Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Các di tích lịch sử văn hóa tại Quảng Ninh sẽ đưa bạn bước vào hành trình khám phá đầy cuốn hút, nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa và lịch sử đáng tự hào của vùng đất mỏ. Đến Quảng Ninh, hãy dành chút thời gian ghé thăm các điểm di tích đặc sắc này để cảm nhận vẻ đẹp và chiều sâu của một miền di sản độc đáo. Cùng 63Stravel điểm danh các di tích này nhé!
Cùng xem ngay danh sách 27 di tích lịch sử ở Quảng Ninh nổi tiếng được nhiều du khách tham quan, khám phá.
Xã Triều Khê gắn liền với vùng đất thang mộc của An Sinh vương Trần Liễu - thân phụ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, có bề dày lịch sử từ thời Trần. Đến cuối thế kỷ XVIII, một số gia đình từ Kim Thành, Hải Dương đã đến khai hoang vùng đất ven sông Kinh Thầy, lập nên thôn xóm đông đúc.
Đình Triều Khê - nơi lưu giữ các giá trị văn hoá Việt
Năm 1887, làng Triều Khê chính thức thành lập và xây dựng đình làng để thờ An Sinh vương Trần Liễu và các nhân vật lịch sử khác. Đình Triều Khê không chỉ lưu giữ kiến trúc độc đáo mà còn là nơi lưu trữ nhiều hiện vật quý giá như sắc phong, bia đá và các bức chạm khắc thời Nguyễn.
Trải qua năm tháng, di tích này đã xuống cấp, và năm 2023, dự án tu bổ đã được phê duyệt nhằm bảo tồn, tôn tạo giá trị văn hóa, lịch sử của đình Triều Khê. Đồng thời nâng cao đời sống văn hóa cho cộng đồng địa phương.
Chùa La tên chữ là Tam Thánh Tự, nằm tại thôn Cẩm Liên, xã Cẩm La, được xây dựng từ thế kỷ XVI dưới triều Nguyễn, là nơi sinh hoạt văn hóa và tâm linh của Phật tử địa phương. Chùa còn lưu giữ nhiều tác phẩm điêu khắc nghệ thuật mang phong cách thời Nguyễn, phản ánh giá trị văn hóa sâu sắc.
Hằng năm, lễ hội Chùa La diễn ra vào mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng âm lịch với nhiều hoạt động truyền thống như đánh đu, hát đúm và đánh cờ. Với giá trị văn hóa độc đáo, năm 2006, Chùa La được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự) tọa lạc tại thôn Vị Khê, xã Liên Vị, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ thế kỷ XVI với kiến trúc ban đầu đơn sơ, và đã trải qua nhiều lần trùng tu bởi các thế hệ tín đồ.
Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự) Xếp hạng Di tích cấp tỉnh
Chùa nổi bật với hơn 125 hiện vật quý giá từ thời Mạc và Nguyễn, trong đó có tượng Phật, bia đá, chuông đồng, mang giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, vị trí của chùa nằm trên vùng đất có thế tay ngai của hai nhánh sông, tạo nên cảnh sắc hữu tình.
Trong kháng chiến, chùa từng là nơi cất giữ tài liệu và vũ khí của cách mạng. Với bề dày lịch sử và giá trị văn hoá, Chùa Lái được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh từ năm 2000, trở thành điểm tựa tâm linh và di sản đáng quý của địa phương.
>> Tham khảo: Tổng hợp ảnh đẹp về những địa điểm du lịch Quảng Ninh
Chùa Yên Mỹ (hay còn gọi là chùa Phúc Khánh) nằm tại thôn Tân Tiến (xã Lê Lợi, TP Hạ Long). Đây là ngôi chùa cổ mang đậm nét kiến trúc truyền thống từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Chùa Yên Mỹ - Phúc Khánh Tự Xếp hạng Di tích cấp tỉnh
Năm 1854, chùa được tu sửa với sự đóng góp của người dân địa phương và đã trải qua nhiều lần trùng tu sau đó. Tọa lạc trên một khu đất cao, chùa quay hướng Nam, theo thế phong thủy đẹp: trước mặt có sông, phía sau là ruộng, hai bên là núi chầu. Kiến trúc chùa theo kiểu chữ đinh, gồm ba gian tiền đường và hai gian hậu cung.
Dù trải qua thời gian, chùa vẫn giữ hệ thống tượng Phật và đồ thờ phong phú, với 23 tượng gỗ, tượng Tam Thế, Thích Ca sơ sinh, Ngọc Hoàng… Khuôn viên chùa rộng khoảng 1000m², có nơi thờ Mẫu và nhiều công trình phụ trợ. Năm 1999, chùa Yên Mỹ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, thu hút đông đảo du khách đến chiêm bái và tìm hiểu văn hóa địa phương.
Đình chùa Hoàng Xá (còn gọi là đình Nhị) là một di tích lịch sử đầy ý nghĩa của xã Hoàng Xá. Trong kháng chiến chống Pháp, nơi đây đã trở thành căn cứ cách mạng, chứng kiến nhiều trận đấu ác liệt giữa quân ta và kẻ địch. Để tưởng nhớ những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chính quyền đã xây dựng đài tưởng niệm ngay tại khuôn viên đình chùa.
Cụm di tích này bao gồm tam quan, đình, chùa và đài tưởng niệm liệt sĩ, với kiến trúc chữ đinh (J) truyền thống. Sau nhiều lần trùng tu, đình Hoàng Xá và chùa Hoàng Hoa tự đã được tôn tạo, giữ gìn nét kiến trúc cổ kính đặc trưng. Lễ hội đình chùa Hoàng Xá, diễn ra vào ngày 9-10 tháng Giêng hàng năm, thu hút đông đảo dân làng và du khách tham gia với các nghi lễ trang trọng và trò chơi dân gian như kéo co, bóng đá…
Với giá trị văn hóa và lịch sử, đình chùa Hoàng Xá đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp Tỉnh vào năm 2016. Hiện nay, công tác bảo tồn và tôn tạo vẫn đang được thực hiện, rất cần sự đóng góp từ các Phật tử và mạnh thường quân để giữ gìn và phát huy giá trị di tích cho thế hệ mai sau.
Chùa Nhuệ Hổ (hay còn gọi là chùa Quảng Phúc) là di tích văn hóa nghệ thuật cấp Tỉnh, mang đậm giá trị lịch sử và kiến trúc cổ kính. Được xây dựng cách đây khoảng 400 năm, chùa không chỉ là nơi thờ Phật và thánh hoàng làng mà còn lưu giữ nhiều di vật quý hiếm. Trong đó, nổi bật là 15 pho tượng đất nung thời Lê – bộ tượng đất nung nguyên vẹn hiếm có tại Quảng Ninh.
Di tích nghệ thuật chùa Quảng Phúc (Chùa Nhuệ Hổ)
Trong thời kỳ kháng chiến, chùa Nhuệ Hổ đóng vai trò quan trọng, trở thành căn cứ cách mạng, là kho lưu trữ vật tư và nơi trú ngụ của các công nhân xây dựng cầu đường. Đặc biệt, nơi đây từng là nơi Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Bình – một vị sư tham gia trực tiếp vào phong trào kháng chiến chống Pháp – trụ trì và đã được lập bảo tháp tưởng niệm ngay trước chùa. Năm 2013, Chủ tịch nước truy tặng Hòa thượng Huân chương Đại đoàn kết dân tộc, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho cách mạng và cho sự đoàn kết dân tộc.
Chùa Mỹ Cụ tọa lạc ở thôn Mỹ Cụ, xã Hưng Đạo, TX Đông Triều, là một điểm đến hấp dẫn cho du khách yêu thích văn hóa tâm linh. Nằm bên sườn núi Chè, chùa mang trong mình những dấu ấn lịch sử sâu sắc, ghi dấu sự hiện diện của vua Trần Nhân Tông tại am Ngọa Vân vào năm 1308. Trong thời kỳ thịnh vượng của phái Trúc Lâm, chùa Mỹ Cụ đã ra đời, góp phần vào mạng lưới 800 ngôi chùa lớn nhỏ trên toàn miền.
Chùa có kiến trúc chữ Đinh, được mở rộng với các công trình như chùa chính, nhà tổ và nhà tăng, tạo thành hình chữ Khẩu. Qua thời gian, mặc dù bị tàn phá trong các cuộc chiến, chùa vẫn giữ được vẻ đẹp và nét kiến trúc cổ xưa.
Du khách sẽ không thể không ấn tượng với những bức tượng Phật tỉ mỉ, từ tượng A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni đến Quan Âm Chuẩn Đề. Tất cả đều được chế tác khéo léo từ đất sét, mang đến linh hồn sống động cho mỗi tác phẩm.
Đặc biệt, chùa Mỹ Cụ là một trong số ít chùa ở Quảng Ninh sở hữu tượng Phật đất sét, cùng với những chi tiết chạm trổ công phu trên mái. Khi đến đây, du khách không chỉ được chiêm bái mà còn mở mang thêm kiến thức về văn hóa tôn giáo của dân tộc Việt Nam.
Đình Bình Lục tọa lạc tại khu Bình Lục Hạ, phường Hồng Phong, là nơi thờ Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Với văn bia lâu đời nhất có niên đại năm 1696, đình được biết đến như một trong những ngôi đình cổ kính nhất vùng Đông Bắc, mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lê Trung Hưng.
Đình Bình Lục - Ngôi đình lâu đời ở Quảng Ninh
Dù từng trải qua nhiều lần trùng tu, đình đã bị xuống cấp nghiêm trọng vào giữa thế kỷ XX và bị cháy vào những năm 70-80, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn. Năm 1995, nhân dân địa phương đã dựng lên một ngôi đình nhỏ đơn sơ trên nền cũ để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng.
Đền thờ Đức Thánh Hang Son tọa lạc trong quần thể di tích lịch sử và văn hóa phong phú của xã Yên Đức, nơi có các danh thắng nổi bật như núi Đống Thóc, núi Con Chuột, chùa Cảnh Huống và Hang 73. Theo truyền thuyết, Đức Thánh Hang Son là một chàng trai tài giỏi, đã hóa thành cá chép, giúp dân làng và được người dân hai làng Yên Khánh và Quỳ Khê thờ phụng để tôn vinh công lao.
Được xây dựng từ thời Trần, đền thờ thể hiện sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu của người Việt. Nằm trên gò đất cao, xung quanh là những ngọn núi và cánh đồng lúa xanh tươi, đền hiện lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như bát hương đá thời Lê và các sắc phong của triều Nguyễn, chứng minh cho giá trị lịch sử của nó.
Mặc dù đã trải qua thiên tai và chiến tranh, ngôi đền đã được trùng tu lại vào năm 1992 và tiếp tục được bảo tồn cho đến nay. Ngày 9/3/2023, UBND tỉnh Quảng Ninh đã công nhận Đền thờ Đức Thánh Hang Son là di tích cấp tỉnh, một niềm tự hào của nhân dân Yên Đức, khẳng định giá trị văn hóa lịch sử và nâng cao ý thức bảo vệ các di sản của vùng đất này.
Khu Danh Thắng Vũng Đục là một trong những điểm đến nổi bật và quyến rũ nhất của thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh, luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách khi có dịp đặt chân tới đây. Đây chính là điểm du lịch không thể bỏ qua trong hành trình khám phá vẻ đẹp của vùng đất mỏ xinh đẹp này.
Ngày xưa, Vũng Đục là một vùng nước sâu, nằm giữa hai dãy núi hùng vĩ: Bàn Cờ và Cạp Rùa. Vào thời kỳ thực dân Pháp, nhằm phục vụ việc vận chuyển than về nước, họ đã xây dựng con đường từ bến xe 52 đến cảng Vũng Đục mà ngày nay chúng ta vẫn biết đến.
Những cơn mưa lớn từ các dãy núi phía Tây đã tạo ra dòng chảy mạnh mẽ mang theo các khoáng chất từ vỉa than cháy xuống biển, khiến cho nước biển tại Vũng Đục có màu vàng đục đặc trưng. Trong khi các vùng biển khác lấp lánh sắc xanh, nước ở Vũng Đục lại mang một vẻ huyền bí riêng, gợi nhớ về lịch sử đau thương nhưng hào hùng của vùng đất này.
Quần thể di tích bao gồm Đền Vũng Đục, Đền thờ liệt sĩ, Đài tưởng niệm cùng hệ thống hang động Vũng Đục, nơi có những nhũ đá lung linh, tạo nên một không gian kỳ bí và tĩnh lặng. Du khách đến đây không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn có dịp ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, từ đó nuôi dưỡng lòng tự hào và ý thức trách nhiệm với thế hệ mai sau. Khu di tích Vũng Đục hiện đang thu hút trên 50.000 lượt khách mỗi năm, đồng thời luôn được chú trọng đầu tư, nâng cấp để phục vụ tốt nhất nhu cầu của du khách.
Đình Hưng Học là di tích lịch sử thờ Quận công Vũ Hoàng Đào - một nhân vật có công lớn trong việc phát triển quê hương, trừ dịch bệnh và bảo vệ làng xã. Ông là Tiến sĩ đầu tiên của dòng họ Vũ tại Hưng Học và có những đóng góp quan trọng trong việc khai hoang, lấn biển, hình thành thị xã Quảng Yên và tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Tương truyền, khi ông qua đời, được vua Khải Định phong làm Thần Đông Hải, vị thần bảo hộ cho ngư dân và làng Hưng Học, nơi người dân thường đến cầu khấn mỗi khi ra khơi. Đình còn thờ Huyền Quang, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm - một nhân vật văn hóa quan trọng của dân tộc.
Với kiến trúc độc đáo và nhiều cổ vật giá trị, đình Hưng Học không chỉ là nơi lưu giữ tín ngưỡng địa phương mà còn là điểm đến nghiên cứu về lịch sử và văn hóa vùng đất Quảng Ninh. Đình đã được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia, khẳng định giá trị văn hóa và lịch sử của nơi đây.
Đình Lưu Khê mang tên làng Lưu Khê, được xây dựng để thờ hai vị Tiên Công Đỗ Độ và Đào Bá Lệ - những người đã góp công chiêu tập dân cư và khai phá bãi bồi cửa sông Bạch Đằng vào năm 1434, tạo dựng nên làng Lưu Khê ngày nay. Theo tư liệu còn lại và truyền thuyết từ các bậc cao niên, đình được khởi dựng vào năm 1822 và đã trải qua nhiều lần tu bổ, với một trong những lần cải tạo lớn vào năm 1942, khi đình được lợp ngói Tây và xây tường đá bao quanh.
Đến năm 2006, đình lại được nâng cấp, bảo tồn các yếu tố kiến trúc cổ điển và phục hồi một số hạng mục, khiến cho nơi thờ tự ngày càng khang trang và đẹp đẽ. Đình không chỉ thờ Đỗ Độ và Đào Bá Lệ mà còn liên kết với ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo gần đó.
Dù trải qua nhiều cải tạo, các cấu kiện và điêu khắc của đình vẫn giữ nguyên nét truyền thống của nghệ thuật dân gian thế kỷ 17 và 18, với những bức chạm nổi tinh xảo hình rồng, mây và các biểu tượng phong thủy. Đình Lưu Khê đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia từ năm 1995 nhờ vào giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc của nó.
Đình Phong Cốc (hay Đình Cốc) nằm tại Khu 4, phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, là một trong những ngôi đình cổ kính và lớn nhất khu vực Hà Nam. Nằm ở vị trí trung tâm, đình được xây dựng trên nền đất cao, hướng Đông Nam, nhìn ra dòng sông Cửa Đình và được bao quanh bởi những cây bồ đề cổ thụ.
Kiến trúc mái đình lợp ngói mũi hài với bờ nóc đắp nổi hình hai rồng chầu mặt trời tạo nên vẻ đẹp thanh thoát. Trong khi sân đình lát đá xanh rộng lớn từng là nơi họp chợ Cốc trước khi được di dời để bảo tồn di tích.
Độc đáo kiến trúc đình Phong Cốc ở Quảng Ninh
Đình Phong Cốc bao gồm tiền đường, bái đường và hậu cung, trong đó:
Tiền đường được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII, với kết cấu vững chãi và những cột lớn theo lối "Thượng thu, hạ thách".
Bái đường được xây dựng năm Cảnh Thịnh (1800) mang phong cách Hậu Lê với điêu khắc tinh xảo.
Hậu cung kết nối với bái đường là nơi thờ cúng Thành Hoàng và Thần Nông, những nhân vật có vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa địa phương.
Không chỉ có giá trị về kiến trúc, Đình Cốc còn là trung tâm văn hóa, nơi lưu giữ phong tục tập quán của người dân nơi cửa biển. Các lễ hội truyền thống như lễ cầu mưa và hội ăn cơm mới được tổ chức thường niên, thể hiện nguyện vọng về cuộc sống ấm no, bình an. Những giá trị văn hóa tốt đẹp này vẫn được gìn giữ và phát huy cho đến ngày nay.
Đền Quan Đại tọa lạc tại thôn La Khê, xã Tiền An, huyện Quảng Yên, thờ hai vị đại thần Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai của triều Nguyễn. Họ đã lãnh đạo quân dân Quảng Yên chiến đấu chống lại quân xâm lược Pháp và bọn tay sai, bảo vệ biên cương Tổ quốc.
Trương Quốc Dụng là một tướng tài và nhà văn hóa có tầm ảnh hưởng vào giữa thế kỷ XIX, ông có nhiều đóng góp cho triều đình và được vua Tự Đức truy tặng hàm vị cao quý. Văn Đức Giai hay còn gọi là Văn Đức Khuê, nổi bật với tài năng và đức độ, đã dẫn dắt quân đội trong các chiến dịch chống thực dân Pháp.
Khi hai vị tướng tử trận trong trận đánh ở đồn La Khê, truyền thuyết kể rằng hai con voi của họ đã đưa thi thể vào rừng trúc, nơi dân làng lập đền thờ. Đền Quan Đại không chỉ là nơi tưởng niệm công lao của các vị anh hùng mà còn là trung tâm văn hóa của làng, với lễ hội “giỗ trận” được tổ chức hàng năm.
Đền có kiến trúc hình chữ Nhị, được xây dựng lại vào năm 1993. Hiện, đền vẫn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của hai vị anh hùng như bia ký, sắc phong… thể hiện lòng tri ân của dân làng đối với những người đã hy sinh vì đất nước.
Đình Hải Yến hay còn gọi là “Hải Yến đình,” tọa lạc tại xóm Tây, thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh. Trước đây, làng được gọi là Hải Triều, được hình thành vào thời Lê bởi cư dân từ Tuần Châu và Hải Dương đến khai hoang lấn biển. Đến đầu thế kỷ XIX, làng đổi tên thành Hải Yến.
Đình Hải Yến ở Quảng Ninh
Xây dựng vào thời Hậu Lê, đình Hải Yến là kết quả sự đóng góp công sức và tài chính của người dân trong làng. Qua nhiều lần trùng tu, đặc biệt vào năm 1815 và 1963, đình vẫn giữ được vẻ đẹp kiến trúc cổ xưa với kết cấu gỗ, mái ngói vẩy cong vút như những mũi thuyền.
Đình thờ ba vị thần, trong đó nổi bật là “Đại Hải Phạm chi thần,” tức Phạm Tử Nghi, một võ tướng thời Mạc, được tôn vinh là Thành hoàng của làng. Những bức chạm trổ tinh xảo trên đình với hình ảnh rồng, hoa lá và tứ linh tạo nên bức tranh sinh động, phản ánh nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của thời Hậu Lê. Đình Hải Yến không chỉ là di sản văn hóa quý giá mà còn là niềm tự hào của người dân địa phương.
Miếu Tiên Công hay Đền Thập cửu Tiên Công, tọa lạc tại thôn Cẩm Thành, xã Cẩm La, cách trung tâm thị xã khoảng 5 km. Đền thờ 17 vị tiên công “Thập thất Tiên Công” có quê ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long, những người đã có công trong việc quai đê lấn biển, thành lập khu đảo Hào Nam, trong đó có xã Cẩm La.
Ban đầu, miếu được xây dựng bằng nhà đất lợp tranh tre và chỉ thờ 19 vị Tiên Công vào năm 1434. Qua thời gian, miếu đã được nâng cấp và vào năm 1804, được xây dựng bằng gạch ngói kiên cố, mang kiến trúc kiểu chữ nhị. Với diện tích 2.912 m², miếu được bố trí thành ba gian, hai trái, mái lợp ngói mũi hài, hướng về phía Đông, bao gồm bái đường, sân, và nhà thờ tổ.
Kiến trúc trong miếu thể hiện rõ phong cách nghệ thuật thời Nguyễn và đã trải qua nhiều lần trùng tu, gần đây nhất là vào các năm 1994, 1946, 1931 và 1920. Miếu Tiên Công không chỉ là nơi tưởng niệm các vị tiên công mà còn là di sản văn hóa quý báu của địa phương, thể hiện lòng biết ơn của người dân đối với những bậc tiền nhân đã khai hoang lập ấp.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, những địa danh ghi dấu ấn mạnh mẽ về những năm tháng hào hùng không thể quên. Khu di tích Pò Hèn từng là đồn biên phòng 209, là một trong những địa danh quan trọng ấy. Nơi đây không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là biểu tượng của lòng dũng cảm và sự hy sinh.
Khu Di tích lịch sử Pò Hèn được xếp hạng di tích quốc gia
Khu di tích Pò Hèn bao gồm bốn điểm nổi bật: đài tưởng niệm liệt sĩ Pò Hèn, chốt đồi Quế, chốt trạm kiểm soát cửa khẩu Pò Hèn và đài quan sát đồi Tây. Đặc biệt, đài tưởng niệm cao 16m, được xây dựng bằng bê tông cốt thép, có hình ảnh ba bàn tay chụm vào nhau, tượng trưng cho ba dân tộc Kinh, Dao và Sán Chỉ cùng nhau gắn bó. Ngôi sao năm cánh giữa đài thể hiện khí phách kiên trung của cả đất và người nơi biên cương. Hai nhà bia bên cạnh ghi danh các cán bộ chiến sĩ đã hy sinh trong giai đoạn 1979-1991.
Hàng năm, vào ngày 17 tháng 2, đồn biên phòng Pò Hèn tổ chức lễ giỗ cho các liệt sĩ, nhắc nhớ thế hệ trẻ về tinh thần bất khuất. Khu di tích được tôn tạo vào năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 110 năm sinh nhật Bác Hồ, đã trở thành “địa chỉ đỏ” trong giáo dục truyền thống yêu nước, khuyến khích thế hệ sau tiếp nối những trang sử vẻ vang của dân tộc. Đài tưởng niệm Pò Hèn sừng sững giữa núi rừng Đông Bắc, là biểu tượng cho khí phách anh hùng và lòng dũng cảm của những người đã ngã xuống để gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Đền Xã Tắc được xây dựng vào đầu thế kỷ XIII dưới triều đại nhà Trần, là một nơi thờ phụng thần Đất và thần Nông, hai vị thần tượng trưng cho nền nông nghiệp lúa nước. Ngoài ra, đền còn được gọi là miếu Xã Tắc Đại Vương, thể hiện vai trò của vị thần bảo vệ và phù hộ cho vùng đất Móng Cái.
Trong tâm thức người Việt, thành hoàng không chỉ là người lập làng mà còn là biểu tượng của sự bảo vệ và an toàn cho dân cư. Cụm từ “sơn hà xã tắc” phản ánh ý nghĩa rộng hơn của xã tắc, biểu trưng cho non sông, đất nước.
Đền Xã Tắc, tọa lạc tại địa điểm sát biên giới, không chỉ đơn thuần là nơi thờ cúng mà còn là cột mốc linh thiêng giữ gìn xã tắc của Tổ quốc. Hiện nay, đền còn thờ các vị thần như Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng và Cao Sơn Đại Vương, ghi nhớ công lao của những người khai khẩn vùng đất này.
Chùa Vạn Linh Khánh tọa lạc trên diện tích hơn 5.000m², có nguồn gốc lịch sử chưa được xác định rõ. Dựa vào bài minh trên chuông đồng đúc năm 1843, có thông tin cho rằng Linh Khánh Tự đã tồn tại từ năm 1754. Dù trải qua nhiều thăng trầm, các hiện vật thờ cúng và tượng pháp tại đây vẫn còn lưu giữ khá đầy đủ, chứng tỏ ngôi chùa này là một di sản văn hóa quan trọng ở vùng biên giới Việt - Trung.
Chùa Nam Thọ( Vạn Linh Khánh Tự) Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Chùa được xây dựng theo hình chữ Hồi, gồm các công trình chính như Tam quan, nhà Tổ, nhà Mẫu và nhà khách. Mặc dù nhiều lần được trùng tu, dấu ấn thời Lê đã phai mờ nhưng chùa vẫn lưu giữ 53 pho tượng cổ, trong đó nổi bật là 4 pho tượng Thích Ca sơ sinh và 2 pho tượng Quan Âm Tống tử. Các hiện vật và chạm khắc ở đây phản ánh tài năng của các nghệ nhân Việt Nam, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Không chỉ là nơi thờ phụng, chùa Vạn Linh Khánh còn gắn liền với lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, thu hút nhiều phật tử và du khách tìm kiếm sự thanh tịnh và hiểu biết về giáo lý Phật giáo. Nơi đây tổ chức nhiều lễ hội lớn như lễ Phật Thích Ca, Vu Lan và lễ Phật A Di Đà, góp phần vào sự giao thoa văn hóa phong phú giữa các cộng đồng.
Được công nhận là di tích nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1999, chùa Vạn Linh Khánh không chỉ là một biểu tượng văn hóa mà còn là cột mốc khẳng định chủ quyền lãnh thổ tại vùng biên cương của Tổ quốc.
>> Nên xem: Tổng hợp những trải nghiệm đáng nhớ khi đi du lịch Việt Nam
Thương cảng Vân Đồn là một trung tâm giao thương sầm uất của Đông Á, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác. Đã trải qua thời kỳ hưng thịnh dưới ba triều đại Lý, Trần và Hậu Lê trước khi bị lãng quên vào thời nhà Mạc. Di tích thương cảng này không chỉ ghi dấu công cuộc chống ngoại xâm mà còn phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa.
Di tích thương cảng Vân Đồn – Thương cảng cổ xưa nhất Việt Nam
Năm 2003, Vân Đồn được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia, với nhiều hiện vật quý giá từ các bến thuyền cổ. Đến năm 2021, tỉnh Quảng Ninh đã đề xuất công nhận quần thể di tích này là Di tích quốc gia đặc biệt. Ngày nay, dấu tích của thương cảng còn lại chỉ là những mảnh sành sứ, nền nhà và tiền cổ nhưng vẫn khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống bến thuyền phân bố trên các đảo và ven biển, từ Móng Cái đến Hạ Long.
Trong hơn 700 năm tồn tại, Vân Đồn không chỉ là một bến cảng đơn lẻ mà còn là một mạng lưới các bến bãi, giúp giảm lưu lượng tàu thuyền và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý. Các hiện vật được phát hiện, đặc biệt tại Cái Làng, cho thấy thương cảng đã từng là nơi trung chuyển hàng hóa phong phú, từ hương liệu, gốm sứ đến lâm thổ sản.
Hàng hóa tại Vân Đồn rất đa dạng, với những sản vật tự nhiên như hương liệu, sừng tê giác, ngà voi và vàng, ngọc trai, cùng đồ sứ nổi tiếng, được sản xuất tinh xảo thời Lý, không kém cạnh đồ sứ Trung Quốc. Đồ sứ triều Lý được ưa chuộng đến mức đã xuất khẩu sang tận Đông Ấn. Dưới thời Trần, đồ sứ tiếp tục phát triển với kiểu dáng khỏe khoắn, được cả thương nhân nước ngoài và vua chúa Trung Hoa yêu thích. Lụa và gấm vóc, dù không chiếm tỷ trọng lớn nhưng với chất lượng tinh tế và màu sắc rực rỡ, vẫn là mặt hàng được ưa chuộng tại thương cảng này.
Di tích Lịch sử Khu Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô ghi dấu sự kiện đặc biệt ngày 9/5/1961, khi Bác Hồ thăm đảo. Đây là nơi duy nhất trong cả nước được Người đồng ý dựng tượng khi còn sống, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của Bác với vùng biển đảo.
Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô
Xây dựng từ năm 1968 và được công nhận là Di tích quốc gia năm 1997, khu lưu niệm đã trải qua nhiều lần tu sửa, mở rộng nhưng vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và văn hóa. Ngày 18/1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận khu di tích là Di tích Quốc gia Đặc biệt.
Ngày nay, Khu lưu niệm không chỉ là điểm đến thu hút du khách mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và tinh thần vững chắc cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân huyện đảo, góp phần tôn vinh di sản văn hóa và lịch sử của dân tộc.
Chùa Ngọa Vân, hay còn gọi là chùa am Ngọa Vân, mang ý nghĩa là "ngôi chùa nằm trên mây" với độ cao hơn 500m so với mực nước biển. Từ đây, bạn có thể ngắm nhìn cảnh sắc tuyệt đẹp của những dãy núi trập trùng và những áng mây trắng lượn lờ vào mỗi sáng sớm. Tựa lưng vào đỉnh Ngọa Vân, nơi quanh năm được mây bao phủ, chùa không chỉ là một công trình lịch sử mà còn là một thánh địa Phật giáo Trúc Lâm, nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông từng tu hành.
Khu di tích gồm ba tầng với các di tích phong phú, từ những di tích dưới chân núi như rừng già Tàn Long đến những công trình trên sườn núi Bảo Đài. Đặc biệt, lớp thứ hai với kiến trúc hình chữ Nhị, được tôn tạo năm 2014, là nơi diễn ra nhiều lễ hội quan trọng. Ở tầng cao nhất, di tích Ngọa Vân nổi bật với vẻ đẹp huyền ảo, luôn được bao phủ bởi sương mù.
Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc, chùa Ngọa Vân còn sở hữu khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, với thảm thực vật đa dạng, nơi bạn có thể chiêm ngưỡng những loài cây cổ thụ và rừng trúc xanh mướt. Đây thực sự là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thiên nhiên và muốn khám phá vẻ đẹp của núi rừng.
Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều là một quần thể ấn tượng bao gồm 14 di tích với 22 điểm tham quan như đền, miếu, lăng tẩm, am tháp và chùa. Tất cả đều mang đậm dấu ấn lịch sử của triều đại Trần và Thiền phái Trúc Lâm. Nơi đây nổi bật với nhiều công trình văn hóa quy mô lớn, tiêu biểu như Thái Miếu, đền An Sinh, hệ thống lăng miếu nhà Trần, chùa Quỳnh Lâm và chùa Ngọa Vân, tạo nên những biểu tượng kiến trúc mang tầm quốc gia.
Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều Quảng Ninh
Được xếp hạng là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 9/12/2013, khu di tích không chỉ có giá trị kiến trúc mà còn là nơi lưu giữ nhiều di vật và cổ vật quý giá, phản ánh sâu sắc lịch sử, văn hóa và khoa học. Hơn thế, khu vực này còn duy trì nhiều hoạt động văn hóa dân gian độc đáo, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của vùng đất Đông Triều.
Khu di tích Yên Tử nổi tiếng với danh xưng "đất Phật linh thiêng", là một quần thể chùa chiền mang đậm lối kiến trúc truyền thống, thu hút du khách thập phương. Nằm trên núi Yên Tử hay còn gọi là núi Tượng Đầu, với độ cao 1.068 mét, khu vực này sở hữu hệ sinh thái phong phú và đa dạng.
Yên Tử không chỉ là nơi hội tụ các di tích lịch sử gắn liền với thiền phái Trúc Lâm mà còn là điểm đến tuyệt đẹp với cảnh quan núi non hùng vĩ và khí hậu trong lành. Nơi đây đặc biệt gắn liền với Phật hoàng Trần Nhân Tông, người sáng lập thiền phái và là vị vua đã hai lần dẫn dắt quân dân đánh bại quân Nguyên-Mông.
Khu di tích bao gồm các am, tháp, tượng và rừng cây cổ thụ, được tô điểm bởi các điểm cảnh quan kỳ vĩ như thác Ngự Dội, cổng Trời và đỉnh Yên Tử, nơi kiến trúc cổ truyền hòa quyện cùng thiên nhiên hùng vĩ. Được công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27/9/2012, Yên Tử đã trở thành một trong những điểm sáng của du lịch văn hóa và tâm linh tại Quảng Ninh.
Di tích Lịch sử Bạch Đằng tọa lạc tại Thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí, là chứng nhân lịch sử cho chiến thắng lẫy lừng của quân và dân nhà Trần trước quân xâm lược Nguyên Mông vào năm 1288. Nơi đây ghi dấu ấn sâu sắc của trận Bạch Đằng, một sự kiện trọng đại trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc.
Dẫu trải qua bao thăng trầm, những dấu tích của trận chiến vẫn còn hiện hữu, phản ánh tinh thần kiên cường của dân tộc. Di tích Bạch Đằng đã được công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg vào ngày 27/9/2012, khẳng định giá trị văn hóa và lịch sử của nơi này trong lòng người dân và du khách.
Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản - Kỳ quan Thiên nhiên Thế giới, là minh chứng cho quá trình hình thành và phát triển của trái đất, đồng thời là nơi cư trú của người Việt cổ. Vịnh Hạ Long là một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại của thiên nhiên, với hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng và nhiều hang động kỳ thú, tạo nên một thế giới vừa sống động vừa huyền bí.
Vịnh Hạ Long - Tác phẩm nghệ thuật của thiên nhiên
Được UNESCO công nhận hai lần với các giá trị nổi bật toàn cầu về thẩm mỹ vào năm 1994 và về địa chất-địa mạo vào năm 2000, Vịnh Hạ Long có diện tích 434 km² và sở hữu 775 hòn đảo đá vôi lớn nhỏ. Đây không chỉ là một di sản thiên nhiên mà còn là một biểu tượng văn hóa, được bảo tồn theo các quy định nghiêm ngặt. Gần đây, vào ngày 16/9/2023, quần thể Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới, khẳng định giá trị văn hóa và thiên nhiên đặc biệt của vùng đất này.
Núi Bài Thơ là một trong những ngọn núi cao nhất Hạ Long với độ cao 200 mét, nổi bật giữa thành phố nhờ cảnh sắc tuyệt đẹp. Một nửa ngọn núi nằm trên cạn, nửa còn lại vươn ra biển, tạo nên khung cảnh hùng vĩ. Từ đỉnh núi, du khách có thể thu trọn trong tầm mắt vẻ đẹp thơ mộng của vịnh Hạ Long, được công nhận là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới.
Núi Bài Thơ – điểm đến không thể bỏ qua khi tới Hạ Long
Từng mang tên núi Tròn, Bài Thơ còn lưu giữ những dấu ấn lịch sử với 9 bài thơ khắc trên đá, bao gồm tác phẩm của Lê Thánh Tông từ năm 1468. Những bài thơ này không chỉ là di sản văn hóa quý giá mà còn là linh hồn của núi, khiến nơi đây trở thành niềm tự hào của người dân Hạ Long.
Trên đỉnh núi, lá cờ đỏ sao vàng tung bay, ghi dấu sự kiên cường của người dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tấm bia đá khắc ghi những ký ức oai hùng của dân tộc cũng là điểm dừng chân không thể bỏ qua. Từ đây, du khách sẽ choáng ngợp trước bức tranh thiên nhiên hoàn mỹ, với làn nước trong xanh, núi non xanh mướt và những con tàu lướt sóng, tạo nên không gian yên bình và thư thái, giúp xua tan mọi lo âu.
Bài viết trên chia sẻ danh sách 27 di tích lịch sử ở Quảng Ninh dành cho bạn đọc tham khảo và có chuyến trải nghiệm thú vị. Mong rằng, thông tin sẽ hữu ích và giúp bạn có một chuyến khám phá ở Quảng Ninh thật tuyệt vời!
Quảng Ninh 1626 lượt xem
Ngày cập nhật : 04/11/2024
Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội khoảng 180 km, được mệnh danh là thiên đường du lịch miền Bắc. Với vị trí thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại và hệ thống giao thông phát triển, thành phố Hạ Long thu hút hàng chục triệu lượt khách du lịch trong và ngoài nước mỗi năm. Vịnh Hạ Long có diện tích 1.553 km vuông bao gồm 1.900 hòn đảo đá vôi lớn nhỏ với hình thù sinh động. Vịnh đã nhiều lần được UNESCO vinh danh là kỳ quan thiên nhiên thế giới và là điểm du lịch không thể bỏ qua. Thời tiết ở Hạ Long được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa hè - từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa đông - từ tháng 11 đến cuối tháng 4. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25ºC, khá lý tưởng cho các chuyến tham quan ngoài trời. Với thảm thực vật đa dạng và khí hậu thuận lợi, bạn có thể đi du lịch Vịnh Hạ Long vào bất kì thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, bạn nên tránh thời điểm mưa bão vào tháng 7 và tháng 8 để chuyến đi được trọn vẹn nhất. Về chi phí di chuyển từ Hà Nội đến thành phố Hạ Long hoặc TP. Hồ Chí Minh đến Hạ Long, bạn có thể tham khảo dưới đây: Về chi phí lưu trú, tùy từng khu vực bạn chọn mà mức giá phòng sẽ có sự chênh lệch nhất định. Giá phòng Hạ Long thường dao động từ 200.000 VNĐ/đêm đến 2.000.000 VNĐ/đêm. Chi phí ăn uống cũng phụ thuộc vào số lượng món ăn mà bạn đặt, và số lượng người ăn. Tuy nhiên, nhìn chung, chi phí cho mỗi bữa ăn không quá cao. Nếu bạn ăn hải sản trong nhà hàng, chi phí từ 150.000 - 500.000 VNĐ/ người. Chi phí tham quan vinh Hạ Long rơi vào khoảng 250.000 VNĐ - 2.000.000 VNĐ tùy thuộc vào hình thức tham quan bạn lựa chọn. Thông thường, những người có kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long tự túc, sẽ chọn tham quan vịnh bằng tàu thuyền với giá 250.000 VNĐ/ người. Có thể thấy, chi phí cho chuyến đi vịnh Hạ Long không cố định mà phụ thuộc vào lịch trình của cá nhân và nhu cầu vui chơi giải trí của từng du khách. Tuy nhiên, nếu bạn chọn du lịch tự túc thì chi phí phù hợp nhất để ăn uống, nghỉ ngơi và tham quan các địa danh trong khoảng 2 ngày sẽ rơi vào khoảng từ 3.000.000 VNĐ đến 5.000.000 VNĐ. Theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, có nhiều phương tiện di chuyển thuận tiện để tham quan mọi ngóc ngách của thành phố Hạ Long: Xe máy: Bạn có thể dễ dàng thuê xe máy để tự khám phá thành phố Hạ Long với giá cả hợp lý. Tuy nhiên, có nhiều du khách bạn nên hỏi trước giá thuê xe và ghi nhớ giờ trả xe để không bị “mất tiền oan”. Xe buýt: Hạ Long có hệ thống xe buýt kết nối các địa điểm du lịch nổi tiếng. Giá vé xe buýt trung bình ở thành phố Hạ Long khoảng 7.000 - 10.000 VNĐ/ chiều. Xe điện: Xe điện là phương tiện di chuyển khá phổ biến, đặc biệt là ở trung tâm và các điểm du lịch tại Hạ Long. Theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, giá vé xe điện khoảng 500.000 - 900.000 VND cho một chuyến. Bạn có thể sử dụng dịch này từ 7h đến 22h hàng ngày. Taxi: Đây là phương tiện di chuyển thuận tiện và phù hợp với hầu hết khách du lịch. Các địa điểm du lịch ở Vịnh Hạ Long không cách xa nhau nên chi phí đi lại bằng taxi không phải là vấn đề. Giá taxi ở Vịnh Hạ Long dao động từ 5.000 - 11.000 VNĐ/ km, tùy hãng xe và quãng đường di chuyển. Vịnh Hạ Long mang vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và nhiều hang động độc đáo. Vịnh còn được UNESCO công nhận là kỳ quan thiên nhiên thế giới và thu hút lượng lớn khách du lịch hàng năm. Khi đi vòng quanh vịnh, bạn có thể chiêm ngưỡng những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp như với những điểm đến tuyệt đẹp như hang Sửng Sốt, hòn Con Cóc, đảo Mắt Rồng, đảo Ti Tốp, đảo Ngọc Vừng,... Bãi biển Bãi Cháy là một bãi biển nhân tạo nằm cạnh vịnh Hạ Long. Đây là bãi biển đẹp nhất thành phố, với làn nước trong xanh, cát trắng mịn trải dài gần 1.000m. Theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, bạn có thể thỏa sức tắm biển, check in và trải nghiệm những trò chơi dưới nước. Nằm trên đảo Tuần Châu, khu du lịch Tuần Châu hấp dẫn du khách với không gian trang trí đẹp mắt và thơ mộng. Khi đến Tuần Châu, bạn nên tham gia buổi biểu diễn nhạc nước và vui chơi tại khu vui chơi ngoài trời hay công viên khủng long mới khai trương. Chèo thuyền Kayak nhàn nhã trên làn nước mát lạnh, ẩn mình sau dãy núi hang Luồng sẽ khiến bạn cảm thấy vô cùng thanh thản. Sau khi tham quan hang Luồng, bạn có thể đi bộ đến đảo Ti Tốp và ngắm hoàng hôn với bạn bè trên du thuyền. Bảo tàng Quảng Ninh được coi là mô hình thu nhỏ của tỉnh Quảng Ninh, nơi lưu giữ nét văn hóa và cuộc sống yên bình của người Hạ Long. Các bạn trẻ đi du lịch Quảng Ninh đều có những bức ảnh “để đời” tại điểm tham quan này.
Quảng Ninh 2135 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Đảo Tuần Châu là địa điểm du lịch nghỉ dưỡng siêu nổi tiếng tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh. Nằm cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng 2km, đảo có diện tích khoảng 400ha với nhiều cảnh quan, bãi biển, khu du lịch siêu đẹp cho du khách ghé thăm. Đảo Tuần Châu là địa điểm du lịch nghỉ dưỡng siêu nổi tiếng tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh. Nằm cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng 2km, đảo có diện tích khoảng 400ha với nhiều cảnh quan, bãi biển, khu du lịch siêu đẹp cho du khách ghé thăm. Đảo Tuần Châu là điểm du lịch biển tuyệt đẹp nên chắc chắn thời gian ghé thăm lý tưởng nhất sẽ là vào mùa hè rồi. Thời điểm từ tháng 3 đến tháng 10 sẽ là thời gian phù hợp nhất, lúc này trời thì trong xanh, nước biển xanh mát, bờ cát trắng cùng nắng vàng cực đẹp. Tuy nhiên bạn cần lưu ý là giai đoạn hè từ tháng 5 đến tháng 7 sẽ có nhiệt độ rất cao, có thể lên đến 40 độ C. Với những bạn có sức khoẻ yếu hay gia đình có trẻ con và người lớn tuổi nhớ cẩn thận. Du lịch mùa hè nhớ đừng quên mang theo các vật dụng tránh nắng cho mình nhé. Đến đảo Tuần Châu, bạn có thể tham gia các hoạt động như tắm biển. Tắm biển chắc chắn luôn là hoạt động đầu tiên khi đến khu vực đảo Tuần Châu. Với bãi biển nhân tạo siêu đẹp lên đến 5km, bãi cát trắng mịn, làn nước biển xanh mát thì biển Tuần Châu chắc chắn sẽ là liều thuốc tuyệt vời để quên đi những mệt mỏi thường ngày. Bạn có thể lao ngay xuống dòng nước biển mát lạnh kia, thỏa sức bơi lội tung tăng hay tham gia các hoạt động hấp dẫn. Ngoài ra bạn có thể tham gia chương trình nhạc nước Tuần Châu. Cung trình diễn nhạc nước đảo Tuần Châu là địa điểm biểu diễn nhiều chương trình nhạc nước kết hợp với ánh sáng cực kỳ hoành tráng. Nơi đây được thiết kế với kiến trúc rất đặc biệt lấy cảm hứng từ đầu trường La Mã. Diện tích Cung nhạc nước là 15ha với 12.000 chỗ ngồi. Các chương trình tại đây được đầu tư rất chuyên nghiệp, trung bình một buổi biểu diễn sẽ kéo dài khoảng 40 phút. Và còn nhiều hoạt động hấp dẫn khác.
Quảng Ninh 1874 lượt xem
Từ tháng 4 đến tháng 12
Cô Tô là một quần đảo gồm khoảng 50 đảo nằm ở phía đông của tỉnh Quảng Ninh với diện tích 46,2 km². Huyện đảo Cô Tô hiện có 1.500 hộ dân, với gần 6.000 nhân khẩu. Quần đảo Cô Tô có khoảng hơn 50 đảo, đá lớn nhỏ trong đó Cô Tô lớn và Cô Tô con là 2 đảo sở hữu những bãi biển đẹp nhất. Đây cũng là nơi có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Đến với Cô Tô bạn có thể ghé qua các điểm sau đây. Đầu tiên, Bãi đá Cầu Mỵ. Đây là nơi được mệnh danh là thiên đường của tình yêu và tuổi trẻ giữa sóng nước Cô Tô. Toàn bộ khu vực có hình giống đuôi chuột, hướng ra biển, nằm phía Nam của đảo Cô Tô Lớn. Cầu Mỵ với hệ thống đá trầm tích được bào mòn qua hàng vạn năm bởi nước biển tạo ra một kì quan duy nhất trong các đảo của Việt Nam Ngoài bãi đá, các điểm cao để bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh khu vực cảnh quan này chắc chắn sẽ khiến bạn có cảm giác đang ở Địa Trung Hải. Tiếp theo là Hải Đăng Cô Tô, thuộc quần đảo phía Đông của đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, nằm trên một ngọn núi cách thị trấn chừng 5km, là điểm cao nhất của đảo, được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX. Đường từ chân núi lên hải đăng quanh co dưới những tán lá rừng rậm rạp, những rặng hoa sim tím, gập ghềnh sỏi đá trên con đường mòn ít người qua lại. Hải đăng Cô Tô có tầm nhìn sáng 118m so với mực nước biển, từ đây phóng tầm mắt ra xa ta có thể thấy xa xa đằng kia là biển ca bao la mất hút phía dưới chân trời, phía dưới là núi rừng bờ bãi, làn nước trong xanh của hòn đảo ngọc Cô Tô, thu vào tầm mắt thị trấn biển đẹp như mơ, xen lẫn những rừng cây xanh mướt, êm đềm những mái nhà khiêm nhường và giản dị. Du khách đến Cô Tô không thể bỏ lỡ trải nghiệm độc đáo này. Tiếp đến, Nhà thờ đảo Cô Tô Lớn thuộc khu 4, Giáo Xứ Cẩm Phả, Hạt Hòn Gai, Giáo Phận Hải Phòng, khánh thành ngày 28/05/2013. Đây là nhà thờ đầu tiên trên đảo được xây dựng nhằm phục vụ những giáo dân trên đảo. Nhà thờ này được xây dựng dưới chân một quả đồi với chiều dài là 26,7 m và chiều rộng là 9,8 m. Tuy đây là một nhà thờ nhỏ nhưng là nhà thờ duy nhất trên đảo, là một trong những điểm tham quan mà du khách ghé qua khi đến du lịch Cô Tô. Bên cạnh có còn một số địa điểm tuyệt với khác như: Bãi biển Hồng Vàn, Bãi tắm Vàn Chảy, Đảo Thanh Lân, Đảo Cô Tô con. Cũng như các bãi biển của các điểm du lịch khác, ở đảo Cô Tô bạn có thể mua hải sản tươi sống ngay trong buổi sáng đi về. Các ngư dân trên đảo thường đem hải sản mới đánh bắt được đi bán ở bến tàu để tiện cho khách du lịch. Những người bán hàng cũng sẽ đóng thùng và ướp đá hải sản cho bạn để bạn có thể đem về nhà mà không lo hải sản bị hỏng. Ngoài ra, ở Cô Tô còn có rất nhiều mặt hàng lưu niệm ấn tượng được làm từ các con sò, vỏ trai, ốc, bạn hoàn toàn có thể chọn cho mình những vật dụng đó về làm quà.
Quảng Ninh 2117 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 10
Đảo Quan Lạn nằm trên vịnh Bái Tử Long, bao gồm xã Quan Lạn và xã Minh Châu thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Toàn đảo có diện tích 11km2, trải dài từ chân dãy núi Vân Đồn đến núi Gót với những dãy núi cao ở phía đông như bức tường thành vững chãi ngăn những cơn sóng để bảo vệ cho cư dân trên đảo. Các bạn có thể lựa chọn du lịch biển Quan Lạn vào mùa hè hoặc mùa thu đều được vì đây là thời điểm thời tiết mát mẻ, thuận lợi để các bạn có thể thỏa thích vui chơi và nghỉ dưỡng. Khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6 và từ tháng 9 đến tháng 11 được xem là khoảng thời gian đẹp nhất để đến với Quan Lạn. Bên cạnh đó bạn cũng nên lưu ý không nên đi vào tháng 7 và tháng 8 vì đây là khoảng thời gian hay xuất hiện mưa bão sẽ làm ảnh hưởng đến chuyến đi. Phương tiện di chuyển chủ yếu của khách du lịch khi tới đảo là xe tuk tuk. Mỗi chuyến xe chở được khoảng 8-10 người chạy vun vút trên những con đường nhỏ đến bãi tắm. Mức giá thông thường khoảng 100.000/chuyến. Bạn cũng có thể thuê xe đưa đón cả hành trình trong 2-3 ngày với mức giá khoảng 500.000đ Ngoài ra bạn cũng có thể thuê xe máy hoặc đi xe ôm để thăm thú đảo. Tuy nhiên giá xe ôm ở đây đắt gấp đôi so với đất liền bởi xăng dầu trên đảo phải chở từ đất liền ra nên các bạn cần phải cân nhắc kĩ. Đảo Quan Lạn thu hút khách du lịch với những bãi tắm đẹp cùng không gian trong lành, nước biển xanh mát và cực kỳ yên tĩnh chứ không xô bồ ồn ào như những bãi tắm khác. Quan Lạn có 3 bãi tắm bao gồm bãi Quan Lạn, bãi Minh Châu và bãi Sơn Hào. Tùy thuộc vào thời gian cũng như kinh phí ban đầu, các bạn có thể lựa chọn mang theo trại để cắm hoặc tìm hiểu về kinh nghiệm thuê khách sạn để tiết kiệm tối đa chi phí cho chuyến du lịch Quan Lạn của mình. Nếu thuê nhà nghỉ hay khách sạn thì tốt nhất các bạn nên đặt phòng trước để tránh tình trạng bị ép giá mùa cao điểm. Dịch vụ ăn uống ở Quan Lạn chưa được phát triển, vì vậy bạn nên đặt trước nếu không muốn bị đói. Ngoài ra nên đem theo đồ ăn sẵn cũng như nước bởi ở trên đảo không có nước ngọt. Một số loại hải sản ở Quan Lạn nổi tiếng là sá sùng, tu hài, ngao, cù kì, bề bài… là những món đặc sản mà bạn không thể bỏ qua khi tới đây.
Quảng Ninh 1852 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Bãi biển Trà Cổ là một trong những đường bờ biển đẹp nhất Quảng Ninh với chiều dài lên đến 15km. Bãi Trà Cổ nằm cách thành phố Móng Cái khoảng 8km và cách thành phố Hạ Long khoảng 200km. Trà Cổ nức tiếng với không gian thiên nhiên xinh đẹp, làn nước xanh mát cùng bờ cát vàng. Bãi biển Trà Cổ là một trong những đường bờ biển đẹp nhất Quảng Ninh với chiều dài lên đến 15km. Bãi Trà Cổ nằm cách thành phố Móng Cái khoảng 8km và cách thành phố Hạ Long khoảng 200km. Trà Cổ nức tiếng với không gian thiên nhiên xinh đẹp, làn nước xanh mát cùng bờ cát vàng. Du lịch biển thì chắc chắn chỉ có mùa hè là đỉnh nhất. Tại biển Trà Cổ thì thời gian lý tưởng nhất sẽ là từ tháng 4 đến tháng 7. Thời gian này bãi Trà Cổ sẽ mang đến cảnh quan siêu đẹp với làn nước trong vắt, sóng biển êm nhẹ, nặng không quá gắt nên rất phù hợp để tắm biển nha. Với các bạn muốn trải nghiệm các lễ hội tại bãi biển Trà Cổ thì nhớ đến đây vào tầm 25/5 đến 6/6 Âm lịch nhé. Lúc này nhiều hoạt động thú vị sẽ diễn ra như Lễ rước Thần, Lễ rước Thuyền, Lễ rước Ông Voi,... Ghé thăm biển Trà Cổ thì chắc hẳn điều đầu tiên mà ai cũng muốn làm chính là thả mình vào làn nước trong xanh của nơi đây. Bãi Trà Cổ gây ấn tượng sâu sắc với khung cảnh hoang sơ, làn nước biển xanh ngắt, sóng biển nhẹ nhàng êm dịu suốt mọi mùa khiến nhiều du khách nhìn là nhớ mãi. Dưới biển đã đẹp trên bờ lại càng tuyệt vời hơn, với bãi cát trắng mịn, nhiều rặng phi lao xanh mướt hay các dải muống biển xanh đã tạo nên một khung cảnh cực kỳ tuyệt vời. Vào thời gian sáng sớm hay xế chiều, biển Trà Cổ còn chiêu đãi du khách bằng khung cảnh bình minh và hoàng hơn siêu đẹp nữa. Thời điểm này, bạn sẽ thấy rõ biển Trà Cổ như đang khoác lên mình một lớp áo hoàn toàn mới vậy đó. Đặc biệt là khung cảnh hoàng hôn, vừa mang đến vẻ đẹp mê hôn vừa tạo ra cảm giác tiếc nuối khi chiêm ngưỡng. Bãi Đá Đen hay còn gọi bãi Ngọc Sơn, là một bãi biển nằm khá gần biển Trà Cổ. Đúng như tên gọi bãi Đá Đen sở hữu rất nhiều phiến đá màu đen với hình dáng đa dạng từ nhỏ cho đến lớn. Chúng nằm cạnh nhau trên bờ cát vào tạo thành một khung cảnh vừa bí ẩn lại vừa thu hút. Bên cạnh đó bãi Đá Đen còn có một bãi cát trắng mịn, làn nước xanh cùng khung cảnh hoang sơ tuyệt đẹp. Đến đây thì bạn sẽ còn tìm thấy các góc check-in siêu đẹp nữa nha.
Quảng Ninh 1825 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 7
Đến với du lịch Quảng Ninh không ai là không biết đến bờ biển Bãi Cháy là một bờ biển nhân tạo với nhiều cảnh đẹp vô cùng hấp dẫn, thu hút lượng khách du lịch rất đông đảo vào mùa du lịch biển. Để giúp bạn có một chuyến đi du lịch thỏa thích vui chơi và phù hợp với ngân sách của mình thì có lẽ bài viết dưới đây sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều. Là bãi biển rộng nhất thành phố Hạ Long, thu hút được mọi ánh nhìn của khách du lịch. Bờ biển nhân tạo nhưng trải dài hơn 1000m và rộng hơn 100m được thiên nhiên ban tặng một vẻ đẹp tuyệt vời với dòng nước trong xanh, bãi tắm sạch đẹp nên thu hút được đông đảo khách du lịch. Dọc theo bờ biển là một hàng thông kéo dài vô tận tạo ra không khí trong lành, bình an, thư giãn thoáng mát của gió biển kết hợp với cây xanh. Mọi khách du lịch trong và ngoài nước đến đây tham quan không chỉ tham quan, nghỉ ngơi thư giãn, tha hồ seofi, chụp ảnh, lướt web, đọc sách nằm trên bờ biển với dịch vụ wifi internet miễn phí mà còn được nghe truyền thuyết anh hùng chống giặc ngoại xâm của ông cha ta. Đặc điểm của bờ biển này là một dải đồi thấp chạy thẳng về xuống phía biển 2 bên bờ biển là những hàng cây thông cổ thụ và xem vào đó là những ngôi nhà biệt thự xinh xắn cùng dãy khách sạn Quảng Ninh nổi tiếng. Đến với nơi đây bắt đầu là một bãi biển trong xanh với một bờ cát trắng trải dài với hai bên là những hàng cây cổ thụ, những buổi hoàng hôn, bình minh thơ mộng, tạo nên cho du khách sự thoải mái, bình yên đến lạ thường. Ngoài ra tại đây còn phục vụ cho thuê xe đạp đi trên bờ biển, ô tô lướt sóng , thuê diều, các dịch vụ ăn uống đa dạng vô cùng độc đáo. Bên cạnh đó thì cầu Bãi Cháy cũng là một địa điểm du lịch mà du khách không thể bỏ qua khi tới đây. Là cây cầu có chiều dài 1106m nằm trên quốc lộ 18. Kết nối Hòn Gai và Bãi Cháy qua cửa sông Cửa Lục hai phần của Thành Phố Hạ Long. Cây cầu này cũng là biểu tượng cuả Quảng Ninh. Vào buổi tối, ban đêm cây cầu là chốn an yên của mọi gia đình đi bộ hóng gió trên cầu. Có lẽ lúc ấy sẽ xua tan đi mọi gánh nặng, lo âu của bộn bề cuộc sống để thả hồn mình vào những giây phút yên bình, sự khoan khoái thư giãn cùng với gió biển. Về tham quan du lịch Bãi Cháy không ai là không đi chợ đêm. Nơi chuyên bán, trưng bày những đồ lưu niệm, những quán đồ ăn hải sản nổi tiếng của nơi đây. Đặc biệt hơn đồ lưu niệm nơi đây đều tự tay người dân làm từ vỏ ốc, vỏ sò, chuông gió, những bức tranh vùng vịnh, và mĩ nghệ than đá – đặc sản của vùng. Chợ đêm bắt đầu họp lúc xế chiều, khi mặt trời tắt nắng mọi người bắt đầu trưng bày hàng hóa. Vì vậy có thể tắm biển xong đi ăn tối ở các quán ăn rồi chuẩn bị đi chợ đêm mua sắm đồ lưu niệm vui chơi là một ý kiến không tệ.
Quảng Ninh 1766 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Núi Yên Tử nằm ở khu vực ranh giới của tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Bắc Giang. Tổng chiều cao của núi Yên Tử là 1068m so với mực nước biển, thuộc dãy núi Đông Triều. Hệ sinh thái động thực vật trên núi Yên Tử vô cùng phát triển. Để đến với các địa điểm trên núi Yên Tử du khách có hai lựa chọn đó là đi bộ hoặc đi cáp treo. Núi Yên Tử còn được biết đến là một địa điểm du lịch tâm linh vô cùng nổi tiếng với hệ thống các di tích lâu đời. Đến đây, du khách không chỉ được khám phá thiên nhiên tươi đẹp mà còn được hòa mình vào một không gian linh thiêng. Giúp bạn giải tỏa được nhiều áp lực và căng thẳng trong cuộc sống thường ngày. Khí hậu tại núi Yên Tử có sự phân hóa theo màu khá rõ rệt. Thời gian từ khoảng tháng 4 đến tháng 6 là mùa hè tại đây, thời tiết trên núi khá mát mẻ, trời trong và không có mưa, rất thích hợp cho các hoạt động tham quan ngoài trời. Khi đến núi Yên Tử, bạn có thể thăm quan các địa điểm sau. Đầu tiên là Chùa Trình, Chùa Trình được xây dựng từ thời Hậu Lê và được đại trùng tu vào năm 1993 và năm 1999 để có được diện mạo như ngày hôm nay. Ngôi chùa này được xem là cửa ngõ trong hành trình khám phá núi Yên Tử của du khách. Tổng thể chùa Trình được xây dựng theo hình chữ nhất (一) bao gồm các công trình như: Tiền đường, Chính điện thờ Phật, Hữu vu thờ Thập Bát La Hán, Tả vu, nhà Tổ thờ Tam Tổ Trúc Lâm, Ban Trần Triều, Tam Vương và Tam Tòa Thánh Mẫu. Chùa Trình hiện nay còn lưu giữ nhiều pho tượng Phật bằng đồng và gỗ mít được chế tác tinh xảo. Tiếp đến là Chùa Đồng. Chùa Đồng trên đỉnh núi Yên Tử có độ cao 1068 mét so với mực nước biển. Đây chính là ngôi chùa được đúc bằng đồng có quy mô lớn nhất tại châu Á. Từ bên ngoài chùa Đồng nhìn xuống bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh sắc tuyệt vời núi non và mây trời Yên Tử. Chùa Đồng được đúc theo nguyên mẫu của chùa Dâu Keo, Bắc Ninh. Ngôi chùa có tổng diện tích khoảng 20 mét vuông và nặng 70 tấn. Chùa Đồng có bốn mái lợp ngói mũi hài, các đầu đao được trang trí họa tiết rồng thời Trần. Bên trong chùa Đồng là nơi đặt tượng thờ đức Phật Thích Ca và ba vị Tam Tổ Trúc Lâm ngự trên đài sen. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử là một trong những tu viện lớn nhất tại Việt Nam và là địa điểm bạn không nên bỏ qua khi đi du lịch núi Yên Tử. Đây là nơi Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia thành đạo và sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử hiện lên uy nghiêm giữa đất trời vùng Đông Bắc với cổng tam quan được xây dựng hai tầng và tám mái. Khuôn viên thiền viện được chia thành hai phần là nội viện và ngoại viện. Bao gồm các công trình như: Chính điện, Tổ đường, Lầu chuông, Lầu trống, Thiền đường, Trai đường, Thư viện, Nhà trưng bày, Nhà khách tăng, Nhà khách ni, Tháp Phật, Hồ Tĩnh Tâm… Và nhiều địa điểm khác bao gồm như: Am Ngọa Vân, Tượng An Kỳ Sinh, Tượng Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Cổng trời bia Phật,...
Quảng Ninh 2122 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Quảng Ninh được biết đến là một điểm đến sở hữu những kỳ quan thiên nhiên vô cùng xinh đẹp với những bãi biển cùng với các đảo và vùng vịnh tuyệt mỹ. Nhận ra tiềm năng phát triển du lịch nơi đây vô cùng mạnh mẽ, Tập đoàn Sun Group đã tiến hành đầu tư vào nơi đây một dự án mang tên Sun World Hạ Long Complex tại Quảng Ninh, nơi đây thu hút đông đảo khách du lịch ghé đến để tận hưởng và trải nghiệm. Đây là dự án Quần thể du lịch và giải trí được đầu tư một cách bài bản và chỉnh chu bởi Tập đoàn Sun Group – một Tập đoàn đi đầu trong lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng và khu vui chơi giải trí. Chính vì thế, Sun World Hạ Long Quảng Ninh chắc chắn sẽ là một điểm đến hứa hẹn đem đến nhiều điều thú vị cho du khách. Sun World Hạ Long Quảng Ninh là một quần thể khu vui chơi và giải trí mang chất lượng bậc nhất tại Hạ Long sở hữu quy mô vô cùng rộng lớn với diện tích lên đến 214 ha. Tổ hợp vui chơi tại đây sở hữu sự kết hợp hài hòa giữa hai khu vực là ven biển và và đỉnh Ba Đèo thông qua phương tiện kết nối là hệ thống cáp treo đẳng cấp. Với quy mô diện tích rộng lớn như vậy nên Sun World Hạ Long Quảng Ninh sở hữu riêng cho mình những khu vực vui chơi vô cùng chất lượng hội tụ tất cả những yếu tố vui chơi, nghỉ dưỡng, ăn uống, mua sắm như: Khu Công Viên Nước Lốc Xoáy, Khu Công Viên Rồng Dragon Park, tuyến cáp treo và khu đồi huyền bí cùng với đó khu vực về ẩm thực và mua sắm. Tổ hợp vui chơi đỉnh Ba Đèo và Tổ hợp vui chơi ven biển là sự kết hợp vô cùng độc đáo, chắc chắn sẽ đem lại những trải nghiệm trò chơi đa dạng và hấp dẫn cho du khách. Sun World Hạ Long Quảng Ninh có vị trí địa lý thuộc miền Bắc với thời tiết gồm 4 mùa là Xuân, Hạ, Thu và Đông. Mỗi mùa sẽ có một điều kiện khí hậu khác nhau nên để đến vui chơi tại Sun World Hạ Long Quảng Ninh thuận tiện nhất, du khách cần phải tìm hiểu trước những đặc điểm khí hậu của từng mùa sao cho phù hợp nhất. Thời điểm để vui chơi tại Sun World Hạ Long Quảng Ninh hợp lý nhất là từ tháng 3 cho đến tháng 11 bởi đây là khoảng thời gian không rơi vào mùa đông – một thời điểm có thời tiết khá lạnh và không phù hợp để hoạt động vui chơi ngoài trời. Đặc biệt, để nâng cao trải nghiệm vui chơi, du khách nên đến Sun World Hạ Long Quảng Ninh vào mùa hè để vừa được vui chơi những trò chơi trên cạn vừa được thả mình xuống làn nước tắm, xóa tan cái nóng oi bức của mùa hè. Tuy nhiên, để vui chơi tại Sun World Hạ Long Quảng Ninh trong khoảng thời gian này, du khách cần phải lưu ý một vài điểm sau: Từ tháng 5 đến tháng 7, khi đến vui chơi vào các ngày thứ 7 và chủ nhật, Sun World Hạ Long Quảng Ninh sẽ phụ thu thêm chi phí là 50.000 đồng một vé đối với một số loại vé như: Dragon Park, công viên nước và vé combo. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là khoảng thời gian rơi vào mùa đông nên khí trời sẽ bắt đầu chuyển lạnh, theo đó công viên nước sẽ ngừng phục vụ và đóng cửa, những khu vực trò chơi trên cạn thì vẫn hoạt động bình thường. Đến Sun World Hạ Long Quảng Ninh, du khách sẽ được trải nghiệm một cảm giác hoàn toàn khác biệt và độc lạ khi được trải nghiệm tại các khu vui chơi giải trí nơi đây bao gồm những trò chơi cảm giác mạnh đem đến sự kích thích cảm giác mới mẻ cho du khách cùng với đó là những trò chơi nhẹ nhàng phù hợp cho trẻ nhỏ và gia đình.
Quảng Ninh 1823 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Cùng với Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long là nơi có cảnh sắc kỳ vĩ, huyền ảo, đặc sắc với hệ thống đảo đá, hang động đa dạng, là tài nguyên phát triển du lịch biển, tuy nhiên việc khai thác du lịch tại vùng vịnh này vẫn chưa được chú trọng. Chính vì vậy, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai hàng loạt các sản phẩm du lịch mới, kết nối 2 vịnh biển, mở rộng không gian du lịch, đánh thức tiềm năng, phát huy xứng tầm giá trị Vịnh Bái Tử Long.Hàng ngàn đảo đá ở Vịnh Bái Tử Long được thiên nhiên phong hoá tạo ra một hình thái đặc biệt như một bức tranh thủy mặc được tạo ra từ biển và đảo. Trên các đảo đá của vịnh này cũng có các hang động nổi tiếng như cặp Kỳ Nhảy, cặp Kỳ Giã, Thẻ Vàng, cụm đảo Hòn Chồng, Hòn Vân Đồn, Hòn Ỏn, Hòn Ba Sao, núi Chân Nghĩa... Ngoài ra, trên Vịnh Bái Tử Long có nhiều đảo đất nên có dân cư sinh sống như Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng,...Không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, Vịnh Bái Tử Long còn là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới. Kết quả khảo sát cho thấy sự đa dạng về các loại động vật biển gồm 391 loài. Hầu hết các loại động vật biển ở đây đều là loài hải sản có giá trị kinh tế cao và mang ý nghĩa khoa học rất lớn.Những năm gần đây, dịch vụ du lịch vịnh Bái Tử Long ngày càng phát triển. Vịnh biển này làm say lòng biết bao du khách phương xa bởi: Vẻ đẹp huyền ảo của hàng trăm hòn đảo lớn - nhỏ: được kiến tạo từ hàng nghìn năm trước, mỗi hòn đảo đều có nét đẹp kỳ vĩ, cổ xưa, tạo nên một bức tranh thủy mặc hút hồn du khách. Ghé thăm vịnh, du khách sẽ được thỏa thích khám phá huyện đảo Vân Đồn và các cụm đảo Cặp Kỳ Giã, Cặp Kỳ Nhảy, Hòn Ba Sao, Hòn Chồng, đảo Quan Lạn, đảo Minh Châu hay động Mê Cung, động Thiên Cảnh, Hòn Con Cò, núi Bài Thơ,...; Sở hữu nhiều bãi biển đẹp nguyên sơ: vịnh đảo Bái Tử Long nổi tiếng với nhiều bãi biển đẹp nguyên sơ như bãi Minh Châu, bãi Con Cò, biển Cô Tô, bãi biển Vân Đồn, Quan Lạn,... Chắc chắn du khách ghé đến nơi đây sẽ choáng ngợp trước biển cả mênh mông cùng những bãi cát dài trắng mịn trải dọc bờ biển. Đến đây, du khách được thỏa thích đắm mình trong làn nước biển trong xanh và hít đầy lồng ngực bầu không khí mát lành; Cảnh đẹp thiên nhiên say đắm lòng người: cho dù là bình minh hay hoàng hôn, cảnh biển trên vịnh đều đẹp lung linh. Ở chốn thiên đường này, du khách sẽ có những bức hình tuyệt đẹp.Những hoạt động hấp dẫn khi du lịch vịnh Bái Tử Long Nơi đây có dịch vụ cho thuê du thuyền để du khách tham quan Bái Tử Long và cả những vịnh đảo xung quanh. Trên du thuyền, bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh sắc núi non, biển cả và tận hưởng những làn gió mát lành từ biển, xua đi cảm giác nóng nực, oi nồng của mùa hè. Du thuyền sẽ lướt qua những dãy núi đá vôi như hòn Gà Chọi, hòn Đỉnh Hương, hòn Mái Nhà,... Nơi đây có hàng ngàn hòn đảo đá vôi lớn nhỏ với hình thù khác nhau, mang lại những trải nghiệm khám phá thực sự mới lạ cho du khách. Làng chài Cống Đầm là một trong những địa điểm du lịch vịnh Bái Tử Long rất hấp dẫn du khách. Đến đây, bạn sẽ có những trải nghiệm tuyệt vời theo nhịp sống của ngư dân miền Bắc, cùng tìm hiểu những nét văn hóa truyền thống, nghe những truyền thuyết hấp dẫn về biển cả,...Tại đây, du khách còn có cơ hội đánh cá cùng ngư dân, tâm sự với người dân làng chài hoặc ngồi trên những chiếc thuyền nan xinh xắn để đi khám phá những ngôi nhà nhỏ xinh hay những dãy núi cao vút,... Để cảm nhận hết sự hùng vĩ của thiên nhiên khi du lịch vịnh Bái Tử Long, khám phá hết những vách núi dưới các hang động hoặc ngắm nhìn những đàn chim đậu trên vênh trên các mỏm đá,... thì du khách nên chèo thuyền kayak. Tuy nhiên, du khách lưu ý là khi chèo thuyền kayak thì chúng ta có thể sẽ bị ướt. Do đó, bạn nên mặc quần áo cộc hoặc đồ bơi để chèo thuyền cho thoải mái. Bên cạnh đó, việc chèo thuyền trên vịnh khá tốn sức nên nếu có sức khỏe dẻo dai thì bạn mới nên tham gia thử thách này nhé. Nếu là một người yêu thích thiên nhiên hoang dã thì trong chuyến du lịch vịnh Bái Tử Long, du khách nhất định phải ghé thăm vườn quốc gia Bái Tử Long. Đây là một khu bảo tồn sinh quyển cấp quốc gia, có hệ sinh thái động thực vật vô cùng phong phú. Tại đây, bạn sẽ có cơ hội được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ của những hòn đảo như Trà Ngọ Lớn, Ba Mùn, Sậu Nam, Đông Ma... hay những dãy núi đá vôi trùng điệp vây quanh các thung lũng, là môi trường sống của nhiều loài động thực vật.
Quảng Ninh 1113 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Không khí trong lành. Khu du lịch yên tĩnh như lọt thỏm giữa muôn ngàn rừng cây... là những cảm xúc đầu tiên khi du khách tới trải nghiệm Khu du lịch Thác Mơ (phường Đông Mai, TX Quảng Yên).Từ quốc lộ 18A trên tuyến đường Hà Nội - Hạ Long, đến địa phận phường Đông Mai, TX Quảng Yên, đối diện bưu điện Đông Mai rẽ vào khoảng 2km, du khách sẽ đến khu du lịch Thác Mơ. Từ địa điểm dừng chân khu du lịch sinh thái này, theo biển chỉ dẫn du khách sẽ bắt đầu hành trình khám phá Thác Mơ. Thác Mơ được hình thành từ con suối Mơ nằm trên địa phận phường Đông Mai, bắt nguồn từ dãy núi kéo dài từ Yên Tử đến Yên Lập, dài chừng 2.000m. Dòng suối Mơ nước trong vắt, chảy quanh co trong khu rừng thông Yên Lập bạt ngàn qua các độ cao khác nhau. Ở mỗi điểm địa hình phân bậc, dòng suối lại tạo ra một con thác. Trên tổng chiều dài khiêm tốn của mình suối Mơ đã tạo nên 3 con thác tuyệt đẹp đó là: Thác Hoa Sen, Thác Đôi và Thác Mơ. Đây sẽ là chốn nghỉ chân thư giãn tuyệt vời cho những du khách thích được đắm mình trong không gian yên tĩnh và trong lành của thiên nhiên hoang sơ. Trong hành trình chinh phục và khám phá Thác Mơ, du khách có thể đi theo đường đồi hoặc men theo suối. Điểm dừng chân đầu tiên của du khách đó là Thác Hoa Sen. Đây được đánh giá là thác đẹp nhất, địa điểm dòng Thác rộng rãi thoáng mát, nước mát và trong veo, du khách có thể ngồi trên những tảng đá nhẵn bóng và trơn tru, thả chân theo lực chảy của dòng nước để mát xa đôi bàn chân sau một chặng đường đi bộ. Với độ cao dòng Thác nước đổ xuống rất thích hợp cho những du khách ưa cảm giác mạnh, đặc biệt nếu có nhu cầu thả mình theo dòng nước để thư giãn. Sau ít phút nghỉ ngơi ở Thác Hoa Sen, du khách lại tiếp tục hành trình men theo bờ suối hoặc đường đồi, lên cao nữa, đó là Thác Đôi và điểm dừng chân cuối cùng là Thác Mơ. Hành trình theo đường mòn chừng 30 phút du khách sẽ đặt chân tới thác Mơ. Cảm giác chinh phục, được ngắm khung cảnh hùng vĩ và tắm mát dưới nguồn nước đầu nguồn trong vắt, nhìn tận đáy chắc hẳn đem lại cho du khách cảm giác thư giãn, quên hết mệt mỏi. Theo mùa, nguồn nước suối ở thác Mơ gần như không bao giờ cạn. Hiện nguồn nước suối trên khu vực suối Mơ rất dồi dào.Từ năm 2014, TX Quảng Yên đã giao cho Công ty TNHH MTV Ngọc Sơn quản lý và đưa vào tôn tạo sử dụng Khu du lịch sinh thái Thác Mơ. Qua quá trình đầu tư đến nay, nơi đây đã trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn cho người dân địa phương và du khách. Hiện, Khu du lịch sinh thái Thác Mơ đã được đầu tư thêm hệ thống bể bơi rộng 1000m2 sử dụng nguồn nước suối tự nhiên phục vụ nhu cầu bơi lội của người dân và du khách; khu nhà sàn, phòng nghỉ, dịch vụ ăn uống và khu cắm trại.Thác Mơ là khu du lịch sinh thái được nhiều gia đình, nhóm bạn lựa chọn đến vào cuối tuần hay nghỉ lễ để tận hưởng bầu không khí trong lành, hòa mình với thiên nhiên và làn nước trong xanh, mát mẻ. Tham quan khu rừng thông in dấu chân Bác Hồ khi đi du lịch Quảng Ninh: Khu rừng thông ở Thác Mơ là nơi Bác Hồ từng ghé thăm vào năm 1963. Không chỉ gắn liền với sự kiện lịch sử đặc biệt, nơi đây còn sở hữu phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và có vị trí đắc địa, thuận tiện cho việc di chuyển đến các địa điểm du lịch nổi tiếng khác của Quảng Ninh như: vịnh Hạ Long, Yên Tử, Uông Bí. Tắm suối tự nhiên và các bể bơi nhân tạo ở khu du lịch sinh thái Thác Mơ Quảng Ninh: Một hoạt động chắc chắn không thể bỏ qua khi đến Thác Mơ vào những ngày hè nóng bức đó chính là tắm suối tự nhiên. Tại đây, du khách có thể thả mình vào làn nước mát lạnh của các con suối tự nhiên hoặc thư giãn ở bể bơi nhân tạo 1.000m2 rộng lớn vô cùng sảng khoái. Giá vé đăng ký tắm ở bể bơi là 20.000 VNĐ/người. Tổ chức cắm trại, dã ngoại vui quên lối về tại Thác Mơ: Với một địa điểm du lịch Quảng Ninh sơn thủy hữu tình, thời tiết dễ chịu mát mẻ như thế này thì cắm trại hay tổ chức dã ngoại sẽ là một ý tưởng tuyệt vời. Nếu bạn đến Thác Mơ cùng với gia đình hoặc bạn bè của mình thì hãy thử tổ chức một bữa tiệc ăn uống ngoài trời và tận hưởng bầu không khí dễ chịu ở đây nhé! Ngoài ra, du khách cũng có thể thuê chòi ngồi với mức giá chỉ khoảng 50.000VNĐ. Câu cá, đi du thuyền trải nghiệm không gian sinh thái rộng lớn của Thác Mơ: Để tham gia các hoạt động giải trí hấp dẫn như câu cá, đi du thuyền ở Thác Mơ, du khách cần đến hồ Yên Lập. Hồ Yên Lập được bao bọc bởi hệ thống phòng hộ rừng núi bát ngát và nước trong hồ thì quanh năm trong vắt. Tham gia hoạt động đi thuyền hay câu cá ở hồ Yên Lập là một trải nghiệm rất mới mẻ và thú vị mà du khách không nên bỏ qua. Thưởng thức văn nghệ đặc sắc của người dân bản địa Thác Mơ: Vào những ngày lễ, ở Thác Mơ cũng thường xuyên diễn ra các buổi văn nghệ được biểu diễn bởi chính người dân bản địa. Đây là cơ hội tuyệt vời để du khách có thể tìm hiểu về văn hóa của người dân địa phương thông qua trang phục truyền thống, các điệu múa đặc trưng và những bài nhạc dân gian lâu đời.Đến với Thác Mơ, du khách sẽ có cơ hội trải nghiệm nhiều điều thú vị, các hoạt động hấp dẫn trong không gian tuyệt đẹp và không khí trong lành, dễ chịu.
Quảng Ninh 1420 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 09
Di tích Lịch sử Bạch Đằng nằm trên địa bàn Thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí. Đây là địa điểm ghi dấu sự kiện quân và dân nhà Trần đã lập nên chiến thắng lẫy lừng - Chiến thắng Bạch Đằng, đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông năm 1288. Trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta, sông Bạch Đằng đã ba lần chứng kiến quân và dân ta chiến thắng oanh liệt quân xâm lược phương Bắc hùng mạnh đều bằng các cây cọc gỗ cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Đó là chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền; năm 981 của Lê Hoàn và đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sông Bạch Đằng đã trở thành dòng sông lịch sử, cọc Bạch Đằng đã trở thành biểu tượng truyền thống đánh giặc ngoại xâm bằng đường thủy của dân tộc Việt Nam. Trải qua hơn 700 năm do phù xa của sông bồi đắp, bãi cọc nằm sâu dưới các lớp bùn đất, mãi đến năm 1953 nhân dân đi đào đất đắp đê đã phát hiện ra những cây cọc Bạch Đằng. Lúc đầu người dân chưa có kiến thức và ý thức bảo vệ di sản văn hóa rất nhiều cọc đã bị nhổ lên làm xà nhà, cọc rơm. Sau nhiều lần khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện hàng trăm chiếc cọc chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 đến 2,8 m, đường kính 20 đến 30 cm được cắm thẳng. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,9 m đến 1,5 m. Khu di tích bãi cọc Bạch Đằng (gồm bãi cọc Yên Giang, bãi cọc Đồng Vạn Muối, bãi cọc Đồng Má Ngựa). Di tích bãi cọc Yên Giang diện tích khoảng 3.000m2 nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120m, chiều rộng khoảng 20m. Bãi cọc Yên Giang được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2012. Sau đó, di tích được khoanh vùng bảo vệ, dựng bia giới thiệu, tôn tạo đường vào tạo điều kiện thuận lợi cho du khách tham quan. Đây cũng là địa chỉ để các em học sinh đến tìm hiểu lịch sử, phục vụ việc học tập. Hiện bãi cọc Yên Giang còn khoảng trên 300 cây nằm trong lòng đất. Ở khu di tích, bãi cọc được bơm nước đầy mặt ao để bảo tồn. Gần bãi cọc Yên Giang là bãi cọc đồng Vạn Muối diện tích khoảng 6.000m2 nằm ở cửa sông Rút, thuộc phường Nam Hòa được nhân dân Quảng Yên phát hiện trong quá trình canh tác, đào ao. Sau lần khảo sát và khai quật năm 2005. Các cuộc khai quật khảo cổ học sau đó tìm thấy tổng cộng gần 200 cọc, cho thấy những cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong khu vực đồng Vạn Muối thuộc nhiều loại gỗ được sử dụng cả thân và cành. Đường kính mỗi cọc từ 7 - 10 cm, phần được vạt nhọn chỉ khoảng 25 - 30 cm. Tuy nhiên, mật độ cọc ở đây được cắm rất dày, phổ biến cách nhau từ 40 - 60 cm, một số cọc chỉ cách nhau từ 10 - 30cm. Theo các nhà nghiên cứu, đây là nửa phía Nam của trận địa cọc Bạch Đằng, còn nửa phía Bắc là bãi cọc Yên Giang. Do giữa hai bãi cọc có một dải cồn đá cao, khi nước triều xuống thuyền không qua được buộc phải đi vào sát bờ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn vị trí cắm cọc ở hai bên cồn đá tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông Bạch Đằng để chặn đường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. Bãi cọc sau đó được vùi lấp dưới lớp bùn để được bảo quản tốt hơn. Cũng trong địa phận phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, bãi cọc đồng Má Ngựa diện tích khoảng 2.100m2 đã được phát hiện và tiến hành khảo sát, khai quật vào năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba thuộc bãi cọc Bạch Đằng nằm ở cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1 km về hướng Nam. Bãi cọc có chiều dài 70 m, rộng 30 m, cắm cọc thuộc nhiều loại gỗ có đường kính từ 6 - 22 cm dày đặc thành dải như một lớp tường thành. Ba bãi cọc Yên Giang, Đồng Vạn Muối và Đồng Má Ngựa đã làm thành những bãi chông ngầm lớn, phức tạp, kín đáo dưới mặt nước khóa chặt đường tháo lui ra biển, giúp tiêu diệt và bắt sống 600 chiến thuyền với 4 vạn binh tướng quân Nguyên – Mông trong lần thứ ba chúng xâm lược nước ta năm 1288. Ngày nay, khu di tích bãi cọc Bạch Đằng ở thị xã Quảng Yên đã được đắp bờ bao bảo vệ xung quanh. Một số cọc đã được lấy lên và những cọc còn lại được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ. Tuy nhiên, những cọc Bạch Đằng ở di tích này đa số phần đầu cọc nhô lên đã bị mục gẫy, phần thân cọc vẫn cắm dưới bùn đất nhưng đây lại là chứng tích vô cùng quan trọng của trận chiến lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là Di tích Quốc gia đặc biệt. Lễ hội Bạch Đằng diễn ra từ ngày 6-9/3 âm lịch với nhiều nghi lễ trang nghiêm và các hoạt động lễ hội phong phú, được tổ chức tại tất cả các điểm trong khu di tích. Nhằm tôn vinh giá trị ngày đại thắng của dân tộc ta và tưởng nhớ những người đã hy sinh trong các trận chiến Bạch Đằng. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh
Quảng Ninh 2242 lượt xem
Di tích lịch sử, khảo cổ học Hòn Hai Cô Tiên thuộc tổ 65, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long. Từ năm 2001 đến nay, Bảo tàng Quảng Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam khảo sát, khai quật và đã phát hiện nhiều di vật mang dấu ấn đặc trưng của giai đoạn muộn của văn hóa Hạ Long (Hậu kỳ đá mới) đến giai đoạn Văn hóa Đông Sơn (Thời đại Kim khí) có niên đại cách đây từ 4.000 năm đến 2.000 năm. Tại đây, các nhà khoa học đã khai quật được 91 hiện vật, 1.000 tiêu bản khoa học gồm công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, trang sức, tín ngưỡng... với các chất liệu gốm, xương, đá; một khu mộ táng với 46 di cốt người cổ, trong đó có những di cốt còn tương đối hoàn chỉnh. Các di cốt được chôn bó gối kèm theo đồ tùy táng. Bảo tàng Quảng Ninh còn thám sát 4 vị trí ở khu vực thung lũng và chân núi, đã thu được 294 hiện vật, trên 20.000 tiêu bản khoa học gồm các chất liệu đồng, đá, xương, gốm như: lưỡi câu, rìu, đục, đồ trang sức. Tại đây, các nhà khoa học đã phát hiện được nhiều mảnh khuôn đúc đồng của Văn hóa Đông Sơn cùng những mảnh xỉ đồng dùng để đúc rìu, mũi giáo, lao... Tại khu vực I, Bảo tàng Quảng Ninh còn phát hiện được một quần thể San hô hóa thạch có thể là thuộc kỷ Devon - Cacbon (cách ngày nay khoảng 400 triệu năm). Cùng với giá trị khảo cổ, Di tích Hòn Hai Cô Tiên còn có rừng nguyên sinh núi đá với nhiều loài linh trưởng quý, bò sát như khỉ lông vàng, kỳ nhông, tắc kè... và một hệ thực vật phong phú đặc hữu của rừng núi đá như chè dây, Phất Dụ núi, Phong lan Hạ Long, Hài vệ nữ hoa vàng, Thiên tuế Hạ Long... Việc công nhận di tích Hòn Hai Cô Tiên là Di tích quốc gia đã góp phần nâng cao giá trị văn hóa của Di sản thế giới Vịnh Hạ Long và vị trí lịch sử quan trọng của Quảng Ninh với nền văn hóa cổ Hạ Long, trong vùng Đông Bắc của Việt Nam. Đồng thời, di tích còn tạo ra một sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo ngay trong thành phố Hạ Long. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh 2119 lượt xem
Đền Cửa Ông (còn gọi là Đông Hải linh từ hay đền Đức Ông) nằm trên địa bàn phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đền thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. Qua sử sách ghi chép có thể khẳng định đền Cửa Ông được khởi dựng, tồn tại qua hơn 100 năm. Lúc khởi dựng, đền chỉ là một thảo am nhỏ làm bằng tranh, tre, lứa lá; năm 1907 – 1916, đền được trùng tu lại; năm 1916, xây thêm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, chùa; năm 1946, đền Hạ, đền Thượng tiếp tục được tu bổ, tôn tạo; năm 2014, quy hoạch tổng thể khu di tích Đền Cửa Ông được phê duyệt với diện tích 18,125 ha; đến năm 2016, đền Trung được xây dựng và hoàn thành vào năm 2017. Ngoài ra, còn có đền Cặp Tiên (nhân dân gọi là đền “Cô bé Cửa Suốt”) được tạo dựng vào thời Nguyễn. Đền Cửa Ông lúc đầu khởi dựng chỉ thờ Trần Quốc Tảng, sau khi xây thêm các khu đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, chùa Cẩm Sơn... cụ thể như sau: Khu vực đền Hạ: gồm đền Mẫu và đền Trung Thiên Long Mẫu Đền Mẫu: thờ tam tòa Thánh Mẫu (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải phủ), Ngọc hoàng thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tứ vị chầu bà, Ngũ vị tôn ông, ông Hoàng Mười, ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bẩy. Đền Trung Thiên Long Mẫu: thờ Trung Thiên Long Mẫu và phối thờ ba cô, cậu bé Cửa Suốt, cô bé Cửa Suốt (hai vị giống như Kim Đồng, Ngọc Nữ, tượng trưng cho âm và dương luôn theo hầu bảo hộ mẫu, bảo vệ vùng đất, vùng biển Cửa Suốt, bảo vệ ngôi đền mà Trung Thiên Long Mẫu tọa lạc). Hiện, đền Cửa Ông còn lưu giữ đạo sắc phong cho xã Cẩm Phả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên, phụng thờ Trung Thiên Long Mẫu tôn thần, ghi ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 (1917). Bia đá ở đền Hạ dựng vào năm Mậu Tý (1948). Khu vực đền Trung: thờ Khâm Sai Đông Đạo Tiết Chế Hoàng Cần, người có công dẹp giặc ngoại xâm phương Bắc, trấn giữ vùng biển Đông. Tại đây, còn thờ Sơn thần, Thủy thần vì đền Trung nằm trên dãy núi Cẩm Sơn, phía trước là biển Đông, người dân ở khu vực cửa biển cũng như thuyền bè qua lại đều cầu mong sự phù trợ, giúp sức của các vị Sơn thần, Thủy thần. Khu vực đền Thượng: gồm đền Thượng, đền Quan Châu, đền Quan Chánh, chùa và lăng mộ Trần Quốc Tảng. Đền Thượng: thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. * Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng (1252 - 1313) Ông là vị anh hùng dân tộc, con trai thứ 3 của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Hiện nay, một số sắc phong cho Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng vẫn còn được lưu giữ tại đền khẳng định công trạng của Ông, cũng như lịch sử hình thành, tồn tại của đền Cửa Ông. Ngoài thần tích, thần sắc, sắc phong ghi chép về Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, tại đền Cửa Ông còn lưu giữ được bia đá, biển gỗ, hoành phi, câu đối mà qua đó đã xác định được thần chủ chính của đền là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng. * Đồng thời, tại đền Thượng còn phối thờ các nhân vật lịch sử như: - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Đại Vương sau khi giúp nhà Trần đánh đuổi giặc Nguyên xâm lược, trừ đại họa cho dân tộc, được nhân dân sùng kính, sau khi mất trở thành Thượng Tiên Cửu Thiên Vũ Đế. - Tướng công Phạm Ngũ Lão; Dã Tượng; Yết Kiêu; Nguyễn Khoái; Huyền Du; Cao Mang; Đỗ Hành; Hưng Vũ vương Nghiễn, Hưng Trí vương Hiện, Hưng Hiến vương Uất; Trần Bình Trọng; Phạm Ngộ; Trần Thì Kiến; Trần Quang Triều; Trần Quốc Toản; Hà Đặc; Trương Hán Siêu; Lê Phụ Trần; Nguyễn Địa Lô; Trần Khánh Dư; Đỗ Khắc Chung; Vi Hùng Thắng; Nguyễn Chế Nghĩa; Thánh Mẫu Thiên Thành (Nguyên Từ Quốc Mẫu); Quyên Thanh công chúa (Vương Cô Đệ Nhất); Đại Hoàng công chúa; Thuận Thánh (Bảo từ Hoàng hậu) Đền Quan Chánh: thờ Quan Chánh, Quan Tuần Tranh và Quan Giám Sát. Đền Quan Châu: thờ Quan Tri Châu cai quản khu vực châu Cẩm Phả. Lăng Mộ: căn cứ vào thần tích, thần sắc làng Cẩm Phả, tổng Cẩm Phả, huyện Cẩm Phả, tỉnh Quảng Yên, chép vào năm 1938, thì lăng mộ Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng chỉ mang tính tượng trưng, là nơi thể hiện lòng thành kính của nhân dân đối với Ngài, cũng như của người con đối với người cha. Chùa: thờ Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu,Quan Âm Tống Tử, Tuệ Trung thượng sĩ, Đức Chúa Ông, Đức Thánh Hiền...như các ngôi chùa truyền thống khác của Việt Nam. Đền Cặp Tiên: thờ một vị tiểu thư - con gái của Trần Quốc Tảng (còn gọi là “Cô bé Cửa Suốt”), quan Chánh và các vị nhân thần, sau đó lại thờ thêm Phật, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tiên Thiên Thánh Mẫu. Các thần tích, thần sắc, sắc phong cho các vị thần còn được lưu giữ tại đền Cửa Ông trở thành kho tư liệu lịch sử quý giá cho các thế hệ con cháu tìm hiểu về quá trình dựng nước và giữ nước của triều Trần. Khu di tích đền Cửa Ông đã trải qua các cuộc chiến tranh và thăng trầm của lịch sử, nhưng vẫn bảo lưu được nhiều kiến trúc cổ kính (tường hồi hai bên ống muống và Hậu cung) và các pho tượng cổ có niên đại từ thế kỷ XIX. Với giá trị đặc biệt trên, Di tích lịch sử Đền Cửa Ông đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 25/12/2017. Nguồn: Cục di sản văn hoá
Quảng Ninh 2074 lượt xem
Trong lịch sử, Yên Tử luôn là một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước, gắn với nhiều kiến trúc cổ, được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (Lý, Trần, Lê, Nguyễn). Về địa lý, Yên Tử là dãy núi thấp, thuộc hệ thống cánh cung Đông Triều, một vùng địa chất được hình thành từ kỷ Đệ tứ, với các loại đá gốc, như sa thạch, sỏi kết sạn và phù sa cổ… Địa hình, địa chất phức tạp của khu vực đã kiến tạo nên các điểm cảnh quan kỳ vĩ, như thác Ngự Dội, thác Vàng, thác Bạc, cổng Trời, đường Tùng, rừng trúc, đỉnh núi Yên Tử…, nơi có những kiến trúc cổ truyền như hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ. Khu vực Yên Tử có tổng diện tích tự nhiên khoảng 2686 hétta, trong đó có 1736 hétta rừng tự nhiên, đặc trưng cho hệ sinh thái rừng Đông Bắc, nơi còn bảo tồn được nhiều nguồn gen động, thực vật quý hiếm... Xen kẽ với thiên nhiên là hệ thống chùa, am, tháp… Ven lối dẫn lên các chùa, am, tháp thường trồng rất nhiều tùng. Trong khu vực này hiện còn khoảng hơn 200 cây tùng đại thụ, thuộc 4 nhóm quý hiếm, được trồng cách đây khoảng 700 năm. Ngoài đường tùng cổ thụ, rừng trúc ở đây cũng nổi tiếng từ ngàn xưa... Trúc là sản phẩm độc đáo của Yên Tử, tượng trưng cho sức sống dẻo dai, vẻ đẹp thanh bạch và tao nhã của tạo hóa. Có lẽ, đó cũng chính là lý do mà Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây để tu hành và lấy tên "rừng Trúc", tức Trúc Lâm, để đặt tên cho dòng Thiền do ông sáng lập. Hội Yên Tử là lễ hội hành hương vào mùa xuân, bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng hằng năm và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân. Khu vực Yên Tử bao gồm một số địa điểm và kiến trúc Phật giáo chính như: 1. Chùa Bí Thượng xưa được khởi dựng từ thời Hậu Lê, trên mặt nền kiến trúc hình chữ Nhất, từng được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Thờ Thập bát La Hán. 2. Chùa Suối Tắm Được dựng dưới chân núi, sát bên bờ suối Tắm. 3. Chùa Cầm Thực Nằm về bên trái con đường vào Yên Tử. 4. Chùa Lân và Chùa Giải Oan đều được dựng từ thời Trần. 5. Cụm tháp Hòn Ngọc nằm trên một gò đất khá rộng, bằng phẳng, gồm ba tháp đá và một tháp gạch. 6. Vườn tháp Huệ Quang nay chỉ còn 64 ngọn tháp và mộ, trong đó có 40 tháp mới được trùng tu năm 2002, 11 tháp đá, 13 tháp gạch, một số ngôi tháp đã bị đổ chỉ còn lại dấu tích. 7. Chùa Hoa Yên được dựng từ thời Lý và được tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam. 8. Am Thiền Định xưa vốn là một ngôi tháp cổ đặc biệt ở Yên Tử, đứng đơn lẻ một mình, phía sau chùa Hoa Yên. Tháp xây bằng gạch đỏ tráng men xanh, bề mặt đúc nổi nhiều hoa văn và mặt thú lạ. 9. Chùa Một Mái nằm nép mình bên sườn núi cao. Một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài và chỉ có một mái. 10. Am Thung và Am Dược hiện nay chỉ còn là các phế tích. 11. Chùa Bảo Sái nằm trên sườn núi, quay hướng Tây Nam. 12. Chùa Vân Tiêu toạ lạc trên sườn núi. Hai bên chùa có 2 dãy núi cao, tạo thành thế tay ngai bao bọc lấy chùa. Bên phải chùa có một dòng suối. 13. Chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử, được đúc từ chất liệu đồng. Những giá trị lịch sử - văn hóa đặc biệt của khu di tích đã đưa Yên Tử trở thành một chốn thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Để khẳng định giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử là di tích quốc gia đặc biệt ngày 27/09/2012). Nguồn: Cục di sản văn hoá
Quảng Ninh 2068 lượt xem
Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều thuộc các xã An Sinh, Tràng An, Bình Khê, Thủy An. Hiện nay đây là khu di tích lưu giữ nhiều dấu ấn nhất của nhà Trần hiển hách. Năm Ất Dậu 1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Từ đây nhà Trần trị vì đất nước trong 175 năm, với 12 đời vua, đã tạo nên triều đại hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước ta. Triều Trần (1225 – 1400) với võ công, văn trị, đã mở ra kỷ nguyên hào hùng trong lịch sử dựng và giữ nước. Theo tư liệu, vùng Đông Triều chính là đất tụ cư đầu tiên của họ Trần. Sau đó, vùng đất này được vua Trần Thái Tông ban cho anh trai Trần Liễu làm ấp thang mộc. Đối mới mỗi triều đại khi trị vì đều quan tâm đến hai vấn đề, duyên trạch là vùng đất định đô, âm trạch là nơi đặt thái miếu lăng tẩm. Bên cạnh Thăng Long tiếp tục được lựa chọn làm kinh đô, thì nhà Trần cũng cho xây dựng và phát triển hai trung tâm văn hóa, hai khu sơn lăng ở phía đông và nam kinh thành. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định Đông Triều là trung tâm văn hóa tín ngưỡng lớn, cùng với Thăng Long – trung tâm chính trị, kinh tế và Thiên Trường Long Hưng, nơi phát tích của nhà Trần. Tên cổ của Đông Triều là An Sinh, đến đời vua Trần Dụ Tông mới đổi tên, và trở thành khu di tích lịch sử nhà Trần hiện nay. Đây là khu di tích quốc gia đặc biệt gồm lăng mộ, đền, chùa, am tháp với 14 di tích trải rộng. Đây là vùng thánh địa linh thiêng mang đậm tinh thần lịch sử, văn hoá là nơi quê gốc nhà Trần. Từ thế kỷ 13, nhà Trần cho xây dựng Thái Miếu, thờ tự Tam tổ thánh Trần, là điểm di tích quan trọng bậc nhất. Đến cuối thế kỷ 14, nhiều lăng mộ vua Trần mới được di chuyển về Đông Triều. Khu di tích lịch sử nhà Trần bao gồm 3 nhóm, nhóm di tích đình miếu, nhóm di tích lăng tẩm và nhóm di tích chùa tháp. Đền miếu và lăng tẩm gắn với tông miếu của nhà Trần. Cùng với việc xây dựng lăng mộ, triều Trần còn xây dựng đền miếu để thờ cúng các bậc tiền đế, chùa chiền cũng theo đó mọc lên không ít. Nhưng khi ấy Đông Triều chỉ đóng vai trò khu sơn lăng, chưa trở thành trung tâm Phật giáo của Đại Việt. Phải đến khi vua Trần Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử tu hành và sáng lập nên dòng thiền phái Trúc Lâm. Ông đã thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối. Vào thời kỳ này, Đông Triều trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các đời vua Trần đã cho xây dựng ở đây hệ thống đền miếu, lăng mộ, chùa tháp dày đặc trong vùng cảnh quan có diện tích rộng lớn trải dài lên tận sườn núi Yên Tử. Chùa Ngọa Vân Hồ Thiên là nơi Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông đăng đàn thuyết pháp, cũng là nơi gắn liền với sự nghiệp hoằng hóa Phật Giáo của nước Đại Việt, đào tạo những vị sư ở cấp độ cao hơn. Trên chùa Hồ Thiên còn có ngọn tháp đá 7 tầng mà đến nay kiến trúc của ngôi tháp vẫn là bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu, thu hút nhiều nhà nghiên cứu, người yêu thích lịch sử khắp nơi tìm đến tham quan, nghiên cứu. Chùa Quỳnh Lâm được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam, sở hữu tượng Phật một trong An Nam tứ đại khí. Vườn tháp trong chùa và tháp đá mộ các thiền sư có kiến trúc độc đáo, một di sản văn hoá tiêu biểu không chỉ của tỉnh Quảng Ninh mà là của cả Việt Nam. Trải qua thời gian, thiên tai hủy hoại, chiến tranh tàn phá, nhiều công trình xưa ở khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều chỉ còn là phế tích. Tuy vậy những phế tích đó trong lòng người dân vẫn còn vẹn nguyên giá trị. An Sinh xưa, Đông Triều nay là nơi các vua nhà Trần thể hiện tư tưởng lá rụng về cội của dân tộc Việt. Những thứ còn hiện hữu hay cả những thứ chỉ còn trong lòng đất vẫn là di sản vượt thời gian không chỉ mang giá trị lịch sử của vương triều vang danh mà còn là minh chứng cho 700 năm tồn tại của nền Phật giáo thuần Việt. Nguồn: Báo du lịch Quảng Ninh
Quảng Ninh 1996 lượt xem
Theo các nhà khoa học, vùng Hạ Long và vùng rìa bờ, đảo phụ cận của vịnh, bao gồm nhiều hệ tầng trầm tích lục nguyên và cacbonat, có tuổi từ nguyên đại Cổ sinh đến Tân sinh. Nhiều hệ tầng trầm tích ở khu vực này chứa đựng các vết tích cổ sinh vật dưới các dạng hoá thạch khác nhau, trong đó có những nhóm ngành động, thực vật đã tuyệt diệt hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn trên trái đất. Lịch sử địa chất Vịnh Hạ Long, được mở ra từ khoảng gần 500 triệu năm trước đây, với những hoàn cảnh cổ địa lý hết sức khác nhau và khá phức tạp. Sự hiện diện của vịnh và những hòn đảo trên vịnh là những minh chứng độc đáo về lịch sử phát triển của trái đất, bao gồm đặc điểm địa chất và quá trình vận động, phát triển liên tục của dạng địa hình Karst, hệ Fengcong và Fengling. Địa hình đặc biệt của vịnh Hạ Long có liên quan chặt chẽ tới lịch sử khí hậu và quá trình vận động kiến tạo của trái đất. Những hòn đảo ở đây là mẫu hình khá lý tưởng về Karst hình thành trong điều kiện nhiệt đới, ẩm. Toàn bộ khu vực Vịnh Hạ Long là một cảnh quan Karst qua nhiều triệu năm, với các tháp Karst hình chóp, hình tháp, bị bào mòn, tạo nên cảnh đẹp nổi bật, độc đáo toàn thế giới. Thạch nhũ trong hang động trong khu Vịnh có tuổi trẻ hơn các hang động. Nước mưa theo các khe nứt trên trần hang động và vách chảy xuống, trên đường đi chúng hoà tan, bào mòn đá vôi và lắng đọng thành nhũ đá ở trần, măng đá ở nền… Hàng ngàn hòn đảo, hàng chục hang động đẹp đã tạo nên giá trị thẩm mỹ của Vịnh. Vẻ đẹp của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: đá, nước và bầu trời. Hệ thống đảo đá ở Hạ Long muôn hình vạn trạng quyện với trời biển, tạo ra một bức tranh thủy mặc. Phía trong những đảo đá lớn lại hấp dẫn bởi những hang động đẹp đẽ, kỳ lạ. Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp, với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ. Động Thiên Cung như một đền đài hoành tráng, mỹ lệ. Hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung, với vô số nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu. Hang Sửng Sốt đẹp đến bất ngờ, với nhũ đá mang hình hài của gà rừng, cóc, rồng, thác nước, cùng với nhiều hình hài khác, như mở ra một thế giới cổ tích. Những hang động như Tam Cung, Trinh Nữ, Ba Hang, Tiên Long,… mỗi hang có những vẻ đẹp độc đáo, kỳ thú. Lịch sử kiến tạo của vịnh Hạ Long đã trải qua những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, nhiều lần tạo sơn, biển thoái, sụt chìm, biển tiến… Vịnh Hạ Long còn giữ lại được những dấu ấn của quá trình tạo sơn, địa máng vĩ đại của trái đất, có cấu tạo địa lũy, địa hào cổ. Khu vực Vịnh Hạ Long đã từng là biển sâu vào các kỷ Odovic - Silua (khoảng 500 - 410 triệu nẳm trước), là biển nông vào các kỷ Cacbon - Pecmi (khoảng 340 - 250 triệu năm trước), biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen, đầu Neogen (khoảng 26 - 20 triệu năm trước) và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh (khoảng 2 triệu năm trước). Vào kỷ Trias (240 - 195 triệu năm trước), khi trái đất nói chung, châu Âu nói riêng có khí hậu khô nóng, thì khu vực Vịnh Hạ Long là những đầm lầy ẩm ướt, với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ… Địa hình Karst của vịnh Hạ Long có ý nghĩa toàn cầu và có tính chất nền tảng cho khoa học địa mạo. Môi trường địa chất còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác của vịnh, như đa dạng sinh học, văn hóa khảo cổ và các giá trị nhân văn khác. Tổng số loài thực vật sống trên các đảo ở vịnh Hạ Long khoảng trên một nghìn loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau đã được tìm thấy, như các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở cửa hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên Thế giới (IUCN) đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ Long. Những loài này chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi của Vịnh Hạ Long, mà không nơi nào trên thế giới có được, đó là: thiên tuế Hạ Long, khổ cử đại tím, cọ Hạ Long, khổ cử đại nhung, móng tai Hạ Long, ngũ gia bì Hạ Long, hài vệ nữ hoa vàng. Theo thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới ở Hạ Long, Bái Tử Long có: 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20 loài thực vật ngập mặn; đối với động vật cũng đã thống kê được 4 loài lưỡng cư, 10 loài bò sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Những kết quả nghiên cứu, khảo cổ học và văn hóa học cho thấy, sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập được những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau, bao gồm văn hóa Soi Nhụ(trong khoảng 18.000 - 7.000 năm trước Công nguyên), văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 năm trước Công nguyên) và văn hóa Hạ Long (cách ngày nay khoảng từ 3.500 - 5.000 năm). Phương thức sống chủ yếu của chủ nhân Soi Nhụ là “bắt sò ốc, có cả hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây”, biết bắt cá mà chưa có nghề đánh cá. Di chỉ Cái Bèo là một trong những bằng chứng đầu tiên để có thể khẳng định, tổ tiên của người Việt cổ, từ rất sớm đã đương đầu với biển khơi và đã phát triển ở đây một nền văn hóa rực rỡ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hóa truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á: dòng văn hóa Cuội. Về phương thức cư trú và sinh sống của người Cái Bèo, ngoài săn bắt hái lượm, đã có thêm khai thác biển. Vịnh Hạ Long là khu vực có giá trị nổi bật toàn cầu, tiêu biểu nhất là các giá trị về thẩm mỹ, khoa học, lịch sử, khảo cổ... Năm 1962, khu vực vịnh Hạ Long được công nhận là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Năm 1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới về giá trị thẩm mỹ và được tái công nhận lần thứ 2, với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất - địa mạo vào năm 2000. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của vịnh, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009). Nguồn: Cục di sản văn hoá
Quảng Ninh 1908 lượt xem
Quần thể di tích lịch sử danh lam thắng cảnh Núi Mằn thuộc thôn Đá Trắng, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, có diện tích 150 hét ta (bao gồm toàn bộ Núi Mằn, đền Bạch Thạch; các miếu: Thánh Mẫu, Ông Lang, Ông Dài, Ông Cộc; đình Xích Thổ; và di chỉ thành nhà Mạc). Núi Mằn có tên trong thư tịch cổ là “Bân Sơn" nghĩa là ngọn núi đẹp, hoàn thiện từ trong ra ngoài. Vì núi có dòng sông Mân chảy qua nên người dân địa phương thường gọi núi Bân là núi Mân (từ “Mằn” là đọc chệch của từ “Mân”). Theo ghi chép của Đồng Khánh dư địa chí (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn năm 1886-1888), Hoành Bồ thời bấy giờ có nhiều núi đá đẹp như núi Bân (núi Mằn), núi Truyền Đăng, núi Hạp, núi Phượng Các… Tuy nhiên, chỉ có hai ngọn núi nổi tiếng được xếp hạng vào danh lam thắng tích thời Đồng Khánh là núi Mằn và núi Truyền Đăng (Núi Bài Thơ ngày nay). Núi Mằn nằm giữa hai nhánh suối Đá Trắng (Bạch Thạch Khe) và suối Lưỡng Kỳ (khe Bân) đổ ra sông Đá Trắng. Nằm trên độ cao gần 300m so với mực nước biển, hình dáng của ngọn núi khiến ta liên tưởng đến con voi ở trong thế quỳ phục, vòi chúc xuống khe Bân. Hệ thống các tảng đá tự nhiên, lớn, nhưng tương đối đồng đều bao quanh núi Mằn như vành mũ. Điểm xuyết giữa màu trắng xanh của những phiến đá là màu xanh của lá, màu đỏ vàng của các loài hoa cùng hệ thực vật bốn mùa tươi tốt ở xung quanh. Lưng chừng núi với vách đá cheo leo và hiểm trở còn có các hang động với những thớ đá, nhũ đá mịn màng, rực rỡ sắc màu, tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu, huyền bí. Từ trên đỉnh núi Mằn nhìn xuống, phía Đông và phía Tây ngọn núi có dòng sông Bân và sông Đá Trắng chảy lượn bao quanh, nước trong xanh như mắt ngọc, tạo thành bức tranh sơn thuỷ đầy mê hoặc. Không chỉ là danh thắng đẹp, có cảnh sắc hữu tình với câu sấm trạng nổi tiếng lưu truyền đến tận ngày nay “Mằn sơn án hải, vạn đại Đế Vương”, ngọn núi nổi tiếng từ thời Đồng Khánh còn chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hoá. Theo lời người dân địa phương kể lại, từ ngàn xưa, nhân dân trong vùng thường coi núi Mằn và núi Bài Thơ là hai cặp núi song sinh với nhiều truyền thuyết hấp dẫn, ly kỳ. Trong đó, núi Mằn gắn liền với truyền thuyết “Ông khổng lồ gánh đá vá trời”. Tương truyền rằng, mỗi bước chân ông đi qua đều gắn liền với một số địa danh lưu truyền đến ngày nay. Đặc biệt, khi ông trở vai, đôi gánh gãy làm đôi, một bên gánh rơi xuống TP Hạ Long là núi Bài Thơ, một bên rơi xuống địa phận Xích Thổ (huyện Hoành Bồ cũ) chính là núi Mằn ngày nay. Di tích núi Mằn còn gắn liền với các sự tích lịch sử về Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương và các truyền thuyết liên quan đến hệ thống đình, miếu nằm rải rác trên địa phận xã Thống Nhất và phường Hoành Bồ như: Miếu Ông Cộc, miếu Ông Lang, miếu Ông Dài, đình Xích Thổ... Để thờ thần núi Mằn (Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương) và Long Hải sơn thần (vị thần cả cai quản vùng sông nước), nhân dân trong vùng đã xây dựng đền Bạch Trạch ngay dưới chân núi. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đến nay đền không còn thờ Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương và Long Hải sơn thần, mà xây dựng thêm am thờ Phật và thờ Mẫu Thượng Ngàn, Tam toà Thánh Mẫu. Đền có khuôn viên gần 1.000m2, bao gồm các công trình: Phủ Bà Chúa Đá trắng, am Thờ Phật, nơi thờ Sơn Thần và Cung bà Chúa Bản thổ. Hầu hết các công trình được xây gạch, trát vữa, mái lợp ngói tây và nền lát gạch hoa. Bên cạnh các giá trị về cảnh quan, tâm linh, quần thể khu di tích núi Mằn còn có giá trị to lớn về lịch sử. Theo nghiên cứu của các nhà sử học thì núi Mằn còn từng là đại bản doanh của quân đội nhà Lý trong cuộc kháng Tống thế kỷ XI. Trong hai lần kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông (1285, 1288), núi Mằn được Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chọn làm đại bản doanh dự bị chiến lược của đạo thủy binh nhà Trần. Sau chiến thắng trận Bạch Đằng năm 1288, vua Trần Thánh Tông đã chỉ huy quân đội nhà Trần vượt biển tiến vào vịnh Cửa Lục, đóng quân tại núi Mằn rồi từ đó tiến lên chặn đánh và truy kích quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy trên đường rút chạy về nước qua đường Đình Lập – Lạng Sơn… Với vẻ đẹp hữu tình tạo hoá đã ban tặng cùng với hệ thống đền, miếu gắn liền với nhiều truyền thuyết lịch sử, quần thể di tích lịch sử - danh thắng núi Mằn đã được Bộ Văn Hoá, Thông Tin và Du Lịch quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia ngày 08/7/2014. Nguồn: Báo du lịch Hạ Long Quảng Ninh
Quảng Ninh 1827 lượt xem
Cụm di tích chùa Lôi Âm - hồ Yên Lập từ lâu đã được đông đảo du khách thập phương biết đến là chốn sơn thuỷ hữu tình của Hạ Long. Với những giá trị về văn hoá, lịch sử, khoa học, nghệ thuật và thắng cảnh, mang đậm dấu ấn các thời đại, ngày 23/11/1997, chùa Lôi Âm - hồ Yên Lập đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng là di tích cấp Quốc gia. Còn với nhiều người dân của TP Hạ Long, nơi đây đã trở thành địa điểm hành hương không thể thiếu mỗi dịp du Xuân. Cụm di tích này nằm bên phải quốc lộ 18A (hướng đi từ TP Hạ Long đi Hà Nội) thuộc địa phận phường Đại Yên, thành phố Hạ Long. Qua nghiên cứu các sử liệu cho thấy chùa Lôi Âm được xây vào năm Quang Thuận thời Lê Thánh Tông và ngày khánh thành có thể trùng hợp với thời điểm vua Lê đi tuần thủ An Bang, khắc bài thơ trên núi Bài Thơ (1468). Hồ Yên Lập là công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Quảng Ninh, trải qua hơn 30 năm đi vào khai thác, sử dụng, đến nay hồ Yên Lập vẫn đang phát huy hiệu quả, không chỉ góp phần giảm hạn hán, lũ lụt mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hạ Long, thành phố Uông Bí và thị xã Quảng Yên. Nhìn từ trên cao, hồ Yên Lập hiện ra với màu xanh êm dịu, xung quanh hồ là những ngọn núi nhấp nhô, giữa hồ nổi lên các đảo nhỏ tạo nên vẻ tự nhiên, quyến rũ lòng người. Cụm di tích lịch sử danh thắng chùa Lôi Âm – hồ Yên Lập đã tạo nên cảnh quan thơ mộng, vốn đã nổi tiếng từ xưa, đến nay lại càng nổi tiếng để thu hút khách tham quan trong khắp mọi miền đất nước. Chùa Lôi Âm nằm trong một khu vực hình bán nguyệt, kéo dài từ trên đỉnh xuống lưng chừng núi. Phía trước mặt là hồ nước, theo thế "tựa sơn, hướng thủy" mà từ xưa cha ông đã từng ví "long chầu hổ phục, bên tả che, bên hữu đỡ, có non thiêng hội tụ, có huyền vũ trùng trùng". Chùa Lôi Âm ở độ cao 395m so với mặt biển, được xây dựng theo hướng Đông Nam là hướng của trí tuệ, hướng của tâm linh. Các dấu tích còn để lại hiện nay thì chùa Lôi Âm được xây theo kết cấu kiến trúc kiểu "nội công ngoại quốc", một điển hình của kiến trúc thời Lê. Từ chân núi Lôi Âm lên tới cửa chùa theo con đường Chúa Ngự, với độ dài khoảng 850m và chiều rộng trung bình là 2,5m. Hai bên chùa có suối giải oan tách làm 2 nhánh, khi qua chùa được nhập lại thành dòng. Suối có nước chảy quanh năm, bắt nguồn từ đỉnh núi đổ xuống hồ Yên Lập. Hàng muỗm cổ thụ trồng phía trước và xung quanh chùa là biểu tượng của sự thanh cao, trường tồn. Ngoài ra, chùa còn phong phú với hàng đa, hàng thau hay những hàng trâm, tạo nên sự linh thiêng nơi chốn cửa thiền mà cũng rất gần gũi với cuộc đời trần tục. Các triều vua phong kiến Việt Nam thường lui tới đây du ngoạn và ca ngợi. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tất cả chùa chiền, đền, miếu đều bị đập phá một cách nghiêm trọng. Riêng tiền đường phía tay phải vẫn còn bức tường cao 1,5m, dày 30cm, xây toàn bộ bằng gạch đỏ. Phía hậu cung của khu tam bảo còn giữ lại bức tường cao 1,2m, độ dày 20cm. Bên cạnh chùa phía tay phải là vườn tháp làm bằng đá xanh thớ mịn, với kỹ thuật ghép mộng chắc chắn. Còn lại nguyên vẹn tháp tổ 3 tầng, phía trên được ghi rõ hàng chữ "Phổ Minh tháp". Đỉnh tháp tạc 1 đài sem ôm lấy bình nước Cam Lộ, thu nhỏ dần lên phía đầu, tỏa mãi trong không trung, tạo cho du khách cảm giác như được siêu thoát trước cửa thiền tâm. Trước cửa chùa còn đặt một cây hương đá xây hình tứ trụ. Trên mái hương nơi các đầu đao thể hiện hình vân xoắn, trong một chừng mực nào có, nó tượng trưng cho niềm mong ước "mưa thuận gió hòa". Cũng nằm phía trước chùa về phía tay trái là hàng bia đá cổ gồm 5 chiếc nguyên vẹn. Trong mỗi mùa lễ hội, nhân dân và du khách vượt qua lòng hồ Yên Lập lên đến chùa Lôi Âm. Cảm nhận về cái đẹp ở đây là phải lướt trên con thuyền để thưởng ngoạn sự thơ mộng, không khí trong lành. Mặt hồ Yên Lập không có sóng xô cuồn cuộn của biển cả, không có những hang động thiên tạo như Vịnh Hạ Long... Nhưng đến với hồ Yên Lập là tìm đến với sự thanh thản của một phong cảnh dịu hiền, mặt nước gợn sóng trong làn gió nhẹ có thể nhìn suốt tới đáy, các đảo nổi trên hồ là những điểm nghỉ chân thú vị. Cụm di tích lịch sử và danh thắng Chùa Lôi Âm - Hồ Yên Lập đã mang đậm dấu ấn các thời đại với nhiều giá trị trong lịch sử, khoa học, nghệ thuật và danh thắng. Qua nghiên cứu, khảo sát những di vật của chùa Lôi Âm ta có thể khẳng định: chùa Lôi Âm là một kho tàng nghệ thuật văn hóa vô giá. Ngoài giá trị khoa học, nghệ thuật văn hóa, chùa Lôi Âm còn chứa đựng những giá trị lịch sử đấu tranh của dân tộc. Nằm nơi địa thế sơn lâm kín đáo, năm 1946 Trung đoàn 98 đã đóng quân tại đây, do đồng chí Vũ Mạnh Hùng làm Trung đội trưởng, lấy ngôi chùa làm đài quan sát, đơn vị đã kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lên nhiều chiến công, đập tan mọi âm mưu phá hoại của địch. Giờ đây, chùa Lôi Âm là một danh thắng hài hòa trong cảnh "sơn thuỷ hữu tình". Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thành Phố Hạ Long
Quảng Ninh 1803 lượt xem
Núi Bài Thơ nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long. Ba mặt núi là những khu dân cư đông đúc, phía tây và phía nam núi kề bên Vịnh Hạ Long xinh đẹp. Núi Bài Thơ là nơi ghi lại dấu ấn lịch sử, là biểu tượng của thành phố Hạ Long, nơi quần tụ của nhiều di tích nổi tiếng như: chùa Long Tiên, đền Đức Ông, Trung tâm điện chính Bưu điện Quảng Ninh; Trận địa 12 ly 7; Hang thị đội Hồng Gai; Các hang phòng không sơ tán (từ hang số 1 đến hang số 6). Là nơi quần tụ của các điểm di tích thuộc nhiều loại hình như lịch sử, danh lam thắng cảnh, núi Bài Thơ mang nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ (được Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng công nhận là Di tích lịch sử, thắng cảnh ngày 31/8/1992 (Bổ sung khu di tích thắng cảnh vịnh Hạ Long ) đã trở thành điểm đến thú vị cho những nhà lịch sử, các thi sỹ, nhiếp ảnh gia, nhân dân và khách du lịch gần xa. Từ đỉnh núi Bài Thơ ta có thể nhìn ra bao quát toàn cảnh Vịnh Hạ Long. Núi Bài Thơ như một tượng đài sống ghi lại những dấu ấn lịch sử quan trọng của nhiều thời đại. Hàng trăm năm trước, khi còn mang tên là núi Rọi Đèn (tên chữ là Truyền Đăng Sơn). Theo truyền thuyết dân gian ở địa phương kể rằng: núi Truyền Đăng là ngọn núi cao nhất ở vùng biển Cửa Lục, án ngữ trên con đường hàng hải cổ đại từ phía Bắc vào nội địa nước ta. Các triều đại phong kiến đều lấy núi Truyền Đăng đặt làm vọng gác tiêu biểu ở vùng biển ải Đông Bắc. Hàng đêm, lính đồn trú treo ngọn đèn nồng trên đỉnh núi báo hiệu tình hình phía Đông Bắc vẫn yên tĩnh. Nhưng khi có giặc dã, người lính bèn đốt củi cho ngọn khói bốc cao báo động về đất liền. Từ việc treo đèn đốt lửa của lính đồn trú trên đỉnh núi, nên núi có tên là Dọi Đèn, tên chữ là Truyền Đăng. Năm 1468, vua Lê Thánh Tông dẫn quân đi tuần vùng biển An Bang và đóng quân dưới núi Truyền Đăng. Xúc động trước vẻ đẹp thần tiên của mây trời non nước Hạ Long, nhà vua đã làm một bài thơ và cho khắc vào phía Nam của vách núi đá và từ đó núi có tên Bài Thơ. Hai trăm sáu mươi mốt năm sau (1729), chúa Trịnh Cương đã làm một bài thơ họa lại bài thơ của vua Lê Thánh Tông và cho khắc vào gần đấy... Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (năm 1968) núi Bài Thơ còn là vọng gác phòng không canh giữ biển trời vùng mỏ, là hang cứu thương, phục vụ chiến đấu và là nơi đặt trung tâm điện tín của Bưu điện tỉnh Quảng Ninh…. Đặc biệt sự kiện cắm cờ Đảng đầu tiên trên núi Bài Thơ mang một ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn. Sáng 01/5/1930, lá cờ Đảng phấp phới bay trên núi Bài Thơ đã đánh một dấu mốc quan trọng trong tiến trình cách mạng ở khu mỏ, nó thúc giục công nhân và lao động khu mỏ bước lên trường tranh đấu, đạp đổ ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân và bây giờ ngọn cờ đó vẫn tung bay phất phới trên ngọn núi Bài Thơ, là biểu tượng của thành phố Hạ Long - vùng đất mỏ anh hùng. Cũng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ núi Bài Thơ còn góp phần tạo nên một sự kiện lịch sử quan trọng. Lịch sử còn ghi lại: Dân quân tự vệ phường Bạch Đằng ở ngay trung tâm thành phố Hòn Gai (thành phố Hạ Long bây giờ), dưới chân núi Bài Thơ đã thành lập một khẩu đội 12 ly 7 và đưa lên trực chiến ngay trên núi Bài Thơ. Khẩu đội này là một trận địa phòng không bám trụ và chiến đấu trong điều kiện hết sức gian khổ và góp phần tích cực vào thắng lợi chung của quân dân vùng mỏ Quảng Ninh. Với một vai trò khác, vào những năm 1964 -1975, tại các hang ở sườn núi phía Đông của núi Bài Thơ, Trung tâm điện chính Bưu Điện Quảng Ninh đã chọn làm nơi sơ tán nhà cơ vụ và đặt một trạm viba để phát sóng truyền đi những thông tin quan trọng, nhờ đó không những đảm bảo được thông tin liên lạc thông suốt mà còn góp phần đánh trả lại máy bay Mỹ, bảo vệ trạm phát sóng an toàn. Núi Bài Thơ nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh Quảng Ninh từ thời kỳ Phong kiến đến các thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ nếu được đầu tư tôn tạo, kết hợp với các điểm di tích như Trận địa 37ly của Xí nghiệp tuyển than Hòn Gai (thành phố Hạ Long), Trung tâm chiến khu Đông Triều (chùa Bắc Mã) (huyện Đông Triều); Khu căn cứ cách mạng Sơn Dương, khu căn cứ kháng chiến chống Pháp Bằng Cả (huyện Hoành Bồ) cùng các di tích lịch sử cách mạng của các huyện Vân Đồn, Tiên Yên, Ba Chẽ, thành phố Móng Cái sẽ trở thành tour du lịch thăm chiến trường xưa hấp dẫn của tỉnh Quảng Ninh. Nguồn: Cổng thông tin điện tử văn hoá thể thao Quảng Ninh
Quảng Ninh 1761 lượt xem
Trận địa pháo cao xạ 37 ly của Xí nghiệp Tuyển than Hòn Gai là di tích lịch sử đã được xếp hạng cấp quốc gia năm 1997. Nơi đây, vào thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, các chiến sĩ tự vệ của Xí nghiệp Bến Hòn Gai (nay là Công ty Tuyển than Hòn Gai) đã lập nên những chiến công xuất sắc, bắn rơi máy bay Mỹ. Di tích trận địa pháo 37 ly của Xí nghiệp Tuyển than Hòn Gai nằm trên đồi cao 102m so với mặt nước biển. Từ đây có thể bao quát được nhiều vị trí của Thị Xã Hòn Gai (nay là TP Hạ Long) như bến phà, cảng Hòn Gai và các khu dân cư xung quanh. Năm 1960, đơn vị tự vệ của Bến Hòn Gai được thành lập. Trận đánh đầu tiên của đơn vị chính là ngày 5-8-1964, khi máy bay Mỹ lao vào bắn phá Quân cảng Hải quân ta ở Bãi Cháy, các chiến sĩ tự vệ Bến Hòn Gai đã chiến đấu anh dũng, cùng với các lực lượng phòng không, hải quân và tự vệ của các đơn vị khác tạo nên lưới lửa, bắn rơi 3 máy bay, bắt sống tên phi công Mỹ E-vơ-rết An-va-rét khi hắn nhảy dù xuống Vịnh Hạ Long. Sau trận đánh này, đã có 28 đồng chí của đơn vị được tặng thưởng Huy hiệu 5-8, tiêu biểu như Đặng Bá Hát, Trần Minh Thành… Năm 1966, Xí nghiệp Bến Hòn Gai hình thành 2 cụm trực chiến gồm 30 người, chỉ huy trưởng là đồng chí Lê Quang Minh, chỉ huy phó là đồng chí Đặng Bá Hát. Ngày 10-3-1967, máy bay của giặc Mỹ theo nhiều hướng lao vào đánh phá khu Ba Đèo, phố Nhà Thờ, đồi 102… Với tinh thần chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ tự vệ, 1 chiếc máy bay F8 của giặc Mỹ đã bị bắn trúng bốc cháy, lao ra biển. Cuối năm 1968, sau khi được tỉnh trang bị thêm cho 4 khẩu pháo cao xạ 37 ly, Xí nghiệp Bến Hòn Gai thành lập 1 đại đội gồm 45 người do đồng chí Đặng Bá Hát làm Đại đội trưởng. Trận địa đóng trên đồi 102 (đồi Bến phà). Ngày 18-5-1972, Đại đội tham gia chiến đấu và đã bắn rơi 1 chiếc F4 của giặc Mỹ. Chiến công đã làm tăng thêm sự phấn khởi và quyết tâm đánh thắng cho cả Đại đội, từ chỉ huy tới chiến sĩ. Chiến tranh leo thang của giặc Mỹ ngày càng ác liệt. Ngày 12-7-1972, chúng lại tập trung đánh vào TX Hòn Gai. Lúc này, hai chiếc phà chở đầy người và ô tô đang trong hành trình qua sông Cửa Lục. Tình thế diễn ra rất nguy kịch. Đồng chí Đặng Bá Hát vừa chỉ huy đánh chi viện, bảo vệ phà vừa trực tiếp chiến đấu. Trận địa bị máy bay Mỹ đánh trúng bằng bom xuyên, đồng chí Đặng Bá Hát bị thương vào bụng và đã anh dũng hy sinh khi tay còn đang cầm cờ lệnh. Sau trận đánh, Đại đội bị tổn thất lớn nhưng vẫn tiếp tục bám trụ, triển khai đánh địch. Chỉ trong tháng 10-1972, Đại đội đã đánh 37 trận, tháo gỡ nhiều bom phá, bom xuyên và bom bi các loại… Với những chiến công đã đạt được, đầu năm 1973, Đại đội tự vệ 37 ly của Xí nghiệp Bến Hòn Gai đã vinh dự được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng trao tặng lẵng hoa ngay tại trận địa và cũng trong năm này, Xí nghiệp Bến Hòn Gai đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Liệt sĩ Đặng Bá Hát với tấm gương chiến đấu, hy sinh quên mình đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vào năm 1995. Nhằm bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích trận địa pháo cao xạ 37 ly của Xí nghiệp Bến Hòn Gai, được biết UBND tỉnh và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã có sự thoả thuận về dự án đầu tư, tôn tạo di tích. Hiện các thủ tục đã cơ bản xong, chỉ còn chờ con đường lên cầu Bãi Cháy hoàn chỉnh để bắt tay vào thi công. Các hạng mục dự kiến tôn tạo bao gồm xây dựng tượng đài Đặng Bá Hát, phục hồi các giao thông hào, hầm đạn, hầm trú ẩn, xây dựng nhà trưng bày hiện vật… Di tích sau khi được tôn tạo sẽ không chỉ là nơi ghi dấu chiến công, giáo dục truyền thống, mà còn góp phần làm tăng giá trị, ý nghĩa và vẻ đẹp của cầu Bãi Cháy nói riêng, vùng đất Cửa Lục nói chung. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh
Quảng Ninh 1758 lượt xem
Di Tích Danh Thắng, Đường Yên Tử, Thượng Yên Công, Khu Du Lịch Yên Tử, Thành Phố Uông Bí, Quảng Ninh, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
Số 2 Đường Hoàng Quốc Việt khu ĐTM, Cái Dăm, P, Thành phố Hạ Long, Quảng Ninh.
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
SH 2-8 Times Garden đường 25/4 phường Bạch Đằng Bach Dang Ward, Ha Long Việt Nam
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Ô Số 1, Lô 20, Hoàng Quốc Việt P.Bãi Cháy, Ha Long, Quảng Ninh.
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Đỗ Sĩ Họa, Bãi Cháy, Thành phố Hạ Long, Quảng
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Khu C, Cái Dăm, khu đô thị mới, Thành phố Hạ Long, Quảng Ninh
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Số 87 Tổ 6 Khu 8 Đường Hải Đông, Phường Hồng Hải, Thành Phố Hạ Long
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Số 2 Đường Hoàng Quốc Việt khu ĐTM, Cái Dăm, P, Thành phố Hạ Long, Quảng Ninh.
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá % 63Stravel Vip
299 Hạ Long, Bãi Cháy, Thành phố Hạ Long, Quảng Ninh
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Bến phà cũ Bãi Cháy, đường du lịch Hạ Long, Vịnh Hạ Long , Quảng Ninh.
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Tổ 9 - Khu 6 - Phường Giếng Đáy, Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh.
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% 63Stravel Vip