hai bên có tường gạch ngăn cách và khung nhà bằng gỗ, chia thành ba gian với lối đi ở giữa. Mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên. Mỗi ngôi nhà đều có phần sân trời của được lát đá và trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, tạo nên một nét đẹp tổng thể. Với lối kiến trúc độc đáo, không gian ngôi nhà ở Hội An luôn thoáng đãng, tràn ngập ánh sáng mặt trời, con người và thiên nhiên như hòa làm một. Những điều đó đem lại một cuộc sống tự do thoải mái cho người dân địa phương và sự thích thú cho du khách trong chuyến đi du lịch Hội An. Đường phố ở khu phố cổ được bố trí ngang dọc theo kiểu bàn cờ với những con phố ngắn và đẹp, uốn lượn, ôm lấy những ngôi nhà. Dạo bước chân qua từng con phố nhỏ xinh và yên bình ấy, du khách không chỉ được thưởng thức những món ăn ngon mà còn thấy được một phần cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân phố Hội, một cuộc sống yên bình, giản dị. Quần thể di tích kiến trúc Hội An hết sức phong phú và tuyệt mỹ vì vậy nơi này đã, đang và mãi là địa điểm thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, khám phá và tận hưởng trọn vẹn kỳ nghỉ khi đặt khách sạn ngay khu phố cổ Hội An. Đi du lịch Hội An, du khách sẽ nhận ra rằng, dường như thời gian đã dừng lại ở nơi đây trong từng mái nhà lợp ngói âm dương phủ kín màu rêu, những mảng tường xám mốc xưa cũ, lưu giữ từ xa xưa và tồn tại cho đến ngày nay. Sẽ là thiếu sót nếu du lịch Quảng Nam mà bạn không tới tham quan “biểu tượng của Hội An” – Chùa Cầu. Nơi đây còn có cái tên khác Chùa Nhật Bản nằm tiếp giáp giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú. Công trình kiến trúc độc đáo này còn được in trên tờ tiền polyme 20.000đ. Chùa Cầu cong cong, được làm bằng ván gỗ bắc ngang qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu dài 18m có mái che lợp bằng ngói âm dương, quay mặt về phía sông Thu Bồn. Điều đặc biệt là dù được người Nhật xây dựng nhưng chùa Cầu lại mang đậm nét kiến trúc Việt Nam. Phía trên cửa chính có chạm nổi ba chữ Hán là Lai Viễn Kiều, nghĩa là cầu của những người bạn từ xa đến. Nơi này thường được các thương gia Nhật Bản đến buôn bán vào khoảng giữa thế kỷ 16. Phía trên cầu có một ngôi miếu nhỏ thời thần Bắc Đế Trấn Vũ chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Ở hai đầu cầu có đặt nhóm tượng khỉ chó ngồi chầu. Qua năm tháng thời gian và các lần trùng tu, chùa Cầu vẫn là một công trình độc đáo, một nét đẹp kiến trúc đậm phong cách Việt. Đây là tài sản vô giá và chính thức được chọn làm biểu tượng của Hội An Bên cạnh đó, để hiểu hơn về cuộc sống và văn hóa người Hội An, du khách nên đến tham quan một số nhà cổ nổi tiếng và các công trình tâm linh, xã hội như nhà cổ Quân Thắng, Đức An, Tấn Ký, … hay một số hội quán như Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông … Đây là những địa điểm đẹp ở Hội An giúp du khách được trải nghiệm không gian văn hóa đặc trưng phố Hội Nhà cổ Tấn Ký là ngôi nhà cổ vinh dự trở thành Di sản cấp Quốc gia và là nơi duy nhất đón tiếp các Nguyên thủ Quốc gia, chính khách trong và ngoài nước. Nhà cổ kết hợp giữa lối kiến trúc Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Với kiến trúc hình ống đặc trưng của đô thị cổ, địa điểm này gồm hai thanh ngang chồng lên nhau, tượng trưng cho thiên – nhân và 5 thanh dọc tượng trưng cho ngũ hành. Kiến trúc hài hòa của ngôi nhà nói lên mơ ước về sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên tại phố Hội.
Quảng Nam 2047 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng gốm Thanh Hà đậm chất là một làng nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời trong thế kỷ XVI. Trước đây, làng gốm đã được hình thành tại làng Thanh Chiêm rồi sau đó mới chuyển về địa chỉ phường Thanh Hà, Hội An tp. Hội An Quảng Nam như hiện hay. Cùng trải qua lịch sử bao thăng trầm nơi phố cảng Hội An, làng nghề cũng đã có những thời kỳ huy hoàng vào thế kỷ XVII – XVII nổi danh như một “thổ sản quốc gia” được tiến vua cũng vì thế mà tiếng lành đồn xa. Bao sóng gió thời gian đã trải qua nơi đây, cũng có những thời kỳ tưởng chừng như nghề gốm nơi đây rơi vào quên lãng, nhưng với cái tâm và lòng yêu nghề, những nghệ nhân làng nghề vẫn quyết tâm một lần nữa làm sống lại nét đẹp cũng như cái hồn cốt của một làng nghề truyền thống. Ta tự hỏi, làng Thanh Hà giờ sẽ ra sao nếu nghề gốm không còn nữa? Thật khó có câu trả lời, nhưng du khách đến với Hội An giờ không cần lo lắng điều đó nữa. Gốm Thanh Hà đang sống lại và không ngừng chuyển mình mạnh mẽ. Hiện làng nghề đã trở thành điểm đến thu hút du khách trong nước và quốc tế, đặc biệt từ sau khi đô thị cổ Hội An được công nhận là “di sản văn hóa thế giới”. Khám phá làng Thanh Hà du khách không chỉ được hoà mình trong không gian làng quê mộc mạc, thanh bình mà còn được tha hồ lựa chọn những món quà lưu niệm cho người thân và bạn bè hay trải nghiệm tự tay làm ra những sản phẩm gốm độc đáo. Đồ gốm Thanh Hà đặc biệt bởi được làm từ loại đất sét màu nâu, đặc, dẻo và có độ kết dính cao. Cũng chính vì lẽ đó, khi đi dọc phố cổ Hội An bạn sẽ thấy màu chủ đạo là nâu, vàng, đỏ thẫm… Đó là màu đất, màu gỗ và cũng là màu mái ngói được làm từ làng gốm. Đến đây, bạn còn được chứng kiến quá trình tạo ra những sản phẩm gốm tuyệt mỹ của các nghệ nhân tài hoa và khéo léo. Qua nhiều công đoạn, các khối đất được tạo hình bằng tay trên bàn xoay. Sau đó, họ mang sản phẩm của mình ra phơi nắng hay hong bếp củi cho mau khô. Cuối cùng, những vật phẩm này được đưa vào lò nung. Một món đồ gốm được làm ra bởi sự công phu và cầu kỳ như thế. Người thợ Thanh Hà không chỉ khéo léo, sáng tạo mà họ còn là người có lòng yêu nghề, yêu quê, nâng niu, chắt chiu và gửi hồn vào từng hòn đất. Mọi người không những được quan sát trực tiếp các công đoạn để tạo ra một sản phẩm đồ gốm qua bàn tay tài hoa nghệ sĩ của những nghệ nhân trong làng và mà còn có thể sáng tạo riêng cho mình những sản phẩm mang dấu ấn cá nhân. Theo những nghệ nhân lâu năm ở Thanh Hà, quy trình để làm ra một sản phẩm đúng chất gốm Thanh Hà đòi hỏi một kỳ công và tâm huyết, cũng như tài hoa bàn tay người thợ để thổi được cái hồn tinh túy nhất vào đất. Từ khâu chọn đất, làm đất cho đến lên khuôn trên bàn vuốt, những đôi bàn tay nhào nặn như đưa cả tâm trí tập trung vào từng vòng quay của chiếc bàn xoay, rồi đến khi ra sản phẩm cuối cùng, còn nhiều công đoạn tinh vi, tỷ mẩn và công phu hơn nữa. Khi sản phẩm đã thành hình lại tiếp tục trải qua nắng rát, mực vẽ hoa văn rồi mới được đưa vào lò nung. Công đoạn nung thì quan trọng nhất là lửa, độ lửa và thời gian đều phải chính xác nếu không sẽ hỏng cả mẻ gốm, bao công sức sẽ trở thành gốm vụn. Khi tham quan làng Thanh Hà, các bạn đừng quên ghé thăm Công viên Đất nung Thanh Hà – công viên gốm lớn nhất tại Việt Nam nữa bạn nhé! Đây được ví như một bảo tàng gốm “có một không hai” trên cả nước với nhiều khu vực chợ, triển lãm, bảo tàng trưng bày các sản phẩm gốm độc đáo. Trong đó đặc biệt nhất có lẽ là khu thế giới thu nhỏ, nơi tái hiện sinh động lại các công trình kiến trúc của Việt Nam và những kỳ quan thế giới bằng gốm. Cùng với sự phát triển du lịch của phố cổ Hội An, những sản phẩm của làng gốm Thanh Hà Quảng Nam đã được đến gần hơn với du khách mọi miền. Và từ đó, khách du lịch tìm đến làng Thanh Hà để tham quan, mua sắm và chìm đắm trong thế giới đồ gốm ngày một đông. Du khách rời Thanh Hà mà không sắm cho mình một món đồ gốm nhỏ xinh làm quà lưu niệm mang về làm quà cho bạn bè và người thân và bạn bè thì thật là lãng phí chuyến đi.
Quảng Nam 1779 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Tượng đài Mẹ Thứ nằm trên đỉnh núi Cấm, thôn Phú Thạnh, xã Tam Phú, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam. Hàng năm, khu tượng đài Mẹ Thứ là điểm tham quan thu hút rất nhiều lượt du khách gần xa đến đây. Nằm cách Thành phố Tam Kỳ khoảng 7 km, liền kề với nhiều điểm tham quan du lịch nổi tiếng khác. Du khách có thể dễ dàng di chuyển đến đây bằng nhiều phương tiện: ô tô, xe máy hoặc xe buýt. Nếu du khách di chuyển bằng ô tô đi từ thành phố Đà Nẵng đến Tam Kỳ sẽ mất khoảng 2 giờ đồng hồ. Đến ngã tư thì rẽ trái xuống đường Thanh Hóa. Chỉ cần đi thẳng theo sự chỉ dẫn của bảng đường bạn sẽ tìm được ngay tượng đài Mẹ Thứ. Hay di chuyển bằng xe máy cũng là sở thích cho những bạn trẻ đam mê phượt. Nhưng vì đường đi quanh co với hai bên toàn là núi và thường không có trạm xăng dọc đường nên du khách lưu ý đi cẩn thận và đổ đầy bình xăng trước chuyến đi. Sau gần 7 năm xây dựng và hoàn thiện, tượng đài Mẹ Thứ được khánh thành vào tháng 3/2015. Với tổng diện tích 15ha trên đỉnh núi Cấm bao la rộng lớn thật khiến du khách choáng ngợp với không gian gần gũi với thiên nhiên, núi rừng hùng vĩ nơi đây. Tượng Đài cao 18,5m được làm bằng chất liệu đá sa thạch với các khối tượng được làm bằng đá hoa cương chạy dài theo đường cánh cung 120m. Ở chính giữa tượng đài là chân dung mẹ Nguyễn Thị Thứ được khắc những nét bình dị, mộc mạc, vẻ đẹp nhân hậu và tình thương bao la mẹ dành cho các con. Ở hai bên khối tượng là những vách đá được tạo thành những khối đá tự nhiên xếp san sát nhau một cách khéo léo uyển chuyển như những cung bậc tiết tấu của một bản nhạc giao hưởng. Những cung bậc trầm, bổng, lên xuống giống như tượng trưng cho năm tháng lịch sử gian khổ của những người con. Đó giống như là tất cả cung bậc cảm xúc vui, buồn, mong, nhớ của những người con xa nhà nơi phương xa mong nhớ về người Mẹ của mình. Sự khéo léo của người khắc họa thật khiến du khách cảm thấy nghẹn ngào, rụng động trước hình ảnh Tượng đài Mẹ Thứ linh thiêng. Bao xung quanh tượng đài là hồ nước rộng lớn hơn 1000m2. Du khách nếu từ ngoài nhìn vào sẽ những dòng nước chảy ra từ bên trong vách tượng Mẹ tràn lên mặt hồ. Hình ảnh người Mẹ Thứ ôm trọn các con vào lòng mang một ý nghĩa nhân văn biểu trưng cho tình cảm dâng trào, yêu thương sâu sắc, nghĩa tình của người Mẹ đối với các con, với những người chiến sĩ anh dũng và hết lòng với Tổ Quốc trong những năm tháng đấu tranh oanh liệt. Đi vào bên trong, du khách sẽ thấy bảo tàng với diện tích 400m2. Ngay từ lúc đầu tiên bước vào, du khách sẽ thấy ngay phòng trưng bày, sau đó là phòng bảo quản – Đây chính là nơi ghi danh các bà mẹ Việt Nam anh hùng cùng với những tư liệu hình ảnh, phim ảnh, giới thiệu về cuộc đời trong những năm tháng khốc liệt cũng như sự cống hiến hết mình của người Mẹ với Tổ quốc Việt Nam. Du khách chỉ cần dạo một vòng để khám phá thôi sẽ dễ dàng hình dung ra được sự vất vả gian khổ, tình yêu bao la của người Mẹ dành cho các chiến sĩ Việt Nam mà không thể so sánh được với bất kì một ai khác. Hãy kịp chụp lại những khoảnh khắc này để thấy đây thực sự là những giây phút thiêng liêng ý nghĩa mà chỉ khi du khách tới đây mới có thể cảm nhận được. Mặt trước tượng đài Mẹ Thứ là quảng trường tiền môn với 8 cột trụ cao khổng lồ. Đây là những cột trụ huyền thoại, mỗi cột cao 11m với đường kính gần 2m. Nếu đi từ phía ngoài vào bạn sẽ thấy hai bên là những cột trụ cao sừng sững khắc họa hình ảnh trượng trưng cho các bà mẹ ở mọi miền đất nước nhằm thể hiện sự biết ơn, trân trọng công lao to lớn của người phụ nữ Viêt Nam kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Dọc theo lối vào chính lên tượng đài, du khách sẽ nhìn thấy hai bên là 30 ngọn đèn đá, tượng trưng cho 30 năm vất vả, sự chờ đợi mòn mỏi của người Mẹ Việt Nam anh hùng chờ đợi các con đánh trận trở về. Chỉ nhìn thấy những hình ảnh này thôi đã làm rung động trái tim của du khách khi đến thăm quan tượng đài Mẹ Thứ hùng vĩ giữa bầu trời xanh bao la. Du khách có thể tham quan ở phía sau tượng đài là nơi các nghệ nhân khắc những bài thơ về người Mẹ Việt Nam Anh Hùng lên tảng đá lớn. Những bài thơ dạt dào, tình cảm, sâu lắng ca ngợi về Mẹ khiến cho du khách bâng khuâng, xao xuyến, ai tới đây cũng đều không muốn về. Với khuôn viên rộng, thành phố Quảng Nam đã cho xây dựng 12 ngôi nhà chờ cùng với không gian mở, thoáng mát xung quanh trông nhiều cây và hoa. Đây là nơi du khách có thể nghỉ chân, ăn uống và chụp ảnh kỉ niệm cùng bạn bè, gia đình.
Quảng Nam 1759 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khe Lim là địa điểm du lịch nổi bật nằm ở địa phận xã Đại Hồng thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, cách thị trấn Ái Nghĩa khoảng gần 20 km về phía tây nam. Vào những ngày nắng đẹp du khách đứng tại chân cầu Hà Nha nằm trên quốc lộ 14B đưa ánh mắt về phía đỉnh núi Am Thông nơi có những vách núi cheo leo, dựng ngược cùng ngọn thác ngày đêm tung bọt trắng xoá như làn sương mờ ảo đổ xuống chân núi tạo nên nhiều tầng với độ cao lên đến 100 m, khiến cho du khách không khỏi ngỡ ngàng trước bức tranh sơn thuỷ hữa tình mà tràn trề sức sống. Điểm du lịch Hội An Khe Lim bắt nguồn từ khe chảy qua nhiều địa phận nơi có nhiều loài cây có gỗ quý hiếm và giá trị kinh tế cao đó là cây gỗ lim. Từ xa xưa, người dân sinh sống trong vùng đã biết đến khe Lim với vẻ đẹp thiên nhiên độc đáo không chỉ bởi có riêng một dòng nước rộng khoảng 20 m từ trên cao ngày đêm ầm ầm đổ xuống tạo thành một dòng suối lớn với nhiều tảng đá lớn nhỏ đã có từ rất lâu được bao phủ màu xanh của rêu phong nằm xếp chồng lên nhau, tất cả tạo nên một khung cảnh hùng vĩ đến say đắm lòng người. Hai bên bờ suối ở địa điểm du lịch này là những cánh rừng nguyên sinh rộng lớn yên bình với các loài động vật và thực vật phong phú, đa dạng mang trên mình một màu xanh tươi tràn đầy sức sống của thiên nhiên, nơi đây khí hậu ôn hoà giúp cho hoa cỏ phát triển mạnh mẽ, lan rừng nở bung khoe sắc và toả ngát hương thơm dịu nhẹ thoang thoảng trong làn gió trời mang lại sự thanh tịnh đến thư thái cho du khách. Trong bức tranh của ngàn hoa khoe sắc, của cây cối tốt tươi ấy nổi bật lên hình ảnh sừng sững của dãy núi Hio Hiu ở phía Nam khiến cho ai đã từng đặt chân đến đây đều ngỡ ngàng, yêu mến. Càng lên cao và đi sâu vào bên trong, rừng cây càng rậm rạp, dây leo chằng chịt, đan xen vào nhau nên dù trời có vào thời tiết mùa hè với ánh nắng chói chang nhưng không khí ở đây vẫn thật mát mẻ, dễ chịu. Hết đoạn đường núi cheo leo, hiểm trở, một không gian cảnh đẹp mở ra trước tầm mắt của du khách thật bao la với trời xanh, mây trắng, núi rừng trùng điệp, với dòng suối trong vắt, réo rắt như tiếng đàn du dương của ai đó vọng lại, trong tiếng rì rào, xào xạc của lá cây và đôi lúc là âm thanh chao nghiêng thật khẽ của những chiếc lá vàng trên những ghềnh đá lớn mặt phẳng, chiều rộng cỡ phải 4 hay 5 người ôm mới xuể với màu nâu xám, vàng, xanh rêu mang những hình thù kỳ bí, nơi đây đủ cho hàng chục du khách vui chơi, nghỉ ngơi, ngâm mình tắm trong làn nước mát lịm của con suối. Ngước mắt lên lưng chừng núi, du khách sẽ bị thu hút bởi chằng chịt những con thác đang tung bọt trắng xóa, phủ lên lên những tán cây xanh, quyện hòa với ánh nắng vàng rực rỡ tạo nên chiếc cầu vồng nhiều màu sắc thật long lanh, huyền diệu, đôi lúc lại thật giống với bảng màu đổ vội loang lổ mà đầy nghệ thuật của người nghệ sĩ rừng xanh, những cảnh đẹp đắm say lòng người. Một bầu không khí trong lành đang chào đón, du khách hãy hít thở thật sâu để hưởng thụ không khí trong lành của núi rừng, thiên nhiên mà cảm thấy trong lòng thư thái, bao mệt mỏi, lo toan đời thường dường như cũng tan biến theo bọt nước trắng xóa, được lắng nghe những câu chuyện về dấu tích Chùa Am trên đỉnh núi Am Thông với những giai thoại dân gian huyền bí được người dân truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Ngày nay với vẻ đẹp thiên nhiên có một không hai, Khe Lim đã trở thành một trong những địa điểm du lịch nổi bật, du khách đến đây để thư giãn và có thêm nhiều kỷ niệm đẹp bên người thân và bạn bè.
Quảng Nam 1914 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Biển An Bàng là địa điểm du lịch Hội An thuộc phường Cẩm An của thành phố cổ Hội An, xưa vốn chỉ bãi biển để người dân trong vùng đến tắm vào mỗi buổi sáng sớm, bởi vậy, nơi đây vãn còn giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ đến thuần khiết, chưa có sự gọt giữa nhân tạo. Bãi biển An Bàng an bình, chất chứa vẻ trầm ngâm, tĩnh lặng, trái ngược hoàn toàn với biển Cửa Đại sôi động, náo nhiệt của cuộc sống trẻ trung, hiện đại. Chỉ cách thành phố Hội An vài cây số, du khách đến đây, đặt chân lên bờ cát trắng mịn, ngắm nhìn những dải hoa muống biển màu tím nhạt mọc trên mặt cát thoai thoải, bước xuống làn nước trong xanh, tươi mát khiến cho tâm hồn thoải mái, nhẹ nhàng hoà nhịp cùng thiên nhiên, trút bỏ bao muộn phiền của cuộc sống hối hả. Du khách sẽ ngỡ ngàng trước cảnh đẹp rất riêng biệt của bãi biển An Bàng, bãi biển rộng với màu sắc xanh của nước biển, của bầu trời làm chủ đạo xen kẽ là màu trắng ngà của bờ cát bát ngát như một tấm lụa mỏng vắt ngang. Nổi bật trên đó là hình ảnh những chiếc thuyền thúng đơn sơ, giản dị của những người dân chài. Không khí trong lành thoáng đãng, yên bình. Đến nơi đây, giang hai tay đón hít thở thật sâu để cảm nhận được không khí trong lành tươi mát, vị mặn mòi của hơi gió biển sẽ làm cho bạn cảm thấy thư thái dê chịu giống như đang lạc vào một thế giới thần tiên. Đến Biển An Bàng chỉ có nghỉ ngơi và thư giãn. Bạn sẽ như trút bỏ đươc hết mệt nhọc, muộn phiền, lo toan tấp nập của cuộc sống. Sớm tinh mơ, khi du khách tản bộ trên bờ biển, sẽ bắt gặp hình ảnh những bé gái, bé trai chăm chỉ mò bắt còng gió, những chiếc thuyền thúng ở xa xa bồng bềnh trước cơn sóng biển. Nhiều du khách không thích sự ồn ào, chật chội thường tìm đến bãi biển An Bàng để thưởng thức cái tĩnh lặng, vẻ đẹp trầm lắng của nơi đây, để được tắm biển thoải mái, nằm dài trên ghế đọc sách, phơi mình trong nắng biển, lặng nhìn đảo Cù Lao Chàm phía xa và khi ánh mặt trời lên cao thì trú trong những mái lá dừa tránh nắng. Sóng của biển An Bàng lớn và mạnh mẽ rất phù hợp cho những du khách nào đam mê trò ném bóng dưới nước, nhảy sóng, lướt ván. Đến địa điểm du lịch Hội An – biển An Bàng, du khách nên đi vào buổi sáng sớm, vui chơi nô đùa cả ngày không chán trên bãi biển và về lại với thành phố Hội An khi màn đêm buông xuống, ngoài ra du khách cũng có thể nghỉ lại trong các nhà nghỉ từ đơn sơ đến hiện đại để được ngắm nhìn cả bầu trời đầy những vì sao sáng lấp lánh hoà cùng tiếng sóng biển ngày đêm vỗ vào bờ cát, âm vang. Bãi biển An Bàng có mặt trong danh sách 50 bãi biển đẹp nhất thế giới do CNNGo bình chọn vào năm 2011, biển An Bàng được nhiều du khách trong nước và quốc tế biết đến và trở thành dịa danh nổi tiếng nằm trong những địa điểm du lịch Hội An. Bạn có thể đón bình minh trên biển, còn gì thú vị hơn khi thức dạy sớm ở một nơi xa. Bước từng bước nhẹ trên mặt cát láng mịn, những giọt sương mai từ từ, tí tách lướt nhẹ trên những tàu lá dừa, trôi nhẹ thả mình vào cát. Mặt trời từ từ nhô lên khỏi mặt biển, những tia nắng mai ấm áp đầu tiên chiếu rọi. Cả vùng biển như chìm trong sắc đỏ. Lúc này mặt nước rất trong nó trông giống như một tấm gương phản chiếu ánh mặt trời. Buổi trưa khi mặt trời lên cao, từng tia nắng vàng chói chang chiếu xuống mặt đất, cả khuung tròi biển tạo nên một không gian lấp lánh giống như bạn đang lạc vào một kho báu toàn những đá quý lấp lánh. Những quán ăn hay khu nghỉ dưỡng mọc lên ở đây rất nhiều. Dạo quanh bãi biển An Bàng du khách sẽ thấy những quán xá nhỏ xinh, không gian thoáng đãng, kiến trúc hướng nội. Bạn có thể ngồi trong quán vừa nhâm nhi đồ ăn thức uống vừa ngắm cảnh biển. Không gian thoáng đãng, thật yên bình, mộc mạc. Ở đây có nhiều chòi lá dừa hay lá cọ (ô cọ), sau khi tắm biển bạn có thể nằm trên những chiếc chõng, võng để nghỉ ngơi và tắm nắng. Không chỉ đươc tắm biển mà du khách khi tới đây còn được thử sức với những trò chơi mạo hiểm trên biển như lướt ván, thuyền cano kéo ván trên biển.Hoặc bạn có thể thuê cano hoặc xe máy nước để đi du ngoạn quanh bờ biển .Đó là những thú vui không thể thiếu. Hơn nữa ở đây còn có những quán bar của người nước ngài mở. Du khách sẽ thích thú khi vừa được vui chơi vừa được chiêm ngưỡng cảnh đẹp ngay trên bãi biển. Những quán bar này không khác gì những bữa tiệc nhạc hội trên biển. Khá là thú vị khi được nhâm nhi một ly rượu, nhạc sập sình bên tai… không khí tưng bừng náo nhiệt. Ngoài ra, khi đến với biển An Bàng Hội An du khách còn được thưởng thức nhiều món ăn ngon của biển như: mực, tôm hùm, các loại cá biển… được chế biến hấp dẫn. Và những món đặc sản tươi ngon của Hội An. Tất cả hợp lại sẽ mang lại cho du khách cảm thấy niềm hạnh phúc ngập tràn trong từng giác quan của mình. Tuy là một vùng biển nhưng khi tới đây bạn vẫn có thể thưởng thức được tất cả các món ăn đặc sản của Hội An .Một số món bạn có thể được thưởng thức khi tới đây như: Cao Lầu, Bánh đập xào hến, bánh canh cá, bánh ướt thịt nướng, bánh bèo, bánh xèo…. Mặc dù không phải là những món ăn mới lạ nhưng nó lại mang hương vị rất riêng và đặc trưng, làm nên thương hiệu đặc sản ở Hội An. Nếu đã quá quen thuộc với một nơi ồn ào xô bô tấp nập, muốn tìm đến một nơi vừa yên bình, thanh tĩnh vừa mang vẻ đẹp mộc mạc nên thơ thì bạn nên đến với Bãi Biển An Bàng. Đến đây để tận hưởng cảm giá c thích thú giữa thiên đường trên đảo với sự mộc mạc , yên tĩnh đến ngọt ngào của biển khơi.
Quảng Nam 1750 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Trước đây, trừ dân bản địa thì ít ai biết tới bãi biển Hà My cho tới khi tờ Telegraph của Anh bình chọn nơi này là một trong những bãi biển đẹp nhất châu Á. Đây là niềm vinh dự lớn của người dân Quảng Nam nói riêng và của ngành du lịch Việt Nam nói chung khi biển Hà My được đứng cạnh những cái tên nổi tiếng như: bãi biển cung điện Emirates (Anh), biển Phranang (Thái Lan), vịnh Kabira (Nhật Bản). Đường đến Hà My khá dễ tìm vì nằm ngay trên tuyến đường ven biển nối thành phố Đà Nẵng với phố cổ Hội An. Tại đây, bạn có thể thả mình nằm dài cả ngày trên bãi cát tắm nắng, đón những con sóng nhỏ lăn tăn chạy đuổi theo nhau vào bờ mà không lo bị làm phiền bởi sự đông đúc và những tiếng ồn xung quanh như ở các bãi biển nổi tiếng. Bờ cát trắng phau “đặc sản” của biển miền Trung, trời biển xanh xanh hòa cùng một màu, những hàng dừa nước rợp bóng trải dài trên bãi cát cùng nhau tạo nên vẻ yên bình hiếm thấy ở một thành phố du lịch. Tới bãi biển Hà My bạn đừng quá lo lắng việc ở đâu, ăn gì. Dù địa điểm này còn khá mới chưa được xúc tiến đẩy mạnh du lịch nhưng ở đây không thiếu quán ăn và chỗ nghỉ đâu. Xung quanh bãi biển có khá nhiều địa điểm từ bình dân đến sang chảnh như homestay, nhà nghỉ, khách sạn, resort với giá từ 400.000 đồng. Đồ hải sản cũng chẳng thua kém những nơi khác với đầy đủ các món ăn được chế biến hấp dẫn khiến du khách đôi lúc quên mất đang nghỉ mát tại một bãi biển hoang sơ chứ không phải điểm du lịch nổi tiếng với cảnh đẹp và thức ăn ngon. Tranh thủ lúc bãi biển Hà My vẫn còn giữ nguyên được nét tự nhiên, mộc mạc và vắng vẻ, hãy tự thưởng cho mình và người thân một chuyến nghỉ dưỡng tới vùng biển xinh đẹp này ngay thôi.
Quảng Nam 1720 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Rừng dừa Bảy Mẫu Cẩm Thanh Hội An khi được đưa vào khai thác du lịch đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách tham quan. Sở dĩ có cái tên này vì ngày xưa, khu rừng này có khoảng 7 mẫu dừa tự do sinh sôi nảy nở. Tới nay, rừng đã phát triển lên hơn 100 ha nhưng người ta vẫn giữ cái tên rừng dừa Bảy Mẫu vì nó đã quá quen thuộc và thân thương với người dân và khách du lịch Hội An. Vì nằm ngay trong vùng nước lợ nên rất thích hợp cho dừa nước phát triển. Có 2 cách để tới đây, từ phố cổ Hội An bạn có thể đi đến đây bằng đường bộ hay đường sông đều được. Nếu đi thuyền thì xuất phát từ bến thuyền trên đường Bạch Đằng, ở ngay gần chợ Hội An thôi, bạn sẽ theo dòng chảy sông Hoài xuôi về hướng Đông, đi khoảng 5 cây số là tới. Còn nếu đi đường bộ thì bạn chạy xen theo tuyến đường Trần Phú, đi thẳng Nguyễn Duy Hiệu, thấy ngã tư thì rẽ phải vào đường Trần Nhân Tông, đi thêm khoảng 4km nữa là Rừng dừa Bảy Mẫu Cẩm Thanh đã hiện ra trước mắt bạn. Nơi đây vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã trở thành căn cứ địa cách mạng, giúp quân ta đấu tranh chiến thắng được kẻ thù với rất nhiều chiến công hiển hách. Lực lượng du kích địa phương đã nhờ vào địa hình kín đáo, nhiều chỗ dễ lẩn khuất để tổ chức nhiều trận đánh bất ngờ, kể cả những khi lực lượng quân ta quá mỏng nhưng quân địch lại rất nhiều mà ta vẫn đánh bại những trận càn của địch, địch còn trang bị nhiều vũ khí hiện đại hơn ta, có pháo binh, không quân chiến đấu nhưng vẫn không thể làm ta thua trận. Có thể kể đến trận đánh tiêu biểu vào năm 1948, bộ binh của thực dân Pháp với sự yểm trợ của xe tăng, tấn công vào Rừng dừa Bảy Mẫu Hội An nhằm tiêu diệt hết lực lượng vũ trang của ta. Nhưng không hề sợ hãi, lực lượng du kích địa phương nhờ quen thuộc địa hình, đã tổ chức đánh bí mật, bám sát địch, ta ném lựu đạn vào thùng xe làm cho bọn địch vô cùng hoảng sợ, phải bỏ dở trận càn mà quay đầu rút về Hội An. Chính vì thấy nhiều lần càn quét đều thất bại cho nên chúng đã bắt ép nhân dân ở các xã xung quanh đến phát quang toàn bộ rừng để ta không còn nơi trú ẩn, không thể tập kích bất ngờ. Tuy nhiên, chúng không đạt được như ý đồ, chỉ sau một thời gian ngắn, Rừng dừa lại phát triển tốt tươi, xanh ngắt, khiến những trận càn của chúng đều thất bại thảm hại. Sau khi kết thúc trong thắng lợi, đánh đuổi được thực dân Pháp, năm 1954 khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết thì Ngô Đình Diệm nhận tiếp quản Quảng Nam. Chúng đã gây ra nhiều cuộc tàn sát đẫm máu như ở Vĩnh Trinh, Chợ Được. Chưa hết, chúng còn không ngừng tổ chức các cuộc truy quét “Tố cộng”, “Diệt cộng”, truy lùng ngày đêm Cộng sản. Và chính trong khoảng thời gian ấy, rừng dừa đã giúp cho các cán bộ cấp cao của Thị ủy Hội An, Tỉnh ủy Quảng Nam có nơi trú ẩn an toàn và không bị chúng bắt được. Năm 1966, khi đế quốc Mỹ đem quân vào Miền Nam, chúng đã cho tiến hành nhiều cuộc càn quét với quy mô lớn và vùng giải phóng Cẩm Thanh với địa điểm địch đặt ra là Rừng dừa Bảy Mẫu cũng nằm trong số đó. Vào ngày 13/6/1966, chúng huy động đến 4 đại đội hỗn hợp Mỹ ngụy gồm 1000 tên và 28 lượt máy bay trực thăng đổ xuống, tiến đánh khu vực Cẩm Thanh và rừng dừa. Không chỉ được trang bị những vũ khí hiện đại chúng còn nhận sự yểm trợ từ 5 thuyền máy gắn đại liên cùng với pháo tầm xa từ sự hỗ trợ của các đồn lân cận. Vậy mà chỉ trong 3 ngày chiến đấu, lợi dụng địa hình của rừng dừa, quân ta đã tổ chức nhiều trận phản kích làm bẻ gãy các trận càn quét của địch, tiêu diệt nhiều quân địch, làm tổn thất lớn cho kẻ thù. Từ những năm 1967 cho đến ngày Hội An toàn thắng, đã rất nhiều lần lực lượng du kích và bộ đội đã ngâm mình trong rừng dừa, mở nhiều cuộc tập kích bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay, ta hạ gục được không quân, pháo binh, hải thuyền của địch một cách ngoạn mục. Nơi đây góp phần trở thành một nơi trú ẩn an toàn, khiến Cẩm Thanh trở thành bàn đạp quan trọng của phía Đông để lực lượng của ta tiến đánh nội ô Hội An với rất nhiều chiến thắng vẻ vang, lẫy lừng một thời, giúp Hội An được giải phóng hoàn toàn, chấm dứt 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta. Rừng dừa Bảy Mẫu ở Hội An là căn cứ đã đi vào lịch sử quê hương như một khu tử địa, làm mồ chôn thây giặc vì đã có quá nhiều quân địch chết tại nơi đây. Mặc dù nhiều công trình phòng thủ chiến đấu của quân ta ngày trước không còn nhưng những cây dừa vẫn hiện hữu với sức sống mãnh liệt, quật cường, phát triển xanh tốt quanh năm như ghi dấu những chiến tích oai hùng, vẻ vang của quân và dân Hội An trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tới đây, du khách sẽ được thăm quan khu rừng hoàn toàn trên thuyền theo phong cách miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, điểm đặc trưng để phân biệt rừng dừa này với sông nước miền tây, đó là ở đây người dân không dùng phương tiện di chuyển là những chiếc thuyền thông dụng mà sử dụng thuyền thúng. Lại nói đến những chiếc thuyền thúng. Khách thăm quan tới đây khi thắc mắc, tò mò sẽ được người lái thuyền giải thích cho nguồn gốc của chiếc thuyền này, chúng có từ khi nào, lí do tại sao người ta lại sử dụng thuyền thúng thay cho thuyền bình thường… Tất tần tật những điều bạn thắc mắc sẽ được lí giải. Hãy tới đây để trải nghiệm cảm giác đi trên phương tiện đặc biệt này và tự tìm cho mình lời giải đáp nhé. Kinh nghiệm là các bạn nên đi vào tầm tháng 8 âm lịch, khi đó bạn sẽ được chiêm ngưỡng những bụi dừa nước đang vào mùa chín và thưởng thức món cơm dừa rắc dừng thơm ngon bùi bùi. Nên tránh đi vào tháng 11 và tháng 12 vì những cơn mưa có thể sẽ làm bạn bị mắc kẹt trong phòng không thể tận hưởng chuyến hành trình. Theo sự điều khiển bằng tay chèo dẻo dai, chiếc thuyền từ từ di chuyển đi vào sâu bên trong Rừng dừa Bảy Mẫu. Những rặng dừa cao cao xanh rì ngả bóng in xuống dòng nước. Trên chuyến đi, người chèo thuyền sẽ hái lá dừa làm thành những món trang sức thiên nhiên ngộ nghĩnh như mũ, nhẫn, mắt kiếng…vô cùng đáng yêu tặng cho du khách. Vừa xuôi theo dòng nước yên ả ngắm nhìn rặng dừa xanh mát bạt ngàn, vừa lắng nghe bác lái thuyền ca một điệu hò Quảng hay chìm đắm trong câu chuyện thời kháng chiến qua giọng kể trầm ấm, thân thương của người miền Trung sẽ trở thành một trải nghiệm mà bạn không bao giờ muốn kết thúc. Nhờ địa hình ẩn nấp kín đáo, rừng dừa Bảy Mẫu đã được chọn làm căn cứ địa và gắn liền với những chiến thắng vẻ vang của quân – dân Hội An trong hai cuộc kháng chiến dân tộc.
Quảng Nam 1901 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng Bích Họa Tam Thanh thuộc thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam. Nơi đây là một ngôi làng chài nghèo nằm ven biển. Những bức tường ở ngôi làng này do những bàn tay tài hoa của những nghệ sĩ Việt Nam và Hàn Quốc vẽ nên. Không còn phủ nhận gì nữa, đây chính là làng cái tên nằm trên top tìm kiếm của các bạn trẻ thời gian gần đây. Tam Thanh thu hút khách du lịch bởi vẻ đẹp độc đáo, sáng tạo, mới mẻ có một không hai và thống kê cho thấy chỉ sau 4 tháng đầu tiên được khen ngợi trên báo chí thì lượt khách đổ về đây vô cùng đông. Kể từ đây, Tam Thanh được thay đổi để khoác lên mình một màu áo mới thật đẹp chứ không còn là làng chài nghèo xác xơ ven biển nữa. Những bức tranh vừa kết hợp nét đẹp từ mỹ thuật Hàn Quốc lại vẫn thấm nhuần cái dân dã của mảnh đất Nam Trung Bộ. Những bức tranh đầy màu sắc như đưa bạn trở về với những ký ức tuổi thơ tươi đẹp. Những bức tranh đã khiến vùng quê nghèo Tam Thanh như được tái tạo lại một lần nữa. Nó như được bước mình sang một trang mới, nơi chứa đầy hi vọng của một cuộc sống ấm no hạnh phúc, một vụ mùa bội thu, sóng yên biển lặng, nó khiến cuộc sống nơi đây không còn buồn tẻ và nặng nhọc không khí mưu sinh vất vả nữa. Những bức tường, hàng rào thô sơ đã được thay bằng những hình vẽ, họa tiết ngộ nghĩnh như những câu chuyện trẻ thơ. Những con đường nhỏ trong làng cũng trở nên thơ mộng lạ thường. Những bức họa không chỉ tạo nên sức hút du khách tới thăm ngôi làng độc đáo mà còn làm cho cuộc sống của người dân nơi đây thêm nhẹ nhàng, thư thái, khác hẳn với những gam màu trầm buồn trước đây. Những du khách khi làng bích họa Tam Thanh, đặc biệt là giới trẻ, đều chia sẻ họ rất thích thú với mô hình này, khi nghệ thuật thực sự đã hòa vào với cuộc sống, trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày. Tất cả đều hy vọng mô hình này sẽ tiếp tục được mở rộng và phát triển thêm ở nhiều địa phương khác, để mỗi làng quê Việt Nam đều trở thành những câu chuyện, mỗi cuộc đời đều trở nên đáng nhớ. Và trên tất cả, chúng ta cần gửi lời cám ơn chân thành đến với những người bạn họa sỹ Hàn Quốc tài hoa và nhiệt tình, đã lan tỏa tình yêu nghệ thuật đến cho một ngôi làng nhỏ bé.
Quảng Nam 1803 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu di tích Mỹ Sơn (thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một quần thể kiến trúc nổi tiếng nhất của người Chăm ở Việt Nam. Khu di tích Mỹ Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ IV, đến thế kỷ XIII. Ngày 29/4/1979 Bộ Văn hóa-Thông tin đã công nhận Mỹ Sơn là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. Được khởi công từ thế kỷ IV bởi vị vua Bhadravarman (trị vì từ năm 349 đến năm 361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của vương quốc Chămpa. Hầu hết các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc tại Mỹ Sơn đều chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo. Các đền tháp phần lớn quay về hướng đông-phương mặt trời mọc, chỗ trú ngụ của thần linh; ngoại trừ một vài tháp quay về hướng tây hoặc cả hai hướng đông-tây, thể hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của các vị vua sau khi chết được phong thần và để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên. Bị chiến tranh tàn phá, đến năm 1975, Mỹ Sơn chỉ còn lại 32 công trình, trong đó khoảng 20 công trình còn giữ được dáng vẻ ban đầu. Đáng tiếc công trình lớn nhất là tháp A1 cao 24m, có 6 tháp phụ chung quanh, tháp này được đánh giá là kiệt tác của kiến trúc Chămpa đã bị bom Mỹ đánh đổ vào cuối năm 1969. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva-Đấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là Bhadravarman, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào thế kỷ IV kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần-vua và tổ tiên hoàng tộc. Sau bao nhiêu năm thăng trầm, biến thiên của lịch sử, ngày nay Thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn là một di tích có giá trị văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc độc đáo của nhân loại, nó kết tinh của trí tuệ, tài hoa của nhiều thế hệ. Khu di tích Mỹ Sơn đã được Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hoá Thế giới vào ngày 1/12/1999. Điểm nổi bật dễ nhận thấy ở đây là những kiến trúc Chăm pa cổ dường như vẫn còn nguyên vẹn như tượng thần Siva, bia đá, các linh vật cùng hệ thống đền tháp xưa. Sau khi đã đi hết các khu vực tham quan ở đây cũng như được nghe giới thiệu về thánh địa Mỹ Sơn, du khách sẽ được trải nghiệm nét văn hóa của người Chăm pa cổ qua những chương trình biểu diễn nghệ thuật như thổi kèn, múa. Những vũ điệu Siva đầy uyển chuyển, cuốn hút sẽ để lại những ấn tượng thật khó phai. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 1945 lượt xem
Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Hiếu Chiêu Hoàng hậu, hay còn gọi Đoàn Quý phi là Chánh phi của chúa Nguyễn Phúc Lan, và là mẹ của chúa Nguyễn Phúc Tần. Bà nổi danh ở xứ Đàng Trong với biệt hiệu Bà chúa Tằm Tang; đương thời là một Quốc mẫu nổi tiếng nhân hậu, giúp dân chúng phát triển ngành nghề về ươm tơ, dệt lụa. Đoàn quý phi tên huý là Ngọc, sinh năm 1601 tại thôn Điện Châu, châu Đông Yên, huyện Duy Xuyên. Nay là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên và xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn. Sau khi Chúa Sãi băng hà năm 1635, Thế tử Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng. Chúa Nguyễn Phúc Lan quyết định dời phủ chúa từ làng Phước Yên (Quảng Điền) về làng Kim Long (Phú Xuân). Đoàn Thị Ngọc được phong Đoàn Quý Phi và cha bà, ông Đoàn Công Nhạn được phong là Thạch Quận công. Tuy sống trong phủ chúa nhưng Đoàn Quý Phi không quên nghề xưa, hết lòng khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ươm tơ, nhờ thế nghề tằm tang của xứ Đàng Trong phát triển rực rỡ, không chỉ những làng quê dọc hai bên sông Thu Bồn ở Quảng Nam quê bà mà cả ở kinh đô Phú Xuân. Hội An đã trở thành một thương cảng phát triển, mở cửa giao lưu với bên ngoài, trong đó đường bát, lâm thổ sản và nhất là tơ lụa trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Sau này dân xứ Đàng Trong nhớ ơn nên tôn bà là Bà Chúa Tằm Tang. Về cuối đời, không rõ năm nào, Đoàn Quý Phi rời Phủ Chúa ở Kim Long, Phú Xuân quay trở về sống ở Dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam cùng với con cháu, bà con trên quê hương mình. Đoàn phu nhân đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, nhờ vậy mà nghề Tằm tang ở Đàng Trong được mở mang, phát triển. Đoàn Quý phi sinh hạ được ba công tử, trong đó các công tử Nguyễn Phúc Võ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, công tử Nguyễn Phúc Tần là con trai thứ hai, trở thành Thế tử, tức Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế. Còn công chúa út, theo hồi cố của các trưởng lão tộc Đoàn ở làng Chiêm sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là Nguyễn Phúc Ngọc Dung và có dị tật bẩm sinh, đã hạ giá với Chưởng Cơ tên là Minh và cũng đã mất sớm. Khi con là Thái Tông hoàng đế Phúc Tần lên ngôi Chúa, bà được tôn làm Quốc Thái phu nhân. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã mai táng mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng ở tổng Mông Lĩnh, cách Lăng mộ của Hoàng Hậu Mạc Thị Giai, hậu của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chừng nửa cây số và cách không xa mộ của Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho xây Lăng Vĩnh Diên ; Chúa cũng cấp năm mẫu đất tự đường tại làng Phú Trang lấy hoa lợi dùng vào việc chăm sóc, tu bổ cho Lăng mộ và Nhà thờ. Trận lụt lớn của Sài Thị Giang xảy ra vào năm Canh Thìn 1680 thời Lê Hy Tông, tức năm Thái Tông Nguyễn Phúc Tần thứ 32, gây xoáy lở ngay giữa làng Đông Yên, cắt đôi làng Đông Yên thành hai phần là Đông Yên Tây và Đông Yên Đông và sau trận đại hồng thủy này nhà thờ Đức Bà đã bị hủy hoại. Năm 1744, chúa Nguyễn Thế Tông lên ngôi, truy thụy cho Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan, và bà cũng được truy thụy thành Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi. Năm Gia Long thứ 5 (1806), Thế Tổ Cao hoàng đế đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu, phối thờ cùng Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan ở Thái Miếu tại Phú Xuân, án thứ 1 bên phải. Hằng năm cứ đến ngày 24 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 1945 lượt xem
Miếu Quan Công (địa chỉ - số 24 đường Trần Phú) còn được gọi là Chùa Ông, tên chữ là Trừng Hán Cung, do người Minh Hương định cư tại Hội An và người Việt cùng phối hợp xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 17. Miếu thờ vị tướng tài ba Quan Vân Trường (Quan Vũ hay Quan Công), là nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Tam Quốc rất được kính phục. Ông là một trong “Trung Hoa thập Thánh” và “Tam Quốc tứ tuyệt”, trở thành hình mẫu và là biểu tượng của Nghĩa - Tín - Trung - Dũng, và được tôn vinh như bậc Thánh đế. Việc thờ phụng Quan Công nhằm kính ngưỡng, ca tụng lòng nghĩa khí và tiết trung liệt, để người đời noi gương sáng. Quan Công là một danh tướng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã có nhiều công lao to lớn, phò Hán, dẹp Ngô, diệt Ngụy. Vì Hội An từng là đô thị - thương cảng, nơi thường xuyên diễn ra các việc hợp đồng buôn bán của các thương nhân Trung Quốc nên miếu Quan Công được lập nên theo nhu cầu tín ngưỡng của họ. Kiến trúc Miếu Quan Công gồm bốn tòa nhà, một tiền đình, hai tả-hữu vu và một chính điện rộng. Bốn tòa nhà xây theo kiểu chữ khẩu, cấu trúc theo kiểu chồng tránh, có ngói lợp và nóc độc đáo, được trang trí họa tiết hình rồng công phu. Chính điện đặt pho tượng Quan Công, mặc thanh bào thêu rồng nổi kim tuyến, nét mặt oai nghiêm tươi sáng, đôi mắt xuất thần nhìn về phía trước. Chính điện còn có 2 pho tượng: Châu Thương, người nô tì dũng cảm, trung thành của Quan Công và tượng Quan Bình nghĩa tử; cùng 2 con ngựa có chiều cao bằng ngựa thật, bên tả là con ngựa trắng, bên hữu ngựa xích thố - ngựa chiến mà Quan Công rất quý. Những pho tượng này được tạo tác tinh xảo thể hiện sự điêu luyện của người thợ tạo hình năm xưa. Ngoài ra, trong Miếu Quan Công còn rất nhiều biển liễu, hoành phi, sắc phong, bia đá và những hiện vật cổ. Đặc biệt, Miếu còn lưu giữ bài thơ đề vịnh và bài ngụ ngôn cổ phong do Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm (thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du) sáng tác vào năm 1775, lúc phụng chức tả tướng quân Bình Nam vào đóng quân ở Hội An; cùng 2 bài họa của Uông Sĩ Cư và Nguyễn Lệnh Tân. Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử nhưng tất cả đều vẹn nguyên tươi màu nét chữ. Đó còn là một di tích lịch sử hiếm thấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay, lưu dấu thời phân tranh Trịnh - Nguyễn ở xứ Đàng Trong từ thế kỷ 18. Miếu Quan Công đã được cấp bằng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia ngày 29 tháng 11 năm 1991. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1945 lượt xem
Di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương (Khu phế tích Phật viện Đồng Dương) nằm trên địa phận làng Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phật viện Đồng Dương chỉ thật sự được biết đến khi các nhà khoa học người Pháp công bố các kết quả nghiên cứu và khai quật. Theo nội dung tấm bia tìm thấy tại Đồng Dương, năm 875 vua Indravarman II đã cho xây dựng một tu viện Phật giáo và đền thờ vị Bồ Tát bảo hộ cho vương triều là Laskmindra Lôkesvara Svabhyada. Tính chất Phật giáo Đại thừa được thể hiện rõ qua nội dung bia ký cũng như các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương. Dưới triều đại của Indravarman II, kinh đô của vương quốc Chămpa được dời từ vùng Panduranga trở ra vùng Amaravati, với tên gọi mới là Indrapura. Theo một số nhà nghiên cứu thì địa điểm xây dựng kinh đô Indrapura là khu vực làng Đồng Dương ngày nay. Kinh đô nằm gọn trong cánh đồng Đồng Dương rộng khoảng 2 km2 (theo kiến giải của những nhà nghiên cứu Pháp thì Đồng Dương có nghĩa là cánh đồng thiêng. Tiếng "Dương" là biến âm của tiếng "Yan"- trời, linh thiêng trong ngôn ngữ Chăm). Đó là một thung lũng hình chữ nhật ba mặt Đông, Nam, Tây được đồi núi cao bao bọc. Phía Bắc là dòng Ly Ly, cửa ngõ thông thương với bên ngoài được bố trí rất kín đáo. Bia ký còn ghi lại sự sùng đạo của nhà vua, cho biết vào năm 875 “Do lòng tin vào Phật Giáo, nhà vua đã cho dựng lên một Phật viện (Vihara) và đền thờ Laksmindra Lokesvara Svabhayada. Trên bia ký còn nói đến cõi cực lạc (svargapura) hay “đô thị giải phóng” (moksapura), nơi “trú ngụ” của Phật (Buddhapada). Nhà vua nhấn mạnh đến những kẻ nào phạm tội ác phải chịu đày đọa xuống địa ngục. Sau khi xây dựng xong, vua cũng đã cúng dường nhiều ruộng đất, tiền bạc, nô lệ và nhiều thứ khác cho Lokesvara. Nhà vua dặn: Sau khi băng hà, được đổi danh hiệu là Paramabuddhaloka. Tất cả những sự kiện trên đã chứng minh là vua Indravarman II đã đồng nhất với Phật dưới dạng Bồ Tát. Đạo Phật Chămpa trong thời này theo Đại thừa. Tháng 9/1996, Viện Khảo cổ học Việt Nam, trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Bảo tàng Quảng Nam - Đà Nẵng đã phối hợp khảo sát tại làng Đồng Dương. Các nhà khảo cổ đã nhận thấy, ngoài những dấu tích kiến trúc của khu Phật viện, dấu vết cư trú của con người thời kỳ vương quốc Chămpa tại làng Đồng Dương không nhiều. Khu vực làng Đồng Dương khí hậu rất khắc nghiệt, đất đai khô cằn, lớp đất canh tác chỉ dày khoảng 40 - 50cm, có nơi chỉ dày 20cm, bên dưới là tầng đá ong, đây không phải là nơi thuận tiện để xây dựng kinh đô. Có thể nói Đồng Dương chỉ thuần túy là khu Thánh địa Phật giáo của vương quốc Chămpa, còn kinh thành Indrapura phải là một khu vực rộng lớn hơn, nằm ngoài khu Phật viện Đồng Dương. Phật viện là một quần thể kiến trúc lớn nằm gọn trong bức tường thành hình chữ nhật gọi là thành ngoại, cạnh dài chạy theo hướng chính Đông - Tây kích thước khoảng 155m nhân 326m. Vết tích nền móng còn lại cho thấy đây là một bức tường thành khá lớn và cao. Thành ngoại chứa 3 cụm kiến trúc đồng trục Đông - Tây và 3 hồ nhân tạo lớn. Có 2 hồ ở góc Đông Bắc và một ở góc Đông Nam. Ngày nay một cái đã bị san lấp làm ruộng. Ngoài ra, góc Đông Nam của thành ngoại còn có vết tích kiến trúc của một tòa nhà dài. Thành ngoại có hai cửa Đông và Tây. Hiện tại vết tích cổng rất mờ nhạt. Bên trong Thành ngoại có Thành nội. Thành nội bao lấy đền thờ trung tâm trong đó có tháp chính. Thành nội còn có một tháp đặc biệt gọi là Tháp Giếng- nằm phía góc Tây Nam của Thành nội, ngày nay đã bị vùi lấp. + Khu đền thờ chính: nằm trong một khu vực hình chữ nhật. + Nhóm phía Đông: chỉ còn lại dấu vết nền móng của khu nhà dài mà các nhà nghiên cứu cho là tu viện Phật giáo (Vihara). + Nhóm giữa: chỉ còn lại dấu vết các chân tường, các bậc thềm của một ngôi nhà dài theo trục Đông Tây. + Nhóm phía Tây: gồm các đền thờ chính và các tháp phụ xung quanh, đền thờ này thuộc loại tháp truyền thống của kiến trúc Chăm; Trong quá trình phát hiện và khai quật Khu phế tích Phật viện Đồng Dương, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật có giá trị như: tượng thần Hộ pháp bằng đá, tượng Phật bằng đá, nhóm tượng Siva bằng đá, tượng Phật bằng đồng (bảo vật quốc gia - lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), tượng nữ thần bằng đồng,… Phần lớn các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương trưng bày tại Bảo tàng Chăm tại Đà Nẵng. Những tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương đã hình thành một phong cách nghệ thuật nổi tiếng từ giữa thế kỷ IX, đến cuối thế kỷ IX, được gọi là phong cách Đồng Dương. Đồng Dương là khu di tích Phật giáo hết sức độc đáo của vương quốc Chăm, không chỉ có giá trị tiêu biểu của Việt Nam mà còn là di tích Phật giáo hiếm có trên thế giới thời kỳ cổ, trung đại. Thông qua những cổ vật còn lại, đã phản ánh thời đại cực thịnh của một vương quyền, đồng thời đưa nghệ thuật điêu khắc Chăm lên hàng tột đỉnh. Dưới góc độ tôn giáo, Đồng Dương đóng góp đặc sắc vào nghệ thuật Phật giáo của nhân loại, mẫu mực trong cách phô diễn, trong ý nghĩa tượng thờ, phù điêu, bố cục và cũng thuộc loại hiếm hoi trong số di tích Phật giáo cổ xưa còn lại tới ngày nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Quảng Nam 1936 lượt xem
Đô thị cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam) vừa được Tổ chức giải thưởng Du lịch thế giới - World Travel Awards (WTA) lần đầu tiên trao giải “Điểm đến thành phố văn hóa hàng đầu châu Á”, khẳng định sức hút của Di sản văn hóa thế giới UNESCO. Được hình thành và phát triển từ thế kỷ 16, Hội An - đô thị cổ nằm bên bờ sông Hoài thơ mộng, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, từng là một trong những thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực. Giai đoạn từ thế kỷ 16, đây là nơi tập trung hàng hóa của các thương nhân đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Ấn Độ, Tây Ban Nha… Chính vì vậy, Hội An được coi là điểm hội tụ và giao thoa của những nền văn hóa Đông - Tây. Đến nay, Hội An đã trở thành điểm đến nổi tiếng không thể thiếu trong hành trình khám phá dải đất miền Trung. Đô thị cổ Hội An nổi tiếng với lối kiến trúc điển hình về thương cảng truyền thống của khu vực Đông Nam Á và đến nay vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dòng chảy thời gian phủ lên phố Hội một vẻ đẹp bình yên và trầm mặc. Trái ngược với đô thị hiện đại, Hội An gây ấn tượng với du khách bằng những ngôi nhà lợp mái rêu phong, bức tường sơn vàng cổ kính và những chiếc đèn lồng làm nên thương hiệu Hội An. Tháng 11/2019 tới đây, Phố cổ Hội An sẽ tròn 20 năm được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Nơi đây sở hữu một hệ thống gồm 1.360 di tích, trong đó có 1.068 ngôi nhà cổ, 11 giếng nước cổ, 38 nhà thờ tộc, 19 ngôi chùa, 43 miếu thờ thần, 23 ngôi đình, 44 ngôi mộ cổ loại đặc biệt và 1 cây cầu cổ. Với lối kiến trúc độc đáo, mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên. Vì vậy ngoài việc bố trí ngôi nhà thành nhiều gian thì phần sân trời của ngôi nhà được lát đá và trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, tạo nên một không gian thoáng đãng và tràn ngập ánh sáng. Một nét đặc trưng trong kiến trúc ở Hội An là những con phố được xây dựng theo hình bàn cờ, uốn lượn theo ven sông và ôm ấp những ngôi nhà. Ở mỗi góc nhỏ bình yên ấy, du khách dễ dàng bắt gặp những gánh hàng rong với nhiều món ẩm thực nổi tiếng như cao lầu, mì Quảng, bánh mì, cơm gà… hay những cửa hàng bày bán các đồ dùng thủ công mỹ nghệ. Tất cả như phản ánh cuộc sống sinh hoạt giản dị, chậm rãi và hồn hậu của người dân nơi đây. Dạo bước tại Hội An, du khách sẽ có cơ hội ghé thăm những ngôi chùa có niên đại hàng trăm năm tuổi (như Chùa Cầu, Chùa Phước Lâm, Chùa Vạn Đức…), chiêm ngưỡng các công trình Hội quán của người Hoa với lối kiến trúc cầu kỳ, sặc sỡ, hòa mình vào không khí lễ hội nhộn nhịp với các trò chơi dân gian như hát bài chòi, hò khoan, đấu cờ tướng… Vào ngày 4/12/1999, khu di tích phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đến năm 2009, phố cổ Hội An được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Quảng Nam, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Giải thưởng “Điểm đến Thành phố văn hóa hàng đầu châu Á” là lời khẳng định và tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của Di sản Văn hóa thế giới Hội An, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh du lịch Hội An nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung đến đông đảo du khách quốc tế. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Quảng Nam 1901 lượt xem
Hội quán Phước Kiến hay Phúc Kiến Hội An có địa chỉ tại số 46 Trần Phú, Cẩm Châu, Hội An, Quảng Nam. Hội quán Phước Kiến Hội An được xây dựng từ năm 1690 do những người đến từ Phúc Kiến (Trung Quốc) di chuyển đến Hội An sinh sống và tạo dựng. Trước kia Hội quán được dựng hoàn toàn bằng gỗ và sau đó vào năm 1757 mới được xây lại bằng gạch và mái ngói như hiện nay. Hội quán Phước Kiến Hội An là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo hộ về sông, nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên và là nơi hội họp giúp đỡ lẫn nhau của các đồng hương đến từ Phúc Kiến, những người đến Hội An sớm nhất và đông nhất. Hội quán Phước Kiến đông nhất là vào các ngày lễ tết, ngày rằm. Vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), Vía Thiên Hậu (23 tháng 3 Âm lịch),… hằng năm thì tại Hội quán sẽ diễn ra rất nhiều hoạt động lễ hội. Hội quán được xây dựng theo kiểu chữ Tam, lần lượt là cổng, sân, tiểu cảnh và 2 dãy nhà Đông Tây, chính điện, sân sau, hậu điện. Hội quán Phước Kiến được thiết kế, xây dựng theo phong cách kiến trúc Trung Hoa. Phần cổng Tam Quan mang đậm vết tích của thời gian, được lợp ngói âm dương với mái cong vút. Phía trên được điểm tô bằng những con rồng uốn lượn, biểu tượng cho sự uy quyền và trang trọng. Với khuôn viên khá rộng, bày trí nhiều chậu cây cảnh cùng hòn non bộ, nổi bật với hình tượng cá chép hóa rồng. Khu tiền sảnh cũng có những vòng hương để bạn cầu chúc sức khỏe và tài lộc cho gia đình. Tại khu tiền đình còn có một bộ bàn đá dùng để làm nơi hội họp, bàn bạc làm ăn của các thương dân Phúc Kiến. Trong nhà chính là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo vệ sông nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên. Hội quán hiện vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị, gồm có: chuông đồng, tượng thờ, trống đồng, lư hương cùng 14 bức hoành phi tinh xảo… Do đó, nơi đây không chỉ mang ý nghĩa về lịch sử mà còn có giá trị to lớn về mặt văn hóa. Phía bên phải chính điện còn được trưng bày mô hình chiếc thuyền của các thương nhân gặp nạn. Thuyền này trước đây dùng để đi biển và có niên đại từ năm 1875 với nhiều chi tiết đặc trưng. Hội quán Phước Kiến là địa điểm được người dân tôn thờ và rất linh thiêng, bên cạnh đó Hội quán còn gây ấn tượng mạnh bởi nét kiến trúc Trung Hoa độc đáo, đặc sắc. Đây là công trình chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Năm 1990, nơi đây đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Tổng hợp Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1859 lượt xem
Chùa Phước Lâm ở Xã Thanh Hà, phường Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Theo lịch sử Phật giáo Đàng Trong, chùa Phước Lâm do Thiền sư Thiệt Dinh - Chánh Hiển, hiệu Ân Triêm, (1712 - 1796) thành lập vào giữa thế kỷ 18. Chùa đã nhiều lần trùng tu vào các năm 1822, 1864, 1891, 1909, 1965… Trong đó có một văn bia ghi lại quá trình trùng tu chùa. Năm Duy Tân thứ 4, chùa Phước Lâm được vinh danh với Biển vàng sắc tứ, một niềm vinh dự chỉ dành cho những ngôi chùa tư có đóng góp lớn về đức tin và phúc lợi cộng đồng. Công trình có kiến trúc độc đáo. Khuôn viên của công trình theo hình chữ Môn với 3 khu vực chính là: cổng, sân và chính điện. 1. Cổng tam quan Có 2 cổng phụ ở 2 bên ở phía Đông- phía Tây và 1 cổng chính ở giữa đều được xây bằng gạch. Phía trên của cổng chính có đề “Phước Lâm Tự” 2. Sân chùa Sân chùa rợp bóng cây xanh cổ thụ, cây cảnh và trụ cột cờ. Bao quanh sân là những tấm bình phong, khu nhà Đông (nơi tiếp khách và nơi ở của chú tiểu) và khu nhà Tây (nơi thờ tự) 3. Chính điện Đây là một ngôi nhà có 3 gian chính và 2 gian phụ được lợp mái âm dương, nóc nhà kiểu hình thuyền đắp nổi con rồng, phụng, lân uốn lượn. Chính điện là khu vực đặt các bức tượng thờ Phật, tượng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng thờ Đại Thế Chí Bồ Tát và bàn thờ Giám Trai, Tứ Thiên Vương 4. Nhà thờ tổ Nhà thờ tổ là công trình mới được xây dựng năm 1965 ở ngay phía sau chính điện. Đây là khu vực thờ tự người đã khai sơn ra chùa Phước Lâm và các vị trụ trì đã mất. Hiện nay, chùa Phước Lâm lưu giữ rất nhiều những cổ vật có giá trị, điển hình như: những mộc bản cổ được chạm trổ tinh tế, bộ bát sứ cổ, chuông đồng, khánh đồng, lư hương, hoành gỗ, liễn đối, bát sứ men ngọc, kinh Phật khắc gỗ….… Sau hơn 200 năm tồn tại, công trình nhuốm màu rêu phong của thời gian nhưng giá trị của chùa Phước Lâm để lại vẫn còn mãi. Chùa Phước Lâm được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1991. Nguồn: Bảo tàng Quảng Nam
Quảng Nam 1848 lượt xem
Chùa Cầu Hội An nằm tại đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Minh Khai, phố cổ Hội An. Chùa Cầu được xây dựng bắt ngang qua một nhánh nhỏ của con sông Thu Bồn, là cầu nối giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, những tuyến đường chính của phố cổ Hội An. Thành phần chính của Chùa Cầu gồm 2 phần là phần chùa và phần cầu. Ngôi chùa có diện tích khoảng 60m2 và được xây dựng để thờ vị tướng Bắc Đế Trấn Võ. Phần cầu có diện tích là 75m2, dài khoảng 18m. Có cả một truyền thuyết về Chùa Cầu lý giải tại sao lại chia thành hai phần như vậy. Vào thế kỷ 17, các thương nhân người Nhật Bản đã góp tiền lại để dựng lên một cây cầu biểu tượng cho hình ảnh của một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật Namazu (quái vật thường quẫy đuôi tạo nên những trận động đất) để có thể chế ngự nó, giữ cho cuộc sống bình yên. Sau một thời gian, ở sườn cầu phía bắc được dựng thêm phần chùa, nên cây cầu mới được gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cầu là “Lai Viễn Kiều”, với ý nghĩa là “Cầu đón khách phương xa”. Đặc biệt, vào năm 1990 Chùa Cầu được nhà nước công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia và hình ảnh của nó được khắc họa trên tờ tiền polymer 20.000 đồng hiện hành của Việt Nam. Không gian Chùa trên Cầu chiếm một phần khá nhỏ, những du khách lần đầu ghé đến có thể sẽ bất ngờ vì chúng ta vẫn hay gọi là Chùa Cầu nhưng lại không thờ bất kì một vị Phật nào. Ngôi Chùa nằm một góc nhỏ trên cầu, với phần cửa được xây dựng theo lối kiến trúc văn hóa Trung Quốc và chạm trổ nhiều họa tiết tinh xảo. Chính giữa chùa là bức tượng vị tướng Bắc Đế Trấn Võ được làm bằng gỗ, với mong muốn cầu bình an và yên bình cho cư dân xung quanh đây. Chùa Cầu Hội An được các thương nhân người Nhật Bản góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên đôi khi bạn có thể nghe người ta gọi là cầu Nhật Bản. Tuy nhiên, nếu xét về tổng thể, bạn sẽ cảm nhận rõ ràng được 3 luồng văn hóa Trung Quốc - Nhật Bản - Việt Nam được hòa trộn khéo léo để tạo nên Chùa Cầu. Phần mái được lắp đặt kiểu âm dương là đặc trưng chung của những khu nhà cổ tại Hội An. Ngay ở cửa là 2 bức tượng linh thú là tượng khỉ và tượng chó với ý nghĩa đứng chắn và ngăn cản những quái thú tấn công và xâm nhập Chùa Cầu. Những bức tượng này được làm từ gỗ mít với những đường điêu khắc tinh xảo và cực kỳ sống động, trước mỗi con là một bát lư hương. Phần trụ và cột bên trong cầu được chạm khắc cực kì chi tiết và tinh xảo, thể hiện rõ thẩm mỹ và tín ngưỡng tôn thờ của người dân phố cổ khi xưa. Nhờ vậy đến đây bạn có thể cảm nhận được sự sầm uất, nhộn nhịp ngày xưa cũng như sự tôn thờ những tín ngưỡng các vị thần, niềm tin mãnh liệt về sức mạnh của những vị thần có thể bảo bọc và che chở những họ vượt qua được khó khăn hoặc tà ma. Ngày 17 tháng 2 năm 1990, chùa Cầu được công nhận là Di tích lịch sử - Văn hóa quốc gia. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1761 lượt xem
Chùa Chúc Thánh thuộc khu 7, phường Tân An, Hội An, Quảng Nam. Đây là nơi ra đời trường phái Thiền Chúc Thánh thuộc Thiền Lâm Tế. Với bộ sưu tập tượng Phật đa dạng và kiến trúc cổ độc đáo. Trong số các ngôi chùa nổi tiếng ở Hội An, chùa Chúc Thánh là ngôi đền linh thiêng và lâu đời bậc nhất vùng xứ Quảng. Được xây dựng từ thế kỷ XVII bởi Thiền sư Minh Hải. Ngôi chùa Chúc Thánh được xây dựng theo phong cách kiến trúc chữ tam. Đây là sự hòa quyện giữa nét trang trí, điêu khắc tiêu biểu của văn hóa Việt Nam và Trung Hoa. Đây cũng là kiểu kiến trúc phổ biến và phổ quát nhất trong các ngôi chùa tại Việt Nam. Phần cổng tam quan với mái ngói cổ kính và hình ảnh 2 con kỳ lân kính nghiêm, cùng với hình ảnh 3 đóa hoa sen nở rộ, tất cả tạo nên không gian trang nghiêm và thiêng liêng theo đạo Phật. Khuôn viên chùa, đặc biệt nhất chính là khu tháp cổ gồm 16 ngôi mộ. Đây là nơi lưu trữ những hài cốt của sư tổ Minh Hải và nhiều vị thánh khác của môn phái. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa có nhiều bức tượng thần và phật được điêu khắc vô cùng tinh xảo và sống động, tạo nên những trải nghiệm độc đáo khi tham quan. Khu vực chính được xây dựng ở giữa khuôn viên, với hệ thống kèo cột mạnh mẽ. Mái chùa lợp bằng ngói âm dương uốn cong, mềm mại, trên chóp đỉnh mái là một cặp rồng quay mặt vào nhau đang rướn mình đến mặt trời chính giữa. Phía sau 2 con rồng là 2 con phụng đang bay ra mà ngoảnh đầu nhìn lại. Tiếp xuống hiên mái chùa trang trí những hoa văn, chạm trổ những hình ảnh Đức Phật Thích Ca từ sơ sinh đến nhập diệt và góc cuối cùng của mái hiên là 2 con kỳ lân đang đứng quay mặt ra phía trước. Bên trong, ở gian chính giữa có đặt tượng Tam thế ở trên cùng, bàn dưới đặt tượng Đức Phật Di Lặc, hai bên là A Nan, Ca Diếp, tượng Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền, tượng 18 vị La Hán. Hai bên là tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện cao 1 mét 75. Hơn nữa, bên trong Chánh điện còn có hệ thống trống lớn nhỏ, đại hồng chung và tiểu hồng chung cùng với rất nhiều bức hoành phi câu đối. Bên cạnh Chính điện là Tiền đường có đặt 4 tấm bia lớn ghi lại những lần trùng tu của chùa, đề tên các chùa và đạo hữu đã đóng góp xây dựng chùa. Trong cùng là khu Hậu tẩm, Đông phương tượng, Tây phương tượng và Tổ đường. Phía sau Chính điện là Hậu tẩm thờ Đức Địa Tạng, Phổ Liên Hoa và Ái Sở Thân. Hai bên là Đông phương tượng – nơi ở của Tăng chúng và Tây phương tượng thờ hương linh. Đi qua một khoảng sân lộ thiên có đặt rất nhiều cây cảnh quý sẽ đến Tổ đường. Nhà Tổ được xây dựng khá đơn giản là nơi đặt long vị của những vị tổ sư, trụ trì của chùa qua các thế hệ. Hệ thống long vị, bài vị cũng được chạm trổ hết sức tinh xảo, công phu thể hiện bàn tay tài hoa của các nghệ nhân xưa. Nguồn: Tổng hợp báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1759 lượt xem
Hội quán Quảng Đông có địa chỉ tại số 176 đường Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Hội quán Quảng Đông được biết đến như một di tích lịch sử quan trọng của phố cổ Hội An. Với lối kiến trúc mang phong cách của người Hoa. Hội quán Quảng Đông được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18. Thời điểm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, Hội An là một trong những thương cảng chính của nước ta, không những vậy, còn được rất nhiều người Hoa đến định cư, buôn bán làm ăn. Một hội thương nhân Quảng Đông Trung Quốc, khi sang đây đã quyết định xây dựng hội quán vào năm 1885, nơi đây trở thành một nơi tín ngưỡng và là nơi tập trung họp mặt hội đồng hương, thường xuyên giúp đỡ nhau trong làm ăn cũng như các nhu cầu cuộc sống khác. Hội quán Quảng Đông ở Hội An còn có tên gọi khác là hội quán Quảng Triệu. Ban đầu thờ Đức Khổng Tử và Thiên Hậu Thánh Mẫu, sau năm 1911 được chuyển sang thờ Tiền Hiền và Quan Công. Với kiến trúc được xây dựng độc đáo theo hình chữ quốc, từ những chất liệu gỗ và đá, hội quán là một công trình khép kín với cổng tam quan, có sân vườn rộng trang trí nhiều cây cảnh, vào giữa là phương đình, hai bên nhà Đông Tây, chính điện và sân sau,… khá giống với những hội quán khác ở Hội An. • Cổng tam quan:. Có 3 bức tranh lớn của 3 vị quan nổi tiếng thời Tam Quốc đó là Lưu Bị, Trương Phi và Quan Công. • Nhà tiền điện:. Với quy mô lớn, nơi đây gồm các bức tường bằng đá được trạm trổ tinh xảo, kì công. Phần mái với nhiều tầng, được tạo dáng cao vút xen kẽ với các hình chạm nổi mang điển tích xưa. • Khuôn viên của Hội Quán:. Gồm sân vườn rộng, với nhiều cây cảnh được chăm sóc, uốn tỉa công phu. Khoảng giữa sân có hồ nước lớn, phía trong là hình tượng rồng đang uốn lượn được chạm khắc dựa trên điển tích. “lý ngư hóa long”. • Chính điện:. Với không gian rộng lớn, đặc trưng là các trụ cột đỡ cỡ đại được chia làm 3 gian: gian chính giữa thờ Quan Công, hai bên còn lại thờ Phước Đức Chánh Thần và Thái Bạch tinh quân. • Tả vu, hữu vu:. Để nối tiền điện với chính điện, 2 bên còn có tả vu, hữu vu được thiết kế đơn giản. • Nơi đón tiếp khách:. Nằm bên phải của chính điện, cũng là nơi bàn bạc các hội nghị quan trọng. • Khu hậu viên: Khu hậu viên của hội quán rất rộng rãi với nhiều cây xanh. Điểm nhấn là đài phun nước hình rồng được chạm khắc tinh xảo cùng bức tranh quan Vân Trường cỡ lớn. Hiện nay, Hội quán Quảng Đông còn giữ được các di vật cổ có giá trị cao như bốn bức hoành phi lớn, cặp đôn sứ men ngọc của Trung Quốc, lư trầm bằng đồng cao tới 1,6 mét… Đặc biệt nhất trong số đó là bức Quan Công phi ngựa để bảo vệ phu nhân của Lưu Bị được treo trang trọng trên bức tường đá tại hội quán. Theo như nghe thuyết minh Hội quán Quảng Đông thì bức tranh này gắn với một điển tích có thật trong lịch sử Trung Quốc. Vào tháng giêng âm lịch hàng năm, tại hội quán sẽ tổ chức lễ hội Nguyên Tiêu để cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, kinh doanh thuận lợi và gặp gỡ đồng hương. Thêm vào đó, ngày 24 tháng 6 âm lịch cũng diễn ra lễ hội vía Quan Công rất lớn để bày tỏ lòng thành kính đến vị tướng tài ba. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1704 lượt xem