Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Mỗi một vùng miền lại có riêng cho mình một vài món đặc sản riêng biệt, với Thanh Hóa ấy là món nem chua với hương vị đặc trưng. Hãy nghe Thái Thùy Trâm (Hà Tĩnh) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Mỗi mảnh đất, mỗi địa danh trên đất nước ta đều có những món ăn độc đáo, được xem là đặc sản của mỗi vùng miền. Nếu Hà Nội được biết đến với món bún chả nướng, cốm làng Vòng, Hải Dương gắn liền với món bánh đậu xanh truyền thống, nhớ đến Sài Gòn người ta nhớ đến món bánh tráng trộn cay cay chua chua thì nhắc đến Thanh Hóa mọi người không thể nào quên được món nem chua. Nem chua Thanh Hóa đã trở thành nét đặc trưng tiêu biểu khi nhắc tới mảnh đất xứ Thanh.
Có thể thấy, món nem chua xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta như nem chua Hà Nội, nem chua Quảng Ninh, nem chua Huế,... nhưng có lẽ nổi tiếng và đậm vị hơn cả chính là nem chua Thanh Hóa.
Nem chua Thanh Hóa thơm ngon, xen lẫn những lát tỏi cắt mỏng, lát ớt đỏ tươi ăn chua chua, cay cay (ảnh sưu tầm)
Có lẽ chính người dân Thanh Hóa cũng không biết được món nem chua này ra đời từ khi nào, bởi nó dường như đã ăn sâu vào tiềm thức, vào nếp sống của con người, lịch sử của nem chua cũng chính là lịch của người Thanh Hóa. Một số tài liệu ghi chép lại thì nem chua bắt đầu trở thành một loại hàng hóa lưu thông trên thị trường là vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước, như vậy một món ăn vốn dân dã, giản dị bỗng trở thành kế sinh nhai, nuôi sống biết bao nhiêu con người nơi đây.
Cũng như những món ăn khác, nem chua Thanh Hóa cũng có những đặc điểm, những đặc trưng rất riêng, không trộn lẫn với bất cứ món ăn nào. Nem chua Thanh Hóa thường có dạng hình trụ, chỉ lớn hơn ngón tay trỏ của người trưởng thành và được gói trong những chiếc lá chuối xanh, đồng thời được buộc dây chun theo hình chữ thập. Bên trong lớp vỏ lá chuối chính là ruột của chiếc nem với màu hồng tươi ngon của thịt xen lẫn với những lát tỏi cắt mỏng, những miếng ớt đỏ tươi và cả những chiếc lá đinh lăng, lá rau răm. Hương vị của nem chua Thanh Hóa rất đặc trưng, có vị chua chua của thịt đã ướp, vị thơm của lá rau răm cùng lá đinh lăng, vị cay cay, nồng nồng của ớt và tỏi. Tất cả những hương vị ấy đã quyện hòa vào nhau làm nên cái vị, cái hương độc đáo của món nem chua.
Nem chua kết hợp với tương ớt hết sức hấp dẫn (ảnh sưu tầm)
Nhìn có vẻ đơn giản, song để làm nên được nem chua thì không phải là công việc dễ dàng và đơn giản. Để làm ra món nem chua, trước hết, người làm nem phải chuẩn bị những nguyên liệu cần thiết cho món ăn này. Đầu tiên không thể thiếu đó chính là lá chuối để gói nem. Lá chuối thường được lựa chọn đó chính là lá chuối ngự, vì nó vừa xanh, vừa dày, đảm bảo trong quá trình vận chuyển hay lưu giữ nem vẫn có thể lên men. Cùng với đó cũng cần chuẩn bị chun để buộc chặt những chiếc nem sau khi đã được gói. Thêm vào đó, cũng cần chuẩn bị, tỏi, ớt và cắt chúng thành miếng mỏng, lá đinh lăng và rau răm cũng được nhặt sạch và cắt nhỏ.
Một số nguyên liệu làm món nem chua (ảnh sưu tầm)
Thịt và bì lợn phải được chọn là loại thịt còn tươi, nhất là loại thịt được chọn ngay khi mổ lợn, sau đó được đưa đi xay nhuyễn. Ngoài ra, để làm món nem chua cũng cần chuẩn bị các gia vị khác như tiêu, đường, muối, thính gạo,... Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu, người ta bắt đầu tiến hành bắt tay vào trộn và gói nem.
Nem gói xong sẽ được ủ để lên men, quá trình này sẽ làm nem chín và có thể mang ra sử dụng. Tùy vào từng mùa mà thời gian ủ nem có thể khác nhau, vào những ngày mùa hè, nhiệt độ lên cao, nem có thể ủ từ 6 đến 8 tiếng, nhưng vào những ngày mùa đông, do thời tiết lạnh, nhiệt độ xuống thấp nên thời gian ủ nem thường kéo dài từ 18 đến 24 tiếng. Thêm vào đó, mỗi gia đình, mỗi cơ sở sản xuất nem lại có những quá trình trộn và ủ riêng để tạo nên những hương vị khác nhau.
Sản phẩm nem chua trên thị trường (ảnh sưu tầm)
Nếu có dịp dừng chân nơi miền đất này, mời bạn hãy thưởng thức nem chua xứ Thanh. Vị chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh Hóa. Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay.
Tọa lạc trên mảnh đất Thanh Hóa “địa linh nhân kiệt” với những cảnh đẹp non nước sơn thủy hữu tình, bãi biển Sầm Sơn là một trong những điểm đến nổi bật và thu hút khách du lịch bởi mặt biển xanh trong, bao la, hùng vĩ; những bãi cát trải dài bất tận và không khí trong lành, thoáng đãng đến yên lòng. Sầm Sơn, một cái tên không còn lạ lẫm với tất cả mọi người, chắc chắn sẽ đem đến cho bạn một trải nghiệm du lịch nghỉ dưỡng vô cùng hoàn hảo và độc đáo. Thời tiết trong năm của Thanh Hóa đặc trưng với hai mùa rõ rệt. Mùa nóng kéo dài trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 10 Dương lịch với những cơn mưa và nhiệt độ cao. Còn mùa lạnh tràn về vào những ngày tháng 11 đến tháng 4 năm sau, ít mưa và thời tiết khá lạnh. Với những người muốn trải nghiệm du lịch biển vào mùa hè để xả bay cơn nóng thì thời điểm thích hợp nhất cho chuyến đi Sầm Sơn của bạn là vào tháng 5 đến tháng 7, nhưng vào khoảng thời gian này, Sầm Sơn thường rất đông khách du lịch tới đây nghỉ dưỡng nên nhiều lúc cho thể gây ảnh hưởng tới việc thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên rộng lớn ở nơi đây. Một thời điểm vắng vẻ hơn cho những ai muốn đi du lịch Sầm Sơn đó chính là vào tầm tháng 2 đến tháng 4. Vào thời điểm này thời tiết còn hơi se se lạnh, nên nhiều người ngại tắm biển nhưng bù lại bãi biển vắng người hơn, rộng rãi hơn và bạn hoàn toàn có thể ôm trọn cả thiên nhiên hùng vĩ ấy vào tầm mắt của bạn. Đến với bãi biển Sầm Sơn là một bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, nơi có sự giao thoa giữa bầu trời và mặt đất, giữa núi rừng và biển cả. Khách du lịch khi tới đây đều thích thú với bãi biển trải dài với làn nước xanh trong, mát lạnh, bãi cát trắng trải dài được tô điểm với những rặng dừa, phi lao rì rào trong gió. Sầm Sơn vào mỗi thời điểm trong ngày lại mang một vẻ đẹp riêng biệt. Hãy cố gắng dậy sớm một chút để không bỏ lỡ cảnh mặt trời mọc trên biển nhé. Từ màn đêm đen kịt, mặt trời hồng ló rạng đỏ rực lóng lánh trên mặt biển lớn tạo nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Buổi chiều là thời điểm mọi người cùng nhau xuống biển thư giản và nghỉ dưỡng. Bãi biển Sầm Sơn đặc biệt đông đúc vào mùa hè, khi mọi người đều muốn ra biển, thả mình trong không gian rộng lớn để xua đi hết mọi mệt nhọc, ưu phiền. Màn đêm buông xuống trên bãi biển Sầm Sơn mới thật kì áo, khi phố xá lên đèn, biển như thu mình lại, đen kịt, chỉ còn nghe thấy tiếng rì rào của sóng và tiếng những rặng dừa đang rung rinh trong gió. Sầm Sơn không chỉ là nơi nghỉ dưỡng với không gian thiên nhiên đẹp lí tưởng mà còn là địa điểm mà bạn có thể thưởng thức những món hải sản cực tươi ngon trên những con tàu đầy ắp cá tôm của người dân chài mới cập bến. Khi đến Sầm Sơn, bạn có thể ghé qua một vài di tích lịch sử gần đó như núi Trường Lệ, đền Độc Cước,… Với cảnh đẹp và dịch vụ du lịch đạt chuẩn, Sầm Sơn hứa hẹn sẽ là một điểm đến lí tưởng cho chuyến đi của bạn. Vừa có được ngắm nhìn phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, vừa được trải nghiệm văn hóa ẩm thực miền biển với những món ăn tươi ngon, độc đáo nhất. Chính những điểm đó đã làm nên tên tuổi của Sầm Sơn, biến Sầm Sơn trở thành một lựa chọn hàng đầu cho những chuyến đi du lịch vào mùa hè.
Thanh Hóa 2114 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Khu du lịch Hải Tiến là điểm du lịch sinh thái biển, thuộc địa phận của 4 xã phía đông huyện Hoằng Hoá (tỉnh Thanh Hoá) là Hoằng Hải, Hoằng Trường, Hoằng Thanh và Hoằng Tiến. Bãi biển Hải Tiến cách Thủ đô Hà Nội chừng 155 km, vẫn giữ được môi trường sinh thái tự nhiên. Bờ biển thoai thoải với nền cát ổn định cao, dòng chảy điều hoà và không có dòng xoáy nguy hiểm. Độ dốc bờ biển và mức tạo sóng cũng an toàn cho hoạt động tắm biển của du khách. Lợi thế lớn nhất của khu du lịch này là nằm gần các điểm di tích lịch sử - văn hoá của xứ Thanh. Từ bãi biển, du khách có thể đến bãi Sầm Sơn, Lạch Hới, khu bảo tồn rừng bần, sú vẹt Cồn Trường bằng du thuyền. Với những điểm mạnh kể trên, khu du lịch Hải Tiến là điểm đến hấp dẫn trong các chuyến du lịch Thanh Hoá. Ngoài nghỉ dưỡng và tắm biển, du khách đến đây còn có cơ hội tham gia vào các hoạt động vui chơi thú vị, thưởng thức ẩm thực địa phương. Từ tháng 4 – tháng 8 hàng năm là thời gian thích hợp cho các chuyến du lịch biển miền Bắc nói chung là biển Hải Tiến nói riêng. Sau thời gian này, tiết trời sẽ chuyển dần sang thu, nền nhiệt cũng bắt đầu giảm. Tuy nhiên, các tháng mùa hè cũng trùng với thời điểm mùa mưa bão ở miền Bắc, có thể có bão hoặc áp thấp nhiệt đới. Do đó, trước khi đến khu du lịch Hải Tiến Thanh Hóa, du khách vẫn nên xem dự báo thời tiết trước. Có 2 hình thức lưu trú phổ biến ở khu du lịch Hải Tiến là khách sạn mặt biển và khách sạn có view hướng biển. Khách sạn mặt biển có mức giá khá cao, từ 600.000 – 2.500.000 VND/ đêm. Bù lại, chúng nằm rất gần biển, chỉ cách biển khoảng 30 – 100 m. Khách sạn hướng biển có giá phải chăng hơn, chỉ từ 400.000 – 1.500.000 VND/ đêm. Sở hữu bãi biển đẹp và địa thế đắc địa – gần các điểm tham quan, du lịch nổi tiếng, Hải Tiến là điểm đến hút khách nhất trong thời gian vừa qua. Đến đây, du khách sẽ có những trải nghiệm vui chơi, nghỉ dưỡng tuyệt vời, không thể nào quên. Điểm nhấn lớn nhất của khu du lịch Hải Tiến chắc chắn là bãi biển Hải Tiến đẹp mộng mơ. Bãi biển vẫn giữ được nét nguyên sơ vốn có, gần cửa biển nhưng có phù sa bồi đắp nên rất sạch, ít cát và mịn. Dọc theo bờ biển là những hàng phi lao xanh mướt, không gian yên tĩnh và vô cùng nên thơ. Đặc biệt, bãi biển còn cực kỳ an toàn, bờ biển thoải nên có thể bơi ra khá xa. Du khách đến đây có thể tha hồ ngụp lặn dưới dòng nước trong xanh, dạo biển ngắm nhìn khung cảnh bình yên mỗi khi chiều xuống. Ngoài ra, bạn cũng đừng quên thưởng thức các loại hải sản tươi ngon – sản vật do thiên nhiên, biển cả ban tặng.
Thanh Hóa 1818 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Khu du lịch sinh thái Bến En là một trong những thắng cảnh nổi tiếng với hệ sinh thái sinh học vô cùng phong phú, đa dạng, là quần thể du lịch sinh thái, nuôi trai lấy ngọc kết hợp với bảo tồn vườn quốc gia Bến En - nơi được mệnh danh là “Hạ Long trên cạn của xứ Thanh”. Khu du lịch Bến En nằm trải dài giữa hai huyện Như Thanh và Như Xuân, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 45km theo hướng Tây Nam. Được thành lập vào năm 1992 với điện tích lên đến khoảng 15.000ha, vườn quốc gia Bến En là khu rừng nguyên sinh với hệ sinh thái động thực vật vô cùng đa dạng và phong phú. Nơi đây còn được bao quanh bởi hồ Sông Mực rộng hơn 4000ha, mặt hồ tĩnh lặng, xanh biếc quanh năm như một đôi tay thiên nhiên rộng lớn ôm lấy trái tim vườn quốc gia Bến En. Tọa lạc trên dải đất miền Trung khô cằn, khu du lịch sinh thái Bến En là một điểm đến lý tưởng được nhiều người lựa chọn bởi nét đẹp hoang sơ, độc đáo của núi rừng hùng vĩ. Do thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa, vườn quốc gia Bến En nằm trong khối khí hậu nhiệt đới gió mùa: nắng nóng vào mùa hè và lạnh vào màu đông. Tuy nhiên nhờ được bao phủ bởi cánh rừng nguyên sinh xanh mát nên thời tiết của Bến En hết sức mát mẻ. Vào mỗi thời điểm thì vườn quốc gia Bến En lại có những vẻ đẹp khác nhau nên dù đi vào bất cứ khoảng thời gian nào trong năm thì bạn đều sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ. Tuy nhiên, thời điểm lý tưởng nhất để tham quan khu du lịch sinh thái Bến En là vào mùa hè. Đây là thời điểm thu hút khách du lịch nhất năm của địa điểm này bởi lúc này, khu du lịch sinh thái Bến En khoác lên mình một tấm thảm xanh mướt trong nắng vàng rực rỡ, tạo nên những bức tranh diễm lệ giữa núi non. Vườn quốc gia Bến En có hệ nguyên sinh động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng với hơn 462 loài cây cùng với khoảng 125 họ thực vật. Trong đó nổi bật với cây lim xanh nổi tiếng ở Việt Nam có tuổi đời lên đến vài trăm năm với đường kính thân đạt gần 3m. Tại đây cũng bảo tồn nhiều loại cây và dược liệu quý hiếm khác như chò chỉ, bù hương, vàng tâm, sến mật, lát hoa, lim, xẹt, trai lý,... Đặc biệt, nơi đây với diện tích hồ Sông Mực rộng khoảng 4000ha, mực nước rất sâu, trong xanh thăm thẳm tạo nên một khung cảnh rất dịu dàng, nên thơ. Đến vườn quốc gia Bến En, bạn đừng bỏ lỡ những món ăn mang đậm hương sắc của nơi đây như các món ăn được làm từ cá mè đánh bắt ở hồ Sông Mực. Ngoài ra, có thể thưởng thức những món ăn nổi tiếng của người dân bản địa như canh gà, canh đắng. Đặc biệt, khi tới bản Vơn - nơi mang đậm những nét truyền thống của người Thái cổ xưa, bạn nhớ thưởng thức món rượu cần đặc sản. Hương vị đặc biệt này sẽ lưu giữ dấu ấn khó phai trong lòng bạn đấy.
Thanh Hóa 2069 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Thác Mây Thanh Hóa được xem là con thác đẹp nhất gắn liền với huyền thoại 9 bậc tình yêu. Thác Mây nằm trên con suối Làng Sủ, xã Thạch Lâm, huyện Thạch Thành. Thác Mây chỉ cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 50 km nên được coi là điểm đến hấp dẫn cho chuyến du lịch Thanh Hóa của bạn. Thác Mây dài khoảng 100m gồm 9 ngọn thác lớn nhỏ được tạo thành bởi hệ thống núi đá vôi ở phía bắc Trường Sơn. Dòng nước từ độ cao khoảng 400m đổ xuống nên cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ và huyền ảo đến ngỡ ngàng. Không những thế, phong cảnh tuyệt đẹp nơi đây với làn nước trong vắt, hòa cùng khung cảnh thiên nhiên hữu tình cũng níu chân bao khách du lịch. Con thác này còn được gọi là thác "chín bậc tình yêu". Theo tương truyền, trong một lần đi ngao du hạ giới, 9 nàng tiên đã vô tình đi qua một thác nước tuyệt đẹp. Do không thể cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây nên 9 nàng tiên đã xuống tắm. Theo kinh nghiệm du lịch thác Mây Thanh Hóa, thời điểm lý tưởng nhất để đến thác Mây là vào mùa hè. Khi thác đổ xuống sẽ tạo thành một dòng suối mát lạnh, giúp bạn có thể tận hưởng cảm giác tắm thác một cách trọn vẹn nhất. Người ta ví thác Mây dịu dàng như một cô gái Mường, ngày đêm lẩm nhẩm một mình, tung bọt trắng xóa lên trời. Thác Mây có nước quanh năm nhưng đẹp nhất có lẽ là vào các tháng 6, 7, 8. Vào những ngày nắng đẹp, cảm giác hồ nước mát lạnh như pha lê. Cũng vì lý do đó, khách du lịch thường đổ dồn đến tham quan thác Mây vào thời điểm này. Trên đường đến Thác Mây, bạn sẽ đi qua một cây cầu gỗ làm bằng những cành cây dại bắc qua sông Ngang. Thác Mây có 9 bậc thác cao thấp gối chồng lên nhau như ruộng bậc thang bắt mắt. Từ trên cao nhìn xuống, dòng tác đẹp tựa như một dải lụa trắng xóa tuyệt đẹp. Người Mường ở đây thường kể những truyền thuyết về con thác hiền hòa này. Theo tương truyền, 9 nàng tiên bay qua thác nước và tắm ở đây. Khi bay về trời, 9 nàng tiên để lại 9 dấu chân, tạo thành 9 bậc của thác nước như ngày nay. Người ta tin rằng nếu các cặp đôi cùng nhau xuống thác, họ sẽ trở thành vợ chồng. Vì vậy, con thác thơ mộng này còn được gọi là “chín bậc yêu”. Thác Mây nằm trong vùng đệm của rừng quốc gia Cúc Phương nên bạn có thể khám phá hệ động thực vật phong phú ở đây. Hệ sinh thái rừng quốc gia Cúc Phương rất đa dạng nên bạn có thể tự do khám phá các loài chim, động vật quý hiếm. Có diện tích 25.000 ha, Vườn quốc gia Cúc Phương cũng là rừng quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Cúc Phương có đặc điểm là rừng mưa nhiệt đới quanh năm tươi tốt, hệ động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng. Nhiều loài động, thực vật có nguy cơ tuyệt chủng được tìm thấy và bảo tồn tại đây, trong đó voọc quần đùi đen trắng được coi là biểu tượng của rừng Cúc Phương. Theo kinh nghiệm du lịch thác Mây Thanh Hóa, dịch vụ du lịch ở đây chưa phát triển nên các điểm ăn uống còn tương đối hạn chế. Vì vậy, để thuận tiện và tiết kiệm, du khách có thể chuẩn bị sẵn đồ ăn khi đến đây. Nếu du khách từ xa đến muốn thưởng thức đặc sản Thanh Hóa có thể thuê nhà sàn để ăn trưa (không nghỉ qua đêm). Tại đây, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn đặc trưng của xứ Thanh như: xôi nếp nướng, rau sắng nấu canh, ốc đá xào, thịt trâu nướng lá lồm, gà đồi nướng,… Tất cả các nguyên liệu đều tươi ngon và được chế biến cầu kì, mang hương vị thơm ngon khó cưỡng.
Thanh Hóa 1939 lượt xem
Tháng 6 đến tháng 8
Bản Kho Mường nằm trong thung lũng Hua Mường, thuộc vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông có 60 hộ dân sinh sống, 225 khẩu, 13 hộ kinh doanh du lịch cộng đồng, bản còn giữ nguyên nếp nhà sàn truyền thống, nằm trong thung lũng có khí hậu mát mẻ quanh năm; cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, hoang sơ của những cánh rừng nguyên sinh, đời sống sinh hoạt đậm đà bản sắc của dân tộc Thái gợi cho người ta cảm giác nơi đây giống một vùng đất bình yên, trong lành và nên thơ với người dân bản địa trân chất mộc mạc, thân thiện, thật thà. Con đường vào Kho Mường uốn lượn, quanh co, một bên là vách núi, một bên là vực sâu với những thửa ruộng bậc thang xanh mướt, những trảng rừng ngút ngát. Đây là cung đường với cảnh trí thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng cũng dễ khiến nhiều người “chùn bước” vì độ khó khăn, hiểm trở. Tuy nhiên, lại rất hấp dẫn với những dân “phượt” ưa khám phá. Bản Kho Mường còn có một điểm đến đầy sức hút, đó là hang Dơi nằm trong quần thể hang động được phát hiện trong khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông đã trở thành một trong những điểm đến lôi cuốn khách du lịch trong và ngoài nước yêu thiên nhiên, đam mê khám phá tự nhiên. Hang Dơi có vẻ đẹp hấp dẫn với những khối đá vôi đã làm nên Hang động này đã phát hiện qua quá trình khoảng 250 triệu năm trước. Hang có mối liên hệ với hệ thống sông dưới lòng đất với chiều dài khoảng 2,5km về phái bắc và dẫn nước từ Kho Mường qua làng Pốn thuộc xã Lũng Cao hệ thống sông suối chảy trong lòng hang là đặc điểm chung được biết tới qua các khu vực núi đá Kart, nó tạo ra sự kết nối giữa các thung lung lòng chảo các cửa các dòng chảy. Hang Dơi, bản Kho Mường còn là nơi chú ngụ của nhiều loài Dơi có ít nhất 4 loài Dơi cư ngụ trong hang Dơi, bản Kho Mường trong các thời điểm khác nhau trong năm. Trong đó có cả loài Dơi ăn thịt côn trùng và nhiều loài ăn hoa quả chúng là những loài nhất quan trọng cho việc truyền giống về kiểm soát côn trùng gây hại. Hiện nay, đường vào hang Dơi, bản Kho Mường được đầu tư, nâng cấp từ nguồn vốn phát triển du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Hàng năm đã thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan du lịch. Ẳm thực tại bản Kho Mường là những món ăn phong phú, đa dạng, được chế biến công phu từ những nguyên liệu gần gũi có sẵn từ núi rừng, suối khe tại địa phương. Tùy từng thời điểm, từng mùa trong năm mà có các món ăn khác nhau. Một số món ngon mà người Thái thường hay chế biến như: Cá nướng, cơm lam, thịt lợn hấp, gà nướng, ốc đá, xôi tím... Món ăn thông dụng và ưa thích nhất là xôi ngũ sắc từ nếp nương, cơm lam... Đặc biệt, nơi đây nổi tiếng với các món ăn được chế biến từ vịt Cổ Lũng - giống vịt đã trở thành thương hiệu nổi tiếng, nhiều người biết đến. Giống vịt cổ ngắn, chân thấp, được thả ở suối, ở đồng nên thịt chắc và thơm, trứng có nhiều lòng đỏ... món ăn đặc sản mà nhiều du khách đã từng biết đến và muốn thưởng thức khi đến du lịch tại Bá Thước. Du khách đến với bản Kho Mường sẽ có những đêm đốt lửa trại, uống rượu cần, cùng giao lưu văn nghệ với điệu xòe Thái, khắp Thái, hát múa dân ca, dân vũ đậm đà bản sắc dân tộc với các thiếu nữ xinh đẹp trong trang phục dân tộc, tiếng nhạc cụ truyền thống làm mê đắm lòng du khách; có hướng dẫn viên địa phương dẫn đường, giới thiệu về bản Kho Mường, dẫn đi thăm bản lân cận khác trong Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông nếu du khách có nhu cầu khám phá hệ sinh thái phong phú của rừng Pù Luông hay tham quan vườn cam, quýt đặc sản Kho Mường, tham gia trải nghiệm các hoạt động lao động sản xuất cũng như đời sống sinh hoạt hàng ngày với người dân bản địa.
Thanh Hóa 1914 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 8
Thanh Hóa là miền đất nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Một trong những điểm đến tâm linh, sinh thái nhất nhì quê hương điệu hò sông Mã chính là suối cá thần Cẩm Lương. Suối cá Cẩm Lương là một tuyệt phẩm của tạo hóa ban tặng. Nơi đây không chỉ nổi tiếng bởi vẻ hoang sơ, mộc mạc mà còn gắn liền với những huyền tích kỳ bí từ xa xưa. Xã Cẩm Lương vốn được biết đến là một vùng đất nằm giữa những dãy núi đá vôi trùng điệp bên tả ngạn sông Mã như hình chiếc võng khổng lồ chạy suốt từ Bắc đến Đông, ôm gọn Cẩm Lương vào vòng lũng núi. Trải suốt phía Tây Nam là dòng sông Mã trong xanh như một dải lụa mềm. Và ngay trong lòng mảnh đất ấy là một suối cá thần độc đáo. Suối cá thần Cẩm Lương còn có tên gọi khác là suối cá thần làng Ngọc, gắn với truyền thuyết về Thần Rắn. Xưa kia có hai vợ chồng tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Ngày ngày họ hay ra thửa ruộng bên cạnh suối vừa khơi nước trồng lúa vừa xúc cá bắt ốc về làm thức ăn. Một hôm người vợ xúc được một quả trứng lạ. Nhiều lần xúc được lại thả xuống nước, nhưng xúc lần nào thì quả trứng lạ ấy vẫn cứ thấy nằm trong rổ. Bà bèn mang về, vợ chồng bàn nhau đem cho gà ấp thử. Một hôm nghe tiếng gà cục tác, bà vợ ra xem thì thấy trứng nở được một con rắn. Hoảng sợ, người chồng mang rắn con ra suối Ngọc để thả, nhưng cứ thả thì tối rắn lại trở về nhà. Dần dần rắn sống tại gia đình thân quen như những con vật nuôi khác. Nhưng từ khi có rắn ở trong nhà, đồng ruộng có đủ nước để cày cấy, đời sống trong vùng ấm no hạnh phúc vì không còn cảnh hạn hán kéo dài. Cứ thế, chàng rắn sống với gia đình và làng bản trong cảnh thái bình, no ấm. Trải qua năm tháng, chàng rắn đã to bằng ống vác nước, cứ trưa trưa lại lên xà nhà nằm. Bỗng một đêm trời mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm, sáng ra dân làng thấy xác chàng rắn chết dạt vào chân núi Trường Sinh (vị trí đền thờ hiện nay). Thương tiếc chàng Rắn, dân làng chôn chàng ngay chân núi và lập đền thờ. Dân làng được thần linh cho hay, chàng rắn chết vì đã đánh nhau với thuỷ quái về phá hoại bản làng và chàng đã được thượng đế phong Thần hiệu “Tứ Phủ Long Vương”. Cũng từ đó, suối Ngọc trước cửa đền thờ có đàn cá hàng ngàn con ngày đêm về chầu và nhân dân trong vùng không bao giờ ăn cá suối Ngọc, cũng như quen gọi cá thần từ đó. Theo các nhà khoa học, đàn cá ở suối Cẩm Lương là cá giốc (hay còn gọi là cá dốc), thuộc bộ cá chép và có tên trong sách đỏ Việt Nam. Giống cá màu xanh thẫm này có hai bên mép đỏ tươi, mỗi khi bơi phát ra những luồng ánh sáng lấp lánh như ánh ngọc. Có một điều kỳ lạ là những con cá ở suối chỉ bơi quanh quẩn đúng một đoạn suối dài hơn 100m và không bơi ra xa hơn nữa. Thậm chí có mùa nước lũ đổ về nước dâng cao lên khắp cả con đường lối dẫn vào suối nhưng kỳ lạ thay cá không bao giờ trôi đi, khi nước lớn tràn vào suối, những con cá lớn chui vào hang, hốc để trốn, những con nhỏ nếu bị nước cuốn đi cũng có thể tự biết đường bơi trở lại. Cá ở đây nhiều vô kể với các loại lớn bé khác nhau, con lớn nặng chừng 30kg - đó là cá chúa. Vào ban ngày, từng đàn nối đuôi nhau bơi lượn từ trong hang ra ngoài. Đến đây, du khách có thể đùa vui với cá, cho cá ăn và ngắm nhìn sinh hoạt tự nhiên của giống cá này. Cuối ngày, đàn cá thần sẽ bơi xuyên qua một khe hang nhỏ để trú ẩn bên trong núi. Cửa hang chỉ rộng hơn một sải tay nhưng lòng hang rộng và sâu, đủ sức chứa hàng nghìn con cá. Có một điều kỳ lạ là mặc dù đàn cá rất đông đúc nhưng nước ở suối luôn trong vắt và không có mùi tanh, có thể dùng cho sinh hoạt hoặc nấu nướng. Đây là một điều khó lý giải mà các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu. Hàng năm, nhất là vào dịp tháng giêng âm lịch, suối cá thần Cẩm Lương thu hút hàng nghìn du khách thập phương ghé thăm và tham dự lễ hội rước cá Thần truyền thống của người Mường. Người dân trong vùng tin rằng đây là giống cá thần hiếm có và sự sung túc của đàn cá sẽ đem lại bình yên no ấm cho cuộc sống của người dân địa phương. Trong quần thể suối cá còn có đền Ngọc thờ tứ phủ Long Vương, phía trên suối cá có động Cây Đăng với cảnh sắc lung linh huyền bí, nhiều nhũ đá hình thù kỳ vĩ, lấp lánh như kim cương… Một điều thú vị là du khách bước vào cửa hang một đường, sau khi khám phá hết sẽ ra ngoài bằng đường khác tạo thành một vòng tròn khép kín. Suối cá thần Cẩm Lương là sản phẩm độc đáo của thiên nhiên, với cảnh quan tuyệt đẹp, có rừng, có sông suối, bản làng và những người dân hiền lành, bình dị tạo nên một bức tranh làng quê sơn thuỷ hữu tình. Hãy một lần đến nơi đây để say ngắm thỏa thuê cảnh sắc, trút bỏ bao phiền muộn ưu tư…
Thanh Hóa 2019 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh nằm trên địa bàn thị trấn Lam Sơn và xã Xuân Lam (huyện Thọ Xuân), xã Kiên Thọ (huyện Ngọc Lặc), với tổng diện tích quy hoạch bảo tồn là 200ha. Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng Lê Lợi, người có công chiêu mộ hiền tài, quy tụ nhân dân đánh đuổi giặc Minh xâm lược (1418 - 1427). Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ), lập nên vương triều Hậu Lê, đóng đô ở Thăng Long, mở ra thời kỳ phát triển mới cho quốc gia Đại Việt. Năm 1430, Lê Thái Tổ đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh. Kể từ đó, các kiến trúc điện, miếu... cũng bắt đầu được xây dựng tại đây, gắn với hai chức năng chính: - Điểm nghỉ chân của các vua Lê khi về cúng bái tổ tiên, đồng thời, cũng là nơi ở của quan lại và quân lính thường trực trông coi Lam Kinh; - Khu tập trung lăng mộ của tổ tiên, các vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê và một số quan lại trong hoàng tộc. Về diện mạo kiến trúc của di tích hiện nay, có thể điểm tới một số công trình tiêu biểu như: Chính điện Lam Kinh: theo tư liệu lịch sử và khảo cổ học, chính điện Lam Kinh được dựng ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà (năm 1433). Bố cục mặt bằng của kiến trúc này có dạng hình chữ “công”, với tổng diện tích là 1.645,04m2,gồm 3 tòa điện chính: Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh. Hiện nay, trong khu vực này chỉ còn lại dấu tích nền móng, với 127 tảng kê chân cột, nền lát, bó vỉa cùng một số hiện vật khác. Thái miếu: là nơi thờ cúng tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Theo kết quả khai quật khảo cổ, trong khu vực này gồm 9 tòa kiến trúc. Hiện nay, đã tôn tạo, phục hồi được 5 tòa (các tòa số 3, 4, 5, 6, 7). Sân rồng: là một trong những kiến trúc có diện tích lớn nhất trong khu trung tâm của điện Lam Kinh, nằm tại phía sau Ngọ môn, chính giữa có 3 lối đi lên chính điện theo bậc thềm rồng. Đông trù: nằm ở phía Đông Nam của chính điện, được coi như khu vực hậu cần, bếp núc để phục vụ cho toàn bộ khu vực trung tâm của Lam Kinh. Tả vu, Hữu vu: nằm về hai bên sân rồng, hiện chỉ còn lại nền móng và một số chân tảng kê cột cùng một số hiện vật khác. Tây thất: nằm trên một gò đất nhỏ ở phía Tây của Chính Điện, ngoài phạm vi thành Nội. Hiện nay, khu vực này chỉ là phế tích kiến trúc. Cầu Bạch: mới được phục hồi, dài 17m, rộng 5,50m, bắc qua sông Ngọc, nằm trên trục đường chính dẫn vào khu trung tâm chính điện Lam Kinh. Hệ thống tường thành: gồm 3 vòng thành (La thành, thành Nội và thành Ngoại). Năm 2008, một số đoạn của La thành phía Đông và phía Tây cầu Bạch đã được khôi phục (với tổng chiều dài 21m). Hồ Như Áng, kênh dẫn nước đập nhà Lê, hồ Tây: trước kia, khu vực này vốn là vùng đất trũng, xung quanh có nhiều khe suối nhỏ. Lợi dụng địa thế tự nhiên, nhà Lê đã cho đào kênh dẫn nước về hồ Tây, để cung cấp cho toàn bộ khu vực Lam Kinh. Núi Dầu: cách lăng vua Lê Thái Tổ khoảng 500m. Trên núi có đền thờ bà hàng Dầu, gắn liền với truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lăng mộ Lê Thái Tổ và bia Vĩnh Lăng: Vĩnh Lăng được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng, ở phía Nam chân núi Dầu. Năm 1995, Vĩnh Lăng đã được trùng tu, xây lại bằng gạch, bên ngoài ốp đá đục nhám, phía trước lăng có 2 tượng quan hầu và 4 đôi tượng con giống bằng đá, đứng chầu vào đường “thần đạo” của lăng. Bia Vĩnh Lăng được làm bằng đá trầm tích nguyên khối, cao 2 mét 79, rộng 1 mét 94, đặt trên lưng rùa đá. Nội dung văn bia ghi lại thân thế, sự nghiệp của Lê Thái Tổ. Đây là một công trình điêu khắc đá có giá trị nghệ thuật, đồng thời cũng là tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu lịch sử giai đoạn Lê Sơ. Lăng mộ Lê Thái Tông và Bia Hựu Lăng: nằm trên đỉnh cao của rừng Phú Lâm, thuộc xã Xuân Lam, cách Vĩnh Lăng 800 mét. Bia Hựu Lăng được dựng cách lăng khoảng 20m. Hiện nay, bia đã bị mất, chỉ còn lại rùa đá nằm nguyên ở vị trí ban đầu. Lăng mộ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao và bia Khôn Nguyên Chí Đức: tọa lạc trên một khu đất thấp, gọi là Xà Đàm (đầm Rắn), cách Vĩnh Lăng 700 mét về phía Đông. Năm 1998, lăng mộ được trùng tu lại bằng gạch vồ, mặt ngoài trát xi măng, hai bên tạc tượng người và động vật bằng chất liệu đá. Bia Khôn Nguyên Chí Đức dựng năm Mậu Ngọ (1498), làm bằng chất liệu đá xanh nguyên khối, cao 2 mét 76, rộng 1 mét 90. Trán bia và diềm bia trang trí hình rồng 5 móng và hoa lá cách điệu... Lăng mộ Lê Thánh Tông và Bia Chiêu lăng: nằm sát gò Đình (xã Xuân Lam). Bia được dựng vào mùa xuân năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thống (1498). Lăng mộ vua Lê Hiến Tông và Bia Dụ Lăng: nằm ở bên phải của Vĩnh Lăng, giáp hồ Tây. Bia Dụ Lăng nằm cách lăng mộ khoảng 30 mét, được làm bằng đá nguyên khối, cao 2 mét 78, rộng 1 mét 98. Lăng mộ Lê Túc Tông và Bia Kính Lăng: được xây trên đỉnh núi “Hổ Xứ Ngọc Giăng Đèn”, thuộc địa phận xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc. Bia Kính Lăng được dựng vào tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505), nội dung bia ghi về thân thế, sự nghiệp của vua Lê Túc Tông. Đền thờ vua Lê Thái Tổ: tọa lạc ở phía Đông Nam khu di tích Lam Kinh, Năm 1996, đền này được tôn tạo lại, với kết cấu khung gỗ lim, theo mẫu thức của kiến trúc truyền thống, bao gồm các hạng mục: tiền đường, nhà cầu (ống muống) trung đường và hậu cung. Ngoài các kiến trúc kể trên, trong khu vực Lam Kinh còn có hệ thống công trình phụ trợ cùng nhiều di vật, cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khác. Tại Khu di tích, vào dịp tháng 8 (Âm lịch) hàng năm, cứ đến ngày 21 (giỗ Lê Lai) và 22 (giỗ Lê Lợi), nhân dân trong vùng lại long trọng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của các vị anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời thể hiện ước vọng cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống ấm no hạnh phúc... Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 2384 lượt xem
Cầu Hàm Rồng lịch sử nằm trên tuyến đường Bắc – Nam của vùng đất xứ Thanh “địa linh nhân kiệt”, sơn thủy hữu tình bắc qua sông Mã, với lối kiến trúc độc đáo, gắn liền với lịch sử phát triển của mảnh đất Xứ Thanh hào hùng, ý chí quật cường của người Thanh Hóa. Cầu Hàm Rồng là cây cầu đầu tiên được bắc ngang qua dòng sông Mã ở Thanh Hóa, cách trung tâm Thành phố Thanh Hóa gần 5km về phía Bắc... Đây cũng là cây cầu đường sắt duy nhất đi qua dòng sông Mã do Pháp xây dựng năm 1904 theo kiểu cầu vòm thép không có trụ, hiện đại nhất Đông Dương thời bấy giờ. Năm 1946, cầu bị phá hủy theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến của Việt Minh nhằm ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược. Năm 1963, cầu được các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ thiết kế và thi công khôi phục lại, trở thành cầu có trụ như hiện nay, với chiều rộng 17 mét, gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ. Trong chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc nước ta, Không quân Mỹ đã tập trung đánh phá cầu Hàm Rồng nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông quan trọng, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường lớn miền Nam. Việc đánh phá Hàm Rồng được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chọn là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Với âm mưu cắt đứt sự chi viện Bắc - Nam, cô lập Hàm Rồng và tập trung đánh dứt điểm Hàm Rồng, vào 8 giờ 45 phút ngày 3/4/1965, 16 chiếc máy bay đầu tiên của Mỹ ném bom vào địa phận Thanh Hoá với một loạt địa điểm đánh phá như cầu Đò Lèn (Hà Trung), cầu Cun (Nông Cống), ga Văn Trai (Tĩnh Gia)... Chỉ trong 2 ngày 3 và 4/4/1965, quân Mỹ đã sử dụng 174 lần tốp, 454 lần máy bay; ném xuống địa bàn tỉnh Thanh Hoá 627 quả bom phá, 58 quả bom nổ chậm (gồm các loại từ 500 đến 1.000kg), hàng trăm tên lửa, rốc-két vào các khu vực trọng điểm của Thanh Hoá. Riêng khu vực Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực, địch bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn phá 80 lần, ném 350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc-két. Để bảo vệ cầu Hàm Rồng, về phía ta, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa tháng 12 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Nếu như Quân khu IV là quan trọng thì Thanh Hóa là quan trọng nhất bởi vì Thanh Hóa là hậu phương trực tiếp của mặt trận Bình - Trị - Thiên và Lào”. Tỉnh ủy Thanh Hóa nhận định: “Trọng điểm đánh phá quân khu vào lúc này là Thanh Hóa, trọng điểm Thanh Hóa là Hàm Rồng, bảo vệ cầu Hàm Rồng là góp phần bảo vệ giao thông thông suốt”. Do vị trí đặc biệt quan trọng của cầu Hàm Rồng là ở hai đầu Bắc vào Nam của cầu có hai ngọn núi, núi Ngọc và núi Rồng có thể chắn được hầu hết bom rơi xuống. Sau 2 ngày chiến đấu kiên cường, Thanh Hoá đã bắn rơi 47 máy bay giặc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng. Điều này đã chứng minh đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự của Đảng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta đã đi vào lịch sử như một huyền thoại khiến dư luận nước Mỹ xôn xao, bạn bè yêu chuộng công lý và hòa bình trên toàn thế giới khâm phục. Năm tháng qua đi. Cầu Hàm Rồng cùng hai chữ “Quyết Thắng” uy nghiêm tạc vào sườn núi như một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam. Với mỗi người con Thanh Hóa, Hàm Rồng - Sông Mã còn là hiện thân của quê hương, vừa gần gũi, thân thuộc, vừa rất đỗi thiêng liêng, tự hào. Nguồn: Trường Chính Trị Thanh Hóa
Thanh Hóa 2300 lượt xem
Bà Triệu (tên là Triệu Thị Trinh, còn gọi là Trinh Nương, hay Triệu Ẩu), sinh năm 226, người huyện Quân Yên (Quan Yên), quận Cửu Chân. Bà có dung mạo hơn người, võ nghệ cao cường, thích giao du bạn bè, có hoài bão lớn thể hiện qua câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người!" Năm 248, Bà Triệu cùng anh trai Triệu Quốc Đạt tập hợp trai tráng trong vùng tụ nghĩa chống lại ách đô hộ nhà Ngô. Một thời gian ngắn sau, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời, Bà được tướng sĩ tôn làm Chủ tướng. Trước sức mạnh của quân ta, các thành ấp của quân Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị đánh hạ. Cuộc khởi nghĩa phát triển, lan rộng ra các vùng Giao Chỉ, kéo dài vào tận Nhật Nam. Trước tình hình đó, Ngô vương Tôn Quyền đã phải cử viên tướng Lục Dận làm Thứ sử đem quân sang đàn áp. Sau nhiều trận chiến ác liệt, nghĩa quân không thể chống chọi được với cường địch. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên Núi Tùng (nay thuộc xã Triệu Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào ngày 22 tháng Tám, năm Mậu Thìn (248), khi mới tròn 23 tuổi. Để tưởng nhớ ân đức của Bà Triệu và các tướng sĩ, nhân dân đã lập đền thờ ngay tại địa điểm trước đây Bà cùng nghĩa quân đã chiến đấu và hy sinh oanh liệt. Trải qua biến cố của thời gian và lịch sử, đền thờ Bà Triệu tại Núi Tùng vẫn được nhân dân gìn giữ, là nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. Khu di tích Bà Triệu được xây dựng, trùng tu, tôn tạo qua nhiều thời kỳ khác nhau, bao gồm các địa điểm: Đền thờ và lăng mộ Bà Triệu, mộ ba Ông tướng họ Lý, miếu Bàn thề, đình Phú Điền, đền Đệ Tứ. 1. Đền Bà Triệu: tọa lạc hướng Bắc, gồm: Nghi môn ngoại, hồ sen hình chữ nhật, bình phong, Nghi môn trung, sân dưới, Nghi môn nội, sân trên (hai bên có Tả/hữu mạc), Tiền đường, sân thượng, Trung đường, sân thiên tỉnh, Hậu cung. 2. Khu lăng mộ Bà Triệu Lăng Bà Triệu: nằm trên đỉnh núi Tùng, hình trụ đứng (tứ giác) nhỏ dần về phía đỉnh gồm 2 tầng mái: có chiều cao từ mặt nền đến đỉnh là 5,8m. Mái lăng làm theo kiểu mái kiệu long đình, đỉnh lăng gắn hình nậm rượu. Toàn bộ Lăng được chế tác từ đá xanh nguyên khối, bên trong đặt bát hương, mặt chính của Lăng đặt bàn thờ bằng đá. Mộ: được xây cao hơn 0,50m so với nền. Cấu trúc mộ vuông bốn mặt có kích thước 1,5m, chiều cao 2,3m. Mộ được mở cửa hình vòm ra 4 phía, mái tạo dáng cong ở các góc, đỉnh mộ gắn quả cầu tròn. Tháp chúa: cấu trúc hình trụ vuông bốn mặt làm bằng đá nguyên khối cao 1,45m, đế tháp cao 0,5m, vuông bốn mặt. 3. Mộ Ba ông tướng họ Lý: nằm dưới chân núi Tùng, kích thước ba ngôi mộ đều là 3m. Phía sau mộ có bàn thờ xây gạch hình chữ nhật dùng làm nơi đặt đồ tế lễ. Ngoài khu mộ còn có tấm bia đá, trán bia ghi “Kỷ niệm bia chí”. 4. Miếu Bàn thề: tương truyền đây là nơi ba anh em họ Lý tổ chức ăn thề đi theo nghĩa quân của Bà Triệu, thuộc khu ruộng Đồng Bảng, làng Phú Điền. Hiện trạng miếu chỉ là một bệ thờ xây bằng gạch, dài 2,04m, rộng 1,48, cao 1,38m. 5. Đình Phú Điền: được dựng dưới thời vua Cảnh Hưng thứ 33 (1772), tọa lạc về hướng Tây Nam, nhìn ra núi Tùng, gồm các hạng mục sau: Nghi môn: kiểu tứ trụ, bằng đá xanh nguyên khối, với 3 cửa ra vào. Cột tứ trụ lớn, chân đế tạo tác kiểu chân quỳ, bốn mặt chạm tứ linh, đỉnh cột gắn tượng chim phượng lá lật. Tòa Đại đình: kiến trúc chữ Đinh, dài 18,40m, rộng 14,37m, mặt trước có hiên rộng 1,9m, cánh cửa kiểu bức bàn. Tiền đường: có kiến trúc đẹp, hài hòa, vì kèo được chạm trổ tinh vi theo phong cách chạm lộng, chạm bong, chạm nổi, chạm chìm với đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, cá chép hóa rồng, hoa sen, hoa mai, chim sáo, hươu nai, gà trống, đặc biệt là hình tượng người phụ nữ và những hoạt cảnh dân gian. Hậu cung: 3 gian 2 chái, vì kèo kiểu "giá chiêng chồng rường kẻ bẩy" với 4 hàng chân cột, 4 vì kèo gỗ. Hậu cung được mở 3 cửa, cửa kiểu bức bàn, khung gỗ được tạo tác hình tròn ở tất cả các cấu kiện. Các bức chạm khắc tập trung ở bức tường long cốt bằng gỗ, trên hệ thống xuân hoa và các bức cốn ở ngoài hiên. 6. Đền Đệ Tứ: nằm gần khu vực núi Eo, làng Phú Điền, nên nhân dân còn gọi là Nghè Eo. Tại di tích, hiện còn lưu giữ 3 đạo sắc phong, trong đó, có 1 bản niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 5 (1797). Đền gồm 2 gian xây dọc, dài 6,12m, chiều rộng trung bình 2,88m, cao 3,85m, gồm Hậu điện và Tiền đường, xây theo kiểu cuốn vòm, nền lát gạch bát màu đỏ cổ. Đền Bà Triệu, có 297 di vật, cổ vật thuộc nhiều chủng loại, đa dạng về chất liệu như giấy, gỗ, đồng, gốm,... niên đại từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20. Những tài liệu, hiện vật còn được bảo lưu trong di tích có giá trị về lịch sử, văn hóa, giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình tồn tại của di tích và truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, phong tục của địa phương. Di tích là nơi nhân dân làng Phú Điền tổ chức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng theo phong tục cổ truyền (ngày lễ, Tết cổ truyền, ngày mất của nhân vật lịch sử). Lễ hội đền Bà Triệu diễn ra trong 3 ngày (từ 19 - 22 tháng Hai âm lịch) gồm lễ tế, lễ rước kiệu, trò diễn dân gian với sự tham gia đông đảo của cộng đồng trong vùng và thu hút hàng vạn du khách đến tham quan và hành lễ. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Bà Triệu (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 2237 lượt xem
Di tích Hang Con Moong và các di tích phụ cận thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, có tổng diện tích 4.999.180m2, khai quật lần đầu tiên vào năm 1976. Năm 2008 - 2009, hang Con Moong được đoàn kiểm tra, nghiên cứu tổng thể và khảo sát các di tích phụ cận. Trong thời gian khai quật hang Con Moong (2010 - 2015), đoàn khảo cổ học Việt - Nga đã phát hiện thêm các di tích là hang Lý Chùn, hang Bố Giáo, di tích đất đắp núi Đầu Voi, hang Mang Chiêng, Hang Diêm, đồng thời khai quật 4 di tích xung quanh là: Hang Lai (2010), hang Lý Chùn (2010), hang Mang Chiêng (2011 - 2012) và Hang Diêm (2013 - 2014). Cụ thể: 1. Hang Con Moong: nằm trong núi đá vôi tuổi Triat thượng (Upper Triassic) thuộc hệ tầng Đồng Giao (Tađg), khoảng 240 triệu năm. Hang Con Moong có địa tầng dày trung bình từ 9,5m - gồm 10 lớp có cấu trúc khác nhau. Từ lớp 1 đến lớp 6 (độ sâu từ 1m - 6m) tìm thấy nhiều công cụ lao động, xương cốt động vật, vỏ nhuyễn thể. Các lớp 7 đến 10 không gặp dấu tích động thực vật, nhưng có nhiều công cụ mảnh tước, chế tác bằng đá quartz, tập trung nhất là ở lớp 10. Theo nghiên cứu bước đầu, hang Con Moong trải qua 4 giai đoạn phát triển về văn hóa. Kết quả nghiên cứu các bon phóng xạ (C14) các lớp trên, độ từ cảm, tập trầm tích ở Con Moong và so sánh tương thích văn hóa với các di chỉ khảo cổ khác cho thấy niên đại sớm nhất của Con Moong được dự đoán 40.000 đến 60.000 năm cách ngày nay. Từ kết quả khai quật khảo cổ cho thấy, hang Con Moong là 1 trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. 2. Các di tích phụ cận: - Di tích Hang Lai: nằm trong dãy núi đá vôi thuộc thôn Thành Trung, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Hang có hình hàm ếch. - Di tích Hang Lý Chùn: Lòng hang như một mái đá nhỏ, cửa hướng Tây - Tây Nam, vòm cao 2m không phẳng nhiều diềm và nhũ đá rủ xuống, chiều dài sâu trên 2m, vách hang có những vỉa đá lan ra cửa, có nhiều mảng khối trầm tích chứa xương răng động vật hóa thạch. - Di tích Hang Bố Giáo: thuộc địa phận thôn Yên Sơn 2, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Hang có hai khoang, ngăn cách nhau bởi các cột nhũ đá lớn. - Di tích Đất đắp Núi Đầu Voi (hay còn gọi là Hệ thống hào lũy núi Đầu Voi, Thành đất đắp núi Đầu Voi, Thành Lý Chùn, Lũy Đầu Voi, Đồn Binh Lý Chùn) nằm sát (bao bọc ba mặt) núi Đầu Voi, trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Cúc Phương. - Di tích Hang Diêm: nằm trong khu vực vùng đệm của Vườn Quốc gia Cúc Phương. Hang có hình ống dài trên 50m, rộng trung bình 10m. - Di tích Hang Mang Chiêng (hay còn gọi là Vang Chiêng): nằm trong địa bàn của Vườn Quốc gia Cúc Phương, trước cửa hang có hai cây Vông lớn nên nhân dân còn gọi là hang Cây Vông. - Di tích Hang Mộc Long và Mái đá Mộc Long: nằm trên một phía của núi Chùa thuộc xã Thành Minh. Sau quá trình nghiên cứu, khai quật hang Con Moong và các di tích phụ cận, các nhà khoa học bước đầu nhận xét, đánh giá những giá trị nổi bật: - Cấu tạo địa tầng và tầng văn hóa ở di tích hang Con Moong và các di tích phụ cận cho thấy, đây là di tích cư trú, mộ táng của cư dân thuộc nhiều thời kỳ. Hang Con Moong là 1 trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học, có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. - Các di vật khai quật được ở hang Con Moong là những bằng chứng xác thực về truyền thống cư trú trong hang, chế tác và sử dụng công cụ đá với sự thay đổi về loại hình và kỹ thuật chế tác công cụ, từ đó, có thể nghiên cứu sự thay đổi về hành vi, ứng xử của người cổ trước những biến động của cổ khí hậu và môi trường tự nhiên... - Giá trị lịch sử văn hóa nổi bật ở hang Con Moong là sự thích nghi của con người với môi trường trong suốt hàng vạn năm, từ hái lượm săn bắt, tiến dần đến trồng trọt, chăn nuôi... Kết quả khai quật cho thấy, con người đã có mặt ở hang Con Moong từ khoảng 60.000 năm trước, song không thường xuyên. Từ khoảng 25.000 - 20.000 năm trước, khí hậu ấm dần, có thời kỳ xen kẽ ấm và lạnh, người ta cư trú trong hang thường xuyên hơn. Từ sau 20.000 năm là thời kỳ nóng ẩm mưa nhiều, khiến các loài ốc và nhuyễn thể sinh sôi, là nguồn thức ăn thường xuyên của con người, bằng chứng là vỏ nhuyễn thể chất đầy cửa hang, có chỗ dày tới 4m. Từ 11.400 năm đến 8.000 năm là thời kỳ mưa nhiều, người Tiền sử liên tục cư trú ở cửa hang Con Moong. Tại khu vực này đã thu được trong địa tầng rất dày toàn vỏ ốc với hàng trăm công cụ lao động bằng đá, xương, sừng, vỏ nhuyễn thể… với kỹ nghệ chế tác công cụ phát triển từ văn hóa Sơn Vi đến văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Từ 7.000 năm cách ngày nay là thời kỳ biển lùi, mưa ít, con người bắt đầu rời hang động dần chiếm lĩnh đồng bằng, ven biển, xác lập các nền văn hóa biển đầu tiên trong thời kỳ Tiền sử. Những dấu tích lớp văn hóa trên cùng ở Con Moong gồm những chiếc rìu mài và gốm văn đập thô sơ tương thích với lớp sớm nhất của văn hóa Đa Bút cho thấy sự chuyển cư của cư dân hang Con Moong đã tiến dần xuống đồng bằng ven biển, lập nên văn hóa Đa Bút. - Song song với việc hoàn thiện khai quật hang Con Moong, các nhà khoa học đã khảo sát, khai quật và nghiên cứu các hang động xung quanh khu vực hang Con Moong. Qua đây cho thấy Con Moong là di tích cổ xưa nhất, có mối quan hệ nhất định với các di tích xung quanh ở các bình tuyến khác nhau. Từ Con Moong, trải qua hàng chục ngàn năm do biến đổi của khí hậu, thời tiết dẫn đến môi trường sinh sống được mở rộng, kỹ nghệ chế tác công cụ lao động, sinh hoạt ngày càng tiến bộ, người nguyên thủy đã tách ra từng bầy nhóm, di chuyển đến các hang động Mang Chiêng, hang Diêm, hang Lai, hang Mộc Long, Mái đá Mộc Long, Hang Đắng (Động Người xưa), hang Bố giáo … Những kết quả nhiên cứu đó đã góp phần nâng tầm giá trị lịch sử - văn hóa của quần thể di tích - hang động khu vực hang Con Moong. Với giá trị tiêu biểu, di tích khảo cổ hang Con Moong và các di tích phụ cận (huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 2114 lượt xem
Thành Nhà Hồ là công trình kiến trúc lịch sử ở xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nơi đây cách trung tâm Hà Nội khoảng 140km. Thành Nhà Hồ được xây dựng từ những năm cuối của thế kỷ 14 tính đến hiện tại đã tồn tại hơn 600 năm. Đến năm 1962, Thành Nhà Hồ chính thức trở thành di tích cấp quốc gia. Năm 2011, di tích lịch sử này được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Thành được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397. Di sản bao gồm: Thành nội, La thành, Đàn tế Nam Giao rộng 155,5 ha và được bao bọc bởi một vùng đệm có diện tích 5078,5 ha. Vị trí của Thành được lựa chọn theo những nguyên tắc phong thủy trong cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp giữa hai dòng sông Mã và sông Bưởi ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay, tòa thành vẫn còn giữ được 4 cổng thành, các cổng thành được xây bằng những khối đá lớn, nhiều khối đá nặng từ 10 đến 26 tấn. Tường thành có chu vi hơn 3,5km với nhiều đoạn tường thành gần như nguyên vẹn cùng rất nhiều hiện vật lưu dấu nơi từng được coi là kinh đô, trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội, đồng thời, là công trình quân sự phòng thủ lớn nhất của Nhà Hồ. Đến thăm Thành Nhà Hồ, du khách không khỏi kinh ngạc về khối lượng đá khổng lồ, cách thức lắp ghép đá xây nên những tường thành, cổng thành đồ sộ, vững trãi. Du khách càng kinh ngạc, thán phục khi biết rằng: ở cái thời cách đây tới hơn 600 năm mà ngôi thành đá to lớn này được xây dựng xong chỉ vẻn vẹn trong thời gian 3 tháng. Giá trị nổi bật của tòa thành là những khối đá nặng hàng chục tấn được ghè đẽo thủ công nhưng đạt đến công năng, hiệu quả sử dụng tối đa, riêng biệt và duy nhất có tại Đông Á những năm cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15. Đây là kỳ tích“vô tiền khoáng hậu” hiện nay vẫn chưa được khoa học lý giải. Các đợt khai quật khảo cổ đã làm xuất lộ những dấu tích kiến trúc cùng rất nhiều hiện vật từng góp mình làm nên một Tây Đô tráng lệ, uy nghiêm. Tất cả đã minh chứng rằng: Thành Nhà Hồ là một kinh đô cổ đã được xây dựng hoàn chỉnh vốn đầy đủ cung điện, đền đài, miếu mạo ở bên trong và được sử dụng liên tục trong suốt tiến trình lịch sử của văn minh Đại Việt. Di sản càng trở nên hấp dẫn, khi trong khu vực nội thành và khu vực làng cổ bao quanh thành có rất nhiều di tích văn hóa - lịch sử và cả những câu chuyện truyền thuyết liên quan đến ngôi thành đặc biệt này. Ngày nay, Thành Nhà Hồ trở thành chứng nhân lịch sử và những giá trị tự thân của nó đương nhiên đã mang “tầm” thế giới khi chính thức ghi tên mình vào “ngôi đền” di sản văn hóa nhân loại. Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ giữ vai trò quan trọng, là nguồn tài nguyên vô hạn cho việc khai thác, phục vụ phát triển du lịch. Nguồn: Trang thông tin điện tử Thành Nhà Hồ
Thanh Hóa 1999 lượt xem
Đền Lê Hoàn ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và được ví là ngôi đền cổ nhất xứ Thanh. Đền Lê Hoàn ở ngôi làng hàng trăm năm tuổi, nơi đã sinh ra vị khai quốc của Triều Tiền Lê hiển hách trong lịch sử dân tộc - Lê Đại hành Hoàng đế. Hiện nơi đây vẫn còn một ngôi đền thờ Vua nằm ở cuối làng được mệnh danh là một trong những ngôi đền cổ bậc nhất xứ Thanh và được công nhận là di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt. Theo sử sách, Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941) tại trang Kẻ Xốp, huyện Di Phong Châu Ái (nay là làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình nông dân nghèo. Cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị. Năm lên 6 tuổi, Lê Hoàn mồ côi cả cha lẫn mẹ, làm con nuôi cụ Lê Đột ở trang Kẻ Mía (nay là làng Phong Mỹ, xã Trường Xuân, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Lớn lên, Lê Hoàn tòng quân phò giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân, lập nhiều công trạng và được phong Thập đạo Tướng quân. Ông một lòng phò tá góp phần cùng Vua Đinh vỗ yên trăm họ, đất nước thái bình. Mùa Đông tháng 10 năm Kỷ Mão (979), vua Đinh Tiên Hoàng và con trai cả Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại. Lê Hoàn được cử làm nhiếp chính, giúp ấu Chúa nhà Đinh giữ yên biên cương xã tắc, dẹp tan nội phản, được Thái hậu Dương Vân Nga trao áo long bào. Năm Canh Thìn 980 Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Phúc. Vua đánh tan quân Tống, giữ yên bờ cõi, chinh phạt Chiêm Thành từng bước khẳng định chủ quyền đất nước dân tộc, cho đúc tiền Thiên Phú chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giao thông, thương mại. Sau đó, Lê Hoàn mất ngày 8 tháng 3 năm Ất Tỵ (1005) tại Cố Đô Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình, thi hài Lê Hoàn được an táng tại Sơn Lăng, châu Trường Yên, ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi, miếu hiệu là Đại Hành Hoàng đế. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Huyện Thọ Xuân
Thanh Hóa 1942 lượt xem
Số 25, Lê Lợi, Thị Xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thanh Hóa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
117, Hồ Xuân Hương, Thị Xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thanh Hóa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ