Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Thành cổ Diên Khánh nằm trên đường Lý Tự Trọng, khóm Đông Môn, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta thời Nhà Nguyễn. Thành cổ Diên Khánh nằm trên diện tích khoảng 36.000m2; gồm 6 đoạn tường thành chạy uốn khúc theo hình lục giác, dài khoảng 2.694m, xây cao khoảng 3,5m. Thành Diên Khánh được xây dựng vào năm 1793 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi nhà Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đã xây dựng Diên Khánh thành một căn cứ vững chắc. Hoàng tử Cảnh đã trực tiếp trông coi công cuộc xây dựng thành với hơn 3000 nhân lực từ Bình Thuận và Thuận Thành, chỉ sau hơn một tháng thì thành được xây xong. Khi xây xong, thành Diên Khánh do hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc chỉ huy trấn giữ. Trước đây trong thành có hoàng cung, bên trái là dinh Tuần Vũ, phía sau là dinh Án Sát, sâu trong phía sau nữa là dinh Lãnh Binh, phía dưới là dinh Tham Tri, ngoài ra còn có nhà kho, nhà lao kiên cố. Thành cổ Diên Khánh được đắp trên một khu đất trống, có hình dáng nhô cao giống như lưng con rùa - linh vật tượng trưng cho sự trường tồn và vững chắc. Thành có hệ thống hào sâu bên ngoài và hai bậc thang bên trong dùng làm đường lên xuống. Các góc thành được đắp nhô ra ngoài để dễ dàng quan sát, mỗi góc có một khoảng đất rộng dùng làm chỗ trú quân với một ụ đất cao khoảng 2m để đặt súng đại bác, gọi là pháo đài góc - đặc điểm nổi bật của kiến trúc quân sự theo kiểu Vauban. Trên thành được trồng nhiều tre và cây gai để tăng độ vững chắc và tạo thành một hàng rào phòng ngự theo truyền thống của người Việt. Hệ thống hào bên ngoài thành có độ sâu từ 3m đến 5m, rộng hẹp không đều tùy theo địa hình. Dưới lòng hào thường xuyên có nước và nhiều chướng ngại vật. Phía ngoài hào có đường hào ngoại. Để vào trong thành phải đi qua cầu bắc qua hào nước. Ban đầu, thành Diên Khánh có 6 cửa (cổng), nhưng 2 cửa Tả và cửa Hữu đã bị lấp năm 1823, đến nay chỉ còn 4 cửa Ðông - Tây - Tiền (Nam) - Hậu (Bắc). Các cổng của thành được xây bằng gạch nung và trát vôi vữa tạo thành hình khối dài khoảng 15m. Các cổng có vòm cuốn ở giữa, rộng 2,88m và cao 2,44m, có lối đi phía dưới. Mặt ngoài cổng xây thẳng đứng, mặt trong xây tường gạch cao 1,7m dài 5m. Đường đi trên bờ thành rộng 5,35m. Hai bên cổng xây bậc cấp rộng 3m để đi lên phía trên cổng thành. Phía trên cổng thành có lầu tứ giác và bốn cửa ở bốn hướng, trên cùng là cổ lầu có mái uốn cong lợp ngói âm dương. Cổ lầu cao 4,1m so với nền. Hai bên lầu tứ giác có lan can cao 0,85cm. Nối liền với bốn cổng là hệ thống tường thành đắp bằng đất thoai thoải phía bên trong, thẳng đứng phía bên ngoài. Ngày nay các đoạn tường bằng đất không còn nối liền mạch như xưa. Tổng chiều dài tường thành bằng đất hiện nay dài khoảng 1.656m, cao 3m và bề mặt rộng 5m. Qua hơn 200 năm lịch sử, Thành Cổ Diên Khánh đã trải qua nhiều biến động thăng trầm. Để bảo tồn giá trị lịch sử, văn hóa của di tích này, ngày 16/11/1988, Bộ Văn Hóa quyết định xếp hạng nơi đây là di tích lịch sử - văn hóa Quốc Gia. Trải qua sự tàn phá theo thời gian, Thành cổ Diên Khánh ngày nay đã mất nhiều đoạn tường và hào. Năm 2003, Thành Diên Khánh đã được trùng tu, sơn sửa bốn cổng và gia cố những nơi bị nứt tường do mưa. Năm 2010 thành được tỉnh triển khai tu bổ và bảo vệ các khu vực xung quanh. Cuối năm 2014 thì nơi đây được xây dựng thành phố đi bộ và phục hồi các công trình có giá trị lịch sử để phục vụ du lịch. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2261 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 7579 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 7126 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 5040 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4865 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4492 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4221 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4087 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3936 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3926 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3820 lượt xem
Trải dài trên vịnh biển đẹp nhất thế giới, Vinpearl Nha Trang là quần thể nghỉ dưỡng và điểm đến hấp dẫn hiện nay. Hệ thống Vinpearl tại Nha Trang sở hữu hệ thống khách sạn & resort sang trọng, đẳng cấp, công viên giải trí VinWonders Nha Trang, sân golf cùng hệ sinh thái dịch vụ tất cả trong một, đáp ứng trọn vẹn nhu cầu từ nghỉ dưỡng, ẩm thực, vui chơi giải trí, mua sắm đến hội họp chuyên nghiệp. Nha Trang được đánh giá là vịnh biển đẹp bậc nhất thế giới với hơn 300 ngày nắng đẹp trong năm. Do đó, bạn có thể lựa chọn cho chuyến hành trình khám phá Vinpearl Nha Trang vào bất cứ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 9 vẫn là thời gian lý tưởng nhất để đến thành phố biển. Trong đó, từ tháng 2 đến tháng 5, Nha Trang có tiết trời mát mẻ phù hợp cho những chuyến du lịch nghỉ dưỡng. Từ tháng 6 đến tháng 8, thời tiết nhiều nắng, du lịch Nha Trang thích hợp cho các hoạt động tắm biển, chơi moto nước, dù bay… Để đến Nha Trang, bạn có thể chọn di chuyển bằng phương tiện máy bay hoặc xe khách. Sau đó, bạn sẽ đến cảng Vinpearl Nha Trang để có thể đi tới tổ hợp nghỉ dưỡng vui chơi Vinpearl Nha Trang bằng cano hoặc tàu thủy cao tốc. Khi đến đảo Hòn Tre, bạn sẽ di chuyển bằng hệ thống xe điện của Vinpearl Nha Trang để đến khu nghỉ dưỡng và các địa điểm vui chơi. Là điểm du lịch nghỉ dưỡng biển hàng đầu thế giới, Vinpearl Nha Trang mang đến cho du khách nhiều sự lựa chọn về nơi lưu trú. Đó là hệ thống khách sạn, resort nghỉ dưỡng đẳng cấp với không gian sang trọng, hiện đại và đầy đủ tiện nghi. Vinpearl Resort Nha Trang sở hữu vẻ đẹp Á Đông thuần khiết với kiến trúc Indochine sang trọng. Khu nghỉ dưỡng tọa lạc trên đảo Hòn Tre cạnh bãi biển tự nhiên với cát trắng nắng vàng. Tại đây bạn có thể đắm mình trong làn nước xanh mát của hồ bơi rộng lớn, lặn ngắm san hô và chiêm ngưỡng vẻ đẹp muôn sắc của các loài cá. Nổi bật trong quần thể nghỉ dưỡng Vinpearl Nha Trang, Vinpearl Resort & Spa Nha Trang Bay sở hữu kiến trúc hình cánh cung hiện đại và duyên dáng trải dài trên bờ biển tuyệt đẹp cùng cát trắng và biển xanh. Khu nghỉ dưỡng có tầm nhìn mỹ lệ và sống động nhất hướng từ giường ngủ ra toàn cảnh vịnh Nha Trang. Vinpearl Resort & Spa Nha Trang Bay được giải thưởng danh giá World Travel Award vinh danh là Khu nghỉ dưỡng biển hàng đầu Việt Nam vào năm 2018. Tiện ích đặc biệt hấp dẫn mà resort mang lại cho du khách là những chòi spa với các liệu trình thư giãn, chăm sóc cơ thể. Vinpearl Luxury Nha Trang là nơi lưu trú mang đến cho du khách một chốn bình yên của tâm hồn với từng giây phút trôi qua thật an yên bên người yêu thương. Khu nghỉ dưỡng tọa lạc bên bờ biển thiên đường với 84 căn biệt thự xinh đẹp giữa khu vườn nhiệt đới tươi mát. Ngoài ra còn nhiều điểm nghĩ dưỡng khác. Đến Vinpearl Nha Trang, du khách có thể thưởng thức các bữa sáng, trưa, tối tại các nhà hàng trong mỗi khách sạn, resort lưu trú. Ngoài ra, bạn có thể trải nghiệm những hương vị rất riêng trong không gian độc đáo, tráng lệ trong hệ thống nhà hàng của Vinpearl. Đến Vinpearl Nha Trang, bạn đừng bỏ lỡ hành trình vui chơi tại công viên VinWonders với 6 phân khu trò chơi bao gồm gần 100 hoạt động giải trí phong phú. Khu vui chơi tọa lạc trên đảo Hòn Tre với diện tích hơn 50ha. Ngoài ra còn rất nhiều trải nghiệm hấp dẫn khác như: Vinpearl Diving Club Nha Trang, Vinpearl Golf Nha Trang và chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng…đang chờ đợi bạn khám phá.
Khánh Hòa 2063 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với bề dày lịch sử hơn một thế kỷ, Viện Hải Dương Học Nha Trang được thành lập bởi người Pháp vào năm 1923 tại thành phố biển xinh đẹp này. Với môi trường ôn hòa và đa dạng sinh vật biển phong phú, đây là nơi chuyên nghiên cứu về đại dương và đồng thời là điểm đến lý tưởng cho các du khách muốn tìm hiểu về văn hóa, lịch sử và đặc sản biển của vùng đất này. Bảo tàng Hải dương học thuộc Viện Hải Dương Học Nha Trang cũng là một trong những điểm tham quan không thể bỏ qua tại thành phố Nha Trang. Viện Hải Dương Học Nha Trang là viện nghiên cứu lớn nhất Đông Nam Á về đời sống động thực vật biển, được thành lập vào đầu thế kỷ XX bởi các nhà khoa học Pháp. Nơi đây được chọn vì có vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện tự nhiên tối ưu cho các sinh vật biển sinh sống và phát triển. Bảo tàng của Viện Hải Dương học sở hữu một bộ sưu tập đồ sộ, đặc trưng cho hệ sinh thái biển với khoảng 4.000 loài sinh vật và hơn 20.000 mẫu vật được lưu trữ vô cùng cẩn thận tại đây. Bên cạnh khu vực trưng bày tiêu bản, viện còn sở hữu các khu vực nuôi giữ, thuần hóa và bảo tồn nhiều loài sinh vật biển đa dạng và độc đáo khác. Chắc chắn sẽ là một trải nghiệm thú vị cho các bạn yêu thích hải dương học và muốn khám phá thế giới đại dương đầy bí ẩn. Bước vào khu thủy cung của Viện Hải Dương Học Nha Trang, bạn sẽ được mê hoặc bởi hơn 10.000 cá thể thuộc hơn 300 loài sinh vật biển đa dạng và phong phú. Đặc biệt, trong số đó có nhiều loài được xếp vào danh sách đỏ của IUCN như cá mập, rùa biển, san hô và mực khổng lồ. ừ những con cá nhỏ bé đáng yêu đến những con cá mập khổng lồ, từ những chiếc vỏ sò lấp lánh đến những tảng san hô tuyệt đẹp, tất cả đều được tái tạo một cách chân thực và sống động trong khu thủy cung này. Nếu như thủy cung là nơi thu hút mọi tầng lớp khách tham quan bởi vẻ đẹp sinh động của các sinh vật biển thì khu trưng bày đa dạng sinh vật biển được xem là nơi tạo nên giá trị và nét đặc trưng cho bảo tàng. Bước chân vào Bảo Tàng Hải Dương Học, bạn sẽ được đắm mình trong thế giới đầy kì diệu của đại dương. Với hơn 23.000 mẫu vật của 5.000 loài sinh vật biển được sưu tầm và gìn giữ từ nhiều năm nay, khu bảo tàng sinh vật biển trở thành nơi "lưu trữ bộ mẫu sinh vật biển lớn nhất" được VietKings công nhận. Tại đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng những sinh vật hiếm, xem các loài san hô tuyệt đẹp và tìm hiểu về hệ sinh thái đại dương một cách chân thực nhất. Một lần ghé thăm khu bảo tàng này, bạn sẽ không chỉ tìm thấy niềm đam mê với đại dương mà còn thu thập được một lượng kiến thức vô giá về sự đa dạng và phong phú của hệ sinh thái biển. Khi đến thăm quan Viện Hải Dương học Nha Trang bạn cần lưu ý những điểm sau. Khi tham quan Viện Hải Dương Học, bạn nên đến sớm để có nhiều thời gian khám phá toàn bộ khu vực của viện. Nên chuẩn bị một bộ quần áo và giày thoải mái để có thể di chuyển và tham quan một cách dễ dàng. Bạn cũng nên mang theo một túi để đựng các vật dụng cá nhân như nước uống, khăn giấy và máy ảnh. Nếu bạn định đi tham quan ngoài biển hoặc lặn ngắm san hô, hãy đăng ký trước và tham khảo kỹ các hướng dẫn của nhân viên để đảm bảo an toàn. Các khu vực trong viện có thể đông đúc vào cuối tuần hoặc các ngày lễ, nên bạn nên lên kế hoạch và đặt vé trước để tránh tình trạng chật chội hoặc hết vé.
Khánh Hòa 2352 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khung cảnh tại đảo Hòn Mun là một sự kết hợp hài hòa giữa màu xanh bao la của biển, và màu xanh lá mát mắt của cây rừng. Tất cả tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng và vô cùng bình yên. Hòn Mun còn là nơi sở hữu rất nhiều loại san hô, có tới hơn 2000 loài san hô cùng 1500 loài sinh vật biển, đây còn là khu bảo tồn sinh vật biển duy nhất tại Việt Nam. Theo quỹ Động vật hoang dã thế giới (WWF) Hòn Mun là đảo có đa dạng sinh học biển bậc nhất tại VIệt Nam. Với tổng diện tích 160km2 đảo Hòn Mun tọa lạc ở phía Đông Nam của đảo Bồng Nguyên, cách thành phố biển Nha Trang khoảng 14km. Nơi đây cách cảng cầu Đá 10km về phía Nam, là một trong những hòn đảo nổi tiếng nhất vùng biển Khánh Hòa, và cũng là một trong những địa điểm du lịch Nha Trang nổi tiếng nhất. Không chỉ sở hữu khung cảnh thiên nhiên ấn tượng với màu xanh của biển cả và đất trời. Mà đây còn là địa danh nổi tiếng sở hữu hệ sinh thái biển vô cùng phong phú. Tên gọi đảo “Hòn Mun” được đặt theo đặc điểm của màu đá tại đảo, với màu đá đen tuyền tựa gỗ mun tại đây, nó đã tạo nên sự khác biệt và là sự hình thành của tên gọi của đảo. Đến đây bạn sẽ nhìn thấy những vách đá dựng đứng, hay những mỏm đá nhô cao nổi bật giữa nền trời xanh của biển. Tạo nên sự ấn tượng và độc đáo không nơi này sánh bằng. Nha Trang được thiên nhiên ưu ái bởi khí hậu ôn hòa, với thời tiết không quá khắc nghiệt, bạn có nhiều khoảng thời gian lý tưởng để tham quan đảo. Trừ những ngày mưa bão thì hầu như bạn có thể ghé thăm Hòn Mun dễ dàng. Theo kinh nghiệm du lịch Hòn Mun Nha Trang, thời điểm lý tưởng nhất để du lịch Nha Trang cũng như ghé thăm Hòn Mun là vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9 hằng năm. Lúc này thời tiết Nha Trang có nắng đẹp, nước biển trong, mát mẻ, là thời điểm tuyệt vời để ngắm đại dương trong những chuyến lặn biển. Đảo Hòn Mun còn khá hoang sơ, các dịch vụ chưa phát triển. Vì thế, bạn rất khó tìm được những nhà hàng, quán ăn trên đảo. Để thưởng thức những món ngon, du khách thường mua hải sản từ những tàu cá của ngư dân địa phương và nhờ họ chế biến sẵn. Hoặc bạn cũng có thể mua thức ăn, mượn bếp, lò để tự chế biến món ngon theo cách của mình. Cùng bạn bè tổ chức những buổi tiệc nướng, với không gian biển cả bình yên thật tuyệt vời. Hòn Mun Nha Trang là một trong những thiên đường ngắm cảnh và lặn biển đẹp nhất Việt Nam. Là địa điểm rất đáng để bạn trải nghiệm, chắc chắn sẽ để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với bạn. Với nhiều tiềm năng phát triển, hứa hẹn sẽ trở thành một địa điểm du lịch hàng đầu Nha Trang.
Khánh Hòa 1942 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Bãi biển nằm tại xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, ngay bên cạnh quốc lộ 1A, cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 80km về hướng Bắc. Phong cảnh Đại Lãnh rất đẹp nhờ thiên nhiên ban tặng cho một bãi biển cát trắng chảy dài, có độ thoải lớn nên du khách có thể bơi lặn xa bờ. Đặc biệt, địa điểm du lịch ở Nha Trang này có nước biển xanh biếc, nhìn thấy được tận đáy và còn nguyên vẻ hoang sơ, sạch sẽ. Kế bên là một nguồn nước ngọt chảy ra biển quanh năm không cạn. Bãi biển Đại Lãnh được ví như nàng công chúa ngủ quên giữa đại dương mênh mông bởi ít người dân sinh sống tại đây, khung cảnh xung quanh khá yên bình, tĩnh lặng. Mặc dù, năm 2010, một công ty du lịch đã đầu tư xây dựng khu resort tại đây nhưng nơi này vẫn hiện lên như một bãi biển hoang sơ kỳ thú. Đó lại chính là điều thú vị dành cho những du khách muốn tìm không gian để nghỉ ngơi sau những tháng ngày bồn bề, làm việc vất vả. Đặc biệt, với không gian thoải mái, thoáng mát, trong lành, bạn cũng có thể đến đây cùng gia đình, bạn bè để vui chơi, tổ chức những trò chơi tập thể. Một trong những thú vui của du khách khi đến thăm Đại Lãnh là theo chân những người gác đèn hoặc ngư dân đi săn cá chình trên biển. Loài cá này từng được ví như những con thuồng luồng của đại dương. Cá chình thường trú ngụ ở những nơi có địa thế hiểm hóc, nước cuộn chảy xiết, nơi hốc đá sâu và tối. Cá chình có 3 loại là chình dừa (màu vàng), chình đen và chình bông (màu đốm đen trắng). Việc săn cá chình rất khó nhưng đối với những khách tham quan ưa cảm giác mạo hiểm, đây sẽ là cơ hội để thử sức mình khám phá biển khơi. Mặc dù còn mang vẻ đẹp hoang sơ vốn có nhưng ngày nay, du khách đã có thể tìm thấy nhà hàng, khách sạn phục vụ việc ăn uống, nghỉ dưỡng của mình một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Những khu này được xây dựng xung quanh bãi biển, chỉ cần đi một đoạn ngắn, bạn và người thân sẽ tìm được một địa điểm lý tưởng để nghỉ ngơi. Bãi biển Đại Lãnh được xem là bãi biển đẹp nhất miền trung và cả nước. Đối với một địa điểm du lịch lý tưởng như vậy, Nha Trang không thể không khai thác, phục vụ ngành du lịch. Do đó trong tương lai không xa, bãi biển sẽ được quy hoạch theo hướng tập trung để thúc đẩy phát triển du lịch của địa phương hơn nữa nhằm khai thác tất cả lợi thế nơi đây, đưa Đại Lãnh trở thành điểm đến du lịch Nha Trang không thể bỏ lỡ cho du khách.
Khánh Hòa 2109 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Dốc Lết Nha Trang hay còn được gọi Dốc Lếch, thuộc địa phận phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Bờ biển Dốc Lết trải dài với những bãi cát trắng cao, ngăn cách đất liền với biển là hàng dương xanh rì trong gió. Cách trung tâm thành phố Nha Trang chừng 49 km về phía Nam Dốc Lết nổi tiếng là một điểm du lịch Nha Trang lý tưởng vào dịp hè, rất thích hợp với những ai muốn có kỳ nghỉ dưỡng bên bãi biển nguyên sơ. Có nhiều cách giải thích cho cái tên Dốc Lết, nhiều du khách lần đầu nghe đến tên gọi này đã không khỏi tò mò về lý do, câu chuyện của nó. Đến thăm Dốc Lết bạn bắt buộc phải vượt qua những dốc cát lớn, cao để ra tới bờ biển, do địa hình có những đụn cát cao đó mà mỗi lần di chuyển như có bức tường rào tự nhiên bằng cát chắn ngang, làm chậm mỗi bước đi của bạn, mỗi khi cát lún sâu như níu bước chân trở nên khó cất bước. Mỗi lần đi bộ qua Dốc Lết cảm giác sau đó như chỉ muốn “lết” đi vì quá mệt. Tuy vất vả nhưng sau đó bạn sẽ được đền đáp xứng đáng khi vượt qua dốc cát, tới bờ biển gặp gió phả vào từng cơn nhẹ nhàng như bừng tỉnh sau giấc ngủ hè oi ả. Sóng biển vẫy chào mừng “kỳ tích” vượt qua những đụn cát vừa cao vừa dốc. Hiện nay đa phần các con Dốc cát tự nhiên dần được san phẳng bớt để thuận tiện cho việc đi lại, di chuyển phục vụ cho mở rộng dịch vụ du lịch. Thậm chí bạn có thể bắt gặp người dân địa phương đi xe gắn máy dọc bờ biển, vì cát được san phẳng và rất lì lối đi. Dù có nhiều cách giải thích cái tên Dốc Lết khác nhau nhưng tựu chúng đều bắt nguồn từ lý do địa hình và tính chất thổ những nơi đây. Tìm hiểu về cái tên Dốc Lết khá là thú vị, bạn có thể bắt gặp nhiều câu chuyện khác nhau từ người dân địa phương khi nói về tên gọi này. Dốc Lết Nha Trang thuộc tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và chịu tác động của thời tiết gió biển nên khí hậu quanh năm ôn hòa. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,6 độ C. Mùa mưa chủ yếu tập trung vào tháng 10 và tháng 11, lượng mưa trung bình vào khoảng 1350 mm/năm. Số giờ nắng khá cao, khoảng 2482 giờ/năm. Khoảng thời gian đẹp nhất để đến với Dốc Lết là từ tháng 1 đến tháng 9, khi này nhiều nắng, đôi khi kết hợp với gió Tây Nam nên cảnh vật rất thông thoáng, khô ráo. Tháng 10 đến tháng 12 là thời điểm có gió mùa đông bắc, đi du lịch vào thời điểm này chỉ ngắm cảnh là chủ yếu vì nước biển Dốc Lết lạnh buốt không thể tiến hành các hoạt động vui chơi ven bờ biển hay dưới nước. Tất nhiên bạn không thể tắm trên bãi biển vào mùa này vì nước rất lạnh. Nếu đi Dốc Lết vào tháng 4 âm lịch, ở Ninh Diêm gần đó có lễ hội Cúng Đình khá thú vị có nhiều tục lệ để tìm hiểu và tham gia. Nếu đi vào dịp này sẽ rất thú vị. Mỗi lần đi vào các thời điểm khác nhau là một lần trải nghiệm hoàn toàn mới. Bãi biển Dốc Lết hiện ra với một vẻ đẹp tinh khôi phủ bởi lớp cát trắng tinh khiết làm nao lòng bất cứ du khách nào khi tới đây. Dốc Lết vẫn còn khá nguyên sơ, hàng cây xanh rậm rạp bao ven biển, nước biển xanh ngắt trong như ngọc, màu xanh mà các bãi biển phía bắc ít khi có. Nước biển trong xanh đến mức có thể nhìn thấy cả cá nhỏ bơi bên dưới và từng hạt cát long lanh cuộn theo dòng nước. Biển Dốc Lết rất yên tĩnh do được một loạt các đồi xung quanh che chắn, làm cho mặt biển rất bình yên ít khi có gió lớn. Đa số các đồi còn giữ được rừng cây nguyên sinh xanh mướt một màu tạo cảm giác gần gũi thiên nhiên. Bãi biển Dốc Lết trải dài khoảng 8 km, không như các bãi biển khác, đáy biển Dốc Lết thoải dần ra xa bờ, mực nước ra xa không cao, cách xa bờ đến 100 m nhưng mực nước chỉ khoảng ngang ngực. Thường các bãi biển khi ra càng xa nước càng sâu nhưng do được bồi đắp bởi cát nên đi mãi vẫn cứ thấy “đáy”. Một điểm nữa, nếu đem theo trẻ nhỏ bạn thoải mái cho chúng vui chơi trên bãi tắm cạn, sở dĩ gọi là bãi tắm cạn vì mực nước rất thấp, trẻ con và người không biết bơi đều tắm được, không lo bị đuối nước. Cát trắng mịn như làn da thiếu nữ, vỗ về nhịp nhàng bởi những gợn sóng trắng. Sóng biển không quá dữ, nước trong xanh nhưng rất mặn thử một ngụm là biết liền. Khu rừng phi lao mênh mông, xanh ngắt rì rào trong gió như tạo ra một bức tường tự nhiên bằng cây xanh tạo cảm giác dịu mát. Sau khi tắm biển, đeo kính râm dạo bước chân trần dưới rặng phi lao, từng bước chân đặt lên cát mịn mang đến cảm giác nhẹ nhàng như đang được mát xa từng huyệt đạo dưới lòng bàn chân. Phóng tầm mắt xa là một màu xanh, đón từng tia nắng chiếu qua tán cây râm mát đem đến cho bạn cảm giác êm ái khó tả. Một bãi biển tuyệt đẹp với lớp cát trắng tinh khiết, màu nước xanh trong, nhìn rõ những hạt cát trắng dưới đáy. Nơi đây sẽ là một điểm lý tưởng giúp bạn bỏ lại những căng thẳng, buồn phiền phía sau và tận mở rộng tâm hồn đón nhận một kỳ nghỉ tuyệt vời cùng Dốc Lết Nếu muốn mục sở thị trực tiếp cái tên “Dốc Lết” bạn hãy đi chuyển lên khu đồi cát để được thử cảm giác trượt cát từ trên đỉnh xuống. Tin rằng cảm giác này chỉ có khi bạn lên đồi cát. Thân mình dính đầy cát, cát trong tai, cát trong tóc, thậm chí ngậm cát trong miệng vì trò trượt cát. Không gian nơi đây đem đến cho bạn cảm giác tự do, tự tại hơn bao giờ hết, phơi mình dưới nắng vàng, thả mình trong biển xanh, thị giác như ngập trong khung cảnh mộng mơ, tâm trí đầy khơi gợi, không gian thoáng đãng, gần gũi thiên nhiên, mọi giác quan mở hết cỡ để cảm nhận từng khoảnh khắc.
Khánh Hòa 2010 lượt xem
Từ tháng 5 đến tháng 8
Tháp Bà Ponagar là ngôi đền nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, còn gọi là núi Tháp Bà nơi cửa sông Cái, cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 2 km về phía bắc. Tổng thể kiến trúc của Ponagar gồm 3 tầng, đi từ dưới lên trên. Ở tầng thấp, ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay không còn nữa. Từ đấy có những bậc thang bằng đá dẫn lên tầng giữa. Ở tầng giữa gọi là Mandapa (tức là nhà khách, nhà tĩnh tâm) dành cho khách hành hương nghỉ ngơi, chuẩn bị lễ vật. Mandapa dài 20m, rộng 15m, gồm 4 hàng cột hình bát giác (bao gồm 10 cột lớn và 12 cột nhỏ). Trên thân các cột lớn có các lỗ mộng, khoét sâu vào thân cột, đối xứng ngang bằng với đỉnh của các cột nhỏ. Tầng trên cùng là nơi các ngọn tháp toạ lạc. Những ngôi tháp được xây dựng theo kiểu Chăm, gạch xây rất khít mạch, không nhìn thấy chất kết dính. Tháp thờ chính ở dãy trước khá lớn và cao khoảng 23 mét, là tháp Ponagar. Tháp có 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa, tượng thần và hình thú bằng đá. Bên trong là tượng nữ thần (cao 2,6 m) tạc bằng đá hoa cương màu đen (trước đó là gỗ trầm hương, và xa hơn nữa là bằng vàng) ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn hình lá bồ đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chămpa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Trên đỉnh tháp có tượng thần Shiva cỡi ngưu thần Nandin và các tượng linh vật. Tháp Bà Ponagar là công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân tộc Chăm. Kỹ thuật xây dựng giai đoạn từ thế kỷ thứ VIII đến XIII cho đến nay vẫn là điều bí ẩn dù nhiều nhà nghiên cứu đã vào cuộc, nhiều công trình khoa học đã được thực hiện. Người ta vẫn chưa hiểu được người Chăm đã làm cách nào để những viên gạch với kích cỡ 20x20cm cứ chồng khít lên nhau mà không cần bất kỳ một chất kết dính nào. Đó là nét độc đáo khiến du khách thêm phần yêu thích ngôi đền tháp này. Về kỹ thuật, tất cả tháp này được xây bằng gạch và trang trí nghệ thuật bằng các chất liệu đá - gốm, nội dung thể hiện cũng gắn liền với các vị thần được thờ ở đây. Các tác phẩm điêu khắc bằng đá thể hiện các chủ đề khác nhau theo tôn giáo Bà-la-môn, như các pho tượng tròn (hiện đang trưng bày tại Viện Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa) gắn liền với khu đền tháp tạo thành mảng kiến trúc nghệ thuật tuyệt mỹ. Vào những ngày lễ vía Bà hàng năm (từ 20 đến 23 tháng 3 âm lịch), tháp Bà Ponagar đón hàng vạn khách du lịch hành hương cũng như người dân trong vùng về dự lễ hội nhằm để tưởng nhớ công ơn của Thiên Y Ana Thánh Mẫu (người Chăm gọi là Po Inư Nagar), người mẹ xứ sở đã có công dạy người dân cách làm ăn, sinh sống. Trong sử sách cũng như tiềm thức của người Chăm, vai trò của nữ thần Po Inư Nagar đặc biệt quan trọng và đó là biểu tượng người phụ nữ duy nhất được tôn thờ độc lập. Mọi người tin Po Inư Nagar là vị thần đầy quyền năng, sáng tạo… Mẹ xứ sở không chỉ nâng đỡ người Chăm từ những bước đi đầu tiên thời lập quốc mà luôn luôn dẫn dắt đời sống tinh thần của từng gia đình cũng như cả cộng đồng. Theo các nhà nghiên cứu, khoảng từ giữa thế kỷ XVII đến nay, nghi lễ thờ cúng Mẹ xứ sở được người Chăm và người Kinh tổ chức chu đáo tại Tháp Bà Ponagar. Năm 1653, những người dân Việt từ phía Bắc, theo chúa Nguyễn vào phương Nam mở cõi, dừng chân bên cửa sông Cái (Nha Trang), tạo lập nên làng mạc, xóm thôn… Và, chính họ đã mang theo phong tục thờ cúng Mẫu của người Kinh ở đồng bằng Bắc bộ vào đây. Hàng năm, cứ đến ngày 20 tháng 3 âm lịch, người Chăm, người Kinh ở khắp nơi, mang theo lễ vật, hành hương về Tháp Bà Ponaga Nha Trang, thành tâm bày tỏ lòng biết ơn đối với một người phụ nữ đã có công chỉ dạy dân lành biết cách làm ăn, sinh sống bằng nghề nông. Các nghi lễ chính của lễ hội Tháp Bà Ponagar gồm lễ mục dục (tắm tượng), lễ tế gia quan (lễ thay y) diễn ra vào giờ Ngọ ngày 20 tháng 3 âm lịch, tiếp đến là lễ tế sanh, dâng cúng đồ tế, múa bóng mời thiên y thánh mẫu và các bậc thần linh về dự lễ. Theo nghi thức, lễ cúng thánh mẫu thường mở đầu bằng lễ khai kinh cầu quốc thái dân an. Lễ tế sanh bắt đầu vào giờ Tý, đêm 22 âm lịch do các bô lão thực hiện, sau đó lễ cầu cúng chính thức diễn ra vào lúc 4 giờ sáng ngày hôm sau... Những bài múa nổi tiếng của dân tộc Chăm như Apsara, bến nước tình yêu, tình láng giềng... cùng tiếng khèn Saranai, trống ghi-năng vui nhộn làm say đắm bao lòng người du khách.
Khánh Hòa 1724 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
09 , Hoàng Diệu, Thành Phố Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
Đảo Hòn Tre, Thành Phố Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
5a Ngô Thời Nhiệm Tân Lập, Nha Trang 650000 Việt Nam
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 5% 63Stravel Vip
Sheraton Nha Trang Hotel & Spa, 26-28 Trần Phú, Lộc Thọ, Nha Trang
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
83 Nguyễn Thị Minh Khai, Phước Hoà, Nha Trang, Khánh Hòa
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 5% 63Stravel Vip
Citadines Bayfront, 62 Trần Phú, Lộc Thọ, Nha Trang, Khánh Hòa
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
144 Võ Trứ, Tân Lập, Nha Trang, Khánh Hòa
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 10% 63Stravel Vip