Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Gắn liền với những làn điệu quan họ mượt mà, Bắc Ninh không chỉ là cái nôi của văn hóa dân gian mà còn nổi tiếng với hệ thống các di tích lịch sử phong phú. Mỗi di tích lịch sử ở Bắc Ninh không chỉ là minh chứng cho quá khứ hào hùng mà còn lưu giữ tinh hoa kiến trúc cổ, thu hút du khách đến tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa – lịch sử độc đáo nơi đây.
Bắc Ninh được biết đến như cái nôi của Phật giáo Việt Nam, nơi quy tụ hàng trăm ngôi chùa và đền cổ kính. Bên cạnh đó, vùng đất này còn sở hữu nhiều di tích lịch sử và lăng mộ thờ các danh tướng, ghi dấu những trang sử hào hùng của dân tộc. Cùng 63Stravel khám phá ngay 22 di tích lịch sử ở Bắc Ninh này nhé!
Điểm danh với 22 di tích lịch sử ở Bắc Ninh nổi tiếng dưới đây để bạn có một chuyến khám phá thú vị và ý nghĩa nhất.
Chùa Phật Tích (còn gọi là Vạn Phúc Tự) là một trong những điểm du lịch tâm linh nổi tiếng và lâu đời nhất ở Bắc Ninh, chỉ cách Hà Nội khoảng 20 km. Ngôi chùa hơn 1000 năm tuổi này mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lý, nổi bật với sự uy nghiêm và hài hòa trong từng đường nét.
Chùa Phật TÍch - Cổ tự nghìn tuổi ở Bắc Kinh
Điểm nhấn đặc biệt của chùa là bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh cao 27m, một trong những tượng đá lớn nhất Đông Nam Á. Ngoài ra, khuôn viên chùa còn có Tháp Phổ Quang – nơi lưu giữ xá lợi của các nhà sư, góp phần tạo nên vẻ linh thiêng và cổ kính. Mặc dù trải qua nhiều biến cố chiến tranh, Chùa Phật Tích vẫn được trùng tu và bảo tồn, trở thành Di tích Lịch sử – Văn hóa vào năm 1962, thu hút du khách tìm về khám phá và chiêm bái.
Đền Bà Chúa Kho xây dựng từ thời nhà Lý, là một trong những điểm du lịch tâm linh nổi tiếng và linh thiêng bậc nhất Bắc Ninh. Hằng ngày, ngôi đền đón rất đông người đến chiêm bái và dâng hương, mong cầu bình an, tài lộc và sự thuận lợi trong công việc. Đặc biệt, câu chuyện về nghi lễ “vay vốn âm” của Bà Chúa Kho được nhiều người tin tưởng, hy vọng mang lại lộc dương, giúp việc kinh doanh hanh thông và phát đạt.
Đền không chỉ có giá trị tâm linh mà còn mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lý, nằm trong quần thể di tích của khu Cô Mễ cùng đình và chùa. Tương truyền, Bà Chúa Kho là người phụ nữ tài đức, từng góp công lớn trong việc khai hoang, lập ấp và quản lý kho lương sau chiến thắng Như Nguyệt năm 1076. Sau khi bà hy sinh vì bảo vệ lương thực cho dân làng, bà được phong Phúc Thần và dân chúng lập đền thờ ngay tại vị trí kho cũ để bày tỏ lòng biết ơn.
Trải qua chiến tranh với nhiều tổn thất, Đền Bà Chúa Kho đã được trùng tu vào những năm 1978-1980 và hiện vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Với không gian trang nghiêm, từ cổng tam quan đến hậu cung, mỗi góc trong đền đều toát lên vẻ cổ kính và trang trọng, khiến nơi đây trở thành điểm đến không thể bỏ lỡ cho những ai tìm kiếm sự bình yên và tài lộc.
Làng tranh Đông Hồ với hơn 400 năm lịch sử, là một biểu tượng độc đáo của nghệ thuật dân gian Việt Nam. Nằm bên dòng sông Đuống thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, ngôi làng không chỉ lưu giữ kỹ thuật làm tranh khắc gỗ tinh xảo mà còn là niềm tự hào văn hóa của cả dân tộc.
Làng tranh Đông Hồ - Tinh hoa nghề Việt hàng trăm năm tuổi
Tranh Đông Hồ nổi bật với những đường nét mộc mạc, giàu ý nghĩa, tái hiện đời sống và phong tục truyền thống của người Việt xưa. Dù từng trải qua thời kỳ suy thoái trong chiến tranh và những biến động xã hội, làng tranh Đông Hồ vẫn kiên trì bảo tồn nghề làm tranh thủ công.
Ngày nay, nơi đây không chỉ là trung tâm sản xuất tranh mà còn là điểm đến hấp dẫn cho du khách muốn trải nghiệm không gian văn hóa xưa. Năm 2013, nghệ thuật làm tranh Đông Hồ được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định giá trị bền vững của một dòng tranh độc đáo luôn trường tồn qua thời gian.
Nằm tại huyện Việt Yên, cụm di tích đình, đền, chùa làng Quả Cảm nơi đây không chỉ lưu giữ giá trị văn hóa tâm linh mà còn gắn liền với những chiến công lịch sử. Đình Quả Cảm tọa lạc trên núi Tượng, từng là điểm trọng yếu trong phòng tuyến sông Như Nguyệt vào thế kỷ XI.
Được xây dựng lại sau khi bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, ngôi đình có kiến trúc chữ “đinh”, mái ngói mũi hài và những cột gỗ lim vững chãi. Đình thờ Thánh Tam Giang – Thành hoàng làng, với nhiều sắc phong từ thời Lê và Nguyễn, cùng các văn bia ghi dấu những câu chuyện truyền thống của làng.
Đền Quả Cảm nằm ở trại Sáng, thờ bà chúa Sành, người có công lớn với quê hương. Là thứ phi của vua Trần Anh Tông, bà được nhân dân tôn làm phúc thần sau khi mất. Ngôi đền này, dù trải qua nhiều biến động, vẫn được người dân xây dựng lại khang trang trên nền cũ, mang đậm phong cách kiến trúc cổ kính và giá trị tâm linh đặc biệt.
Chùa Kim Sơn tọa lạc trên núi Kim Sơn, mang phong cách thời Nguyễn, có kiến trúc hình chữ “đinh” với hệ thống cột gỗ to khỏe và các tượng thờ tinh xảo. Không chỉ là nơi thờ Phật, chùa còn thờ thân mẫu bà chúa Sành và lưu giữ nhiều cổ vật quý. Lễ hội chùa được tổ chức vào ngày 20 tháng Giêng âm lịch, thu hút đông đảo khách thập phương.
Cụm di tích này đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử vào năm 1990, minh chứng cho tầm quan trọng của Quả Cảm trong văn hóa và lịch sử dân tộc.
Thành cổ Luy Lâu (còn được gọi là Siêu Loại hay Lũng Khê) nằm tại xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh. Với lịch sử hơn 2000 năm từ thời Đông Hán, đây là một trong những tòa thành cổ nhất Việt Nam, chỉ đứng sau Cổ Loa. Luy Lâu từng là trung tâm văn hóa, giáo dục và được coi như kinh đô thứ hai của nước ta vào thế kỷ II.
Thành cổ Luy Lâu - Khu thành cổ nghìn năm tuổi ở Bắc Ninh
Dạo bước trong thành, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những cổ vật quý giá và hòa mình vào khung cảnh yên bình, cổ kính. Cầu đá Lũng Khê – cây cầu lát bằng 20 tấm đá dẫn vào đền Lũng Khê – là điểm check-in lý tưởng, thu hút những ai yêu thích chụp ảnh.
Ngoài ra, bạn cũng có thể ghé thăm các công trình tâm linh gần đó như chùa Bình, chùa Phi Tướng, đền thờ Sĩ Nhiếp… Những địa điểm nổi tiếng không chỉ để tham quan mà còn để thắp hương, tìm về chốn bình yên và tĩnh lặng.
>> Tham khảo: Đi du lịch tại Bắc Ninh thì mua gì về làm quà?
Được vinh danh là Di tích Quốc gia đặc biệt, chùa Bút Tháp trải qua bao thăng trầm thời gian vẫn giữ nguyên vẻ đẹp rêu phong và trầm mặc. Tên gọi độc đáo của chùa xuất phát từ tháp đá Bảo Nghiêm với hình dáng vươn cao tựa như ngòi bút, hiên ngang giữa trời.
Chùa Bút Tháp Bắc Ninh- Chốn lưu giữ Bảo Vật Phật Giáo linh thiêng
Tọa lạc bên dòng sông Đuống thơ mộng, chùa được bao phủ bởi màu xanh của rêu phong, mang đến cảm giác yên bình và tĩnh lặng. Du khách đến đây sẽ được thư thái dạo bước trong khuôn viên rộng lớn, thả hồn theo không gian tâm linh thanh tịnh. Đây thực sự là điểm dừng chân lý tưởng cho những ai tìm kiếm sự an yên và chiêm nghiệm.
Đặc biệt, tháp Bảo Nghiêm khiến du khách không khỏi trầm trồ trước vẻ đẹp tinh xảo khi từng phiến đá được nghệ nhân sắp xếp kỳ công, hoàn hảo đến từng chi tiết. Chùa Bút Tháp còn nổi bật với bảy dãy nhà cổ liền kề, tạo thành hình chữ “Công” uy nghi, hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên xung quanh.
Đền Vua Bà Thủy Tổ nằm trong làng Viêm Xá (Bắc Ninh), là địa điểm duy nhất trong 49 làng Quan họ gốc của Bắc Ninh và Bắc Giang thờ vị Thủy tổ Quan họ. Được xây dựng từ thời Lê và công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1994, ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu mang vẻ đẹp bề thế, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên.
Kiến trúc của đền theo kiểu chữ Đinh với hai tòa: Đại bái và Hậu cung. Tòa Đại bái có ba gian, mái ngói với đôi rồng chầu trên đỉnh nóc, trong khi Hậu cung mới được trùng tu năm 2018 để kỷ niệm 10 năm Quan họ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Vua Bà không chỉ khai sinh làn điệu Quan họ mà còn truyền dạy nghề trồng lúa, dâu tằm và dệt vải, những nghề truyền thống vẫn được làng Viêm Xá duy trì đến nay. Hàng năm, lễ hội diễn ra vào ngày 6-7 tháng Hai với các nghi lễ, rước hội và hát Quan họ truyền thống. Ngày 10 tháng Giêng, đền còn tổ chức Cuộc thi hát Quan họ đầu xuân, thu hút đông đảo nghệ nhân tham gia, góp phần gìn giữ và truyền dạy tinh hoa Quan họ cho thế hệ trẻ.
Chùa Hàm Long là cổ tự hơn 1.000 năm tuổi tại Bắc Ninh, không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp kiến trúc cổ kính mà còn gắn liền với những câu chuyện tâm linh kỳ bí. Được xây dựng từ thời nhà Lý, chùa nằm trên sườn núi Long Lĩnh, bao quanh bởi các ngọn núi như Phượng Hoàng, Kỳ Lân và Rùa tạo nên địa thế phong thủy đặc biệt.
Chùa Hàm Long - Ngôi chùa nhốt vong nổi tiếng xứ Kinh Bắc
Ngôi chùa mang kiến trúc đậm dấu ấn Lý triều, với những tòa tháp rêu phong, khu Tam Bảo bằng gỗ lim và bố cục tinh xảo. Khuôn viên rộng hơn 9.000m² bao gồm các công trình như Tam Quan, nhà Tổ, nhà Tăng và nhiều bảo tháp cổ kính. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ 14 tháp mộ cổ từ thời Trần và Lê cùng những pho tượng Phật bằng đồng với thần thái thanh thoát, nghệ thuật đúc tinh xảo.
Chùa Hàm Long còn được biết đến là "chùa nhốt vong, cắt trùng tang" lớn nhất Việt Nam. Theo truyền thuyết, thiền sư Như Trừng Lân Giác từng lập ra những pháp bảo để giải trùng tang giúp các vong linh sớm siêu thoát. Nhờ danh tiếng linh thiêng này, nhiều gia đình tìm đến chùa để cắt trùng và gửi vong hồn chưa siêu thoát.
Lễ hội và sinh hoạt tại chùa thu hút đông đảo Phật tử và du khách, với nhiều người đến để cầu tài, cầu lộc và vãn cảnh thanh tịnh. Chùa Hàm Long không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là nơi gìn giữ những giá trị văn hóa, hướng con người đến điều thiện, tránh xa điều ác.
Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh tọa lạc trên đường Ngô Gia Tự, Ninh Xá, chỉ cách thành cổ Bắc Ninh 300m, là biểu tượng tôn giáo và văn hóa lâu đời. Được khởi công vào năm 1889 bởi Đức cha Antonio Lễ và hoàn thành năm 1892, nhà thờ không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo quan trọng mà còn là di sản lịch sử đặc biệt của giáo phận Bắc Ninh.
Mang phong cách Baroque Ý, nhà thờ được thiết kế theo hình chữ thập, với 12 cột chính tượng trưng cho 12 thánh tông đồ. Điểm nhấn là hai ngọn tháp cao 22m, được cho là biểu trưng cho hình ảnh liền anh, liền chị của quê hương Quan họ. Bên trong tháp treo ba quả chuông đồng từ thế kỷ XIX, vang lên đều đặn, trở thành âm thanh quen thuộc gắn liền với đời sống nơi đây.
Không gian nội thất nhà thờ thoáng đãng và ấn tượng, với gian cung thánh làm từ gỗ hương đỏ, mái trần đan mắt cáo và những bức tranh kính miêu tả 20 mầu nhiệm kinh Mân Côi. Nơi đây còn lưu giữ tượng Nữ Vương Thánh Mân Côi – món quà từ các cha Dòng Đa Minh Tây Ban Nha, cùng tượng Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh, vị tử đạo được phong thánh bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Dù trải qua chiến tranh và một lần trùng tu vào năm 1990, nhà thờ vẫn giữ nguyên vẻ đẹp cổ kính và thiêng liêng. Ngày nay, nơi đây không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của giáo dân mà còn thu hút khách du lịch và giới trẻ đến tham quan, khám phá vẻ đẹp kiến trúc và tìm về chốn bình yên trong đời sống tâm linh.
Tọa lạc tại thôn Kim Đôi, phường Kim Chân, thành phố Bắc Ninh, Nhà thờ 18 Tiến sĩ họ Nguyễn được khởi dựng từ cuối thế kỷ XV trên nền nhà cũ của cụ Nguyễn Lung – người khai cơ lập nghiệp nơi đây. Công trình được xây dựng mở rộng với nhà Tiền tế vào năm 1990 và thủy đình vào năm 2015. Hiện toàn bộ khuôn viên đã được bao tường bảo vệ, khu vực ao và thủy đình cải tạo khang trang, sạch đẹp.
Nhà thờ 18 Tiến sĩ họ Nguyễn Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Nhà thờ quay hướng Tây mang kiến trúc kiểu chữ Nhị, gồm Tiền tế và Hậu đường. Tiền tế có 3 gian, không gian mở với mái lợp ngói mũi hài, các bờ nóc và kèo được đắp nổi hoa văn tinh tế. Kết cấu khung gỗ vững chắc theo kiểu chồng rường, giá chiêng, thể hiện sự khéo léo trong kỹ thuật xây dựng truyền thống. Hậu đường gồm 5 gian, cổng chính giữa chạm hoa văn chữ Thọ với kết cấu bộ vì chính tinh xảo, phản ánh nét đặc trưng của kiến trúc đình chùa Việt Nam.
Nhà thờ là nơi thờ phụng tiên tổ, danh nhân khoa bảng và những người thầy có công giáo dưỡng thế hệ sau, góp phần duy trì truyền thống hiếu học và khoa bảng của dòng họ Nguyễn. Với ý nghĩa lịch sử và văn hóa sâu sắc, công trình đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 100-VH/QĐ ngày 21/01/1989.
Từ lâu, vùng Kinh Bắc, dọc đôi bờ sông Cầu, đã lưu truyền tín ngưỡng thờ Thánh Tam Giang – ba vị tướng tài của Triệu Quang Phục, người có công đánh giặc Lương vào thế kỷ VI. Trong số khoảng 372 làng thờ Thánh, xã Vân Dương nổi bật với cụm di tích đặc sắc: Nghè Chu Mẫu, Nhà Cố Trạch và Đền Vân Mẫu.
Đền Vân Mẫu được xây dựng ngay sau khi thân mẫu của các Thánh, bà Phùng Thị Nhan, qua đời. Đền nằm trên khu đất cao, mang dáng "hàm rồng," với giếng nước hai bên được ví như đôi mắt rồng. Dù từng bị tàn phá vào năm 1952, ngôi đền đã được nhân dân phục dựng và mở rộng qua nhiều giai đoạn, giữ lại những nét kiến trúc tinh xảo đặc trưng.
Nhà Cố Trạch cách đền không xa, là nơi ở của bà Phùng Thị Nhan. Sau khi bà mất, ngôi nhà trở thành nơi thờ tự, được trùng tu nhiều lần để tôn vinh công đức người mẹ sinh ra Thánh Tam Giang.
Nghè Chu Mẫu với kiến trúc cổ kính, hiện vẫn lưu giữ bốn pho tượng đá xanh tượng trưng cho các Thánh. Di tích này chứa đựng nhiều tài liệu và cổ vật quý giá, phản ánh đậm nét lịch sử và văn hóa địa phương.
Năm 1989, cụm di tích Vân Dương được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia, khẳng định giá trị văn hóa, tâm linh sâu sắc. Đồng thời là biểu tượng về tinh thần yêu nước và anh hùng dân tộc.
Cụm di tích đền – chùa Điều Sơn nằm dưới chân núi Điều Sơn, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh, mang đậm dấu ấn lịch sử và văn hóa. Được trùng tu lớn vào năm 1687 và nhiều lần qua các giai đoạn, kiến trúc hiện nay thuộc thời Nguyễn, bố cục theo kiểu “tiền Thánh hậu Phật”.
Đền có kết cấu chữ Nhị gồm Tiền tế 3 gian 2 chái với khung gỗ lim bền chắc và Hậu cung, nơi thờ thân mẫu Thánh Gióng cùng bức hoành phi cổ “Mẫu nghi thiên hạ”. Đền Điều Sơn cũng phối thờ Thánh Tam Giang và vợ chồng tướng Trần Lựu, những vị anh hùng có công trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh.
Kề bên đền, chùa Điều Sơn mang kiến trúc chữ Đinh với Tiền đường 5 gian và Thượng điện 3 gian. Chùa hiện vẫn bảo tồn nhiều di vật quý như tượng, chuông đồng và bia đá từ thời Nguyễn.
Với giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc, cụm di tích Điều Sơn đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1990.
Chùa Đại Bi (Bắc Ninh) (còn gọi là chùa Tẩy hay chùa Tổ) nằm ở thôn Vạn Ty, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, bên bờ nam sông Đuống. Đây là ngôi chùa cổ kính với lịch sử lâu đời, được Huyền Quang xây dựng vào năm 1305 (Quý Mão) trong chuyến thăm quê cha mẹ. Chùa mang tên "Đại Bi" để tôn vinh lòng từ bi của Quan Thế Âm Bồ Tát, với ý nghĩa cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau trần thế.
Trải qua thời gian, chùa đã được tu bổ nhiều lần vào thời Lê và Nguyễn, nhưng vẫn giữ nguyên nét kiến trúc cổ đặc sắc. Khuôn viên chùa được chia thành nhiều khu vực: Tam Bảo, Tiền đường, Thượng điện, và đền thờ Tam Tổ. Khu Tam Bảo hướng về phía nam, nổi bật với khung sườn gỗ lim chắc chắn và những mái đao cong duyên dáng. Bên trong là các pho tượng tinh xảo, đa số được tạo tác từ thời Nguyễn.
Chùa Đại Bi kiến trúc nức danh vùng Kinh Bắc thu hút đông đảo du khách
Phía sau Tam Bảo là nhà bia, nơi ghi danh các vị tổ sư, và gần đó là đền thờ Tam Tổ – ba vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm: Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Tượng các vị tổ được tạc khéo léo, thể hiện phong thái thanh tịnh.
Chùa Đại Bi gây ấn tượng với không gian tĩnh lặng, hài hòa cùng cây cối xanh mát, mang đến cảm giác an yên cho khách thập phương. Trải qua thời gian, mái ngói phủ rêu phong, kệ đá mờ dấu khắc, và những cây cổ thụ lâu năm càng làm nổi bật vẻ đẹp trầm mặc, nhuốm màu lịch sử của nơi này. Năm 1990, chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, thu hút nhiều du khách tìm đến để chiêm bái và tĩnh tâm.
>> Nên đọc: Top tỉnh/thành phố hàng đầu điểm đến du lịch một mình ở Việt Nam
Một trong những địa điểm check-in tuyệt vời ở Bắc Ninh mà bạn không nên bỏ lỡ chính là đình làng Đình Bảng. Được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, ngôi đình nổi bật với kiến trúc độc đáo và cổ kính. Kết cấu của đình bao gồm một gian chính cùng các vách hai bên, có độ cao tăng dần, tạo ra không gian rộng rãi cho các buổi họp mặt của người dân trong làng.
Khi đặt chân vào đình, bạn sẽ bị cuốn hút bởi những bức phù điêu tinh xảo, với hơn 500 tác phẩm điêu khắc mô tả phong phú các khía cạnh văn hóa và lịch sử địa phương, mang đến cảm giác uy nghi và trang trọng. Nơi đây không chỉ là biểu tượng văn hóa của vùng đất Bắc Ninh mà còn là minh chứng cho sự tài hoa của các nghệ nhân xưa. Đình làng Đình Bảng đã được công nhận là Di tích cấp Quốc gia vào năm 1961, là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn khám phá vẻ đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam.
Chùa Đọ Xá nằm ở trung tâm khu phố Đọ Xá, phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh, là một trong những ngôi chùa nổi bật của vùng đất này. Kết hợp cùng Đình Đọ Xá, chùa tạo thành một quần thể kiến trúc hòa quyện, không có tường bao, mang đến không gian thông thoáng và gần gũi với thiên nhiên. Được công nhận là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1992, chùa Đọ Xá nổi bật với lối kiến trúc truyền thống, tinh xảo trong từng chi tiết chạm khắc, thể hiện tài hoa của các nghệ nhân qua hệ thống tượng Phật và đồ thờ tự.
Đình chùa Đọ Xá Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Tòa Tam bảo của chùa được thiết kế theo kiểu chữ Đinh với Tiền đường 5 gian và Thượng điện 4 gian, được mở ra phía Tây Nam bằng kiểu cửa bức bàn, dẫn vào sân với 7 bậc thang đá xanh. Mái chùa lợp ngói mũi, nổi bật với tên chữ "Quang Minh tự" trang trí tinh xảo bằng chữ Hán. Khuôn viên chùa còn bao gồm các công trình phụ như Tam quan, nhà Tổ, nhà mẫu và nhà ở cho sư, tất cả đều mang vẻ đẹp hài hòa và truyền thống.
Chùa Đọ Xá còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như bia Linh bi đỗ tự bi ký (1706), chuông đồng đúc năm 1898 và các tượng Phật thời Nguyễn. Hội chùa Đọ Xá diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng Giêng âm lịch, trở thành trung tâm tôn giáo và tín ngưỡng cho người dân địa phương, góp phần vào việc giáo dục và phát huy tình đoàn kết cộng đồng giúp mỗi người hướng thiện và trừ ác.
Xây dựng từ năm 1805, Thành cổ Bắc Ninh là một biểu tượng tiêu biểu cho lối kiến trúc quân sự cổ của Việt Nam. Khu thành trải dài từ làng Yên Xá đến Đỗ Xá, gắn liền với đời sống văn hóa và tinh thần của người Bắc Ninh, thậm chí còn được nhắc đến trong những câu hát quan họ nổi tiếng của vùng.
Thành được bảo vệ bởi một hào nước và có bốn cửa, cùng với hệ thống tường dài được xây bằng gạch (trước đây sử dụng đất và đá ong), tạo nên vẻ bề thế cho công trình. Với chiều dài hơn 200 mét và chiều cao trên 4 mét, Thành cổ Bắc Ninh vẫn giữ được sự hoành tráng và uy nghi, trở thành một trong những tòa thành đẹp nhất phía Bắc, lưu giữ nhiều giá trị lịch sử và văn hóa quý báu.
Chùa Dâu xây dựng từ năm 187 và hoàn thành năm 226, tọa lạc tại vùng Dâu. Với lối kiến trúc "Nội công, ngoại quốc", chùa Dâu bao gồm tiền đường, thiêu hương và thượng điện, tạo nên một không gian linh thiêng, hòa quyện giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Chùa Dâu Bắc Ninh - Ngôi chùa Phật Giáo lâu đời nhất ở Việt Nam
Nổi bật trong quần thể chùa là tháp Hòa Phong cao chín tầng, biểu tượng cho ngọn núi vũ trụ, cùng hồ nước trong xanh và vườn tháp cổ bên cạnh, tạo nên không gian yên bình và tĩnh lặng. Được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia đặc biệt năm 2013, chùa Dâu không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là điểm đến hấp dẫn cho du khách khám phá văn hóa và lịch sử.
Đền thờ Nguyễn Phúc Xuyên tọa lạc tại phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, là một di tích lịch sử có giá trị văn hóa lớn. Nằm trên một khu đất đẹp và không gian thoáng đãng, đền được xây dựng để tôn vinh Nguyễn Phúc Xuyên, một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử Kinh Bắc.
Sinh năm 1613, ông là người theo học đạo Nho nhưng lại có đam mê với đạo Thiền, đồng thời nổi tiếng với tài làm thuốc, chữa bệnh cho người dân và cả chúa Trịnh. Sau khi ông qua đời vào năm 1696, con cháu đã lập đền thờ để tưởng nhớ và tiếp nối sự nghiệp của ông.
Đền hiện lưu giữ nhiều tài liệu và hiện vật quý giá, đặc biệt là các tư liệu bằng chữ Hán từ thời Nguyễn như hoành phi, câu đối và chuông đồng. Những hiện vật này không chỉ ghi dấu ấn về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Phúc Xuyên mà còn phản ánh phong tục và đời sống văn hóa của người dân nơi đây từ xa xưa.
Chùa Phúc An là một điểm đến nổi bật tại Bắc Ninh, tọa lạc ở thôn An Động, xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du. Khu vực này từng là vùng đất màu mỡ, giàu truyền thuyết và di sản văn hóa dân tộc.
Được xây dựng vào năm 1599 dưới triều vua Lê Trung Hưng, chùa trải qua nhiều thăng trầm lịch sử và chỉ còn lại 5 gian nhà tổ vào năm 1951. Đến năm 1993, người dân đã chung tay tu sửa và mở rộng chùa với nhiều công trình như tòa Tam Bảo, nhà Tổ và gác chuông.
Chùa được coi là linh thiêng, từng che chở cho vua lánh nạn, và sau đó được đặt tên là An Động. Qua thời gian, dù phải đối mặt với thiên tai và chiến tranh, lòng tôn kính của người dân đã giúp chùa hồi sinh, giữ gìn nét truyền thống. Ngày nay, chùa Phúc An không chỉ khang trang mà còn thu hút nhiều du khách đến tham quan và chiêm bái, trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của địa phương.
Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng vào thời nhà Lê, là biểu tượng cho truyền thống hiếu học của xứ Kinh Bắc. Nằm cách Hà Nội khoảng 30km, đây là một trong sáu văn miếu ở Việt Nam, phản ánh rõ nét giá trị lịch sử và văn hóa qua các triều đại phong kiến.
Ban đầu, văn miếu tọa lạc ở núi Châu Sơn, Thị Cầu nhưng đã được di dời về vị trí hiện tại vào năm 1893 sau khi bị hư hại. Công trình gồm nhiều hạng mục như tam môn, tiền tế, hậu đường và hai dãy tả, hữu vu, với cổng tam môn được trang trí tinh xảo.
Văn miếu Bắc Ninh – Vang mãi tiếng thơm vùng đất hiếu học
Tòa tiền tế 5 gian với những họa tiết công phu, nơi thờ các bậc hiền tài như Khổng Tử và Chu Công, đã được khắc họa sống động trong các bia đá tiến sĩ. Đặc biệt, 15 tấm bia tiến sĩ lưu danh 677 vị tiến sĩ từ năm 1075 đến 1919, là những người có công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Bia “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn Miếu bi ký” ca ngợi vai trò của văn miếu và những đóng góp của cộng đồng trong công tác trùng tu. Văn miếu Bắc Ninh hiện nay không chỉ là di tích lịch sử mà còn là trung tâm văn hóa, thường xuyên tổ chức các hoạt động tưởng niệm và khuyến khích truyền thống hiếu học, thu hút đông đảo học sinh đến dâng hương và học tập từ những tấm gương sáng. Vào rằm tháng Giêng hàng năm, lễ dâng hương tưởng niệm cũng được tổ chức, thể hiện lòng tri ân đối với các bậc tiền nhân và cầu mong quốc thái dân an.
Bên cạnh thành cổ và các ngôi chùa, đền Đô là một trong những điểm đến nổi bật tại Bắc Ninh, thu hút đông đảo khách du lịch hàng năm. Nơi đây không chỉ là nơi thờ cúng tám vị vua nhà Lý mà còn là di sản văn hóa mang đậm dấu ấn lịch sử. Trải qua nhiều lần trùng tu, đền Đô vẫn giữ nguyên vẻ đẹp kiến trúc ban đầu, hòa quyện giữa phong cách dân gian và cung đình.
Nằm trên khuôn viên rộng 31.000m², đền Đô mang đến không gian thiên nhiên trong lành với hồ nước yên ả cùng những chi tiết chạm trổ tinh xảo. Khu điện thờ chính nổi bật với các nội dung lịch sử quan trọng như Chiếu dời đô và bài thơ Nam quốc sơn hà, thể hiện lòng tự hào dân tộc và tâm linh của người Việt. Với sự kết hợp hoàn hảo giữa kiến trúc và cảnh quan, đền Đô trở thành điểm dừng chân lý tưởng cho những ai yêu thích khám phá văn hóa và lịch sử.
Khi đặt chân đến Phú Võ, đừng quên ghé thăm làng gốm Phù Lãng - một ngôi làng cổ nằm bên dòng sông Cầu thơ mộng. Tại đây, bạn không chỉ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp tự nhiên bình yên mà còn có cơ hội tìm hiểu quy trình tinh tế tạo ra những sản phẩm gốm sứ tuyệt đẹp.
Làng gốm Phù Lãng có lịch sử hình thành từ thời nhà Trần và vẫn được gìn giữ cho đến ngày nay. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng nhiều sản phẩm gốm độc đáo, từ đồ gia dụng đến các tác phẩm trang trí nghệ thuật.
Làng gốm Phù Lãng – Làng gốm nổi tiếng 700 năm xứ Kinh Bắc
Đặc biệt, nơi đây nổi tiếng với kỹ thuật đắp nối chạm bong, một phương pháp độc đáo tạo nên những sản phẩm gốm có giá trị nghệ thuật cao. Hãy dành thời gian để hòa mình vào không gian văn hóa đặc sắc này, nơi truyền thống và sự sáng tạo giao thoa một cách tuyệt vời.
Hy vọng bài viết trên đã mang đến cho bạn cái nhìn tổng quan và thú vị về những di tích lịch sử ở Bắc Ninh độc đáo. Mỗi địa điểm không chỉ chứa đựng giá trị văn hóa, lịch sử mà còn là minh chứng cho sự phát triển của vùng đất này. Nếu bạn có kế hoạch khám phá vùng đất đầy tiềm năng và truyền thống này, đừng quên truy cập ứng dụng 63Stravel để đặt phòng khách sạn Bắc Ninh với giá ưu đãi hấp dẫn nhé! Chúc bạn có một chuyến đi đầy trải nghiệm và kỷ niệm đáng nhớ!
Chùa Phật Tích là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời mang đậm dấu ấn thời Lý. Chính những di sản văn hoá quý báu này là nguồn tư liệu sống động, đầy tính nhân văn trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc. Vì vậy nếu bạn là người quan tâm đến tín ngưỡng Phật giáo và các giá trị lịch sử truyền thống thì chùa Phật Tích sẽ là địa điểm tham quan không thể bỏ qua. Chùa thuộc địa phận xã Phật Tích, đây chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tín ngưỡng dân gian Việt cổ và Phật giáo. Sự kết hợp hài hòa đó đã hình thành nên trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta. Với những giá trị to lớn về mặt lịch sử và văn hóa chùa Phật Tích thu hút rất nhiều du khách đến nghiên cứu, ngắm cảnh hàng năm. Theo sử sách ghi lại thì chùa được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ tư tức năm 1057. Mục đích xây dựng chùa là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và gửi gắm niềm tin của đông đảo nhân dân. Ban đầu, chùa được xây lên với nhiều tòa ngang dãy dọc. Tiếp đó tại nơi đây vua Lý Thánh Tông cho xây dựng thêm một ngọn tháp Linh Quang vào năm 1066. Về sau khi tháp đổ thì lộ ra bên trong có tượng Phật A-di-đà được làm từ đá xanh nguyên khối dát vàng. Dân làng đã đổi tên thành Phật Tích và di chuyển và sinh sống trên sườn núi trước sự kỳ diệu của bức tượng Phật. Cho đến thời điểm hiện tại dù đã trải qua nhiều biến động của thời gian ngôi chùa vẫn giữ được nhiều nét cổ kính, trầm mặc. Chùa được thiết kế theo lối Nội công ngoại quốc. Sân chùa Phật Tích là bậc nền thứ nhất. Nơi đây gắn liền với vườn sự tích hoa mẫu đơn khoe sắc lưu truyền trong truyền kỳ nổi tiếng “Từ Thức gặp tiên”. Bậc nền thứ hai của chùa là nơi có các kiến trúc cổ nhưng theo thời gian ngày nay không còn được thấy. Nền thứ ba ở vị trí cao nhất, có Long Trì là một cái ao hình chữ nhật nay cạn nước. Điểm độc đáo của chùa là bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh ngồi trên tòa sen cao đến 1,87 m. Đây là một trong những tác phẩm điêu khắc đặc sắc của kỹ thuật tạc tượng đỉnh cao.Ngoài ra, ở chùa Phật Tích còn có bức tượng người chim đánh trống. Bức tượng này đã thể hiện sự thoát tục và khát vọng vươn tới ước mơ của con người. Ngay phía trước chùa có một dãy thú 10 con: trâu, tê giác, voi, ngựa… có kích thước lớn. Tất cả được làm từ đá đã thể hiện tài hoa của các nghệ nhân thời Lý. Ngày nay, chùa có tất cả 7 gian tiền đường để dùng vào mục đích đón tiếp khách gần xa. Chùa có 5 gian bảo thờ Phật, đức A Di Đà và các vị tam thế. Ngoài ra chìa còn có 7 gian nhà thờ Mẫu, 8 gian nhà Tổ.Lối đi lên chùa có ba bậc nền bạt vào sườn núi có kè bằng đá tảng dựng đứng như bức tường dài 58m. Ba bậc nền có cao từ 3–5m và khoảng giữa tường là lối đi bằng đá rộng 5m có đến 80 bậc. Bạn có thể tham quan chùa Phật Tích bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng phù hợp nhất là tháng Giêng. Lúc này, tiết trời mát mẻ, hoa cỏ sinh sôi nên rất phù hợp để vãn cảnh chùa. Ngoài ra, lễ hội Khán hoa mẫu đơn ở chùa Phật Tích còn là một trong những lễ hội diễn ra sớm và có quy mô lớn nhất Bắc Ninh. Lễ hội gắn liền với chuyện tình cảm động Từ Thức gặp tiên. Lễ hội chùa Phật Tích thường được diễn ra trong ba ngày, từ mồng 3 đến mồng 5 Tết âm lịch hàng năm. Ngày chính của hội là mồng 4. Từ ngày mồng 3 đã có rất đông du khách kéo về chùa để lễ Phật, cầu may mắn, bình an. Hàng vạn du khách đã nô nức có mặt tại đây dự lễ hội. Một lưu ý nho nhỏ là khi đến vãn cảnh chùa khách du lịch nên ăn mặc lịch sự, kín đáo để thể hiện lòng tôn kính đối với đạo Phật. Chùa Phật Tích thực sự là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử đã có từ hàng ngàn năm của dân tộc. Du khách đến đây không chỉ là để hành hương bái Phật mà còn để chiêm nghiệm những giá trị cổ xưa của dân tộc.
Bắc Ninh 2177 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm ở làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, đền Đô được xây dựng từ thế kỉ thứ 11 và còn được gọi tên là Cổ Pháp Điện hay đền Lý Bát Đế. Đền là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. Với diện tích hơn 31,000m2, đền Đô có 21 công trình lớn nhỏ được chia làm khu nội thành và khu ngoại thành và với trung tâm là đền thờ chính. Đến đây, bạn sẽ phải trầm trồ trước một cảnh quan rộng lớn với những công trình đại điện hoành tráng, hậu cung uy nghi, thuỷ đình thư thái và những văn bia tĩnh mịch. Trong đền chùa cổ kính, mùi hương trầm như lan toả khắp không gian và khiến ta suy tưởng về một triều đại anh hùng linh kiệt hào hùng. Trải qua nhiều triều đại, đền được nhiều lần tu sửa và mở rộng. Không chỉ sở hữu những giá trị văn hoá và lịch sử đặc sắc, đền Đô còn sở hữu kiến trúc cung đình dân gian độc đáo trong một tổng thể cảnh trí hữu tình và hài hoà với thiên nhiên. Đây cũng là một công trình kiến trúc tiêu biểu với nghệ thuật khắc đá, gỗ, tạc tượng với nhiều đường nét chạm khắc tinh xảo, công phu. Sự độc đáo trong kiến trúc ở đền Đô không mang tính giá trị nghệ thuật cao và phần nào thể hiện đậm nét giá lịch sử và văn hoá của triều đại Lý nói riêng và văn hoá lịch sử dân tộc nói chung. Hàng năm, lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15 và 16 tháng 3 Âm lịch nhân kỉ niệm ngày Lý Công Uẩn lên ngôi vua và ban “Chiếu dời đô”. Đây là một lễ truyền thống có từ lâu đời và đã trở thành một phong tục ăn sâu vào đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây. Lễ hội thu hút nhiều du khách đến dâng hương và tỏ lòng thành kính với các vị vua nhà Lý.
Bắc Ninh 2228 lượt xem
Tháng 4
Vào mỗi dịp đầu xuân, ai nấy cũng hứng khởi và chờ đón những lễ hội diễn ra hàng năm tại nhiều nơi. Và một trong số những lễ hội truyền thống nổi tiếng ai cũng biết chính là Hội Lim Bắc Ninh. Hội Lim là hội của những làng xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, là lễ hội lớn của vùng, thể hiện một cách sâu nhất văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ Kinh Bắc. Lịch sử Hội Lim được truyền miệng lại với rất nhiều phiên bản khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi – Mỵ Nương. Hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên cơ sở lễ hội truyền thống của các làng trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Duệ Đông) với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian hết sức phong phú. Như: hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và hát quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng. 40 năm sau, vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi. Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Do được mở rộng cả về diện tích lẫn quy mô nên phải nói rằng hội Lim là một lễ hội lớn và được tổ chức công phu, hoành tráng. Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu – người sáng lập tục hát Quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng 3 ngày (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động tập trung. Bởi vậy mà du khách cũng tập trung du lịch Bắc Ninh vào ngày 13 để có mặt tại hội Lim trong chính hội. Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội. Truyền thống xa xưa để lại một phong tục cuốn hút và say mê đặc biệt mà chỉ Bắc Ninh mới có, đó là các sinh hoạt văn hóa hát dân ca Quan họ – loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát dân ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) và khắp tại các chùa, đình. Hội hát Quan họ Bắc Ninh diễn ra ở bất cứ nơi đâu: trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Chỉ cần nơi đó có các liền anh, liền chị. Liền anh khăn xếp áo the, liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người hát Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao, là sự kết hợp nhuần nhuyễn, mê đắm của thơ cà và nhạc điệu nhằm bảy tỏ tình yêu trong sáng, hết lòng vì người kia, chung thủy một lòng ngóng chông của tình yêu đôi lứa. Nếu bạn có dịp được thưởng thức những khúc quan họ do chính những nghệ nhân mảnh đất Kinh Bắc hát, chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm khiến bạn “nhớ mãi không quên”.
Bắc Ninh 1995 lượt xem
Tháng 2
Nhắc đến Bắc Ninh không chỉ là nhắc đến những làn điệu dân ca đi sâu vào tiềm thức của người dân Kinh Bắc, mà còn là nhắc đến mảnh đất cổ lâu đời với nét truyền thống văn hóa đặc sắc. Nét văn hoá đó thể hiện qua các làng nghề như Tranh Đông Hồ, làng nghề Đúc Đồng, Gốm Phù Lãng… hay các địa điểm tâm linh như đền Đô, chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp. Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp) - quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010). Đây được coi là là ngôi đình cổ kính và nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc. Từ xa xưa, dân gian xứ Bắc đã có câu: "Thứ nhất là đình Đông Khang/ Thứ nhì đình Báng, vẻ vang đình Diềm" cũng là để ca ngợi vẻ đẹp kiến trúc và giá trị lịch sử văn hoá mà Đình Bảng đem lại. Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình. Công trình này đã mất gần 40 năm để xây dựng. Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam. Nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Đình có mái dài, cao, các đầu đao uốn cong vút, lợp ngói mũi hài dày bản, rộng khổ. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược. Đình làng Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ. Công trình đồ sộ nhất và quan trọng nhất là Đại đình (Bái đường). Đại đình hình chữ nhật, dài 20 m, rộng 14 m. Đình có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như tứ quý, tứ linh, thanh gươm, bầu rượu. Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế kỷ 17, đầu 18 là nghệ thuật cung đình lấn át nghệ thuật dân gian.
Bắc Ninh 2053 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Dâu còn có tên là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự. Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành. Chùa Dâu là công trình văn hóa tín ngưỡng có giá trị lịch sử về văn hóa hết sức lớn lao và sâu sắc, bao gồm giá trị lịch sử văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật. Năm 2013, chùa Dâu được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Quá trình hình thành và tồn tại của chùa Dâu gắn bó mật thiết với lịch sử phát triển của nước ta. Cùng với một số chùa lân cận, chùa Dâu tạo nên một trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam và khu vực. Đây là trung tâm Phật giáo được hình thành sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Trung Quốc thời kỳ nhà Hán là Bành Thành và Lạc Dương. Nhiều đại sư danh tiếng thời xưa đã từng tu hành, trụ trì ở chùa Dâu như: Mâu Bác ở thế kỷ II, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương ở thế kỷ III và Thiển sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở thế kỷ VI. Chùa Dâu còn là chùa Cả trong hệ thống chùa thờ Tứ Pháp, chùa Dâu thờ Thần Mây (Pháp Vân), chùa Thành Đạo thờ Thần Mưa (Pháp Vũ), chùa Phi Tướng thờ Thần Sấm (Pháp Lôi), và chùa Phương Quan thờ các lực lượng thiên nhiên của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và cũng là sự biểu hiện của cả tục thờ Mẫu, một tôn giáo bản địa thuần Việt. Chùa còn thờ “Đức Thạnh Quang” – biểu tượng của thần SiVa trong Ấn Độ giáo. Như vậy, chùa Dâu đã dung hội, cải tiến một cách điển hình các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa với các tôn giáo lớn trong khu vực nhưng vẫn mang đậm đà bản sắc dân tộc. Hội Dâu tổ chức vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch hàng năm, đây là lễ hội lớn của cả tổng Dâu xưa với nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo vẫn được duy trì. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa Dâu đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Đại tu toàn bộ các hạng mục công trình, tu sửa tháp Hòa Phong, sơn thếp hệ thống tượng, khôi phục Tam quan, giải phóng mặt bằng phía trước chùa để kè hồ, xây dựng tường bao bảo vệ di tích. Chùa Dâu gồm các hạng mục công trình: Tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, nhà Tả vu – Hữu vu, Tam Bảo, Hậu đường, hành lang và các công trình phụ trợ. Nhà Tiền thất gồm 7 gian, 2 chái, bên trong bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật. Nổi bật nhất trong các công trình của chùa là tòa tháp Hòa Phong. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng. Nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Bên ngoài tháp có tượng một con cừu làm bằng đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Trong tháp có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại Tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương. Tượng Pháp Vân được thờ trong nhà Thượng điện. Đây là một trong 4 pho tượng trong hệ thống tượng Tứ pháp vùng Dâu -Luy Lâu được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Khu vực nối Tiền thất và Hậu đường là nơi thờ Thập bát La Hán (18 đệ tử đắc đạo của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). Ngoài ra, các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện. Trải qua bao biến đổi, thăng trầm của lịch sử. Chùa Dâu là điểm đến của Phật tử của cả nước, du khách đến với chùa Dâu là về với đạo Phật và cùng chiêm ngưỡng những vẻ đẹp, giá trị mà ngôi chùa mang lại. Như cái tên bình dị, chùa Dâu ngôi chùa cổ bậc nhất xứ Kinh Bắc.
Bắc Ninh 2064 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Bắc Ninh là nơi nổi tiếng với những ngôi chùa linh thiêng lâu đời. Một trong số đó chắc chắn không thể không nhắc tới Chùa Bút Tháp. Chùa có kiến trúc vô cùng độc đáo sẽ là điểm đến lý tưởng nếu du khách muốn tìm về một chốn dung dị. Chùa nằm ngay khu vực ven sông Đuống, quanh chùa có dòng sông uốn lượn quanh co là khung cảnh vô cùng nên thơ. Chùa còn có tên khác là Ninh Phúc tự, thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong số ít những ngôi chùa còn giữ được vẻ đẹp sơ khai lúc ban đầu. Chùa Bút Tháp là một ngôi chùa cổ với nét kiến trúc vô cùng độc đáo tại Bắc Ninh. Ninh Phúc tự được cho xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 thời Hậu Lê. Kiến trúc xây dựng của chùa theo kiểu “Nội công ngoại quốc”.Tuy đã trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng chùa vẫn giữ nguyên vẻ đẹp cổ kính. Đây cũng là một trong những di tích lịch sử Quốc Gia mà du khách nên ghé tới. Đặc biệt bạn sẽ không muốn bỏ lỡ cơ hội tham gia lễ hội chùa Bút Tháp. Kiến trúc xây dựng chính của chùa quay về hướng Nam. Theo đạo phật đây là hướng thể hiện trí tuệ. Chùa được xây dựng theo bày trí cân xứng chặt chẽ. Khu trung tâm của tháp được xây dựng bao gồm 8 nếp nhà chạy song hành với một trục dọc theo mô hình đường thần đạo. Khu vực ngoài cùng tháp bút là Tam Quan, rồi đến Gác Chuông và các tòa thờ khác. Bên trái của chùa là nơi thờ tự Chiết Tuyết và tháp đá Báo Nghiêm bao gồm 8 mặt và 5 tầng cao đến 13m. Dọc hai bên tòa Tiền Đường là hai nhà bia và hai dãy hành lang được xây dưng chạy dọc theo chiều dài của ngôi chùa. Nếu có cơ hội được đến tham dự lễ hội chùa Bút Tháp, du khách nên dành thời gian tham quan một số địa điểm được đề xuất. Đảm bảo bạn sẽ có một chuyến du lịch tâm linh trọn vẹn. Đầu tiên là Tượng phật Quan Âm. Tượng phật là 1 trong 4 bảo vật quốc gia được Nhà nước công nhận được đặt tại chùa. Ngoài tượng Phật Quan Âm, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng: Bộ Tượng Phật Tam Thế, cùng Hương Án và tòa Cửu Phẩm Liên Hoa.Một trong những địa điểm được nhiều du khách đặc biệt quan tâm trong Chùa Bút Tháp đó chính là tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt. Pho tượng này đã có tuổi đời rất lâu năm được xác nhận điêu khắc vào năm 1656. Tượng có bề ngang là 2.1m và chiều cao 3.7m, độ dày là 1.15m. Được gọi là tượng phật nghìn tay nghìn mắt bởi tượng Quan Âm có tất cả là 11 đầu với 952 cánh tay ngắn và 42 cánh tay dài. Đây thật sự là một tác phẩm nghệ thuật độc nhất mang đậm ý nghĩa Phật Giáo. Thứ hai là Tháp Báo Nghiêm, Một địa điểm mà du khách nhất định phải ghé đến khi thăm Chùa Bút Tháp đó là tháp Báo Nghiêm. Tháp được đặt nằm ngay bên trong khuôn viên của chùa. Đây chính là nơi thờ tự Hòa thượng Chuyết Chuyết. Tháp Báo Nghiêm được tiến hành xây dựng từ năm 1647 thời vua Lê Chân Tông. Đây cũng là công trình được công nhận có tuổi đời lâu năm. Cửa chính của tháp cũng được xây dựng quay về hướng Nam với dòng chữ “Báo Nghiêm Tháp” ngay tại thân của công trình. Tháp có kiến trúc tương đối độc đáo xây dựng nhỏ dần từ thấp đến cao. Nhìn từ trên cao trông tháp Báo Nghiêm như một chiếc bút khổng lồ giữa bầu trời xanh.
Bắc Ninh 2030 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Văn Miếu Bắc Ninh là 1 trong 6 văn miếu ở Việt Nam, có giá trị lịch sử, văn hóa, phản ánh truyến thống khoa bảng của vùng quê Kinh Bắc qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước thuộc các triều đại phong kiến. Văn Miếu Bắc Ninh là niềm tự hào về truyền thống khoa bảng của quê hương và là một điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài tỉnh. Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng trên núi Phúc Sơn, thuộc khu 10 phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh. Văn miếu được xây dựng trước thời Nguyễn (muộn nhất vào thời Lê), để thờ phụng và tế lễ “Đức Khổng Tử” - người được tôn vinh là “Thánh sư” hay “Vạn thế sư biểu” và Tứ phối - các chư hiền của đạo Nho là Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử (các vị được phối thờ với Khổng Tử). Tổng thể công trình Văn Miếu Bắc Ninh hiện nay gồm: Cổng Nghi môn, toà Tiền tế 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Hậu đường là 2 toà Bi đình 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Tiền tế là 2 toà Tả vu - Hữu vu, tại sân chính giữa cổng Nghi môn và toà Tiền tế dựng bia bình phong. Hàng năm, vào ngày rằm tháng Giêng, tại Văn Miếu tổ chức lễ dâng hương có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo tỉnh để tưởng niệm các bậc tiền nhân, cầu mong quốc thái dân an, tỉnh Bắc Ninh ổn định phát triển, sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ. Nơi đây cũng thường đón tiếp các Đoàn học sinh giỏi quốc gia, quốc tế của tỉnh Bắc Ninh đến dâng hương, báo công sau mỗi kỳ thi. Cổng di tích được xây dựng Tam môn, cột trụ lồng đèn, hai trụ giữa đình đắp phượng tạo thành trái giành, hai trụ bên đặt nghê chầu. Xung quanh lồng đèn, các ô chính đắp nổi kênh bong Tứ linh Tứ quý. Tấm bia đá (bia bình phong) dựng giữa sân Văn miếu “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn miếu bi ký” (Bia ghi việc trùng tu Văn miếu Bắc Ninh); có kích thước lớn gần 10m2, được coi là bảo vật của Văn miếu. Trên tấm bia ca ngợi vai trò, ý nghĩa của Văn Miếu, cũng như tôn vinh những bậc hiền tài. Trung tâm di tích là tòa Tiền tế gồm 5 gian 2 dĩ, dựng trên nền bó gạch cao hơn sân 55 cm. Phía trước mở cửa bức bàn 3 gian giữa, hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ. Hai hồi tường xây gạch kiểu bình đầu dật cấp, nối cánh phong, cột trụ lồng đèn, đình trải giành. Bờ nóc xây chỉ, hai đầu đắp rồng hóa, chính giữa là đôi rồng chầu mặt nguyệt. Hậu đường kế tiếp sau Tiền đường và nối với nhau bằng một gian giải muống tạo thành chữ Công. Nhà Hậu đường 5 gian được đục chạm Tứ quý. Hậu đường là nơi tôn thờ Chu Công, Khổng Tử, Tứ Phối. Nối liền hai đầu hồi nhà Hậu đường, bên phải dựng nhà bia, bên trái nhà Tạo soạn, mỗi công trình 4 gian, dựng trên nền bó gạch thấp hơn Hậu đường. Kiến trúc theo lối kéo kìm, qua giang vợt. Hai nhà Tả vu, Hữu vu dựng dọc hai bên sân trước Tiền đường, mỗi dãy 4 gian, hai dĩ, kiến trúc đơn giản kiểu bình đầu bít đốc, tường xây gạch, mái lợp ngói mũi, mở cửa cánh ván gian giữa. Nét đặc sắc nổi trội trong số toàn bộ những giá trị còn tồn tại của Văn miếu Bắc Ninh chính là 15 tấm bia đá. Trong đó, 12 bia “Kim bảng lưu phương” được dựng năm 1889, lưu danh gần 700 vị đại khoa quê hương Kinh Bắc là những người làm rạng rỡ truyền thống hiếu học khoa bảng và có công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 2062 lượt xem
Khu lăng mộ và đền thờ các vị Vua triều Lý là chứng tích lịch sử về làng Cổ Pháp xưa và Đình Bảng ngày nay; là đất phát tích, tôn miếu thờ các vị vua triều Lý và còn là nơi an táng của các vị tiên vương và hoàng tộc nhà Lý. Triều Lý (1009 - 1225), từ khi Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010), trải qua 8 đời vua, truyền ngôi được 216 năm, là giai đoạn nhà nước phong kiến độc lập tự chủ,vững mạnh, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị. Khu di tích là công trình kiến trúc đặc sắc, với nghệ thuật điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, tạc tượng thờ, kỹ thuật xây dựng đều đạt ở mức tinh xảo và nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể được bảo lưu: tín ngưỡng thờ cúng, lễ hội, phong tục, tập quán.... Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn là di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Di tích có nhiều tên gọi khác, như Đền Đô, Cổ pháp Điện/Đền thờ Lý Bát Đế và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Thọ lăng Thiên Đức hay Sơn lăng cấm địa); bao gồm 2 khu vực chính là: Đền Đô và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa). 1. Đền Đô: tổng diện tích 31.250m2, được phân chia thành khu nội thành và ngoại thành. Ngoại thành: rộng 26.910m2, gồm các hạng mục hồ bán nguyệt, nhà thủy đình, nhà văn chỉ bên phải, nhà võ chỉ bên trái. Nội thành: rộng 4.340m2, được chia thành khu nội thất và ngoại thất. Nội thất gồm: hậu cung, nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà bia và nhà để 8 kiệu thờ, nhà để 8 ngựa thờ ở hai bên. Ngoại thất gồm: phương đình, đền Vua bà, nhà chủ tế, nhà khách, nhà trưng bày, hội trường, ngũ long môn, sân đền, tượng voi, sấu đá… 2. Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa) Khu lăng mộ là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều Lý, cách đền Đô khoảng 800m về phía Đông Bắc, nằm ở khu Ao Sen, thuộc cánh đồng phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngày nay, khu lăng mộ các vị vua nhà Lý bao gồm những công trình sau: - Lăng vua Lý Thái Tổ - Lăng Lòng Chảo - Lăng Cả (vua Lý Thái Tông) - Lăng Hai (còn gọi là lăng Con) thờ vua Lý Thánh Tông - Lăng Con Voi (vua Lý Nhân Tông) - Lăng Đường Gio (vua Lý Thần Tông) - Lăng Đường Thuấn (vua Lý Anh Tông) - Lăng vua Lý Cao Tông - Lăng vua Lý Huệ Tông - Lăng bà Nguyên Phi Ỷ Lan - Lăng Phát Tích (lăng Bà Phạm Thị) Hiện vật ở di tích đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn lại không nhiều, có thể kể đến như 8 bài vị ghi tên các vua Lý được sơn son thếp vàng, chạm khắc vào thời Lê, đỉnh đồng, hạc đồng và một số bát đĩa có niên đại thời Lê. Đặc biệt còn một bia đá, niên đại 1604 do Tiến sỹ Phùng Khắc Khoan soạn ghi công đức các vua Lý. Ngoài ra, các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian và thờ các vị vua triều Lý vẫn được duy trì và trở thành truyền thống ở đền Đô. Hằng năm ở Đình Bảng diễn ra 3 lễ hội chính: - Hội chùa vào ngày mùng 7 tháng Giêng. - Hội đình vào ngày 15 tháng Hai, diễn ra 2 ngày chính (từ ngày 14 đến ngày 15 tháng Hai). - Hội đền vào ngày 15 tháng Ba, được diễn ra tại đền Đô. Với giá trị đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bắc Ninh 2060 lượt xem
Đền Vua Bà Thủy Tổ (khu Viêm Xá, phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh) là nơi duy nhất trong 49 làng Quan họ gốc của Bắc Ninh, Bắc Giang thờ vị Thủy tổ Quan họ. Đền được cấp bằng công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1994. Căn cứ tư liệu tại địa phương, Đền Vua Bà vốn được khởi dựng từ thời Lê, đã qua nhiều lần tôn tạo. Hiện nay, di tích được trùng tu, tôn tạo với quy mô bề thế, khang trang tố hảo, bố cục gọn gàng chặt chẽ, hoà nhập với môi trường thiên nhiên xung quanh, công trình của di tích được làm bằng các chất liệu truyền thống, bền vững mang đậm phong cách của Việt Nam. Đền Vua Bà có kết cấu kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 2 tòa: Đại bái và Hậu cung. Trong đó, tòa Đại bái gồm 3 gian 2 chái bình đầu bít đốc, mái lợp ngói, trên đỉnh bờ nóc có đắp đôi rồng chầu. Tòa Hậu cung gồm 2 gian chạy ngang cùng hướng với tòa Đại bái, mới được trùng tu năm 2018, là công trình chào mừng kỷ niệm 10 năm vinh danh Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Đền thờ Vua Bà là nơi duy nhất trong 49 làng Quan họ gốc của Bắc Ninh, Bắc Giang thờ vị Thủy tổ Quan họ, người sản sinh làn điệu Quan họ và là người khai dân lập ấp dạy dân làm ăn, dạy dân làng trồng lúa, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải, nghề này ngày nay vẫn còn duy trì và phát triển thành nghề truyền thống của làng Viêm Xá, bà được phong là Vương mẫu giới phúc. Sau này qua nhiều thế kỷ, nhân dân Viêm Xá còn thờ bà ở trong đình của mình như một vị thần hoàng. Đình Diềm hiện còn giữ được 5 ngai thờ của 5 vị thần hoàng và sắc phong của 5 vị, trong đó có bà. Bà được phong “Đương cảnh thành hoàng thiên tử Nhữ Nương nam nữ Nam Hải Đại Vương”. Hàng năm, cứ đến ngày 6, ngày 7 tháng Hai, gọi là ngày mùa xuân chơi hoa của Đức Vua Bà. Ngày 6/2 là ngày sái tảo, làm lễ nhập tịch tại đền, tế lễ và hát Quan họ tại đền. Ngày 7/2 là ngày chính lễ. Trong ngày chính lễ có rước và hội đảm bảo phong tục truyền thống, an toàn tiết kiệm. Năm 2014, lễ hội làng Diềm được nhà nước công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Để bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, hàng năm vào ngày 10 tháng Giêng cơ quan chức năng cùng tập trung về đền tổ chức dâng hương, mở đầu cho Cuộc thi hát quan họ đầu Xuân, được đông đảo quần chúng tham gia. Qua cuộc thi, Ban tổ chức đã chọn được nhiều nhân tài xuất sắc, đảm bảo duy trì công tác truyền dạy di sản văn hóa quan họ cho thế hệ mai sau. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 2037 lượt xem
Chùa Hàm Long (hay Long Hạm) thuộc khu Thái Bảo, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, được khởi dựng từ thời Lý (khoảng thế kỷ XII). Theo con mắt dân gian thì chùa nằm ở thế hàm rồng, nghĩa là dưới hàm một con rồng lớn dài 9 khúc, đó chính là cả dãy Lãm Sơn. Đây là trung tâm Phật giáo lớn, tương truyền là chỗ tu hành của sư Dương Không Lộ. Tọa lạc trên diện tích đất hơn 9.000m2, chùa có vị trí cảnh quan đẹp, hòa hợp với thiên nhiên, được mệnh danh là danh lam cổ tự có lịch sử lâu đời, các công trình kiến trúc được thiết kế, trang trí theo lối truyền thống, chạm khắc tinh xảo, nghệ thuật. Ngày nay, Chùa Hàm Long là trung tâm sinh hoạt tâm linh của nhân dân địa phương và thập phương quanh vùng, nơi tôn thờ phật pháp, là nơi hướng chúng sinh đến với điều thiện tránh xa điều ác, sống từ bi hỷ xả. Ngôi chùa hiện nay có quy mô lớn gồm các công trình: cổng Tam Quan, Tam Bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Khách, nhà Tăng và các công trình phụ trợ. Tam bảo chùa được làm bằng gỗ lim, kết cấu hình chữ Đinh, gồm Tiền đường 7 gian, kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi cốn mê” và 3 gian Thượng điện kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi”. Chùa thờ 7 vị Tổ, thờ Mẫu, thờ ông Đỗ Trọng Vỹ, ông nổi tiếng là người thông minh hiếu học và sau trở thành vị quan thanh liêm, nhà giáo, nhà văn hóa, đặc biệt ông là người có công khởi dựng Văn Miếu Bắc Ninh. Sau khi về già ông về chùa Hàm Long tu trì, sau khi ông mất được thờ phụng tại đây. Hiện nay, chùa Hàm Long vẫn duy trì nghi thức gửi vong cho các vong linh mất vào các giờ hung, giờ phạm. Để tránh tai ương, tật ách, gia đình của vong linh thường gửi vong lên chùa Hàm Long để sớm được trì trú, phổ độ, để các vong linh sớm được vãng sinh, siêu thoát về cõi cực lạc. Các công trình kiến trúc trong khuôn viên Chùa được chạm khắc trang trí tinh xảo, nghệ thuật với một diện mạo khang trang tố hảo. Chùa có ngày hội vào ngày 14 tháng 2 âm lịch, ngoài ra trong năm còn các ngày như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, tuần Rằm, Mùng một, dịp lễ hội truyền thống, Tết nguyên đán. Chùa cũng đón nhiều đoàn khách trong nước và nước ngoài, các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về thăm lễ Phật. Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, ngày 18/01/1988. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 2025 lượt xem
Từ đường dòng họ Nguyễn - cũng chính là đền thờ Danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên ở xóm 7 (nay là khu 7 phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên nổi tiếng với cách trị bệnh cứu người dị thường và chủ thuyết Gia đạo - một giáo lý mà tầm ảnh hưởng còn đến hôm nay trong đời sống tinh thần của con cháu dòng tộc. Đền thờ danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên có tên gọi Bồ Tát Linh Từ, dựng trên khu đất rộng giữa làng Đông Pheo xã Đại Vũ, Tổng Đỗ Xá, huyện Sóc Giang, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc ngày trước. Đền quay hướng Đông Nam, trước mặt là dải đồng chiêm trũng mang tên Đồng Nhân; có sông Ngũ Huyện uốn khúc bao quanh, xa hơn là núi Ba Huyện, Mộc Hoàn, Bát quả Bồ Sơn. Sau lưng là núi Vũ Sơn bên dòng Như Nguyệt. Đây vốn là sinh từ và sinh phần của Thiên sư đại Bồ tát - đạo hiệu của danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên. Theo những tư liệu lịch sử, đền thờ Nguyễn Phúc Xuyên được xây dựng vào thế kỷ thứ XVIII. Gia phả dòng họ cho biết, ban đầu đền là ngôi nhà của cụ Nguyễn Phúc Xuyên, sau khi cụ mất, ngôi nhà trở thành đền thờ. Năm 1768, cháu 4 đời ngành Quý chi là Nguyễn Phúc Giám cho sửa chữa lại. Qua thời gian, di tích này đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần, ngày càng khang trang tố hảo với quy mô gồm: Cổng tam môn uy nghi, đẹp đẽ; toà chính gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung; hai bên bố trí tả vu, hữu vu, nhà mẫu, phía sau là lăng mộ của ngài. Có hồ nước trước mặt, mùa về rực sắc sen, súng. Nét độc đáo của di tích chính là ở lối kiến trúc: Trước là đền, sau là lăng mộ. Lối kiến trúc này bắt đầu có từ thời Lê. Đó là hình thức chịu ảnh hưởng của thứ đạo “tiêu dao” quên lãng cảnh trần ai. Toà thờ chính có kiến trúc hình chữ Đinh gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ lim, kết cấu vì nóc theo kiểu giá chiêng, vì hai gian bên theo kiểu chồng giường. Trên các cấu kiện kiến trúc đều được chạm khắc rồng mây, hoa lá nghệ thuật và được bài trí hệ thống đại tự, hoành phi, các bản khắc chữ Hán dầy nhiều tầng lớp. Nguyễn Phúc Xuyên - tự là Tế An, đạo hiệu là Thiên sư đại Bồ tát, còn có đạo hiệu là Hàn Thiết, sinh năm Quý Sửu, niên hiệu Hoằng Định thứ 13 đời vua Lê Kính Tông và Chúa Trịnh Tùng (1613), trong một gia đình dòng dõi Nho học, hâm mộ đạo Thiền và làm thuốc tại làng Đông Pheo, xã Đại Vũ, tổng Đỗ Xá, huyện Sóc Giang, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay là phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh). Tổ năm đời của ông là Cử nhân Nguyễn Tiến Tư, hiệu là Thuần Chính, cha của ông là Nguyễn Phúc Khánh. Theo thế phả và truyền kể của dòng họ, tiền tổ của họ Nguyễn Phúc ở Đông Pheo là danh nhân văn hoá - quốc sư triều Lý Nguyễn Minh Không - một tên tuổi lớn trong làng Thiền Việt Nam, với khá nhiều huyền tích xung quanh hành trạng được dân gian thêu dệt về việc chữa bệnh cho vua Thần Tông và quyên đồng đúc chuông, tạo nên 1 trong An Nam tứ đại khí. Thánh tổ Nguyễn Phúc Xuyên lúc mới sinh diện mạo khôi ngô, lớn lên tư phong đĩnh đạc, khí chất thông minh, là người điềm tĩnh, trong sạch, đoan chính, không làm việc gì khác ngoài việc học hành. Qua đó, tri thức dần mở rộng, vượt xa hẳn người thường. Nhưng ông không lấy đó làm đường tiến thân, mà chuyên chăm theo đạo Phật, sớm chiều đèn nhang thành kính. Cùng với đó, việc để tâm nghiên cứu về triết học Lão Tử đã cho ông sự thông tuệ những huyền vi của tạo hoá, và biết nhiều phương pháp thần bí trong hành thuật chữa bệnh cứu người sau này. Ông được triều đình Lê - Trịnh phong là Hộ quốc Thiền sư Thánh tổ Bồ Tát, được người đời tôn là Hoạt Phật (tức Phật sống). Không những giỏi cả Phật học, Nho học và triết học Lão Tử; mà ông còn hợp nhất tư tưởng 3 đạo Phật - Lão - Nho mà đề xướng đạo mới - gọi là Đạo nhà, hay Gia đạo. Đây là một sáng tạo của Nguyễn Phúc Xuyên nhằm thông qua sự vận dụng tinh thần tu nhân, hành thiện, mà nhập thế giúp đời trong hoàn cảnh lịch sử thời Lê - Trịnh đầy rối ren, loạn lạc. Nguồn: Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1971 lượt xem
Chùa Đọ Xá tọa lạc ở vị trí trung tâm của khu phố Đọ Xá, phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh. Chùa Đọ Xá được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII. Chùa thờ Phật Tổ và các vị La Hán. Chùa Đọ Xá được xếp hạng là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1992. Chùa có vị trí cảnh quan, kiến trúc đẹp, được thiết kế, trang trí theo lối truyền thống, chạm khắc trang trí tinh xảo, nghệ thuật. Hệ thống tượng Phật cùng các đồ thờ tự trong chùa mang phong cách đặc trưng của mỗi thời kỳ và tài năng của các nghệ nhân chế tác. Tòa Tam bảo chùa Đọ Xá hiện có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Tiền đường 5 gian, Thượng điện 4 gian. Hệ thống cửa được mở ở cả 5 gian hướng Tây Nam theo kiểu cửa bức bàn. Từ sân tới nền tòa Tam bảo là 7 bậc cửa làm bằng đá xanh. Phần mái chùa lợp ngói mũi, trên đỉnh nóc đắp nổi tên chữ của chùa “Quang Minh tự” bằng chữ Hán. Chùa được xây theo kiểu bình đầu bít đốc tay ngai. Hai bên hồi phía trước cửa Tam bảo là hai cột đồng trụ, trên cột đắp các câu đối bằng chữ Hán. Bên cạnh công trình chính là tòa Tam bảo, trong khuôn viên của chùa còn có các công trình Tam quan, nhà Tổ, nhà mẫu và nhà ở của sư đều được xây dựng theo dáng vẻ truyền thống, hài hòa với kiến trúc của công trình chính với vẻ đẹp khang trang, tố hảo. Hiện trong chùa còn bảo lưu được một số hiện vật tiêu biểu như: Bia “Linh bi đỗ tự bi ký”, niên đại Vĩnh Thịnh 2 (1706); Bia “Hậu Phật bi ký”, niên đại Tự Đức 29 (1875); Bia “Hậu Phật bi ký”, niên đại Tự Đức 29 (1875); Bia Hậu Phật bi ký, niên đại Tự Đức 29 (1876); 1 chuông đồng đúc năm 1898; các pho tượng Phật thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Hội chùa Đọ Xá diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng Giêng âm lịch. Ngôi chùa từ lâu đời là trung tâm sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của biết bao thế hệ người dân quê hương nơi đây, góp phần giáo dục và phát huy tình đoàn kết cộng đồng làng xã, giúp con người hướng thiện trừ ác. Chùa Đọ Xá và Đình Đọ Xá nằm liền kề nhau tạo thành một quần thể kiến trúc với không gian mở không có tường bao mà để thông thoáng với xung quanh. Theo văn bia, Đình Đọ Xá được khởi dựng từ lâu đời, đến thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 18), đình được trùng tu với quy mô rất lớn chạm khắc “tứ linh tứ quý) lộng lẫy. Nhưng trải lâu năm đình đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Hiện đình Đọ Xá là công trình kiến trúc mới được trùng tu, nhưng vẫn còn bảo lưu được những mảng chạm khắc thời Lê Trung Hưng với “Rồng mây” tinh xảo nghệ thuật. Đình Đọ Xá còn bảo lưu được những tài liệu cổ vật quý giá là hệ thống thần tích thần sắc, bia đá đã cho biết khá rõ về lịch sử ngôi đình, cũng như người được thờ. Bản “Thần tích Thần sắc” của đình Đọ Xá được kê khai năm 1938, được sao chụp lại của Viện Thông tin Khoa học Xã hội cho biết: Đình Đọ Xá thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương Hát) có công đánh giặc Lương ở thế kỷ 6 và còn ghi chép lại nội dung một số đạo sắc phong của Thánh Tam Giang được thờ ở đình làng. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1966 lượt xem