Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
(SGTT) – Được bao bọc bởi sông suối và núi rừng, thôn Chênh Vênh thuộc xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, gần đây được nhiều du khách tìm đến để hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ và tìm hiểu nét văn hóa của đồng bào Vân Kiều.
(SGTT) – Được bao bọc bởi sông suối và núi rừng, thôn Chênh Vênh thuộc xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, gần đây được nhiều du khách tìm đến để hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ và tìm hiểu nét văn hóa của đồng bào Vân Kiều.
Thôn Chênh Vênh với góc nhìn từ trên cao. Ảnh: Nguyễn Đức Hiếu
Thôn Chênh Vênh có diện tích 1.500 hec-ta, với khoảng 130 hộ, 100% cư dân là người Vân Kiều. Thôn nằm sát đường Hồ Chí Minh nhánh Tây, được bao bọc bởi sông suối, đồi núi hoang sơ, hùng vĩ và đặc biệt là bởi cánh rừng Chênh Vênh.
Với vẻ đẹp nguyên sơ và nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Vân Kiều, nơi đây có tiềm năng lớn về phát triển du lịch sinh thái, du lịch gắn với phát triển rừng.
Anh Nguyễn Đức Hiếu (DucHieumedia) – Travel blogger đến từ Quảng Trị, chia sẻ du khách đến thôn Chênh Vênh sẽ cảm nhận được sự yên bình trong nếp sống của đồng bào Vân Kiều cùng sự trong lành của thiên nhiên nơi đây. Tiếng chim hót, tiếng suối chảy giúp khách du lịch như được đắm mình vào núi rừng nguyên sơ, rời xa nhịp sống hối hả.
Gần đây, thôn Chênh Vênh được nhiều du khách tìm đến để hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ, cũng như tìm hiểu nét văn hóa của đồng bào Vân Kiều. Ảnh: Nguyễn Đức Hiếu
Được biết, rừng Chênh Vênh là cánh rừng đầu tiên tại Việt Nam do cộng đồng bà con Vân Kiều quản lý được cấp chứng chỉ chứng nhận quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC (một chứng chỉ có 10 bộ nguyên tắc với gần 200 nguyên tắc và tiêu chí của Hội đồng Quản trị rừng thế giới Forest Stewardship Council – FSC – một tổ chức phi chính phủ quy mô toàn cầu có trụ sở tại Đức biên soạn).
Vẻ đẹp còn khá hoang sơ, yên bình là một trong những điều khiến Chênh Vênh thu hút du khách. Ảnh: Nguyễn Đức Hiếu
Cơ sở để thôn Chênh Vênh nhen nhóm ý tưởng làm du lịch từ rừng bắt nguồn như thế. Nhưng dấu ấn “nâng tầm” du lịch sinh thái ở đây là việc Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCVN), phối hợp UBND xã Hướng Phùng tổ chức khai trương tour du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở thôn Chênh Vênh. Đây là tour du lịch gắn với phát triển rừng, kết hợp tìm hiểu đời sống người dân tộc thiểu số Bru – Vân Kiều.
Thôn được bao bọc bởi sông suối và cánh rừng xanh mướt. Ảnh: Nguyễn Đức Hiếu
Theo thông tin từ báo Quảng Trị, ngoài tài nguyên thiên nhiên thì các sản phẩm nông nghiệp cũng được coi là tiềm năng phục vụ phát triển du lịch tại Chênh Vênh. Với đặc trưng khí hậu và thời tiết ôn hòa, địa phương phát triển nhiều loại sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, trong đó tiêu biểu là sản phẩm cà phê arabica.
Ngoài ra, một số sản phẩm nông nghiệp đặc trưng khác như nếp than, măng rừng, gừng, nghệ, ớt, ngô, cà và một số loại cây ăn quả như xoài, nhãn, thanh long… cũng có chất lượng cao. Cùng với các tiềm năng được thiên nhiên ưu đãi, thì thôn Chênh Vênh còn có một tiềm năng rất đặc biệt, đó chính là bản sắc văn hóa phong phú và đa dạng của đồng bào dân tộc Vân Kiều.
100% cư dân ở thôn Chênh Vênh là người Vân Kiều. Ảnh: Nguyễn Đức Hiếu
Với cư dân ở thôn là người Vân Kiều nên nét văn hóa truyền thống còn rất “đậm đặc” để hút du khách tìm hiểu. Tùy vào từng thời điểm trong năm, du khách có thể được chứng kiến các lễ hội đặc sắc của người Vân Kiều như lễ hội mừng lúa mới, lễ cúng Trời, lễ hội cồng chiêng…
Thác Chênh Vênh được nhiều du khách tìm đến khám phá. Ảnh: Nguyễn Đức Hiếu
Chênh Vênh còn có một thác nước còn hoang sơ nằm lọt thỏm giữa rừng đại ngàn. Thác có độ cao hơn 20 mét, trông như một “dải lụa” vắt qua cánh rừng già, phía bên dưới có nhiều hồ nước vừa và nhỏ, nước trong xanh quanh năm. Thác Chênh Vênh được nhiều du khách khắp nơi lựa chọn làm điểm đến, nhất là vào mỗi dịp Hè.
Với nhiều cảnh đẹp, hấp dẫn những người thích phiêu lưu khám phá, cùng sự hiếu khách và văn hóa đặc sắc của đồng bào Pa cô, Vân Kiều, thác Tà Puồng ở thôn Trăng Tà Puồng, xã Hướng Việt, huyện miền núi Hướng Hóa là một trong những điểm đến được khách du lịch lựa chọn hàng đầu khi đến Quảng Trị. Để đến thác Tà Puồng, du khách phải đi 60 km từ thành phố Đông Hà theo Quốc lộ 9 (Hành lang kinh tế Đông - Tây) lên đến thị trấn Khe Sanh (huyện Hướng Hóa), rẽ vào đường Hồ Chí Minh khoảng 50 km mới đến được trung tâm xã Hướng Việt, đi khoảng vài km nữa mới đến được thôn Trăng Tà Puồng. Tuy xa nhưng trên suốt quãng đường dài, du khách sẽ cảm nhận được vẻ hoang dã, hùng vỹ của núi rừng cũng như vẻ sầm uất, hội nhập của đất nước đang trong thời kỳ hợp tác quốc tế qua những đoàn xe tấp nập trên Hành lang kinh tế Đông - Tây. Từ đường Hồ Chí Minh đi vào thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua thôn Trăng Tà Puồng với những nếp nhà sàn yên bình của đồng bào Pa cô, Vân Kiều. Từ thôn Trăng Tà Puồng, đi đến thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua một cánh rừng nguyên sinh với nhiều cây cổ thụ vài người ôm không xuể. Thác Tà Puồng là một cụm danh thắng gồm 1 động và 2 thác nước: Động Tà Puồng nằm ở trên cao rộng khoảng 10 m và ăn sâu vào lòng núi khoảng 200 m, trong động có nhiều thạch nhũ đẹp và nước, động có thể chứa được trên dưới 200 người. Theo nhiều người lớn tuổi sinh sống tại thôn Trăng Tà Puồng, trong chiến tranh, động Tà Puồng không chỉ để cho người dân của 5 thôn trong xã đến trú ẩn, mà bà con các xã vùng lân cận cũng đến trú tạm. Nằm cách động Tà Puồng khoảng 1,5 km về hạ lưu là thác Tà Puồng 1, ngọn thác có độ cao khoảng trên 20 m chảy thẳng từ lưng chừng núi xuống dưới qua những vách núi đá thẳng đứng, hiểm hóc lôi cuốn những người thích mạo hiểm. Dưới thác Tà Puồng 1 có khá nhiều tảng đá lớn, hình thù kỳ quái và nhẵn để du khách nghỉ ngơi thưởng lãm cảnh đẹp hùng vỹ, vừa được hít thở không khí trong lành, mát mẻ tự nhiên. Cách thác Tà Puồng 1 về hạ lưu khoảng 20 phút đi bộ là thác Tà Puồng 2. Đây cũng là điểm vui chơi yêu thích của du khách khi đắm mình dưới làn nước mát lạnh trong hồ nước rộng khoảng 5.000 m2, chỗ sâu nhất khoảng 10 m từ ngọn thác đổ xuống, nước hồ trong vắt nhìn thấy được cả đáy hồ. Người biết bơi có thể thỏa thích bơi, lặn tại đây để giải cái nóng nắng gay gắt của mùa hè. Người không biết bơi thì có thể chèo thuyền, bè ra giữa hồ để thưởng ngoạn cảnh đẹp nơi đây. Hiện nay, bình quân mỗi ngày có hàng trăm du khách, trong đó phần nhiều là các bạn trẻ thích khám phá để thám hiểm và chinh phục thử thách. Để đảm bảo an ninh trật tự và cũng là để thu hút khách du lịch đến tham quan thác, UBND xã Hướng Việt đã huy động các lực lượng Công an, dân quân tự vệ thường xuyên đi tuần đảm bảo an ninh trật tự; tuyên truyền cho du khách để rác đúng nơi quy định, đảm bảo vệ sinh môi trường và không được đốt lửa để phòng chống cháy nổ. Xã cũng đã vận động các hộ dân trong thôn Trăng Tà Puồng tích cực giúp đỡ, hỗ trợ chỉ dẫn đường đến tháp cho du khách. Nhờ vậy, du khách sẽ tuyệt đối an toàn khi đến với thác Tà Puồng, tận hưởng những giây phút sảng khoái, thư giãn và an yên tại đây. Chị Cao Quỳnh Như, ở thị trấn Khe Sanh, huyện Hướng Hóa đang cùng nhóm bạn chơi tại thác cho biết: Không khí ở đây rất trong lành và mát mẻ. Vào những ngày lễ, Tết, bọn em thường lên đây nghỉ ngơi, lấy tinh thần mà tiếp tục làm việc. Đến với thác Tà Puồng, du khách sẽ còn có nhiều cơ hội để tham quan, thám hiểm và tìm hiểu những danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử độc đáo, nên thơ nằm xung quanh thác Tà Puồng như: Động Brai, đèo Sa Mù, sân bay Tà Cơn, Nhà đày Lao Bảo, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo...
Quảng Trị 1671 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Đảo Cồn Cỏ còn có tên gọi khác là Con Cọp, thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị. Đây là một huyện đảo nhỏ nhưng có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển kinh tế, thêm vào đó vị trí địa lý của Cồn Cỏ có ý nghĩa quan trọng trong an ninh quốc phòng biển đảo. Có vai trò là mũi đầu tiền tiêu vùng biển phía Nam. Do chỉ là một đảo nhỏ với diện tích khoảng 2,3 km2 nên dân cư cũng không được đông, từ 300 – 400 người. Với những tiềm năng, điều kiện tự nhiên vốn có đảo Cồn Cỏ rất có thế mạnh về phát triển du lịch, đánh bắt nuôi trồng hải sản. Trên đảo có cả rừng được bao quanh bởi biển khơi, đúng với nghĩa “rừng vàng biển bạc”, hệ sinh thái động thực vật rất phong phú và đa dạng. Các loài cá, sinh vật biển quanh đây có đến hơn 267 loài, các loài cá sống xen kẽ phân theo tầng nước. Ở tầng nước phía trên có nhiều loại cá ngư dân hay đánh bắt được như: Cá thu, cá trích, cá ngừ, cá chim…Bên cạnh đó công việc khai thác còn bội thu nhờ số lượng các loài nhuyễn thể rất lớn, có nhiều loại động vật giáp xác, nhuyễn thể như: Tôm hùm, cua bể, ghẹ, ngao, điệp, ngọc trai…Đây chính là biểu hiện rõ nét về sự đa dạng phong phú về tài nguyên biển của huyện đảo Cồn C Đặc biệt đảo Cồn Cỏ còn có hệ thực vật thuộc loại phong phú nhất, đẹp nhất của Việt Nam. Các loài rong biển, tảo biển, san hô vô cùng sặc sỡ nhiều màu sắc làm nên không gian biển dưới nước sinh động tràn đầy sức sống. Ở Cồn Cỏ có hơn 50 loài rong biển thuộc các loại khác nhau, trong đó nhiều loại rong biển bán được giá cao. Về san hô còn đa dạng hơn rong biển với hơn 100 loài san hô, phân bố rải rác khu vực gần bờ. Nhờ được thiên nhiêu ưu đãi nên nơi đây rất có tiềm năng kinh tế, nếu bạn có dịp du lịch đảo Cồn Cỏ sẽ có cơ hội ngắm những loài san hô tuyệt đẹp, đắm mình vào không gian đa sắc màu dưới nước biển. Ngoài biển, trên đảo Cồn Cỏ còn có những khu rừng nhiệt đới rậm rạp là nơi trú ngụ của nhiều sinh vật. Rừng cây nơi đây được ví như lá phổi xanh của hòn đảo với tổng diện tích cây che phủ lên đến hơn 70% diện tích cuả đảo. Ngoài những cây lai nhập từ đất liền trên đảo còn có nhiều loài cây bản địa như: Cây Bàng vuông, cây Dứa dại, cây Phong ba. Cây chính là màu xanh của đảo là lý do khiến không khí nơi đây trong lành hơn bất kỳ nơi nào, bầu không khí trong lành cùng với cảnh vật thiên nhiên thơ mộng khiến Cồn Cỏ đang dần trở thành một địa điểm du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng lý tưởng của các gia đình, các nhóm bạn, cặp đôi vào các kỳ nghỉ dịp lễ. Du lịch sinh thái tại đảo Cồn Cỏ là lựa chọn hợp lý nhất mà bạn có thể nghĩ đến. Tận hưởng không gian biển khơi trên một hòn đảo nhỏ nơi có những bãi đá Bazan hình thành từ núi lửa, những bãi tắm cát trắng ẩn hiện vỏ sò, vỏ ốc, hay tham quan những khu rừng nguyên sinh trên đảo. Tất cả hứa hẹn đem lại cho bạn một kỳ nghỉ dưỡng đầy thư giãn và vô cùng ý nghĩa. Trong những năm tháng chống Mỹ, hòn đảo xinh đẹp này là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt, đến giờ còn lưu giữ nhiều chứng tích chiến trường xưa. Huyện đảo Cồn Cỏ được thành lập như một đơn vị hành chính thuộc tỉnh Quảng Trị có dân sinh ổn định nên các vấn đề về điện nước luôn được đảm bảo. Các cơ sở hạ tầng trên đảo ngày càng được củng cố và nâng cấp các tuyến đê kè đá bao bờ biển, cảng tàu cá, đường giao thông chính trên đảo…Trên đảo có điện nước đầy đủ, nước ngọt được lấy từ một giếng khoan sâu, tuy trữ lượng chưa nhiều nhưng đủ cung cấp cho dân cư sinh hoạt trên đảo. Hệ thống thông tin liên lạc đầy đủ và hiện đại, đảm bảo thông tin luôn được kết nối bởi các trạm ra đa, cột viễn thông, đài phát thanh truyền hình, mạng di động. Cơ sở vật chất trên Cồn Cỏ không chỉ đáp ứng cho các hoạt động du lịch, sinh hoạt của người dân mà còn là tiền đề để phát triển các dự án nghiên cứu sinh học, thăm dò địa chất trên đảo. Có rất nhiều món đặc sản ở Cồn Cỏ, chủ yếu từ nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ưu đãi. Món ốc rất phổ biến, bạn có thể ăn thoải mái vì ốc chỉ 20.000 VNĐ/kg, cua, ghẹ cũng rất nhiều và được bán theo con, mỗi con khoảng 40.000 VNĐ. Đặc biệt trên đảo có món ốc thổ và hải sâm đen rất nổi tiếng vì bổ dưỡng có lợi cho sức khỏe. Giá cá mua tại cảng rẻ hơn mua ở chợ trong đất liền chỉ từ 150.000 VNĐ/kg, tùy loại cá mà giá có sự chênh lệch, như cá đuối lên đến 240.000 VNĐ/kg. Giá cơm trên đảo cũng rất bình dân, từ 30.000 – 40.000 VNĐ/suất. Cồn cỏ có rất nhiều địa điểm tham quan, chụp ảnh đẹp, vừa tắm biển vừa lặn khám phá các bãi san hô. Các địa điểm nổi bật phải kể đến như: Bãi Tranh, bãi sông Hương, ngọn hải đăng Cồn Cỏ, bến Ông Nghè, mõm Hổ…Cảnh sắc nước biển nền trời vô cùng hài hòa, tạo nên tông màu xanh tươi mát. Không gian lộng gió biển, khí trời mát mẻ làm con người luôn tươi tỉnh, cây cối sinh vật căng tràn sự sống. Nếu bạn chọn Cồn Cỏ để đi du lịch, nghỉ dưỡng nên đi vào khoảng thời gian tháng 5, tháng 6 mùa hè, vì thời tiết nắng khô ráo, cảnh vật khởi sắc tươi mới, các khu vui chơi bãi tắm nhộn nhịp, biển dịu êm không dậy sóng. Các loài động thực vật sinh sôi, đua sắc trên rừng dưới nước.
Quảng Trị 1832 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Thác Chênh Vênh là một điểm du lịch mới đang thu hút được đông đảo du khách gần xa với hình ảnh ngọn thác nổi bọt trắng xóa, xung quanh là núi rừng hùng vĩ và cung đường chinh phục vô cùng thú vị. Hiện nay, thác Chênh Vênh vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng và đã trở thành một điểm du lịch lý tưởng cho nhiều du khách, đặc biệt là những người đam mê phượt, tìm hiểu những vùng đất mới với rất nhiều điều hấp dẫn. Được đặt tên là thác Chênh Vênh có lẽ là vì con thác này nằm chênh vênh giữa vách núi gồ ghề và được khu rừng hoang sơ bao bọc. Nằm ẩn mình trong núi nên khi du khách men theo những con đường nhỏ, con suối để vào thác sẽ được đắm chìm vào bản nhạc hòa ca của tiếng nước chảy ồ ạt, tiếng lá cây xào xạo và cả tiếng chim hót. Thác Chênh Vênh hiện nay vẫn còn khá hoang sơ và hẻo lánh nên khi muốn chinh phục thác thì du khách nên chọn di chuyển bằng xe máy sẽ thuận tiện và chủ động hơn trong suốt hành trình. Thác Chênh Vênh sở hữu độ cao 20m và có dòng nước trong veo đổ từ trên cao xuống, đập mạnh vào vách đá và tạo bọt tung trắng xóa. Bên trong thác Chênh Vênh còn có một thác nhỏ được gọi là thác Mẹ. Thác Mẹ được bao bọc bởi rừng cây tươi mát, phía trước còn có một hồ nước trong vắt, mát lạnh và vô cùng thích hợp cho các hoạt động vui chơi cùng gia đình bạn bè. Muốn đi vào thác Mẹ du khách có thể đi men theo hai bên bờ hoặc trèo qua các phiến đá. Không chỉ có khung cảnh đẹp như tranh vẽ mà tại thác Chênh Vênh cũng có rất nhiều hoạt động thú vị. Du khách có thể thỏa sức đắm mình vào dòng nước mát lạnh để quên đi những áp lực trong công việc, cuộc sống. Bên cạnh đó, du khách có thể tổ chức cắm trại, đốt lửa trại, tổ chức các bữa tiệc nướng, các hoạt động vui chơi cùng gia đình, bạn bè… Đặc biệt hơn là vì sở hữu không gian hùng vĩ nhưng không kém phần thơ mộng nên thác Chênh Vênh cũng là địa điểm được lựa chọn để check-in sống ảo. Những tấm ảnh check-in ở đây vô cùng lung linh và sẽ không làm du khách thất vọng.
Quảng Trị 1772 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Bãi biển Cửa Tùng thuộc huyện Vĩnh Linh, cách thành phố Đông Hà (tỉnh Quảng Trị) khoảng 30 km về phía đông bắc. Bãi biển Cửa Tùng được hình thành trên nền đất đỏ bazan, bên trên phủ một lớp cát trắng, sóng biển vỗ rì rào ngày đêm như một bản tình ca ngọt ngào chào đón những người lữ khách từ phương xa. Vào những ngày thời tiết đẹp, bầu trời và mặt biển hòa thành một màu xanh trong trẻo, ngút ngàn tầm mắt khiến ai cũng phải say lòng. Thêm một điều thú vị nữa là biển Cửa Tùng được hình thành từ quá trình phong hóa địa chất với hai bãi đá ngầm lấn sâu ra biển được gọi là Mũi Si và Mũi Lay. Vì vậy mà đã tạo nên một vịnh nhỏ khuất gió, không có sóng to gió lớn hay các dòng hải lưu lớn chảy ngang, hiền hòa như một hồ nước lớn tĩnh mịch. Đến đây vào mùa hè, bạn sẽ được đắm mình trong làn nước mát lạnh, tận hưởng bầu không khí trong lành và có những khoảng thời gian nghỉ ngơi, thư giãn tuyệt vời. đây có bầu không khí trong lành và cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, còn được mệnh danh là thiên đường của những bãi tắm. Ngay từ thời xưa, bãi biển Cửa Tùng luôn được đánh giá cao bởi vẻ đẹp hoang sơ, quyến rũ, người Pháp cho xây dựng tại đây nhiều biệt thự nghỉ dưỡng có kiến trúc theo phong cách cổ điển. Đến nay, các khu nghỉ dưỡng còn được gìn giữ khá nguyên vẹn và bãi biển Cửa Tùng vẫn luôn là điểm đến hấp dẫn đối với du khách. Bãi biển Cửa Tùng nằm thoai thoải trên nền đất đỏ bazan, phủ bên trên là lớp cát trắng, sóng biển rì rào êm đềm như những bản tình ca ngọt ngào dành cho người lữ khách. Trong những ngày nắng sớm, bầu trời ở biển Cửa Tùng trong xanh không một gợn mây, sắc nước như sắc trời hòa cùng một màu xanh đầy cuốn hút.Tắm biển ở Cửa Tùng cũng là trải nghiệm thú vị mà bạn không nên bỏ lỡ. Nhờ lặng gió, sóng nhỏ nên ở đây cực kỳ an toàn. Phía trên bãi cát là những hàng phi lao xanh rì đung đưa trong gió. Tắm biển xong, bạn có thể nằm ngả lưng trên cát, ngắm nhìn sự bao la của đại dương hoặc tản bộ tận hưởng nắng gió của miền biển Trung bộ hiền hòa. Buổi sáng, khoảng 5h30 là thời gian tuyệt vời nhất để bạn đón bình minh trên biển Cửa Tùng. Đây chắc chắn sẽ là trải nghiệm cực kỳ khó quên bởi sự bình yên, khung cảnh tuyệt đẹp khi những tia nắng đầu tiên lò rạng từ mặt biển bao la. Đây cũng là lúc người dân bắt đầu trở về sau một đêm đánh bắt trên biển, mang theo rất nhiều những loại hải sản tươi ngon. Tiếng huyên náo bán mua lúc này chính là nhịp sống của người dân miền biển, vẻ đẹp của sự lao động miệt mài ngày đêm. Nước biển ở Cửa Tùng mát rượi, xanh trong và còn rất nhiều tiềm năng chưa được khám phá. Đặc sản nơi đây cũng là điểm hấp dẫn thực khách. Nổi bật nhất là món mực tươi rói, vừa được câu lên, da vẫn còn đang đổi màu, được nhà hàng thả ngay vào nồi hấp vừa chín tới. Bày lên mâm mời du khách, miếng mực dầy thịt, vị ngọt thơm đọng lại mãi trong miệng. Cháo bột rong biển hải sản, bánh đúc rau câu cũng là đặc sản được nhiều dân lựa chọn khi tới nghỉ dưỡng tại đây. Cháo (bánh canh) làm từ bột sắn dây, được xe sợi nhỏ như đầu tăm, ngắn chừng 2mm được nấu với rong biển và tôm, bề bề, mực đậm vị, ngọt nước. Đặc sản này rất hấp dẫn du khách vào mỗi buổi chiều, sau thời gian lặn ngụp giữa dòng nước mát lạnh. Các loại hải sản như cá duội, cá khô, tôm hùm, tôm sú, cá mú, cá hồng, cá kình… ở đất này cũng mang đậm vị ngọt của biển. Cá mú ở Vĩnh Linh được chế biến rất đặc biệt, thay vì nướng, hấp như nhiều vùng biển khác, các đầu bếp vùng biển này cho cá mú vào tộ, kho với nướm mắm liu riu 20-30 phút, rắc chút hạt tiêu Vĩnh Linh đượm nồng vị cay, để thực khách cảm nhận được nguyên độ săn chắc của cá. Phía đông Vĩnh Linh này, du khách muốn mua đặc sản về làm quà, cũng không thiếu những sản vật quê hương như tiêu, chè, bánh sắn, bánh bột lọc…
Quảng Trị 1093 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 07
Với nhiều cảnh đẹp, hấp dẫn những người thích phiêu lưu khám phá, cùng sự hiếu khách và văn hóa đặc sắc của đồng bào Pa cô, Vân Kiều, thác Tà Puồng ở thôn Trăng Tà Puồng, xã Hướng Việt, huyện miền núi Hướng Hóa là một trong những điểm đến được khách du lịch lựa chọn hàng đầu khi đến Quảng Trị. Để đến thác Tà Puồng, du khách phải đi 60 km từ thành phố Đông Hà theo Quốc lộ 9 (Hành lang kinh tế Đông - Tây) lên đến thị trấn Khe Sanh (huyện Hướng Hóa), rẽ vào đường Hồ Chí Minh khoảng 50 km mới đến được trung tâm xã Hướng Việt, đi khoảng vài km nữa mới đến được thôn Trăng Tà Puồng. Tuy xa nhưng trên suốt quãng đường dài, du khách sẽ cảm nhận được vẻ hoang dã, hùng vỹ của núi rừng cũng như vẻ sầm uất, hội nhập của đất nước đang trong thời kỳ hợp tác quốc tế qua những đoàn xe tấp nập trên Hành lang kinh tế Đông - Tây. Từ đường Hồ Chí Minh đi vào thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua thôn Trăng Tà Puồng với những nếp nhà sàn yên bình của đồng bào Pa cô, Vân Kiều. Từ thôn Trăng Tà Puồng, đi đến thác Tà Puồng, du khách sẽ đi qua một cánh rừng nguyên sinh với nhiều cây cổ thụ vài người ôm không xuể. Thác Tà Puồng là một cụm danh thắng gồm 1 động và 2 thác nước: Động Tà Puồng nằm ở trên cao rộng khoảng 10 m và ăn sâu vào lòng núi khoảng 200 m, trong động có nhiều thạch nhũ đẹp và nước, động có thể chứa được trên dưới 200 người. Theo nhiều người lớn tuổi sinh sống tại thôn Trăng Tà Puồng, trong chiến tranh, động Tà Puồng không chỉ để cho người dân của 5 thôn trong xã đến trú ẩn, mà bà con các xã vùng lân cận cũng đến trú tạm. Nằm cách động Tà Puồng khoảng 1,5 km về hạ lưu là thác Tà Puồng 1, ngọn thác có độ cao khoảng trên 20 m chảy thẳng từ lưng chừng núi xuống dưới qua những vách núi đá thẳng đứng, hiểm hóc lôi cuốn những người thích mạo hiểm. Dưới thác Tà Puồng 1 có khá nhiều tảng đá lớn, hình thù kỳ quái và nhẵn để du khách nghỉ ngơi thưởng lãm cảnh đẹp hùng vỹ, vừa được hít thở không khí trong lành, mát mẻ tự nhiên. Cách thác Tà Puồng 1 về hạ lưu khoảng 20 phút đi bộ là thác Tà Puồng 2. Đây cũng là điểm vui chơi yêu thích của du khách khi đắm mình dưới làn nước mát lạnh trong hồ nước rộng khoảng 5.000 m2, chỗ sâu nhất khoảng 10 m từ ngọn thác đổ xuống, nước hồ trong vắt nhìn thấy được cả đáy hồ. Người biết bơi có thể thỏa thích bơi, lặn tại đây để giải cái nóng nắng gay gắt của mùa hè. Người không biết bơi thì có thể chèo thuyền, bè ra giữa hồ để thưởng ngoạn cảnh đẹp nơi đây. Hiện nay, bình quân mỗi ngày có hàng trăm du khách, trong đó phần nhiều là các bạn trẻ thích khám phá để thám hiểm và chinh phục thử thách.Đến với thác Tà Puồng, du khách sẽ còn có nhiều cơ hội để tham quan, thám hiểm và tìm hiểu những danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử độc đáo, nên thơ nằm xung quanh thác Tà Puồng như: Động Brai, đèo Sa Mù, sân bay Tà Cơn, Nhà đày Lao Bảo, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo...
Quảng Trị 1059 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Bãi biển Cửa Việt tọa lạc ở thôn Tân Lợi, xã Gio Việt, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, nằm trong Khu du lịch Cửa Việt huyện Gio Linh. Cách thành phố Đông Hà 15km về phía Đông, bãi biển Cửa Việt trải dài với bãi tắm rộng, nước trong xanh, cát trắng mịn sạch sẽ bên những rừng dương xanh ngát. Thời tiết nơi đây khá nóng vào mùa ạ do ảnh hưởng từ gió Lào, tuy nhiên làn nước tại biển Cửa Việt luôn mát mẻ giúp bạn được giải nhiệt, quên đi cái nắng nóng oi ả và thả mình vào cảm giác sảng khoái. Biển Cửa Việt nằm trong top 4 bãi biển đẹp nhất mà bạn nên ghé đến khi du lịch đến Quảng Trị, bên cạnh biển Cửa Tùng, biển Gia Đẳng và biển Mỹ Thủy. Nhờ những sự đặc biệt này mà biển Cửa Việt đón không ít du khách trên mọi miền đất nước đến tham quan, nghỉ dưỡng, trong đó có cả TP. HCM dù nằm khá xa nơi đây. Biển Cửa Việt là một điểm đến hàng đầu tại Quảng Trị, thu hút nhiều “tín đồ xê dịch” đến để khám phá những nét đặc biệt mà thiên nhiên ban tặng cho nơi đây. Mặc dù đã có nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng, các dịch vụ hiện đại tại đây để phát triển du lịch, những gì đẹp nhất, hoang sơ nhất của thiên nhiên vẫn được giữ lại. Đến bãi tắm Cửa Việt bạn sẽ được ngắm nhìn cảnh mặt nước trong xanh hòa vào làn mây trời, song song biển là bãi cát trắng phau chạy dài tít tắp như một dải lụa trắng vắt ngang bãi biển. Bạn đừng quên đến đây vào sáng sớm để được đi dạo trên bãi biển ngắm bình minh và đón những tia nắng ban mai đầu tiên. Chắc chắn bạn sẽ cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm và vui vẻ hơn rất nhiều. Đặc biệt bầu trời tại biển Cửa Việt vào sáng sớm trong vắt một màu xanh, không một gợn mây. Không khí thoáng mát kết hợp với làn gió biển mặn mà thổi vào hàng dương xì xào sẽ càng làm cho bạn cảm thấy xao xuyến hơn. Nếu như bình minh trên biển Cửa Việt mang nét đẹp trong trẻo, tràn đầy sức sống thì hoàng hôn nơi đây lại mang một vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ và mộng mơ với sắc đỏ hồng nhẹ nhàng. Để lưu lại những khoảnh khắc tuyệt đẹp của mẹ thiên nhiên tại bãi biển Cửa Việt, bạn đừng quên mang theo máy ảnh hoặc điện thoại đến đây nhé, nếu không thì bạn sẽ tiếc hùi hụi đấy.Biển Cửa Việt được che chắn bởi 2 vách núi khá cao nên khá khuất gió, biển cũng êm ả hơn. Do đó bãi biển có độ an toàn cao cho tất cả mọi người kể cả với trẻ nhỏ và phụ nữ. Đến đây bạn sẽ tha hồ thả mình và thư giãn trong làn nước mát lạnh, tận hưởng những ngọn sóng biển êm dịu nhẹ nhàng xô vào tạo bọt trắng xóa để mang đến cho bạn những phút giây tắm biển thư thái nhất.Chèo sup tại biển Cửa Việt thu hút rất nhiều bạn trẻ. Đây không những là bộ môn thể thao trải nghiệm, được vận động và thư giãn giữa làn nước trong xanh, đây còn là phụ kiện sống ảo chất lượng để bạn có những tấm ảnh lung linh để lưu lại kỉ niệm. Bạn còn chờ gì mà không đến đây trải nghiệm ngay nào.Gần bãi biển Cửa Việt còn có những vườn cây ăn trái trĩu quả được người dân địa phương trồng. Mùa trái cây chính cũng là mùa du lịch cao điểm tại đây nên sau khi tắm biển bạn có thể ghé qua những vườn trái cây này để tham quan, check-in và thưởng thức trái cây tại vườn. Những trải nghiệm tuyệt vời này sẽ làm cho chuyến du lịch của bạn thêm phần ý nghĩa và trọn vẹn hơn.
Quảng Trị 905 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Đồi cát Nhĩ Hạ Quảng Trị cũng như bao nhiêu đồi cát khác của miền trung, nắng và khô cằn. Nhưng đồi cát cũng có những giá trị và trải nghiệm riêng biệt mà ít nơi đâu có được. Đồi cát Nhĩ hạ cách quốc lộ 1A, mười kilômet về phía Đông, đồi cát vàng thuộc địa phận thôn Nhĩ Hạ, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Đây là một trong số rất ít đồi cát còn sót lại, có màu sắc rất đặc biệt – màu vàng óng ánh tuyệt đẹp. Đồi cát vàng óng ánh với độ cao lên đến 40 mét, gần với bãi tắm Cửa Việt, bãi tắm Gio Hải. Xung quanh khá bằng phẳng do vậy khi đứng từ trên đây nhìn ra xa sẽ thấy khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Bạn có thể đứng ở đây để ngắm nhìn cảnh bình minh, hoàng hôn tuyệt đẹp. Cảnh sắc ở đây có thể khiến bạn quên đi muộn phiền, hòa hợp với thiên nhiên. Những đêm trăng thanh, mọi người cũng thường xuyên lên đây để cùng ngắm trăng, trò chuyện. Nơi đây là địa điểm lí tưởng để cắm trại hoặc ngủ qua đêm.Mặc dù được ví như “tiểu sa mạc” nhưng thực tế nơi đây không khô cằn tí nào. Cây cối ở trên đồi cát vẫn rất xanh tươi. Nguyên nhân chính là do ở phía dưới chân đồi có các mạnh nước ngầm xa xưa giúp cây cối hấp thụ nước vào những ngày hè. Nằm ẩn mình dưới những lùm cát uốn lượn và rặng phi lao thẳng tắp vươn mình trong gió, đồi cát vàng Nhĩ Hạ được ví như một tiểu sa mạc giữa lòng đồng bằng. Sở dĩ tạo thành trên một địa hình toàn cát trắng thế nhưng đồi cát lại nhuộm lên một màu vàng óng bởi trước kia có một mỏ sắt tồn tại ở nơi đây khá lâu nhờ vào điều này màu sắc của cát ở thời điểm hiện tại có phần hấp dẫn và đặc biệt hơn các đồi cát thông thường. Khi di chuyển lên đỉnh của đồi phóng tầm mắt ra xa du khách hoàn toàn có thể được chiêm ngưỡng phong cảnh của ngọn hải đăng và bãi biển Cửa Việt xinh đẹp.Thời điểm đẹp nhất để đến với đồi cát Nhĩ Hạnh có lẽ là vào lúc bình minh hoặc khi hoàng hôn buông xuống. Nếu như vào sáng sớm khi mặt trời mới ló mình toàn bộ đồi cát bừng tỉnh sau đêm dài mang lại một sức sống hoàn toàn mới thì đến chiều tà mặt trời lặn những ánh nắng cuối cùng rọi xuống triền cát vàng làm cho khung cảnh trở nên lấp lánh lung linh. Đây cũng chính là hai thời điểm lý tưởng nhất để du khách có thể thoải mái chụp hình mà không cần căn góc.Được ví như là một tiểu sa mạc thế nhưng hệ động thực vật ở nơi đây không hề thưa thớt và thiếu sức sống mà ngược lại nó luôn xanh tươi và trù phú vì đất ở đồi cát luôn có một độ ẩm nhất định. Những rặng phi lao và hàng cây tràm được người dân nơi đây trồng phía dưới chân đồi cát vừa giúp cát không bị gió thổi vào làng vừa tô điểm thêm cho không gian hoang sơ của nơi đây. Dạo chân một vòng trên đồi du khách hoàn toàn có thể bắt gặp những quặng sắt với đủ màu sắc khác nhau. Đây cũng là một điều vô cùng đặc biệt và thú vị mà chỉ riêng đồi cát Nhĩ Hạ mới có được.Hy vọng với tiềm năng hiện có , đồi cát vàng Nhĩ Hạ sẽ trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Quảng Trị.
Quảng Trị 736 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Quảng Trị là vùng đất nắng gió của miền Trung, nơi đây có khí hậu khá khắc nghiệt, vùng đất của những mùa nắng lắm, mưa nhiều. Quảng Trị không hẳn là vùng đất nổi tiếng về du lịch, thế nhưng vùng đất này lại có những điểm đến đặc biệt. Bãi biển Triệu Lăng là một trong những điểm đến đặc biệt như thế. Bãi biển Triệu Lăng có thể được xem là điểm du lịch Quảng Trị quan trọng, thuộc xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong. Bãi biển Triệu Lăng được du khách biết đến vốn là một bãi biển dài và đẹp, hấp dẫn những du khách yêu thích khám phá bằng phong cảnh hoang sơ mà hữu tình, bằng những bãi cát trắng mịn như tan chảy dưới chân, bằng những rặng phi lao xanh chót vót soi bóng bên bờ biển. Bãi biển Triệu Lăng trong xanh một màu ngọc bích, dưới cái nắng khá gay gắt của những ngày hè, đất Quảng Trị phải chịu ảnh hưởng của gió Lào, thì việc được tắm dưới dòng biển trong xanh, mát rượi là trải nghiệm không còn gì thú vị bằng. Bãi biển Triệu Lăng không quá nổi tiếng như những bãi biển khác dọc theo hành trình du lịch trong nước, cũng chính vì điều này mà ở đây cái gì cũng mang một vẻ đẹp hoang sơ, đầy thú vị, thách thức khách du lịch khám phá. Sẽ thật tuyệt vời trên bãi biển Triệu Lăng xanh trong, cát trắng, nắng vàng một mình như sở hữu, du khách sẽ quên đi những bãi tắm đông đúc, chen chúc nhau trong một không gian chật hẹp. Đến với Triệu Lăng hãy thử những món ăn của vùng đất miền trung này. Du khách có thể mua hải sản tươi của ngư dân vừa đánh bắt về tự mình nướng tại bãi biển, bên rặng phi lao để thưởng thức tại chỗ. Hay tìm một nhà dân, sống cùng họ một ngày, cùng ăn hải sản vừa đánh bắt của họ, sẽ nhận ra rằng những con người miền Trung nơi đây chân chất, thật thà dễ mến. Bãi biển Triệu Lăng, có thể nói với những đặc trưng của mình, là điểm đến tuyệt vời trong những tour du lịch Quảng Trị. Nơi đây là nơi nghỉ dưỡng thú vị của du khách trong những ngày hè oi bức. Hoặc chí ít, là một khách bộ hành ngang qua, hẳn vẻ hoang sơ bình yên của chốn này, như một nơi dừng chân bình yên để khách nán lại đôi chút, tận hưởng niềm thi vị riêng, trước khi tiếp tục hành trình của mình đến chốn khác. Đặc biệt, nơi đây là còn là địa điểm camping overnight ngắm sao trời, chillax và ngắm bình minh cực đẹp. Vào một ngày thảnh thơi, còn gì tuyệt hơn được nằm tại nơi “màn trời gối đất”, nghe tiếng sóng rì rào và tận hưởng những cơn gió biển. Không chen chúc hay phô trương, biển Triệu Lăng tạo cho mình một nét cuốn hút riêng tại “miền đất lửa” Quảng Trị. Tạm cho mình một ngày rảnh rang, hòa mình vào thiên nhiên mơ mộng nơi đây.
Quảng Trị 586 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Làng cổ Bích La thuộc xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, hiện lên như một bức tranh thủy mặc cổ kính, trầm mặc. Với tuổi đời hơn 500 năm ngôi làng này là chứng nhân lịch sử; lưu giữ trong mình những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của vùng đất đầy nắng gió Quảng Trị. Ghé thăm làng cổ Bích La; du khách sẽ được trải nghiệm một không gian yên bình, lắng đọng; cảm nhận được nét đẹp của một làng quê Việt Nam. Nơi đây hứa hẹn sẽ mang đến cho du khách những trải nghiệm đáng nhớ và những giây phút thư giãn tuyệt vời. Làng Bích La đã trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ban đầu làng mang tên Hoa An; đến thời Tây Sơn được đổi thành Hoa La; và cuối cùng dưới triều vua Thiệu Trị, cái tên Bích La mới chính thức được định danh. Làng xưa gồm 4 giáp: Đông, Tây, Nam, Hậu, nay thuộc địa phận 3 xã Triệu Tài, Triệu Long, Triệu Đông. Sự hình thành và phát triển của Bích La gắn liền với tên tuổi của Phó tướng Lê Mậu Doãn. Ông là người có công khai khẩn, lập ấp, đặt nền móng cho sự phát triển của làng. Sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam mở cõi (1558); Lê Mậu Doãn thần phục nhà Nguyễn và được phong tước Doãn Lộc hầu; “Chí đức đại thần” nhờ những công trạng to lớn. Để tưởng nhớ công ơn của ông; người dân Bích La đã an táng, xây lăng mộ và miếu thờ uy nghiêm. Trên bài vị của Doãn Lộc hầu tại ngôi miếu linh thiêng này có ghi: “Bổn thổ khai khẩn cai trị Phó tướng Doãn Lộc hầu linh tế Dục Bảo Trung Hưng Linh Phò tôn thần”. Bên cạnh đó, miếu còn thờ các vị thần sông, núi, sấm sét, cầu mong sự bình an cho dân làng, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu… Đặc biệt, nơi đây còn thờ hai vị tiến sĩ đầu tiên của làng là Lê Cảnh Diệu và Lê Cảnh Phiên; những người đã làm rạng danh quê hương. Du lịch Quảng Trị bước chân vào làng cổ Bích La; bạn như lạc vào một không gian xưa cũ; với những ngôi nhà rêu phong, mái ngói âm dương phủ màu thời gian. Những con đường làng lát gạch nghiêng nghiêng; những bức tường đá ong cổ kính; giếng nước sân đình… tất cả đều mang đậm dấu ấn thời gian; gợi nhớ về một thời kỳ lịch sử đã qua. Làng Bích La nổi tiếng với những ngôi nhà vườn kiến trúc độc đáo; kết hợp hài hòa giữa phong cách nhà rường Huế và nhà truyền thống Quảng Trị. Mỗi ngôi nhà là một tác phẩm nghệ thuật với những đường nét chạm khắc tinh xảo; hoa văn trang trí cầu kỳ; thể hiện sự khéo léo và gu thẩm mỹ tinh tế của người dân nơi đây. “Lò sinh quan, nôi sinh sĩ tử”. Làng cổ Bích La, nơi sơn thủy hữu tình giao hòa, đẹp như tranh vẽ. Dòng sông lạch An Mô, nhánh của sông Thạch Hãn hiền hòa, uốn lượn chảy qua làng từ phía Tây, mang đến nguồn nước mát lành và sự trù phú cho vùng đất này. Phía Bắc làng, ngọn núi Cửa Rào sừng sững, bạt ngàn cây cối xanh tươi, như bức tường thành vững chãi che chở cho làng. Cạnh đình làng có con hói nhỏ, tựa như dải lụa mềm mại vắt ngang, uốn lượn dọc theo làng, tạo nên thế đất tựa hình rồng bay, được người dân nơi đây ví von là “cửu tuyền long mạch”, mang đến linh khí và vượng khí cho làng từ bao đời nay. Người dân làng Bích La vẫn lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống như: làm nông nghiệp, chăn nuôi, chài lưới… cùng những phong tục tập quán, lễ hội đặc sắc. Lễ hội Chợ Đình Bích La chỉ họp duy nhất một lần trong năm, vào đêm mùng 2, rạng sáng mùng 3 Tết Nguyên đán mang ý nghĩa cầu mong một năm mới an lành, thịnh vượng, đồng thời là dịp để người dân địa phương giao lưu, gặp gỡ, trao đổi hàng hóa và gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống của quê hương. Phiên chợ diễn ra tại khu vực sân đình làng Bích La, tạo nên một không khí nhộn nhịp, tưng bừng ngay từ những ngày đầu năm mới. Chợ Đình Bích La là một phiên chợ đặc biệt, nơi người mua kẻ bán đều tuân theo những quy tắc bất thành văn. Người bán không nói thách, người mua không mặc cả. Hàng hóa bày bán chủ yếu là các sản vật địa phương như bánh tét, kẹo lạc, hoa quả, đồ thủ công mỹ nghệ… Bên cạnh các hoạt động chính, lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian vui nhộn như kéo co, đẩy gậy, chọi gà, hát đối đáp… tạo nên không khí sôi nổi, náo nhiệt cho phiên chợ. Với những giá trị lịch sử và văn hóa độc đáo; làng cổ Bích La đang trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đến đây bạn sẽ có nhiều hoạt động thú vị: Chiêm ngưỡng kiến trúc cổ kính: Làng Bích La nổi tiếng với những ngôi nhà cổ có tuổi đời hàng trăm năm; được xây dựng theo kiến trúc truyền thống với mái ngói đỏ tươi; tường gạch rêu phong; cổng gỗ chạm khắc tinh xảo. Dạo bước trên những con đường làng; du khách sẽ cảm nhận được không khí thanh bình; mộc mạc của làng quê Việt Nam xưa. Du khách có thể tham gia vào các hoạt động sinh hoạt thường ngày của người dân như làm vườn; câu cá; hay dạo chơi trên cánh đồng lúa xanh mát. Thưởng thức ẩm thực đặc trưng, đánh thức vị giác cùng những món ăn dân dã; đậm đà quê hương được chế biến theo phong cách đặc trưng của người dân địa phương tại các quán ăn trong làng hoặc tại chợ quê Bích La. Làng cổ Bích La là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm về một không gian yên bình, hoài cổ, tránh xa sự ồn ào, náo nhiệt của phố thị.
Quảng Trị 793 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08
La Vang là một địa danh nổi tiếng ở Quảng Trị, nơi thân thuộc của mọi người theo đạo Công Giáo tại Việt Nam. Đây cũng là nơi lưu dấu những vết tích của lịch sử và là trung tâm hành hương Công Giáo lớn nhất cả nước.La Vang, tên đầy đủ là Trung tâm hành hương Đức Mẹ La Vang hay còn gọi là Linh địa Đức Mẹ La Vang), tọa lạc tại thôn Phú Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.Có nhiều cách giải thích cho tên gọi La Vang, trong đó có hai cách lý giải phổ biến, được nhiều người đồng tình và lưu truyền tới nay. Một lập luận nói rằng, đây là vùng có rất nhiều cây “Lá Vằng” vừa để làm nước uống, vừa chữa bệnh. Chữ Lá Vằng sau này được phổ biến khắp nơi, tam sao thất bản và được đọc trái đi thành La Vang.Hơn hai trăm năm trước, La Vang là một vùng đất nhỏ bé, mất hút giữa chốn rừng thiêng nước độc, núi đồi hoang vu, ít người qua lại. Theo những tiền nhân kể lại, trong cơn bách hại khủng khiếp vào giữa năm 1798, một số các tín hữu phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại núi rừng La Vang. Trong lúc hàng trăm người tập họp đọc kinh cầu nguyện dưới gốc cây đa cổ thụ, mà nay là vị trí của Linh Ðài Ðức Mẹ, họ đã được nhìn thấy một Bà đẹp mặc áo choàng, trên tay bồng một Trẻ Thơ. Họ đã được an ủi và chỉ cách ngắt những cành lá chung quanh nơi họ trốn tránh, nấu nước uống sẽ giúp vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo, bệnh tật. Bà còn hứa: “Từ nay về sau, bất cứ ai đến khẩn cầu Mẹ tại nơi đây sẽ được Mẹ ban ơn phù trợ”. Từ đó đến nay, sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ đã được loan truyền khắp nơi.Và sao bao biến chuyển của thời cuộc, sau nhiều lần xây dựng, vào năm 1961, nhà thờ La Vang đã được làm “Đền thờ toàn quốc dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Ðức Mẹ” và thánh địa La Vang là “Trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc”. Sau hơn hai trăm năm, La Vang giờ đây đã trở thành một địa danh nổi tiếng và là trung tâm hành hương Công Giáo lớn nhất cả nước.Trải qua thời gian lịch sử xây dựng và phát triển lâu dài, La Vang ngày nay là một trung tâm hành hương rộng lớn, toạ lạc trên khu đất có diện tích 190.106m2, chia thành nhiều phân khu với các chức năng khác nhau, trong đó có nhiều hạng mục vẫn chưa được triển khai. Là một người tham quan, khi tới La Vang, ba công trình sẽ đập vào mắt và thu hút bạn ngay từ khi đặt chân tới gồm: Tháp chuông cổ là di tích còn sót lại của Vương Cung Thánh Đường cũ. Ngôi thánh đường cũ được xây dựng vào năm 1925, khánh thành năm 1928 và được nâng lên thành Vương cung thánh đường năm 1961. Trong thời gian chiến tranh, ngôi thánh đường đã bị bom đạn phá huỷ vào năm 1972. Sau 44 năm tồn tại, ngôi thánh đường chỉ còn lại tháp chuông và được bảo tồn làm di tích lịch sử cho tới nay.Dấu vết của thời gian, của bom đạn vẫn còn in hằn trên di tích. Cùng với Vương cung thánh đường mới đang được xây dựng, tuỳ theo góc nhìn, bạn sẽ dễ dàng cảm nhận được sự giao thoa giữ cũ và mới, của truyền thống được tiếp nối, của những nét kiến trúc Á Đông, đậm chất Việt Nam nơi di tích và toàn bộ công trình phía sau tháp chuông cổ.Vương cung thánh đường La Vang được khởi công năm 2013, dự kiến hoàn thành năm 2020. Tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch bệnh, tới năm công trình vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện. Công trình Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang được xây dựng trên một mặt bằng có diện tích 13.464m2. Chiều dài 140m theo hướng Bắc Nam, ngang 104m theo hướng Đông Tây với sức chứa 5.000 người. Đây là dự án xây dựng lớn nhất của giáo hội Công Giáo Việt Nam từ trước tới nay.Khi tới đây, bạn sẽ cảm nhận rõ nét kiến trúc Việt của nhà thờ. Công trình được thiết kế theo phong cách Á Đông, mang hồn Việt qua những mái ngói quen thuộc, thân thương, các đường nét và chi tiết trang trí điêu khắc mang hơi thở truyền thống Việt Nam và được cách tân, đơn giản để công trình thanh thoát, hợp thời. Khu vực linh đài Đức Mẹ La Vang, mô phỏng hình dáng cây đa là công trình được xây dựng tại vị trí được truyền tụng là nơi Đức Mẹ đã hiện ra năm xưa, trên đám cỏ, dưới gốc cây đa. Đây cũng là nơi đặt tượng Đức Mẹ La Vang và là nơi người hành hương tới để cầu nguyện.Công trình xây dựng năm 1963, dựa trên đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (người thiết kế Dinh Độc Lập), tuy nhiên mới chỉ xong phần thô do chiến tranh, loạn lạc thời cuộc. Tới năm 2008, “Ba cây đa nhân tạo” mới chính thức hoàn thành với phần tạo dáng mỹ thuật, như cây đa thật. Ngoài ba điểm trên, La Vang còn một số công trình, di tích mà bạn có thể tham quan như giếng nước cổ, các bức phù điêu, các tượng điêu khắc được thiết kế đặt ở nhiều lối đi tại trung tâm hành hương, hay khu vực gắn các bia tạ ơn của những người tới đây xin ơn và đã được ơn.Dịp lễ chính và lớn nhất trong năm tại La Vang là ngày 15/8 hàng năm. Ngày lễ này thường được tổ chức kéo dài trong 3 ngày, từ 13/8-15/8 hàng năm, với chu kỳ đại hội 03 năm một lần. Vào mỗi dịp này, có hàng trăm ngàn người đổ về La Vang để dự lễ, cả người Công Giáo cũng như không Công Giáo. Nên để ghé thăm cách thuận tiện nhất, bạn cứ đi vào bất cứ ngày nào trong năm, trừ dịp lễ lớn này, nhất là trong trường hợp bạn tới La Vang chỉ với mục đích tham quan.Mảnh đất La Vang luôn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng những người Công Giáo, đến đây bạn sẽ cảm nhận được sự bình yên đến lạ thường. Nơi đây cũng luôn sẵn lòng chào đón bất kỳ ghé thăm bằng một lòng hiếu khách trọn vẹn nhất.
Quảng Trị 907 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08
Căn cứ quân sự Dốc Miếu thuộc địa phận xã Gio Phong, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Di tích lịch sử này khá nổi tiếng và được coi là “pháo đài bất khả xâm phạm” trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nằm ở phía Đông Quốc lộ 1A, cách cầu Hiền Lương khoảng 7km về phía Nam, Dốc Miếu là đồi đất bazan nằm trong vùng địa hình bao gồm ba dốc chạy ngoằn ngoèo. Đây cũng chính là phòng tuyến do Mỹ xây dựng với tên gọi Namara – tên một tướng chỉ huy quân Mỹ – Ngụy, nhằm ngăn chặn mọi sự chi viện từ miền Bắc và chiến trường miền Nam. Trong đó, căn cứ quân sự Dốc Miếu là cứ điểm quan trọng nhất trong phòng tuyến này. Tại đây, địch xây dựng hệ thống hầm nhà vòm và lô cốt di động bằng bê tông. Cùng với đó là trận địa pháo hướng về phía bờ bắc sông Bến Hải, trung tâm điều khiển bảo vệ hàng rào, chi đội thiết giáp tuần tra, bố trí nhiều đại đội Mỹ – Ngụy. Xung quanh căn cứ ngoài các hàng rào kẽm gai với 12 lớp cao 3m, trên mặt là hàng rào có gài mìn tự động, dưới hàng rào là bãi mìn dày đặc rộng hàng trăm mét. Năm 1972, quân và dân ta đồng loạt nổ súng, bắn lựu đạn DKD, A12, bom phóng, vây chặt căn cứ quân sự Dốc Miếu. Sau ba ngày tấn công liên tiếp, địch phải bỏ chạy vào đêm 31/3/1972, bỏ lại đồn bốt, cộng sự cùng với hệ thống hàng rào điện tử hiện đại. Hiện nay, nhà nước ta cho xây dựng tượng đài chiến thắng ghi công các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng. Dưới chân là các đồi cao su nối dài thẳng tắp, minh chứng cho cuộc sống đang hồi sinh mãnh liệt trên mảnh đất một thời bom lửa này. Di tích căn cứ quân sự Dốc Miếu đã trở thành một điểm tham quan du lịch lịch sử cho du khách ghé thăm mỗi khi đến Quảng Trị. Đây không những là biểu tượng cho tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường của dân tộc ta mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với các thế hệ tương lai của đất nước. Nguồn: Báo Quảng Trị
Quảng Trị 1882 lượt xem
Chùa Sắc Tứ nằm trên vùng đồi phía tây nam làng Ái Tử thuộc địa phận thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ban đầu có tên là Am Tịnh Độ, được xây dựng từ những năm đầu thời Lê (1735 - 1739) . Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hựu thứ 5 (1739, đời vua Lê Ý Tông) chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) trong một dịp ngự giá ra Quảng Trị, cảm khái với cảnh trí chốn Phật đường và tiếng tăm của chùa trong dân chúng nên đã thân hành ngự bút viết 5 chữ "Sắc Tứ Tịnh Quang Tự" rồi cho làm bảng sơn son thếp vàng để tặng cho chùa. Từ đó Am Tịnh Độ đổi thành chùa Tịnh Quang và dân chúng cũng từ đó quen gọi chùa bằng cái tên là chùa Sắc Tứ (chùa được nhà nước sắc phong), còn nhà Phật thì quen dùng tổ hợp: Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Chùa có cấu trúc gồm một ngôi nhà rường truyền thống có mái chồng diêm, nguyên liệu chủ yếu được sử dụng là xi măng, cốt thép với tổng diện tích là 837m2. Bộ mái trang trí công phu bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép mảnh sành sứ. Bờ nóc của chùa thẳng, trang trí hoa văn hình rồng. Trong khuôn viên chùa có đài Quan Thế Âm Bồ Tát (xây dựng năm 1976) cùng một số tháp là phần mộ của các vị sư trụ trì đã quá cố. Cổng tam quan xây hai tầng mái, tầng trên tôn trí tượng Hộ Pháp hướng mặt vào chùa. Sau tam quan có chiếc cầu bắc qua hồ sen để đi vào sân trước chùa và chánh điện. Ngôi chánh điện có chiều sâu 31m, rộng 27m, cao gần 15m, kiến trúc mái chồng diêm, phần nóc trang trí tứ linh; mặt trước, giữa hai mái có 5 bức phù điêu về cuộc đời đức Phật: Đản sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp và nhập niết bàn. Chính điện chùa Sắc Tứ ở gian giữa, lớp trên thờ bộ tượng Tam Thế, kế tiếp là Thích Ca tọa thiền cùng tả, hữu là A Nan Đà và Ca Diếp đang đứng. Ngoài cùng là Di Lặc, Thích Ca sơ sinh. Gian bên tả thờ tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Phía trước có tượng Phổ Hiền Bồ Tát đang ngồi trên mình lân. Gian hữu thờ tượng địa tạng Bồ Tát, phía trước là tượng Văn Thù Bồ Tát đang cưỡi long mã. Hậu điện thờ tượng Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Chí Khả- người dựng nên chùa Sắc Tứ cùng hai vị hòa thượng là Tuyết Phong và Bửu Ngạn- những người thuộc thế hệ đầu tiên trụ trì ở chùa. Chùa có pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng nặng 2700 kg, đúc năm 1997 và chiếc trống lớn bằng da trâu, đường kính mặt trống là 165 cm. Trong khuôn viên chùa có đài Bồ tát Quan Thế Âm. Chùa Sắc tứ Tịnh Quang là ngôi tổ đình danh tiếng của Phật giáo xứ Đàng Trong, là nơi từng bồi dưỡng và đào tạo nhiều danh tăng thạc đức. Lễ hội giỗ Tổ chùa hằng năm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch, tổ chức rất quy mô với sự tham dự của hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử ở Quảng Trị, các tỉnh lân cận và khách hành hương khắp nơi. Ngày 15/11/1991 chùa được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Nguồn: Báo Quảng Trị
Quảng Trị 1874 lượt xem
Khu di tích sân bay Tà Cơn thuộc địa phận thôn Hòa Thành , xã Tân Hợp, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Với địa hình như một thung lũng lòng chảo được bao bọc xung quanh những đồi núi, sân bay Tà Cơn là một trong những căn cứ điểm quân sự chiến lược của quân đội Mỹ trong những năm 1966 -1968 tại chiến trường Khe Sanh. Gần biên giới lại án ngữ Quốc lộ 9 nối liền từ Đông Hà (Việt Nam với Nam Lào), nơi đây có một vị thế chiến lược quan trọng về quân sự không chỉ trên chiến trường Quảng Trị mà còn cả khu vực Đông Dương. Chính vì vậy, Khe Sanh được quân đội Mỹ sử dụng như một bàn đạp cho các cuộc hành quân càn quét trên bộ. Sân bay Tà Cơn được xây dựng với mục đích cho các máy bay trinh sát kiểm tra, chỉ điểm cho nhiều họat động đánh phá, ngăn chặn và cắt đứt các tuyến đường Hồ Chí Minh.. Đặc biệt, nằm trong tuyến hệ thống hàng rào điện tử Namara được trải dài từ biển Cửa Tùng lên đến vùng biên giới, căn cứ Khe Sanh được xác định là trung tâm. Thế nên, quân đội Mỹ xây dựng một tập đoàn phòng ngự kiên cố nhất của Mỹ ở vùng địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm: Làng Vây, Chi khu quân sự Hướng Hóa – cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn. Và cụm cứ điểm Tà Cơn – sân bay Tà Cơn, được coi là khu trung tâm xây dựng với quy mô chạy dài 2km, rộng 1km, gồm nhiều tiểu cứ điểm với công sự kiên cố dày đặc và một sân bay cỡ lớn. Sân bay có diện tích khoảng 10.000m2 nằm giữa căn cứ với một đường băng được lát bằng hàng nghìn tấn ri nhôm và ri sắt. Nơi đây trở thành nơi cất, hạ cánh của các loại máy bay lên thẳng vũ trang, phản lực chiến đấu và cả các loại máy bay chuyên vận tải quân sự hạng nặng như C130 và C123. Trong khu vực sân bay có trụ sở chỉ huy cứ điểm, đài chỉ huy sân bay, đài liên lạc…cùng hệ thống công sự phòng ngự dày đặc. Bên ngoài là một hàng rào dây kèm gài bùng nhùng và những bãi mìn lớn. Cùng với các thiết bị quân sự hiện đại và vị trí quan trọng, sân bay Tà Cơn cùng các cao điểm kế cận đã hình thành nên một thế phòng ngự liên hoàn, cơ động, được quân đội Mỹ - ngụy lúc bấy giờ coi là một vị trí “cứng” nhất trong cả hệ thống tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Và sân bay Tà Cơn được quân đội Mỹ xem như một pháo đài bất khả chiến bại Tại đây, trước sức mạnh những cuộc tiến công giải phóng Khe Sanh của Quân đội nhân dân Việt Nam từ tháng 2 đến tháng 7-1968, quân đội Mỹ không còn cách nào khác ngoài việc mở cuộc rút quân chiến thuật bằng không quân nhằm cứu hàng nghìn lính Mỹ. Cách đây đúng 55 năm, ngày 9/7/1968, lá cờ chiến thắng của quân ta tung bay trên cứ điểm sân bay Tà Cơn. Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh kết thúc thắng lợi vang dội. Khe Sanh - Hướng Hóa là huyện đầu tiên của Quảng Trị và của miền Nam hoàn toàn được giải phóng và tạo niềm tin vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tại khu di tích sân bay Tà Cơn hiện nay, nhà Bảo tàng về Đường 9 – Khe Sanh là nơi trưng bày hàng trăm hiện vật có giá trị về lịch sử, khoa học. Cùng với đó, hệ thống hầm hào, đài quan sát không lưu…được phục dựng trong khuôn viên sân bay. Năm 1986, di tích sân bay Tà Cơn được xếp hạng di tích Quốc gia. Nơi đây còn trưng bày những hiện vật ngoài trời như máy bay, xe tăng, pháo cùng hàng chục vỏ bom, đạn. Đây là những vũ khí, phương tiện chiến tranh mà quân đội Mỹ đã từng dùng để tham chiến tại chiến trường Khe Sanh – Tà Cơn cách đây tròn 55 năm. Nguồn: Bộ văn hoá thể thao du lịch
Quảng Trị 1814 lượt xem
Di tích Đình làng Câu Nhi thuộc làng Câu Nhi, xã Hải Tân, huyện Hải Lăng (nay là xã Hải Phong, huyện Hải Lăng), nơi gắn với danh nhân Bùi Dục Tài. Di tích đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng quốc gia ngày 13/3/2001. Làng Câu Nhi thuộc xã Hải Tân xưa có tên là Câu Lãm – một làng có tiếng văn vật. Mảnh đất này đã sản sinh ra nhiều nhân vật vang bóng một thời, trong đó nổi danh là Bùi Dục Tài. Các tài liệu hiện có cho biết làng được thành lập từ đầu thế kỷ 15. Đình làng Câu Nhi nguyên xưa là một ngôi đình lớn và đẹp có tiếng khắp vùng. Theo Thỉ Thiên thì ngôi đình đầu tiên được dựng lên ở khu đất mà nay còn có tên gọi là cồn đình vào khoảng những năm đầu thời Lê sơ (1428 – 1433). Đến thời Tây Sơn, đình được chuyển đến khu vực đầu làng, ở ven ngã ba sông – tại địa điểm hiện nay. Gia phả họ Bùi cho biết đình được xây dựng vào năm 1879, đến năm 1882 thì hoàn thành. Đây là lần xây dựng đình quy mô. Kiến trúc của đình là một ngôi nhà rường rộng 5 gian 2 chái. Bộ khung gỗ có kết cấu vững chãi, các cột cái bằng gỗ lim, những cột khác bằng gỗ mít. Bộ mái lợp ngói liệt. Xung quanh đại đình có tường gạch che chắn ba mặt. Vào năm 1950, trong thời kỳ Pháp xâm lược, ngôi đình bị đốt cháy hoàn toàn. Năm 1955, làng tổ chức quyên góp tiền của để tu tạo lại, nhưng do không có đủ vật lực nên diện tích ngôi đình phải thu hẹp và diện mạo kiến trúc cũng thay đổi. Đó là hai nếp nhà song ngang theo kiểu chữ nhị làm theo lối nhà rường 3 gian 2 chái. Phía trước là tiền đường, phía sau là chính điện. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, đình làng Câu Nhi cũng như bao ngôi đình khác trên vùng đất Quảng Trị không tránh khỏi sự phá hoại của bom đạn. Đình Câu Nhi được trùng tu 3 lần vào các năm 1967, 1985 và 1955. Năm 1991, xây lại bình phong và cổng thành phía trước. Đình hiện còn chỉ gồm một ngôi nhà 3 gian, quy mô nhỏ, trải theo chiều ngang, mặt hướng ra sông Ô Lâu. Hai đầu hồi xây tường phẳng, ba phía xây tường gạch, mặt trước lắp đặt hệ thống cửa “thượng song hạ bản”. Cấu trúc kiểu vài chồng, cột nóc. Mái lợp ngói móc. Các họa tiết rồng, giao trên mái tuy không đơn điệu nhưng không có gì đặc biệt. Bình phong và cổng thành xây lại rất quy mô. Trong khu vực đình có một công trình kiến trúc đáng chú ý là Văn Thánh nằm ở góc Tây bắc, nơi dân làng tạo dựng để thờ Khổng Tử và những người đỗ đạt ngõ hầu mong con cháu mai sau nối dõi thánh hiền. Trước mặt đình là một chợ làng họp vào mỗi buổi sáng thường ngày, nay vẫn còn nhưng không đông đúc mấy. Phía sau lưng đình làng, đối diện qua con đường là chùa Quan Khố. Trong khuôn viên của ngôi chùa trước đây có ngôi miếu thờ thượng thư Bộ Lễ Bùi Dục Tài (nay chỉ còn nền móng). Bên trong thờ thành hoàng và những người có công xây dựng đình. Lễ hội được tổ chức hàng năm ở đình làng Câu Nhi có lễ Cầu an tổ chức vào những ngày đầu năm; Vào những dịp tế lễ, dân làng thường tổ chức hội làng với các trò diễn, trò vui như: đua thuyền, hội chợ, đánh đu, chơi cờ… Đình làng Câu Nhi trong tiến trình lịch sử của mình là nơi xảy ra nhiều sự kiện gắn với làng Câu Nhi và vùng đất Hải Lăng Quảng Trị. Dưới thời Mạc (1527 – 1592), nhân dân Câu Nhi do quan tướng địa phương Hoàng Bôi lãnh đạo đã dùng đình làng làm nơi hội họp, rèn luyện võ nghệ, tích trữ lương thực. Cuộc khởi nghĩa Hoàng Bôi đã để lại những dấu ấn lịch sử trên vùng đất bên bờ sông Ô Lâu. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đình làng Câu Nhi là trụ sở của Ủy ban hành chính kháng chiến xã Hải Tân – nơi lần đầu tiên người dân bên bờ sông Ô Lâu được cầm lá phiếu bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tư cách là người dân làm chủ. Đây cũng là nơi tổ chức hội họp, luyện tập tự vệ, thực hiện các phong trào diệt giặc đói, giặc dốt, tuần lễ vàng… Nguồn: Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị 1807 lượt xem
Địa đạo Vịnh Mốc và Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh là công trình kiến trúc quân sự kỳ vĩ dưới lòng đất, ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với khẩu hiệu “quân sự hóa toàn dân, công sự hóa toàn khu vực” quân dân Vĩnh Linh đã tiến hành đào hầm hào, với nhiều công năng: trụ sở, kho hậu cần, trường học, bệnh viện, khu vực sinh hoạt của từng gia đình…, được bố trí khắp các điểm dân cư, dọc đường đi, ven ruộng, bờ biển, được nối thông nhau bằng hệ thống giao thông hào chằng chịt thay cho đường trên mặt đất. Tính từ cuối năm 1965 đến năm 1968 (theo thống kê chưa đầy đủ), toàn huyện Vĩnh Linh có 114 địa đạo với tổng chiều dài hơn 40km, hệ thống giao thông hào hơn 2.000km và hàng trăm tiểu đạo khác, trở thành những “làng hầm” - lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, thể hiện ý chí “một tấc không đi, một ly không rời” bám trụ chiến đấu bảo vệ quê hương và giữ thông mạch máu ra tiền tuyến. Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh phân bố khắp 15 xã, thị trấn của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, bao gồm: 1. Địa đạo Vịnh Mốc (Vĩnh Thạch). Thuộc thôn Vịnh Mốc và thôn Sơn Hạ, xã Vĩnh Thạch. Gồm 13 cửa ra vào (có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển). Dọc hai bên đường hầm, có khoét các ngách nhỏ đủ sinh hoạt cho 2 đến 4 người. Trong hầm còn có hội trường (sức chứa từ 50 đến 60 người), làm nơi hội họp, xem phim, biểu diễn văn nghệ... và một số công trình khác như: bảng tin, nhà hộ sinh, 3 giếng nước, nhà vệ sinh, trạm phẫu thuật, trạm xá, bếp nấu ăn (bếp Hoàng Cầm). Ngoài hệ thống đường hầm, địa đạo trong lòng đất, địa đạo Vịnh Mốc còn có các công trình trên mặt đất như: giao thông hào, ụ pháo, kè chắn sóng, nhà trưng bày... 2. Hệ thống địa đạo Hiền Dũng (Vĩnh Hòa). Nằm trên địa phận thôn Hiền Dũng, xã Vĩnh Hòa, bao gồm 2 địa đạo: Địa đạo Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang khu vực Vĩnh Linh có chiều dài khoảng 1.540m, bao gồm 18 cửa lên xuống, 15 giếng thông hơi. Địa đạo Thông tin Công an nhân dân vũ trang khu vực Vĩnh Linh có 8 cửa lên xuống và 10 giếng thông hơi. 3. Hệ thống địa đạo Hương Nam, Troong Môn - Cửa Hang, thôn Roọc và các địa đạo Hải Quân (Vĩnh Kim). Gồm Địa đạo Hương Nam: thuộc thôn Hương Nam, xã Vĩnh Kim. Hệ thống địa đạo Troong Môn: nằm sát bờ biển của xã Vĩnh Kim. Địa đạo Cửa Hang: Trục đường hầm chạy theo hướng Đông - Tây, có 2 cửa. Địa đạo thôn Roọc: thuộc thôn Roọc Các địa đạo Hải Quân: Các tiểu đạo này nằm gần nhau trong vòng bán kính 50m gồm: Địa đạo Hải quân 1, Địa đạo Hải quân 2, Địa đạo Hải quân 3, Địa đạo Hải quân 4. 4. Hệ thống địa đạo Mũi Si, địa đạo 61 (thị trấn Cửa Tùng). Gồm Địa đạo Mũi Si: nằm bên trục đường ven biển từ Cửa Tùng đến Địa đạo Vịnh Mốc, thuộc khu phố Thạch Bàn, thị trấn Cửa Tùng. Địa đạo 61: nằm bên trục đường vào xóm Bến, thuộc khu phố An Hòa 2, thị trấn Cửa Tùng. 5. Địa đạo Hải quân (Vĩnh Nam). Nằm trên quả đồi thuộc thôn Nam Cường, xã Vĩnh Nam. Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh là chứng tích lịch sử về sức mạnh, tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường bám đất giữ làng, sự sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân, biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dân tộc ta. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Địa đạo Vịnh Mốc và Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh (huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Quảng Trị 1795 lượt xem
Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn nằm bên bờ sông Thạch Hãn, trên địa phận thôn Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Khu di tích lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn được công nhận là di tích Quốc gia ngày 29-10-2010. Lê Duẩn (1907 - 1986) là một người con của thôn Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có bề dày về truyền thống yêu nước, Lê Duẩn sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1928, tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và trở thành một trong những Đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi gắn bó mật thiết với lịch sử đấu tranh cách mạng cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội của Đảng và đất nước. Trong suốt 26 năm, với cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là Tổng Bí thư, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, đồng chí Lê Duẩn vẫn luôn nêu cao khí phách kiên trung của người cộng sản đặc biệt là những đóng góp to lớn của đồng chí cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Lê Duẩn xứng đáng là một lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc, một chiến sĩ kiên cường của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế và là một người con ưu tú của quê hương Quảng Trị. “Di tích khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn”, là tên gọi chung cho một quần thể di tích bao gồm: Nhà lưu niệm đồng chí Lê Duẩn - nơi sinh hoạt của gia đình đồng chí từ khi chuyển từ Bích La Đông lên Hậu Kiên và hiện nay là nơi thờ tự hai cụ thân sinh và đồng chí tại quê hương, thôn Hậu Kiên; Nhà tưởng niệm, là nơi tổ chức hành lễ, viếng thăm của khách tham quan; Nhà trưng bày bổ sung, là nơi trưng bày những hiện vật, ảnh tư liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp đồng chí Lê Duẩn Nhà lưu niệm cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nằm trên khuôn viên có diện tích 2.000m2. Nguyên trước đây là nhà và vườn của cụ thân sinh Lê Hiệp. Nhà làm bằng gỗ, khá khang trang. Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, ngôi nhà bị đốt cháy nhiều lần, sau giải phóng chỉ còn lại nền nhà. Năm 1976, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn công lao to lớn của đồng chí đối với Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Triệu Phong đã chung tay góp sức dựng lại ngôi nhà của gia đình đồng chí trên nền đất cũ. Ngôi nhà có kết cấu theo dạng nhà băng xưa gồm 3 gian 2 chái, có nhà sau (nhà dưới) rộng 4,5m, dài 9m, mái lợp tranh, vách khại tre, trát bùn và gỗ. Bên trong nhà còn phục chế lại các đồ dùng như giường nằm, sập, bàn, tủ thờ... Cuối năm 1977, mái tranh bị hỏng, UBND huyện đã thay lại bằng ngói mốc. Từ năm 1978 - 1985, tiếp tục trải qua nhiều lần tu sửa, cải tạo thay vách tre bằng gỗ ép. Năm 1995, Bảo tàng tỉnh Quảng Trị đã trùng tu lại ngôi nhà dựa trên những kết cấu của ngôi nhà cũ (bốn vài hai chái, có nhà sau) rộng 10m, dài 12m, mỗi gian rộng 2,5m, mỗi chái rộng 1,5m có mái hiên. Năm 2005, dự án quy hoạch, xây dựng trùng tu tôn tạo di tích khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn hoàn thành, một số hiện vật, tư liệu trưng bày ở nhà lưu niệm trước đây chuyển sang trưng bày tại Nhà trưng bày bổ sung. Nhà lưu niệm vẫn dùng làm nơi thờ tự hai cụ thân sinh và đồng chí Lê Duẩn. Khu di tích lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn là một di tích lịch sử lưu niệm danh nhân tiêu biểu của tỉnh Quảng Trị, gắn liền tuổi trẻ và những năm tháng hoạt động cách mạng của đồng chí ở quê nhà với sự tồn tại và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nguồn: Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị 1765 lượt xem
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc. Sau ngày đất nước thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phê chuẩn dự án xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng Trị làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đã anh dũng hy sinh xương máu của mình trên các nẻo đường Trường Sơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa trang được khởi công xây dựng vào ngày 24/10/1975 và hoàn thành vào ngày 10/4/1977. Chỉ huy xây dựng là Bộ tư lệnh sư đoàn 559 với sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Ngoài ra còn có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đá xã Hoà Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các liệt sỹ; có tổng diện tích 140.000m2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m2, khu tượng đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và mạng đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m2. Phần đất mộ được phân thành 10 khu vực chính. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi an nghỉ đời đời của các chiến sĩ đã hy sinh trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Đây là một công trình đền ơn đáp nghĩa đồ sộ nhất, quy mô nhất có tính nghệ thuật cao, thể hiện lòng thương nhớ sâu sắc, niềm biết ơn và sự tôn vinh thầm kín của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với những người con yêu quý trên mọi miền đất nước đã không tiếc máu xương cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước. Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập binh đoàn Trường Sơn (19/5/1959 – 19/5/1999), Đảng và Nhà nước đã quyết định cho nâng cấp, tôn tạo lại nghĩa trang Trường Sơn bao gồm nhiều hạng mục: Cổng vào nghĩa trang Trường Sơn, hệ thống đường và tường bao quanh, mô hình sở chỉ huy, biểu tượng của các địa phương, các cụm tượng, hệ thống thoát nước, điện nội bộ, trồng cây xanh xung quanh nghĩa trang và nhà khánh tiết, đài Tổ quốc ghi công...Đến nay tất cả các hạng mục của các công trình về cơ bản đã được hoàn tất. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn ngày nay không chỉ là nơi an nghỉ của các anh hùng liệt sỹ mà còn là nơi suy tôn, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của nhân dân ta. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn không chỉ là nơi để các gia đình liệt sỹ, các đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước, chính quyền các địa phương đến viếng thăm và thực hiện công việc đền ơn đáp nghĩa mà còn là nơi hành hương của nhân dân khắp mọi miền đất nước và bạn bè quốc tế theo truyền thống đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam: uống nước nhớ nguồn. Hiện nay, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có 24 cán bộ, nhân viên thường xuyên chăm lo việc coi sóc, tu bổ và tiếp đón các gia đình liệt sỹ, các đoàn khách trong và ngoài nước đến thăm viếng Nguồn: Văn Phòng Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị 1745 lượt xem
Di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải thuộc địa bàn huyện Vĩnh Linh (các xã Vĩnh Thành, Vĩnh Giang, Vĩnh Sơn, thị trấn Cửa Tùng) và huyện Gio Linh (xã Trung Hải), tỉnh Quảng Trị. Địa danh Hiền Lương - Bến Hải là nơi đã chứng kiến nỗi đau chia cắt hai miền và những sự kiện lịch sử gắn với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của quân và dân ta trong thời kỳ chống Mỹ - Ngụy. Sau khi Hiệp định Giơ Ne Vơ được ký kết (ngày 20/7/1954), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền Bắc - Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm ranh giới, để chờ đến tháng 7/1956 tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng với những biến cố do sự phá hoại của các thế lực thù địch, đã khiến chúng ta phải mất 21 năm sau (1975), với bao xương máu của chiến sĩ, đồng bào đã đổ xuống mới giành được độc lập, thống nhất đất nước. Trục chính của di tích này nằm xuyên suốt theo hướng Bắc - Nam mà trung tâm chính là chiếc cầu Hiền Lương lịch sử - nhịp nối giữa Cột cờ phía Bắc và Cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất” ở bờ Nam. Các thành phần chính của di tích gồm: 1. Khu vực đôi bờ cầu Hiền Lương: Gồm các điểm di tích sau: Cầu Hiền Lương, Nhà Liên hợp, Cột cờ Hiền Lương, Hệ thống loa phóng thanh bờ Bắc, Đồn Công an Hiền Lương, Nhà trưng bày “Vĩ tuyến 17 và khát vọng thống nhất”, Đồn - Trạm Cảnh sát bờ Nam, Cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất”. 2. Đồn Công an Cửa Tùng. Hiện nay, địa điểm Đồn Công an Cửa Tùng thuộc doanh trại Đồn Biên phòng 204. Ngoài chức năng dùng để làm việc, lưu trú, công trình còn phục vụ cho mục đích an ninh quốc gia. Tầng dưới của khu nhà hai tầng được dành một phần để làm Nhà truyền thống của Đồn, trưng bày 92 ảnh tư liệu, 60 hiện vật liên quan trực tiếp đến lịch sử đấu tranh cách mạng của cán bộ, chiến sĩ Đồn Công an Cửa Tùng, các đồn, trạm dọc theo bờ Bắc sông Bến Hải và Đồn Biên phòng 204 từ năm 1954. 3. Các bến đò trên sông Hiền Lương - Bến Hải: Gồm các điểm di tích sau: Bến đò Cửa Tùng (Bến đò A), Bến đò Tùng Luật (Bến đò B), Bến đò Lũy (Bến đò C), Bến đò Thượng Đông và Dục Đức. 4. Đài di tích gồm: bệ đài và tổ hợp mang tính nghệ thuật biểu trưng, với hình tượng những con thuyền đang lao về phía trước, bất chấp mọi hiểm nguy, bom đạn của kẻ thù, đêm đêm đưa hàng hóa, bộ đội vào chiến trường đánh Mỹ. Ngoài việc bảo tồn, tôn tạo các di tích, Lễ hội thống nhất non sông được định kỳ tổ chức tại di tích vào ngày 30 tháng 4 hằng năm (năm thường do địa phương tổ chức, năm chẵn do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị đồng tổ chức). Đây là một lễ hội cách mạng đặc sắc, riêng có ở khu di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, Quảng Trị. Với những giá trị đặc biệt của di tích, ngày 09/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng Di tích lịch sử Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải (huyện Vĩnh Linh và huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị) là di tích quốc gia đặc biệt . Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Quảng Trị 1674 lượt xem
Di tích Nhà tù Lao Bảo hay còn gọi là Nhà đày Lao bảo nằm ở phía Tây Nam Đường 9, cạnh sông Sê Pôn, thuộc địa bàn thôn Duy Tân, thị trấn Lao Bảo; Di tích đã được xếp hạng Quốc gia ngày 25/01/1991. Dưới thời phong kiến Lao Bảo là đồn trấn ải biên thuỳ của Nhà Nguyễn dùng để trấn giữ một phần phên dậu phía Tây của Tổ quốc, vừa dùng làm nơi lưu đày các tội đồ có án phạt nặng. Từ khi thực dân Pháp đặt quyền bảo hộ lên đất nước Việt Nam, chính thức mở Đường 9 (năm 1904), thì sau 4 năm, chính quyền thực dân bắt tay vào việc nâng cấp Bảo Trấn Lao thời nhà Nguyễn thành nhà tù Lao Bảo (1908). Lúc mới lập, nhà tù Lao Bảo chỉ có hai dãy nhà giam bằng gỗ, lợp ngói, tường trét toóc xi, gọi là Lao A và Lao B; Mỗi dãy nhà dài 15m, rộng 5m, cao 2m có thể giam giữ được 60 tù nhân. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều phong trào cách mạng nổ ra khắp miền Trung, thực dân Pháp tăng cường săn lùng, bắt bớ đàn áp cách mạng. Để phục vụ cho việc giam giữ tù nhân là đảng viên Đảng Cộng sản. Cuối năm 1934, chúng cho xây dựng thêm hệ thống nhà lao kiên cố bằng bê tông, cốt thép là lao C, D, hầm E; Mỗi nhà lao dài 30m, rộng 6m. giam giữ được khoảng 180 tù nhân. Và Khu biệt giam có 13 buồng, mỗi buồng rộng 1m, cao 2,14m.. Toàn bộ các công trình được bao quanh bởi hệ thống tường thành kiên cố cao 3,5m và nhiều lô cốt bảo vệ ở các góc thành và các vị trí quan trọng. Ngoài ra, còn có một số công trình phục vụ khác như: Nhà Đồn trưởng, nhà tra tấn, hỏi cung, trại lính, kho, xưởng mộc, xưởng rèn…Các công trình này nằm trên diện tích hơn 10 ha. Nhà tù Lao Bảo là một trong năm nhà tù lớn nhất Đông Dương, đã giam cầm các nhà yêu nước, chiến sĩ cộng sản của vùng Trung Bộ. Với khí hậu khắc nghiệt, nạn muỗi rừng, lũ quét cùng với chế độ nhà tù hà khắc như: tra tấn dã man, lao dịch nặng nề; ăn uống tồi tệ, đau ốm không có thuốc men đã hành hạ thể xác con người đến chết dần, chết mòn…, nhà tù Lao Bảo trở thành địa ngục trần gian đối với tù nhân. Gần 40 năm tồn tại, nhà tù Lao Bảo đã giam cầm hàng ngàn chiến sĩ Cộng sản và người dân yêu nước. Trải qua hai cuộc chiến tranh, nhất là trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Nhà tù Lao Bảo đã bị phá huỷ gần như hoàn toàn, nhiều công trình chỉ còn lại một phần kiến trúc như: Lao C, D, E, Nhà hỏi cung, Khu biệt giam, một số lô cốt… nhưng hầu hết đã bị biến dạng và trở thành hoang phế. Ngày nay, ngoài những chứng tích tội ác của kẻ thù gây ra đối với dân tộc ta, tại đây còn có một số công trình mới xây dựng nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích như: Nhà trưng bày bổ sung, Cụm tượng đài, Nhà bia, Nhà đón tiếp… Nhà tù Lao Bảo là bằng chứng sống động về tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong những thập niên đầu thế kỷ 20. Nguồn: Báo Quảng Trị
Quảng Trị 1655 lượt xem
Di tích Thành cổ Quảng Trị nằm giữa lòng thị xã Quảng Trị; cách quốc lộ 1A gần 1km về phía đông bắc, cách thành phố Đông Hà - tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị hiện nay khoảng 14km về phía đông nam. Thành Cổ Quảng Trị được xây dựng từ thời vua Gia Long và đến thời vua Minh Mạng mới hoàn thiện, kéo dài gần 28 năm (1809-1837), Thành lúc đầu được đắp bằng đất, đến năm 1837 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành có dạng hình vuông với chu vi tường thành dài 2160m, thành cao 3m, dưới chân dày 13,5m, đỉnh dày 0,72m. Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Thành có 4 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu Xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt Thành. Trong suốt thời gian đô hộ và thống trị của thực dân Pháp, Thành Cổ Quảng Trị với tư cách là trung tâm đầu não của bộ máy cai trị cấp địa phương, cấp tỉnh. Thành Cổ Quảng Trị được quân đội Pháp chọn làm một trong những cứ điểm quan trọng của hệ thống đồn quân sự. Pháp đã cho xây dựng thêm một hệ thống nhà tù, mở rộng và kiên cố hoá khu lao xá để làm nơi giam giữ những người yêu nước, các chiến sĩ cách mạng trong tỉnh và khu vực. Nhà lao Quảng Trị có lúc đã trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng bởi chính đây từng là nơi giam giữ những hạt nhân nòng cốt của thanh niên, những chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Quảng Trị và nhiều vị lãnh đạo của Tỉnh ủy, Xứ ủy thuộc thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đến thời kỳ Mỹ - ngụy. Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết ngày 20/7/1954, theo hiệp định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cắt tạm thời. Một phần của Quảng Trị từ Sông Bến Hải trở ra được giải phóng, các huyện từ Gio Linh trở vào Hải Lăng trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Thị xã Quảng Trị, trong đó có Thành Cổ Quảng Trị trở thành trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế – xã hội. Mỹ – ngụy biến Thành Cổ thành khu quân sự, làm kho tàng quân đội và trung tâm chỉ huy chiến dịch toàn tỉnh, đồng thời mở thêm nhà giam để đàn áp phong trào cách mạng. Cuộc tấn công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam bắt đầu. Ngày 28 tháng 4 ta chiếm được Đông Hà và tiến đến sát thị xã Quảng Trị. Ngày 2/5, Thị xã Quảng Trị được giải phóng. Thắng lợi của chiến dịch Quảng Trị năm 1972 đã làm thay đổi cơ bản cục diện chiến trường, đẩy chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ đến bờ vực phá sản, tạo đà và thế cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam. Để mất Quảng Trị, Mỹ – nguỵ đã điên cuồng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị với mật danh “Lam Sơn 72”. Trong đó mục tiêu số 1 là phải chiếm được Thành Cổ Quảng Trị. Thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm từ 28 tháng 6 đến 16 tháng 9 được ví như một túi bom. Trung bình mỗi ngày địch huy động 150-170 lần chiếc máy bay phản lực, 70 – 90 lần chiếc B52 để ném bom huỷ diệt thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Với diện tích chưa đầy 3 cây số, trong 81 ngày đêm thị xã và Thành Cổ Quảng Trị phải gánh chịu 328.000 tấn bom đạn, trung bình mỗi chiến sỹ của ta phải gánh chịu 100 tấn bom, 200 quả đạn pháo. Ta thì hạ quyết tâm giữ cho bằng được thành, còn địch cố chiếm cho được thành bằng mọi giá. Hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh tại đây chưa lấy được hài cốt vì khói lửa bom đạn quá nhiều, xương máu các anh đã hòa quyện vào gạch đá đổ nát. Chính vì vậy mà ngày nay tại trung tâm di tích người ta xây đài tưởng niệm hình thành ngôi mộ chung cho hàng ngàn chiến sĩ đã ngã xuống trong những ngày đêm khốc liệt này. Ngôi mộ tập thể này được thiết kế theo quan niệm triết lý âm dương mang ý nghĩa sâu sắc là để siêu thoát cho linh hồn những người đã khuất. Có 81 bậc thang đi lên tượng trưng cho 81 ngày đêm chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị. Nguồn: Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị 1639 lượt xem