Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1999 và nơi đây đã từng tiếp chân hàng nghìn khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan. Hãy nghe Thái Thùy Trâm (Hà Tĩnh) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Nhắc đến Quảng Nam, ta lại nhớ đến một vùng đất giàu truyền thống văn hóa với hai di sản văn hóa thế giới là Phố cổ Hội An và khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn. Nếu phố cổ Hội An được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vì đây là nơi có sự kết hợp của các nền văn hóa qua các thời kỳ thì Thánh địa Mỹ Sơn Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới nhờ vào những nghệ thuật kiến trúc ấn độ giáo và thể hiện được rõ nét nền văn hóa của vương quốc Chăm Pa một thời.
Thánh địa Mỹ Sơn nằm ở khu vực thượng lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng núi phía tây của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Là một công trình kiến trúc nghệ thuật tinh vi và đặc sắc của vương quốc Chăm Pa từ cuối thế kỉ IV đến thế kỉ VIII. Cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30km và cách Trà Kiệu 10km, Thánh địa Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng hẹp có đường kính khoảng 2km, bao vây bởi nhiều dãy núi hùng vĩ. Mỹ Sơn có tổng cộng 13 nhóm công trình với hơn 70 kiến trúc đền tháp, cho đến ngày nay, dù bị mưa bom bão đạn tàn phá những vẫn giữ nguyên nghệ thuật kiến trúc điêu khắc đến nền văn hóa của người Chăm sau khi trãi qua nghìn năm vẫn còn tồn tại.
Nét điêu khắc thật tinh vi và độc đáo nơi Thánh địa Mỹ Sơn (ảnh sưu tầm)
Hầu hết các đền tháp và các công trình phụ đều được xây bằng gạch với một kỹ thuật tinh tế. Các mô típ trang trí hoa văn trên các trụ đá cùng với những tượng tròn và phù điêu sa thạch được chạm khắc dựa theo các thần thoại Ấn Độ giáo … Sự kết hợp hài hòa với những mô típ chạm trổ tinh xảo trên các mảng tường gạch ngoài tháp đã tạo cho quần thể đền tháp Mỹ Sơn vẻ đẹp mỹ miều sinh động mang những nét đặc trưng nhất của các phong cách nghệ thuật Chăm Pa.
Đền tháp Chăm thường có cửa quay về hướng đông – hướng của thần Siva ngự trị. Nhưng tại Mỹ sơn vẫn có một vài ngôi tháp quay về hướng tây hoặc có cả 2 cửa trổ về 2 hướng đông tây biểu hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của những vị vua sau khi chết đựơc phong thần và để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên.
Mỗi khu đền tháp đều có một tháp chính và các tháp nhỏ xung. Ngôi đền chính tượng trưng cho ngọn núi Meru- trung tâm vũ trụ, nơi hội tụ của thần linh. Mỗi tháp có 3 phần: chân tháp, mình tháp và đỉnh tháp, tượng trưng cho 3 vị thần: Brahma, Vishnu, Siva tương ứng với 3 thế giới: thế giới trần tục, thế giới tâm linh và thế giới thần linh.
(Ảnh sưu tầm)
Nhìn chung, các công trình kiến trúc nơi đây đều được xây dựng bằng gạch nung và có thể là đá sa thạch. Những viên gạch được chồng khít lên nhau mà không thấy một lớp vôi vữa nào. Hiện có rất nhiều giả thuyết về kỹ thuật xây dựng tháp Chăm: xây dựng bằng gạch chưa nung hoặc dùng vữa bằng bột đất sét nơi gạch được xây dựng để xây tháp hoặc xây tháp bằng phương pháp mài,.. Tuy nhiên, cho đến ngày nay thì kỹ thuật xây dựng tháp vẫn là một điều bí ẩn.
Ngoài ra, khách du lịch sẽ được tận mắt tận hưởng những điệu múa của người Chăm Pa thời xưa và các tiết mục ca hát, ca ngợi thần linh,…hơn nữa, ở đây khách du lịch sẽ được nghe đến những câu chuyện kỳ bí của vương quốc Chăm Pa mà đến ngày nay khoa học vẫn chưa giải đáp ra và sẽ có chỗ ăn, ở, nghĩ ngơi cho khách du lịch nếu muốn ở lại qua đêm.
Màu vàng tươi của gạch nung vẫn sáng mãi dù rêu phong, mưa nắng (ảnh sưu tầm)
Sau khi đã đi hết các khu vực tham quan ở đây cũng như được nghe giới thiệu về thánh địa Mỹ Sơn, du khách sẽ được trải nghiệm nét văn hóa của người Chăm Pa cổ qua những chương trình biểu diễn nghệ thuật như thổi kèn, múa. Những vũ điệu Siva đầy uyển chuyển, cuốn hút sẽ để lại những ấn tượng thật khó phai.
Thánh địa Mỹ Sơn là công trình được vua Bhadravarman cho khởi công từ thế kỷ IV và kết thúc vào cuối thế kỷ XIII. Dưới triều đại vua Jaya Simhavarman III tại đầu thế kỷ XIV thì Mỹ Sơn là quần thể kiến trúc với hơn 70 ngôi đền với phong cách, kiểu dáng độc đáo đặc trưng của vương quốc Chăm Pa. Phần lớn các kiến trúc tại đây đều chịu ảnh hưởng từ văn hoá Ấn Độ giáo. Do sự tàn phá của chiến tranh mà đến năm 1975, Mỹ Sơn chỉ còn giữ lại được 32 công trình gồm 20 đền tháp là còn giữ được nét kiến trúc ban đầu. Đến ngày 1/12/1999 thì thánh địa Mỹ Sơn chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá Thế giới. Trải qua bao nhiêu sự thăng trầm của lịch sử, Mỹ Sơn vẫn đứng vững cho đến ngày hôm nay. Như đã biết thì kiến trúc của thánh địa Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng lớn từ Ấn Độ giáo. Toàn bộ đền tháp đều sử dụng chất liệu là gạch đá và quay mặt về hướng đông - đây là hướng mặt trời mọc và được xem là nơi thần linh trú ngụ. Cấu trúc đền tháp tại đây được chia làm 3 phần chính là: đế tháp, thân tháp và đỉnh tháp. Điều đặc biệt là mỗi đền tháp tại Mỹ Sơn sẽ thờ một triều đại vua hoặc một vị thần khác nhau, chính vì điều này mà mỗi một công trình được xem là mảnh ghép quan trọng qua từng triều đại của Chăm Pa. Khu di tích Mỹ Sơn sẽ có những khu vực gồm: Khu vực A: Là khu vực đầu tiên nên đến, tại đây có thể ngắm nhìn toàn bộ thánh địa Mỹ Sơn, nhưng hầu hết các công trình tại khu A đang trong quá trình trùng tu. Khu vực B: Thuộc khu vực đồi phía Tây, nơi đây có 1 tháp chính và 3 tháp phụ. Khu vực C: Toạ lạc tại đồi phía Nam và cũng là khu vực độc đáo nhất với nhiều đền, tháp, phù điêu, bia khắc, tác phẩm vô cùng ấn tượng. Khi đến Thánh địa Mỹ Sơn thì đừng bỏ qua cơ hội trải nghiệm lễ hội Katê độc đáo của người Chăm nữa nhé. Đây là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào tháng 7 mỗi năm tính theo lịch của người Chăm, là dịp để tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và cầu mong sự sinh sôi cho vạn vật. Du khách sẽ được chứng kiến nhiều nghi lễ truyền thống như: rước nước, cúng cầu an, kiệu rước hay chiêm ngưỡng các màn biểu diễn với nhiều nhạc cụ phong phú. Ngoài việc tham quan các công trình lịch sử, du khách còn được chiêm ngưỡng điệu múa Apsara được lấy cảm hứng từ tượng đá sa thạch điêu khắc Apsara. Điệu múa Apsara với tựa đề “Linh hồn của đá” cùng sự biểu diễn của những cô gái người Chăm xinh đẹp trong tiếng trống Paranưng và tiếng kèn Saranai sẽ làm mê hoặc mọi du khách. Về thời điểm nào thuận lợi nhất để đến Mỹ Sơn thì bạn cần lưu ý, tại Quảng Nam sẽ có hai mùa chính là mùa mưa (Tháng 9 - tháng 12) và mùa khô (tháng 2 - tháng 8). Mùa khô dĩ nhiên sẽ là thời điểm thuận lợi hơn rất nhiều. Để ghé thăm thánh địa Mỹ Sơn thì nên chọn từ tháng 2 đến tháng 4 nhé, lúc này thời tiết rất mát mẻ, nắng không quá gắt nên rất dễ dàng để di chuyển thăm thú.
Quảng Nam 1838 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cù Lao Chàm – địa điểm du lịch Hội An nằm ngay tại xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, cách bờ biển Cửa Đại khoảng 15 km đường lái xe. Cù Lao Chàm chính là di tích văn hoá lịch sử bao gồm 8 đảo tạo thành: hòn Ông, hòn Dài, hòn Lao, hòn Khô Con, hòn Lá, hòn Tai, hòn Mồ, hòn Khô Mẹ, trong số các đảo này thì đảo chính và lớn nhất tập trung đông đảo dân cư, tập trung các hoạt động thương mại, du lịch đó là hòn Lao. Với lợi thế về địa hình thuận lợi cũng như được tạo hoá ưu ái, Cù Lao Chàm nằm ở khu vực với sự đa dạng sinh thái lớn, xung quanh có rất nhiều loài hải sản quý hiếm có giá trị kinh tế cao, những rạn san hô màu sắc đa dạng được bảo tồn ngay tại môi trường dưới nước biển tự nhiên để phát triển, khiến cho nơi đây trở thành thiên đường dành cho những du khách có đam mê khám phá, chinh phục thiên nhiên, hay những người yêu mến cái đẹp sự hoang sơ của thiên nhiên dưới nước. Toàn bộ đảo chính có tới 7 bãi biển từ Tây Bắc xuống Đông Nam: bãi Bắc nơi có nhiều hang động tự nhiên; bãi Ông nhiều nhà hàng tấp nập cũng là bãi đông khách nhất; bãi Làng là bến cá với khu cư dân xóm Cấm; bãi Xếp còn nguyên vẻ hoang sơ vì chưa đi vào khai thác du lịch; bãi Chồng sở hữu biển đẹp, có khu phòng tắm nước ngọt, những hàng dừa thẳng tăm tắp trong khi bãi Bìm lại thu hút khách du lịch bằng cách mở cửa tắm miễn phí, nơi đây thường là địa điểm để chụp hình làm kỉ niệm vì nước trong xanh, có bãi đá nghệ thuật còn bãi Hương tuy khó tắm vì nhiều thuyền bè neo đậu tại đây nhưng cũng khá thu hút du khách bởi hải sản mới đánh bắt tươi sống. Mỗi một hòn đảo trong cụm Cù Lao Chàm đều có một nét đặc trưng riêng, hấp dẫn du khách. Thường thì khách du lịch sẽ lựa chọn địa điểm du lịch Hội An Cù Lao Chàm vào tháng 3 đến tháng 8 hàng năm, bởi đây là quãng thời gian khí hậu đẹp nhất, thời tiết ấm áp, có nắng vàng bao phủ, biển nước trong vắt và lặng sóng. Vào các tháng khác chỉ có cư dân định cư cố định sinh sống tại đây vì biển động, thường có những cơn bão bất ngờ hoặc kéo dài nhiều ngày, đảo trở thành vùng bị cô lập. Du lịch tại Cù Lao Chàm hấp dẫn, du khách sẽ có những giờ phút thật sự thoải mái hòa mình vào cảnh đẹp thiên nhiên, thư giãn đầu óc và được vui chơi hết mình với chuyến lặn biển được trang thiết bị lặn hiện đại, an toàn có người hướng dẫn tại bãi Xếp, bãi Ông, bãi Làng, du khách sẽ được khám phá cả thế giới đại dương bao la mà chỉ nhìn thấy qua phim ảnh, internet, du khách cũng có thể dạo chơi tại khu rừng sâu thẳm hay đêm đốt lửa trại bên bờ biển. Ngoài ra, du khách được thưởng thức ẩm thực có một không hai tại đây là món ốc vú nàng độc đáo hình chóp nón, vỏ ngoài đen xám hay cua đá to bằng nắm tay với thịt cua thơm ngon và không tanh, cùng thưởng thức bào ngư thịt giòn vị thơm và khai thác rất khó khan nên quý hiếm, các hải sản tươi ngon như tôm, mực, tôm hùm, yến sào, rau rừng với 16 loại cây lá rừng mang hương vị thuốc nam, mọc hoang tại các chân núi món này chấm với mắm tỏi ớt cũng là những ẩm thực độc đáo xứ này… tất cả đều được chế biến một cách cầu kỳ, hấp dẫn bất cứ một vị khách dù sành ăn. Nhiều khách du lịch không chỉ trong nước mà cả quốc tế khi đến Cù Lao Chàm đều dành ra một chút thời gian mua một ít mực một nắng, loại chỉ được làm từ mực ống được mang từ biển về hãy còn tươi, phơi duy nhất một lần nắng giòn, hay mực khô, yến sào đóng hộp mang hương vị rất đặc trưng của biển để về làm quà cho người thân, bạn bè. Năm 2003 vào tháng 10, khu bảo tồn thiên nhiên tại địa điểm du lịch Hội An Cù Lao Chàm được thành lập để giữ gìn sinh vật hoang dã trên đảo, được xếp vào 1 trong 15 khu bảo tồn biển của Việt Nam. Với vẻ đẹp tuyệt mỹ cùng với hệ động thực vật phong phú, những di tích lịch sử tồn tại theo hàng trăm năm thời gian Cù Lao Chàm chính thức được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 25- 05- 2009. Ngoài các hoạt động vui chơi, ẩm thực, tắm biển, du khách còn có thể tìm hiểu thêm và tham gia vào các lễ hội truyền thống nơi đây như lễ hội cầu ngư, ngày mà người dân khấn vái cầu xin thần biển ban cho sự yên bình, thuận buồm xuôi gió, đánh bắt được nhiều hải sản khi căng buồm cho thuyền ra khơi hay lễ hội giỗ tổ nghề Yến là dịp người dân tưởng nhớ, tri ân đến những người xưa đi trước có công trong việc khám phá ra ngành nghề khai thác yến sào – món ăn mang lại giá trị kinh tế rất cao cho người dân sinh sống trên đảo.
Quảng Nam 1836 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Hội An nổi tiếng bởi vẻ đẹp kiến trúc truyền thống, hài hòa của những ngôi nhà, bức tường và cả những con đường. Cùng với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, phố cổ Hội An vẫn giữ những nét đẹp xưa cổ trầm mặc rêu phong trong từng mái ngói, viên gạch, hàng cây… như chính nét bình dị trong tính cách, tâm hồn thuần hậu, chân chất của người dân địa phương. Kiểu nhà ở phổ biến nhất chính là những ngôi nhà hình ống chỉ một hoặc hai tầng với chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dài. Nhà được làm từ những vật liệu có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm khí hậu khắc nghiệt nơi đây. Hai bên có tường gạch ngăn cách và khung nhà bằng gỗ, chia thành ba gian với lối đi ở giữa. Mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên. Mỗi ngôi nhà đều có phần sân trời của được lát đá và trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, tạo nên một nét đẹp tổng thể. Với lối kiến trúc độc đáo, không gian ngôi nhà ở Hội An luôn thoáng đãng, tràn ngập ánh sáng mặt trời, con người và thiên nhiên như hòa làm một. Những điều đó đem lại một cuộc sống tự do thoải mái cho người dân địa phương và sự thích thú cho du khách trong chuyến đi du lịch Hội An. Đường phố ở khu phố cổ được bố trí ngang dọc theo kiểu bàn cờ với những con phố ngắn và đẹp, uốn lượn, ôm lấy những ngôi nhà. Dạo bước chân qua từng con phố nhỏ xinh và yên bình ấy, du khách không chỉ được thưởng thức những món ăn ngon mà còn thấy được một phần cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân phố Hội, một cuộc sống yên bình, giản dị. Quần thể di tích kiến trúc Hội An hết sức phong phú và tuyệt mỹ vì vậy nơi này đã, đang và mãi là địa điểm thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, khám phá và tận hưởng trọn vẹn kỳ nghỉ khi đặt khách sạn ngay khu phố cổ Hội An. Đi du lịch Hội An, du khách sẽ nhận ra rằng, dường như thời gian đã dừng lại ở nơi đây trong từng mái nhà lợp ngói âm dương phủ kín màu rêu, những mảng tường xám mốc xưa cũ, lưu giữ từ xa xưa và tồn tại cho đến ngày nay. Sẽ là thiếu sót nếu du lịch Quảng Nam mà bạn không tới tham quan “biểu tượng của Hội An” – Chùa Cầu. Nơi đây còn có cái tên khác Chùa Nhật Bản nằm tiếp giáp giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú. Công trình kiến trúc độc đáo này còn được in trên tờ tiền polyme 20.000đ. Chùa Cầu cong cong, được làm bằng ván gỗ bắc ngang qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu dài 18m có mái che lợp bằng ngói âm dương, quay mặt về phía sông Thu Bồn. Điều đặc biệt là dù được người Nhật xây dựng nhưng chùa Cầu lại mang đậm nét kiến trúc Việt Nam. Phía trên cửa chính có chạm nổi ba chữ Hán là Lai Viễn Kiều, nghĩa là cầu của những người bạn từ xa đến. Nơi này thường được các thương gia Nhật Bản đến buôn bán vào khoảng giữa thế kỷ 16. Phía trên cầu có một ngôi miếu nhỏ thời thần Bắc Đế Trấn Vũ chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Ở hai đầu cầu có đặt nhóm tượng khỉ chó ngồi chầu. Qua năm tháng thời gian và các lần trùng tu, chùa Cầu vẫn là một công trình độc đáo, một nét đẹp kiến trúc đậm phong cách Việt. Đây là tài sản vô giá và chính thức được chọn làm biểu tượng của Hội An Bên cạnh đó, để hiểu hơn về cuộc sống và văn hóa người Hội An, du khách nên đến tham quan một số nhà cổ nổi tiếng và các công trình tâm linh, xã hội như nhà cổ Quân Thắng, Đức An, Tấn Ký, … hay một số hội quán như Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông … Đây là những địa điểm đẹp ở Hội An giúp du khách được trải nghiệm không gian văn hóa đặc trưng phố Hội Nhà cổ Tấn Ký là ngôi nhà cổ vinh dự trở thành Di sản cấp Quốc gia và là nơi duy nhất đón tiếp các Nguyên thủ Quốc gia, chính khách trong và ngoài nước. Nhà cổ kết hợp giữa lối kiến trúc Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Với kiến trúc hình ống đặc trưng của đô thị cổ, địa điểm này gồm hai thanh ngang chồng lên nhau, tượng trưng cho thiên – nhân và 5 thanh dọc tượng trưng cho ngũ hành. Kiến trúc hài hòa của ngôi nhà nói lên mơ ước về sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên tại phố Hội.
Quảng Nam 2106 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng gốm Thanh Hà đậm chất là một làng nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời trong thế kỷ XVI. Trước đây, làng gốm đã được hình thành tại làng Thanh Chiêm rồi sau đó mới chuyển về địa chỉ phường Thanh Hà, Hội An tp. Hội An Quảng Nam như hiện hay. Cùng trải qua lịch sử bao thăng trầm nơi phố cảng Hội An, làng nghề cũng đã có những thời kỳ huy hoàng vào thế kỷ XVII – XVII nổi danh như một “thổ sản quốc gia” được tiến vua cũng vì thế mà tiếng lành đồn xa. Bao sóng gió thời gian đã trải qua nơi đây, cũng có những thời kỳ tưởng chừng như nghề gốm nơi đây rơi vào quên lãng, nhưng với cái tâm và lòng yêu nghề, những nghệ nhân làng nghề vẫn quyết tâm một lần nữa làm sống lại nét đẹp cũng như cái hồn cốt của một làng nghề truyền thống. Ta tự hỏi, làng Thanh Hà giờ sẽ ra sao nếu nghề gốm không còn nữa? Thật khó có câu trả lời, nhưng du khách đến với Hội An giờ không cần lo lắng điều đó nữa. Gốm Thanh Hà đang sống lại và không ngừng chuyển mình mạnh mẽ. Hiện làng nghề đã trở thành điểm đến thu hút du khách trong nước và quốc tế, đặc biệt từ sau khi đô thị cổ Hội An được công nhận là “di sản văn hóa thế giới”. Khám phá làng Thanh Hà du khách không chỉ được hoà mình trong không gian làng quê mộc mạc, thanh bình mà còn được tha hồ lựa chọn những món quà lưu niệm cho người thân và bạn bè hay trải nghiệm tự tay làm ra những sản phẩm gốm độc đáo. Đồ gốm Thanh Hà đặc biệt bởi được làm từ loại đất sét màu nâu, đặc, dẻo và có độ kết dính cao. Cũng chính vì lẽ đó, khi đi dọc phố cổ Hội An bạn sẽ thấy màu chủ đạo là nâu, vàng, đỏ thẫm… Đó là màu đất, màu gỗ và cũng là màu mái ngói được làm từ làng gốm. Đến đây, bạn còn được chứng kiến quá trình tạo ra những sản phẩm gốm tuyệt mỹ của các nghệ nhân tài hoa và khéo léo. Qua nhiều công đoạn, các khối đất được tạo hình bằng tay trên bàn xoay. Sau đó, họ mang sản phẩm của mình ra phơi nắng hay hong bếp củi cho mau khô. Cuối cùng, những vật phẩm này được đưa vào lò nung. Một món đồ gốm được làm ra bởi sự công phu và cầu kỳ như thế. Người thợ Thanh Hà không chỉ khéo léo, sáng tạo mà họ còn là người có lòng yêu nghề, yêu quê, nâng niu, chắt chiu và gửi hồn vào từng hòn đất. Mọi người không những được quan sát trực tiếp các công đoạn để tạo ra một sản phẩm đồ gốm qua bàn tay tài hoa nghệ sĩ của những nghệ nhân trong làng và mà còn có thể sáng tạo riêng cho mình những sản phẩm mang dấu ấn cá nhân. Theo những nghệ nhân lâu năm ở Thanh Hà, quy trình để làm ra một sản phẩm đúng chất gốm Thanh Hà đòi hỏi một kỳ công và tâm huyết, cũng như tài hoa bàn tay người thợ để thổi được cái hồn tinh túy nhất vào đất. Từ khâu chọn đất, làm đất cho đến lên khuôn trên bàn vuốt, những đôi bàn tay nhào nặn như đưa cả tâm trí tập trung vào từng vòng quay của chiếc bàn xoay, rồi đến khi ra sản phẩm cuối cùng, còn nhiều công đoạn tinh vi, tỷ mẩn và công phu hơn nữa. Khi sản phẩm đã thành hình lại tiếp tục trải qua nắng rát, mực vẽ hoa văn rồi mới được đưa vào lò nung. Công đoạn nung thì quan trọng nhất là lửa, độ lửa và thời gian đều phải chính xác nếu không sẽ hỏng cả mẻ gốm, bao công sức sẽ trở thành gốm vụn. Khi tham quan làng Thanh Hà, các bạn đừng quên ghé thăm Công viên Đất nung Thanh Hà – công viên gốm lớn nhất tại Việt Nam nữa bạn nhé! Đây được ví như một bảo tàng gốm “có một không hai” trên cả nước với nhiều khu vực chợ, triển lãm, bảo tàng trưng bày các sản phẩm gốm độc đáo. Trong đó đặc biệt nhất có lẽ là khu thế giới thu nhỏ, nơi tái hiện sinh động lại các công trình kiến trúc của Việt Nam và những kỳ quan thế giới bằng gốm. Cùng với sự phát triển du lịch của phố cổ Hội An, những sản phẩm của làng gốm Thanh Hà Quảng Nam đã được đến gần hơn với du khách mọi miền. Và từ đó, khách du lịch tìm đến làng Thanh Hà để tham quan, mua sắm và chìm đắm trong thế giới đồ gốm ngày một đông. Du khách rời Thanh Hà mà không sắm cho mình một món đồ gốm nhỏ xinh làm quà lưu niệm mang về làm quà cho bạn bè và người thân và bạn bè thì thật là lãng phí chuyến đi.
Quảng Nam 1827 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Tượng đài Mẹ Thứ nằm trên đỉnh núi Cấm, thôn Phú Thạnh, xã Tam Phú, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam. Hàng năm, khu tượng đài Mẹ Thứ là điểm tham quan thu hút rất nhiều lượt du khách gần xa đến đây. Nằm cách Thành phố Tam Kỳ khoảng 7 km, liền kề với nhiều điểm tham quan du lịch nổi tiếng khác. Du khách có thể dễ dàng di chuyển đến đây bằng nhiều phương tiện: ô tô, xe máy hoặc xe buýt. Nếu du khách di chuyển bằng ô tô đi từ thành phố Đà Nẵng đến Tam Kỳ sẽ mất khoảng 2 giờ đồng hồ. Đến ngã tư thì rẽ trái xuống đường Thanh Hóa. Chỉ cần đi thẳng theo sự chỉ dẫn của bảng đường bạn sẽ tìm được ngay tượng đài Mẹ Thứ. Hay di chuyển bằng xe máy cũng là sở thích cho những bạn trẻ đam mê phượt. Nhưng vì đường đi quanh co với hai bên toàn là núi và thường không có trạm xăng dọc đường nên du khách lưu ý đi cẩn thận và đổ đầy bình xăng trước chuyến đi. Sau gần 7 năm xây dựng và hoàn thiện, tượng đài Mẹ Thứ được khánh thành vào tháng 3/2015. Với tổng diện tích 15ha trên đỉnh núi Cấm bao la rộng lớn thật khiến du khách choáng ngợp với không gian gần gũi với thiên nhiên, núi rừng hùng vĩ nơi đây. Tượng Đài cao 18,5m được làm bằng chất liệu đá sa thạch với các khối tượng được làm bằng đá hoa cương chạy dài theo đường cánh cung 120m. Ở chính giữa tượng đài là chân dung mẹ Nguyễn Thị Thứ được khắc những nét bình dị, mộc mạc, vẻ đẹp nhân hậu và tình thương bao la mẹ dành cho các con. Ở hai bên khối tượng là những vách đá được tạo thành những khối đá tự nhiên xếp san sát nhau một cách khéo léo uyển chuyển như những cung bậc tiết tấu của một bản nhạc giao hưởng. Những cung bậc trầm, bổng, lên xuống giống như tượng trưng cho năm tháng lịch sử gian khổ của những người con. Đó giống như là tất cả cung bậc cảm xúc vui, buồn, mong, nhớ của những người con xa nhà nơi phương xa mong nhớ về người Mẹ của mình. Sự khéo léo của người khắc họa thật khiến du khách cảm thấy nghẹn ngào, rụng động trước hình ảnh Tượng đài Mẹ Thứ linh thiêng. Bao xung quanh tượng đài là hồ nước rộng lớn hơn 1000m2. Du khách nếu từ ngoài nhìn vào sẽ những dòng nước chảy ra từ bên trong vách tượng Mẹ tràn lên mặt hồ. Hình ảnh người Mẹ Thứ ôm trọn các con vào lòng mang một ý nghĩa nhân văn biểu trưng cho tình cảm dâng trào, yêu thương sâu sắc, nghĩa tình của người Mẹ đối với các con, với những người chiến sĩ anh dũng và hết lòng với Tổ Quốc trong những năm tháng đấu tranh oanh liệt. Đi vào bên trong, du khách sẽ thấy bảo tàng với diện tích 400m2. Ngay từ lúc đầu tiên bước vào, du khách sẽ thấy ngay phòng trưng bày, sau đó là phòng bảo quản – Đây chính là nơi ghi danh các bà mẹ Việt Nam anh hùng cùng với những tư liệu hình ảnh, phim ảnh, giới thiệu về cuộc đời trong những năm tháng khốc liệt cũng như sự cống hiến hết mình của người Mẹ với Tổ quốc Việt Nam. Du khách chỉ cần dạo một vòng để khám phá thôi sẽ dễ dàng hình dung ra được sự vất vả gian khổ, tình yêu bao la của người Mẹ dành cho các chiến sĩ Việt Nam mà không thể so sánh được với bất kì một ai khác. Hãy kịp chụp lại những khoảnh khắc này để thấy đây thực sự là những giây phút thiêng liêng ý nghĩa mà chỉ khi du khách tới đây mới có thể cảm nhận được. Mặt trước tượng đài Mẹ Thứ là quảng trường tiền môn với 8 cột trụ cao khổng lồ. Đây là những cột trụ huyền thoại, mỗi cột cao 11m với đường kính gần 2m. Nếu đi từ phía ngoài vào bạn sẽ thấy hai bên là những cột trụ cao sừng sững khắc họa hình ảnh trượng trưng cho các bà mẹ ở mọi miền đất nước nhằm thể hiện sự biết ơn, trân trọng công lao to lớn của người phụ nữ Viêt Nam kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Dọc theo lối vào chính lên tượng đài, du khách sẽ nhìn thấy hai bên là 30 ngọn đèn đá, tượng trưng cho 30 năm vất vả, sự chờ đợi mòn mỏi của người Mẹ Việt Nam anh hùng chờ đợi các con đánh trận trở về. Chỉ nhìn thấy những hình ảnh này thôi đã làm rung động trái tim của du khách khi đến thăm quan tượng đài Mẹ Thứ hùng vĩ giữa bầu trời xanh bao la. Du khách có thể tham quan ở phía sau tượng đài là nơi các nghệ nhân khắc những bài thơ về người Mẹ Việt Nam Anh Hùng lên tảng đá lớn. Những bài thơ dạt dào, tình cảm, sâu lắng ca ngợi về Mẹ khiến cho du khách bâng khuâng, xao xuyến, ai tới đây cũng đều không muốn về. Với khuôn viên rộng, thành phố Quảng Nam đã cho xây dựng 12 ngôi nhà chờ cùng với không gian mở, thoáng mát xung quanh trông nhiều cây và hoa. Đây là nơi du khách có thể nghỉ chân, ăn uống và chụp ảnh kỉ niệm cùng bạn bè, gia đình.
Quảng Nam 1808 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khe Lim là địa điểm du lịch nổi bật nằm ở địa phận xã Đại Hồng thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, cách thị trấn Ái Nghĩa khoảng gần 20 km về phía tây nam. Vào những ngày nắng đẹp du khách đứng tại chân cầu Hà Nha nằm trên quốc lộ 14B đưa ánh mắt về phía đỉnh núi Am Thông nơi có những vách núi cheo leo, dựng ngược cùng ngọn thác ngày đêm tung bọt trắng xoá như làn sương mờ ảo đổ xuống chân núi tạo nên nhiều tầng với độ cao lên đến 100 m, khiến cho du khách không khỏi ngỡ ngàng trước bức tranh sơn thuỷ hữa tình mà tràn trề sức sống. Điểm du lịch Hội An Khe Lim bắt nguồn từ khe chảy qua nhiều địa phận nơi có nhiều loài cây có gỗ quý hiếm và giá trị kinh tế cao đó là cây gỗ lim. Từ xa xưa, người dân sinh sống trong vùng đã biết đến khe Lim với vẻ đẹp thiên nhiên độc đáo không chỉ bởi có riêng một dòng nước rộng khoảng 20 m từ trên cao ngày đêm ầm ầm đổ xuống tạo thành một dòng suối lớn với nhiều tảng đá lớn nhỏ đã có từ rất lâu được bao phủ màu xanh của rêu phong nằm xếp chồng lên nhau, tất cả tạo nên một khung cảnh hùng vĩ đến say đắm lòng người. Hai bên bờ suối ở địa điểm du lịch này là những cánh rừng nguyên sinh rộng lớn yên bình với các loài động vật và thực vật phong phú, đa dạng mang trên mình một màu xanh tươi tràn đầy sức sống của thiên nhiên, nơi đây khí hậu ôn hoà giúp cho hoa cỏ phát triển mạnh mẽ, lan rừng nở bung khoe sắc và toả ngát hương thơm dịu nhẹ thoang thoảng trong làn gió trời mang lại sự thanh tịnh đến thư thái cho du khách. Trong bức tranh của ngàn hoa khoe sắc, của cây cối tốt tươi ấy nổi bật lên hình ảnh sừng sững của dãy núi Hio Hiu ở phía Nam khiến cho ai đã từng đặt chân đến đây đều ngỡ ngàng, yêu mến. Càng lên cao và đi sâu vào bên trong, rừng cây càng rậm rạp, dây leo chằng chịt, đan xen vào nhau nên dù trời có vào thời tiết mùa hè với ánh nắng chói chang nhưng không khí ở đây vẫn thật mát mẻ, dễ chịu. Hết đoạn đường núi cheo leo, hiểm trở, một không gian cảnh đẹp mở ra trước tầm mắt của du khách thật bao la với trời xanh, mây trắng, núi rừng trùng điệp, với dòng suối trong vắt, réo rắt như tiếng đàn du dương của ai đó vọng lại, trong tiếng rì rào, xào xạc của lá cây và đôi lúc là âm thanh chao nghiêng thật khẽ của những chiếc lá vàng trên những ghềnh đá lớn mặt phẳng, chiều rộng cỡ phải 4 hay 5 người ôm mới xuể với màu nâu xám, vàng, xanh rêu mang những hình thù kỳ bí, nơi đây đủ cho hàng chục du khách vui chơi, nghỉ ngơi, ngâm mình tắm trong làn nước mát lịm của con suối. Ngước mắt lên lưng chừng núi, du khách sẽ bị thu hút bởi chằng chịt những con thác đang tung bọt trắng xóa, phủ lên lên những tán cây xanh, quyện hòa với ánh nắng vàng rực rỡ tạo nên chiếc cầu vồng nhiều màu sắc thật long lanh, huyền diệu, đôi lúc lại thật giống với bảng màu đổ vội loang lổ mà đầy nghệ thuật của người nghệ sĩ rừng xanh, những cảnh đẹp đắm say lòng người. Một bầu không khí trong lành đang chào đón, du khách hãy hít thở thật sâu để hưởng thụ không khí trong lành của núi rừng, thiên nhiên mà cảm thấy trong lòng thư thái, bao mệt mỏi, lo toan đời thường dường như cũng tan biến theo bọt nước trắng xóa, được lắng nghe những câu chuyện về dấu tích Chùa Am trên đỉnh núi Am Thông với những giai thoại dân gian huyền bí được người dân truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Ngày nay với vẻ đẹp thiên nhiên có một không hai, Khe Lim đã trở thành một trong những địa điểm du lịch nổi bật, du khách đến đây để thư giãn và có thêm nhiều kỷ niệm đẹp bên người thân và bạn bè.
Quảng Nam 1965 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu di tích Mỹ Sơn (thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một quần thể kiến trúc nổi tiếng nhất của người Chăm ở Việt Nam. Khu di tích Mỹ Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ IV, đến thế kỷ XIII. Ngày 29/4/1979 Bộ Văn hóa-Thông tin đã công nhận Mỹ Sơn là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. Được khởi công từ thế kỷ IV bởi vị vua Bhadravarman (trị vì từ năm 349 đến năm 361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của vương quốc Chămpa. Hầu hết các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc tại Mỹ Sơn đều chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo. Các đền tháp phần lớn quay về hướng đông-phương mặt trời mọc, chỗ trú ngụ của thần linh; ngoại trừ một vài tháp quay về hướng tây hoặc cả hai hướng đông-tây, thể hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của các vị vua sau khi chết được phong thần và để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên. Bị chiến tranh tàn phá, đến năm 1975, Mỹ Sơn chỉ còn lại 32 công trình, trong đó khoảng 20 công trình còn giữ được dáng vẻ ban đầu. Đáng tiếc công trình lớn nhất là tháp A1 cao 24m, có 6 tháp phụ chung quanh, tháp này được đánh giá là kiệt tác của kiến trúc Chămpa đã bị bom Mỹ đánh đổ vào cuối năm 1969. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva-Đấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là Bhadravarman, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào thế kỷ IV kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần-vua và tổ tiên hoàng tộc. Sau bao nhiêu năm thăng trầm, biến thiên của lịch sử, ngày nay Thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn là một di tích có giá trị văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc độc đáo của nhân loại, nó kết tinh của trí tuệ, tài hoa của nhiều thế hệ. Khu di tích Mỹ Sơn đã được Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hoá Thế giới vào ngày 1/12/1999. Điểm nổi bật dễ nhận thấy ở đây là những kiến trúc Chăm pa cổ dường như vẫn còn nguyên vẹn như tượng thần Siva, bia đá, các linh vật cùng hệ thống đền tháp xưa. Sau khi đã đi hết các khu vực tham quan ở đây cũng như được nghe giới thiệu về thánh địa Mỹ Sơn, du khách sẽ được trải nghiệm nét văn hóa của người Chăm pa cổ qua những chương trình biểu diễn nghệ thuật như thổi kèn, múa. Những vũ điệu Siva đầy uyển chuyển, cuốn hút sẽ để lại những ấn tượng thật khó phai. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 2006 lượt xem
Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Hiếu Chiêu Hoàng hậu, hay còn gọi Đoàn Quý phi là Chánh phi của chúa Nguyễn Phúc Lan, và là mẹ của chúa Nguyễn Phúc Tần. Bà nổi danh ở xứ Đàng Trong với biệt hiệu Bà chúa Tằm Tang; đương thời là một Quốc mẫu nổi tiếng nhân hậu, giúp dân chúng phát triển ngành nghề về ươm tơ, dệt lụa. Đoàn quý phi tên huý là Ngọc, sinh năm 1601 tại thôn Điện Châu, châu Đông Yên, huyện Duy Xuyên. Nay là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên và xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn. Sau khi Chúa Sãi băng hà năm 1635, Thế tử Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng. Chúa Nguyễn Phúc Lan quyết định dời phủ chúa từ làng Phước Yên (Quảng Điền) về làng Kim Long (Phú Xuân). Đoàn Thị Ngọc được phong Đoàn Quý Phi và cha bà, ông Đoàn Công Nhạn được phong là Thạch Quận công. Tuy sống trong phủ chúa nhưng Đoàn Quý Phi không quên nghề xưa, hết lòng khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ươm tơ, nhờ thế nghề tằm tang của xứ Đàng Trong phát triển rực rỡ, không chỉ những làng quê dọc hai bên sông Thu Bồn ở Quảng Nam quê bà mà cả ở kinh đô Phú Xuân. Hội An đã trở thành một thương cảng phát triển, mở cửa giao lưu với bên ngoài, trong đó đường bát, lâm thổ sản và nhất là tơ lụa trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Sau này dân xứ Đàng Trong nhớ ơn nên tôn bà là Bà Chúa Tằm Tang. Về cuối đời, không rõ năm nào, Đoàn Quý Phi rời Phủ Chúa ở Kim Long, Phú Xuân quay trở về sống ở Dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam cùng với con cháu, bà con trên quê hương mình. Đoàn phu nhân đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, nhờ vậy mà nghề Tằm tang ở Đàng Trong được mở mang, phát triển. Đoàn Quý phi sinh hạ được ba công tử, trong đó các công tử Nguyễn Phúc Võ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, công tử Nguyễn Phúc Tần là con trai thứ hai, trở thành Thế tử, tức Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế. Còn công chúa út, theo hồi cố của các trưởng lão tộc Đoàn ở làng Chiêm sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là Nguyễn Phúc Ngọc Dung và có dị tật bẩm sinh, đã hạ giá với Chưởng Cơ tên là Minh và cũng đã mất sớm. Khi con là Thái Tông hoàng đế Phúc Tần lên ngôi Chúa, bà được tôn làm Quốc Thái phu nhân. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã mai táng mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng ở tổng Mông Lĩnh, cách Lăng mộ của Hoàng Hậu Mạc Thị Giai, hậu của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chừng nửa cây số và cách không xa mộ của Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho xây Lăng Vĩnh Diên ; Chúa cũng cấp năm mẫu đất tự đường tại làng Phú Trang lấy hoa lợi dùng vào việc chăm sóc, tu bổ cho Lăng mộ và Nhà thờ. Trận lụt lớn của Sài Thị Giang xảy ra vào năm Canh Thìn 1680 thời Lê Hy Tông, tức năm Thái Tông Nguyễn Phúc Tần thứ 32, gây xoáy lở ngay giữa làng Đông Yên, cắt đôi làng Đông Yên thành hai phần là Đông Yên Tây và Đông Yên Đông và sau trận đại hồng thủy này nhà thờ Đức Bà đã bị hủy hoại. Năm 1744, chúa Nguyễn Thế Tông lên ngôi, truy thụy cho Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan, và bà cũng được truy thụy thành Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi. Năm Gia Long thứ 5 (1806), Thế Tổ Cao hoàng đế đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu, phối thờ cùng Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan ở Thái Miếu tại Phú Xuân, án thứ 1 bên phải. Hằng năm cứ đến ngày 24 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 2000 lượt xem
Di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương (Khu phế tích Phật viện Đồng Dương) nằm trên địa phận làng Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phật viện Đồng Dương chỉ thật sự được biết đến khi các nhà khoa học người Pháp công bố các kết quả nghiên cứu và khai quật. Theo nội dung tấm bia tìm thấy tại Đồng Dương, năm 875 vua Indravarman II đã cho xây dựng một tu viện Phật giáo và đền thờ vị Bồ Tát bảo hộ cho vương triều là Laskmindra Lôkesvara Svabhyada. Tính chất Phật giáo Đại thừa được thể hiện rõ qua nội dung bia ký cũng như các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương. Dưới triều đại của Indravarman II, kinh đô của vương quốc Chămpa được dời từ vùng Panduranga trở ra vùng Amaravati, với tên gọi mới là Indrapura. Theo một số nhà nghiên cứu thì địa điểm xây dựng kinh đô Indrapura là khu vực làng Đồng Dương ngày nay. Kinh đô nằm gọn trong cánh đồng Đồng Dương rộng khoảng 2 km2 (theo kiến giải của những nhà nghiên cứu Pháp thì Đồng Dương có nghĩa là cánh đồng thiêng. Tiếng "Dương" là biến âm của tiếng "Yan"- trời, linh thiêng trong ngôn ngữ Chăm). Đó là một thung lũng hình chữ nhật ba mặt Đông, Nam, Tây được đồi núi cao bao bọc. Phía Bắc là dòng Ly Ly, cửa ngõ thông thương với bên ngoài được bố trí rất kín đáo. Bia ký còn ghi lại sự sùng đạo của nhà vua, cho biết vào năm 875 “Do lòng tin vào Phật Giáo, nhà vua đã cho dựng lên một Phật viện (Vihara) và đền thờ Laksmindra Lokesvara Svabhayada. Trên bia ký còn nói đến cõi cực lạc (svargapura) hay “đô thị giải phóng” (moksapura), nơi “trú ngụ” của Phật (Buddhapada). Nhà vua nhấn mạnh đến những kẻ nào phạm tội ác phải chịu đày đọa xuống địa ngục. Sau khi xây dựng xong, vua cũng đã cúng dường nhiều ruộng đất, tiền bạc, nô lệ và nhiều thứ khác cho Lokesvara. Nhà vua dặn: Sau khi băng hà, được đổi danh hiệu là Paramabuddhaloka. Tất cả những sự kiện trên đã chứng minh là vua Indravarman II đã đồng nhất với Phật dưới dạng Bồ Tát. Đạo Phật Chămpa trong thời này theo Đại thừa. Tháng 9/1996, Viện Khảo cổ học Việt Nam, trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Bảo tàng Quảng Nam - Đà Nẵng đã phối hợp khảo sát tại làng Đồng Dương. Các nhà khảo cổ đã nhận thấy, ngoài những dấu tích kiến trúc của khu Phật viện, dấu vết cư trú của con người thời kỳ vương quốc Chămpa tại làng Đồng Dương không nhiều. Khu vực làng Đồng Dương khí hậu rất khắc nghiệt, đất đai khô cằn, lớp đất canh tác chỉ dày khoảng 40 - 50cm, có nơi chỉ dày 20cm, bên dưới là tầng đá ong, đây không phải là nơi thuận tiện để xây dựng kinh đô. Có thể nói Đồng Dương chỉ thuần túy là khu Thánh địa Phật giáo của vương quốc Chămpa, còn kinh thành Indrapura phải là một khu vực rộng lớn hơn, nằm ngoài khu Phật viện Đồng Dương. Phật viện là một quần thể kiến trúc lớn nằm gọn trong bức tường thành hình chữ nhật gọi là thành ngoại, cạnh dài chạy theo hướng chính Đông - Tây kích thước khoảng 155m nhân 326m. Vết tích nền móng còn lại cho thấy đây là một bức tường thành khá lớn và cao. Thành ngoại chứa 3 cụm kiến trúc đồng trục Đông - Tây và 3 hồ nhân tạo lớn. Có 2 hồ ở góc Đông Bắc và một ở góc Đông Nam. Ngày nay một cái đã bị san lấp làm ruộng. Ngoài ra, góc Đông Nam của thành ngoại còn có vết tích kiến trúc của một tòa nhà dài. Thành ngoại có hai cửa Đông và Tây. Hiện tại vết tích cổng rất mờ nhạt. Bên trong Thành ngoại có Thành nội. Thành nội bao lấy đền thờ trung tâm trong đó có tháp chính. Thành nội còn có một tháp đặc biệt gọi là Tháp Giếng- nằm phía góc Tây Nam của Thành nội, ngày nay đã bị vùi lấp. + Khu đền thờ chính: nằm trong một khu vực hình chữ nhật. + Nhóm phía Đông: chỉ còn lại dấu vết nền móng của khu nhà dài mà các nhà nghiên cứu cho là tu viện Phật giáo (Vihara). + Nhóm giữa: chỉ còn lại dấu vết các chân tường, các bậc thềm của một ngôi nhà dài theo trục Đông Tây. + Nhóm phía Tây: gồm các đền thờ chính và các tháp phụ xung quanh, đền thờ này thuộc loại tháp truyền thống của kiến trúc Chăm; Trong quá trình phát hiện và khai quật Khu phế tích Phật viện Đồng Dương, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật có giá trị như: tượng thần Hộ pháp bằng đá, tượng Phật bằng đá, nhóm tượng Siva bằng đá, tượng Phật bằng đồng (bảo vật quốc gia - lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), tượng nữ thần bằng đồng,… Phần lớn các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương trưng bày tại Bảo tàng Chăm tại Đà Nẵng. Những tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương đã hình thành một phong cách nghệ thuật nổi tiếng từ giữa thế kỷ IX, đến cuối thế kỷ IX, được gọi là phong cách Đồng Dương. Đồng Dương là khu di tích Phật giáo hết sức độc đáo của vương quốc Chăm, không chỉ có giá trị tiêu biểu của Việt Nam mà còn là di tích Phật giáo hiếm có trên thế giới thời kỳ cổ, trung đại. Thông qua những cổ vật còn lại, đã phản ánh thời đại cực thịnh của một vương quyền, đồng thời đưa nghệ thuật điêu khắc Chăm lên hàng tột đỉnh. Dưới góc độ tôn giáo, Đồng Dương đóng góp đặc sắc vào nghệ thuật Phật giáo của nhân loại, mẫu mực trong cách phô diễn, trong ý nghĩa tượng thờ, phù điêu, bố cục và cũng thuộc loại hiếm hoi trong số di tích Phật giáo cổ xưa còn lại tới ngày nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Quảng Nam 1993 lượt xem
Miếu Quan Công (địa chỉ - số 24 đường Trần Phú) còn được gọi là Chùa Ông, tên chữ là Trừng Hán Cung, do người Minh Hương định cư tại Hội An và người Việt cùng phối hợp xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 17. Miếu thờ vị tướng tài ba Quan Vân Trường (Quan Vũ hay Quan Công), là nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Tam Quốc rất được kính phục. Ông là một trong “Trung Hoa thập Thánh” và “Tam Quốc tứ tuyệt”, trở thành hình mẫu và là biểu tượng của Nghĩa - Tín - Trung - Dũng, và được tôn vinh như bậc Thánh đế. Việc thờ phụng Quan Công nhằm kính ngưỡng, ca tụng lòng nghĩa khí và tiết trung liệt, để người đời noi gương sáng. Quan Công là một danh tướng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã có nhiều công lao to lớn, phò Hán, dẹp Ngô, diệt Ngụy. Vì Hội An từng là đô thị - thương cảng, nơi thường xuyên diễn ra các việc hợp đồng buôn bán của các thương nhân Trung Quốc nên miếu Quan Công được lập nên theo nhu cầu tín ngưỡng của họ. Kiến trúc Miếu Quan Công gồm bốn tòa nhà, một tiền đình, hai tả-hữu vu và một chính điện rộng. Bốn tòa nhà xây theo kiểu chữ khẩu, cấu trúc theo kiểu chồng tránh, có ngói lợp và nóc độc đáo, được trang trí họa tiết hình rồng công phu. Chính điện đặt pho tượng Quan Công, mặc thanh bào thêu rồng nổi kim tuyến, nét mặt oai nghiêm tươi sáng, đôi mắt xuất thần nhìn về phía trước. Chính điện còn có 2 pho tượng: Châu Thương, người nô tì dũng cảm, trung thành của Quan Công và tượng Quan Bình nghĩa tử; cùng 2 con ngựa có chiều cao bằng ngựa thật, bên tả là con ngựa trắng, bên hữu ngựa xích thố - ngựa chiến mà Quan Công rất quý. Những pho tượng này được tạo tác tinh xảo thể hiện sự điêu luyện của người thợ tạo hình năm xưa. Ngoài ra, trong Miếu Quan Công còn rất nhiều biển liễu, hoành phi, sắc phong, bia đá và những hiện vật cổ. Đặc biệt, Miếu còn lưu giữ bài thơ đề vịnh và bài ngụ ngôn cổ phong do Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm (thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du) sáng tác vào năm 1775, lúc phụng chức tả tướng quân Bình Nam vào đóng quân ở Hội An; cùng 2 bài họa của Uông Sĩ Cư và Nguyễn Lệnh Tân. Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử nhưng tất cả đều vẹn nguyên tươi màu nét chữ. Đó còn là một di tích lịch sử hiếm thấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay, lưu dấu thời phân tranh Trịnh - Nguyễn ở xứ Đàng Trong từ thế kỷ 18. Miếu Quan Công đã được cấp bằng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia ngày 29 tháng 11 năm 1991. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1992 lượt xem
Đô thị cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam) vừa được Tổ chức giải thưởng Du lịch thế giới - World Travel Awards (WTA) lần đầu tiên trao giải “Điểm đến thành phố văn hóa hàng đầu châu Á”, khẳng định sức hút của Di sản văn hóa thế giới UNESCO. Được hình thành và phát triển từ thế kỷ 16, Hội An - đô thị cổ nằm bên bờ sông Hoài thơ mộng, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, từng là một trong những thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực. Giai đoạn từ thế kỷ 16, đây là nơi tập trung hàng hóa của các thương nhân đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Ấn Độ, Tây Ban Nha… Chính vì vậy, Hội An được coi là điểm hội tụ và giao thoa của những nền văn hóa Đông - Tây. Đến nay, Hội An đã trở thành điểm đến nổi tiếng không thể thiếu trong hành trình khám phá dải đất miền Trung. Đô thị cổ Hội An nổi tiếng với lối kiến trúc điển hình về thương cảng truyền thống của khu vực Đông Nam Á và đến nay vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dòng chảy thời gian phủ lên phố Hội một vẻ đẹp bình yên và trầm mặc. Trái ngược với đô thị hiện đại, Hội An gây ấn tượng với du khách bằng những ngôi nhà lợp mái rêu phong, bức tường sơn vàng cổ kính và những chiếc đèn lồng làm nên thương hiệu Hội An. Tháng 11/2019 tới đây, Phố cổ Hội An sẽ tròn 20 năm được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Nơi đây sở hữu một hệ thống gồm 1.360 di tích, trong đó có 1.068 ngôi nhà cổ, 11 giếng nước cổ, 38 nhà thờ tộc, 19 ngôi chùa, 43 miếu thờ thần, 23 ngôi đình, 44 ngôi mộ cổ loại đặc biệt và 1 cây cầu cổ. Với lối kiến trúc độc đáo, mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên. Vì vậy ngoài việc bố trí ngôi nhà thành nhiều gian thì phần sân trời của ngôi nhà được lát đá và trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, tạo nên một không gian thoáng đãng và tràn ngập ánh sáng. Một nét đặc trưng trong kiến trúc ở Hội An là những con phố được xây dựng theo hình bàn cờ, uốn lượn theo ven sông và ôm ấp những ngôi nhà. Ở mỗi góc nhỏ bình yên ấy, du khách dễ dàng bắt gặp những gánh hàng rong với nhiều món ẩm thực nổi tiếng như cao lầu, mì Quảng, bánh mì, cơm gà… hay những cửa hàng bày bán các đồ dùng thủ công mỹ nghệ. Tất cả như phản ánh cuộc sống sinh hoạt giản dị, chậm rãi và hồn hậu của người dân nơi đây. Dạo bước tại Hội An, du khách sẽ có cơ hội ghé thăm những ngôi chùa có niên đại hàng trăm năm tuổi (như Chùa Cầu, Chùa Phước Lâm, Chùa Vạn Đức…), chiêm ngưỡng các công trình Hội quán của người Hoa với lối kiến trúc cầu kỳ, sặc sỡ, hòa mình vào không khí lễ hội nhộn nhịp với các trò chơi dân gian như hát bài chòi, hò khoan, đấu cờ tướng… Vào ngày 4/12/1999, khu di tích phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đến năm 2009, phố cổ Hội An được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Quảng Nam, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Giải thưởng “Điểm đến Thành phố văn hóa hàng đầu châu Á” là lời khẳng định và tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của Di sản Văn hóa thế giới Hội An, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh du lịch Hội An nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung đến đông đảo du khách quốc tế. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Quảng Nam 1957 lượt xem
Hội quán Phước Kiến hay Phúc Kiến Hội An có địa chỉ tại số 46 Trần Phú, Cẩm Châu, Hội An, Quảng Nam. Hội quán Phước Kiến Hội An được xây dựng từ năm 1690 do những người đến từ Phúc Kiến (Trung Quốc) di chuyển đến Hội An sinh sống và tạo dựng. Trước kia Hội quán được dựng hoàn toàn bằng gỗ và sau đó vào năm 1757 mới được xây lại bằng gạch và mái ngói như hiện nay. Hội quán Phước Kiến Hội An là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo hộ về sông, nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên và là nơi hội họp giúp đỡ lẫn nhau của các đồng hương đến từ Phúc Kiến, những người đến Hội An sớm nhất và đông nhất. Hội quán Phước Kiến đông nhất là vào các ngày lễ tết, ngày rằm. Vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), Vía Thiên Hậu (23 tháng 3 Âm lịch),… hằng năm thì tại Hội quán sẽ diễn ra rất nhiều hoạt động lễ hội. Hội quán được xây dựng theo kiểu chữ Tam, lần lượt là cổng, sân, tiểu cảnh và 2 dãy nhà Đông Tây, chính điện, sân sau, hậu điện. Hội quán Phước Kiến được thiết kế, xây dựng theo phong cách kiến trúc Trung Hoa. Phần cổng Tam Quan mang đậm vết tích của thời gian, được lợp ngói âm dương với mái cong vút. Phía trên được điểm tô bằng những con rồng uốn lượn, biểu tượng cho sự uy quyền và trang trọng. Với khuôn viên khá rộng, bày trí nhiều chậu cây cảnh cùng hòn non bộ, nổi bật với hình tượng cá chép hóa rồng. Khu tiền sảnh cũng có những vòng hương để bạn cầu chúc sức khỏe và tài lộc cho gia đình. Tại khu tiền đình còn có một bộ bàn đá dùng để làm nơi hội họp, bàn bạc làm ăn của các thương dân Phúc Kiến. Trong nhà chính là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo vệ sông nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên. Hội quán hiện vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị, gồm có: chuông đồng, tượng thờ, trống đồng, lư hương cùng 14 bức hoành phi tinh xảo… Do đó, nơi đây không chỉ mang ý nghĩa về lịch sử mà còn có giá trị to lớn về mặt văn hóa. Phía bên phải chính điện còn được trưng bày mô hình chiếc thuyền của các thương nhân gặp nạn. Thuyền này trước đây dùng để đi biển và có niên đại từ năm 1875 với nhiều chi tiết đặc trưng. Hội quán Phước Kiến là địa điểm được người dân tôn thờ và rất linh thiêng, bên cạnh đó Hội quán còn gây ấn tượng mạnh bởi nét kiến trúc Trung Hoa độc đáo, đặc sắc. Đây là công trình chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Năm 1990, nơi đây đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Tổng hợp Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1921 lượt xem