Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Thác Bản Giốc là một trong những thác nước nổi tiếng không chỉ ở nước ta mà còn được bạn bè quốc tế biết đến, địa điểm này ngày càng thu hút được rất nhiều khách du lịch Cao Bằng đến chiêm ngưỡng. Hãy nghe Thái Thùy Trâm (Hà Tĩnh) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Khi đến với Cao Bằng, du khách không thể bỏ qua một khung cảnh thiên nhiên hữu tình mê đắm lòng người – Thác Bản Giốc. Đây cũng là một trong những địa điểm nổi tiếng của vùng đất này khiến bất cứ ai đã có dịp đến đây không khỏi choáng ngợp. Sự kỳ vĩ của thiên nhiên xen lẫn sự thơ mộng không phải nơi nào cũng có được. Bản Giốc được ví như một tấm lụa trắng mềm mại nằm trên màu xanh mướt của núi rừng biên giới. Tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp nơi trần thế. Thác Bản Giốc đẹp hút hồn du khách (ảnh sưu tầm)
Thác Bản Giốc nằm trên dòng chảy của sông Quây Sơn, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy về hướng biên giới hai nước rồi vào lãnh thổ Việt Nam tại Pò Peo thuộc xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh. Từ xã Ngọc Khê, sông chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, khi đến xã Đàm Thuỷ, dòng sông lượn quanh dưới chân núi Cô Muông rồi qua các cánh đồng của Đàm Thuỷ, qua bãi ngô trên bản Giốc, quay trở lại đường biên giới rồi tách ra thành nhiều nhánh. Lòng sông ở đó đột ngột trụt xuống khoảng 35 m, tạo thành thác Bản Giốc. Sau khi đổ xuống chân thác, sông quay hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc. Vẻ đẹp khiến người ta phải say đắm (ảnh sưu tầm)
Thác Bản Giốc là thác nước tự nhiên lớn nhất, hùng vĩ nhất khu vực Đông Nam Á. Thác bao gồm cả thác chính và phụ với tổng chiều rộng là 208m, cao 70m, chia làm 3 tầng. Chính giữa là dòng chảy chính, nước tuôn ào ạt quanh năm. Xung quanh có vô số dòng chảy phụ. Khối nước lớn đổ xuống qua nhiều tầng đá vôi, tạo thành một màn bụi nước trắng xóa.
Ở giữa dòng chính có một mô đá rộng phủ đầy cây đã xẻ dòng nước thành 3 luồng như ba dải lụa trắng. Dưới chân thác là mặt sông Quây Sơn phẳng lặng như gương, nước trong xanh soi bóng núi mây trời. Hai bên bờ là ruộng đồng xanh tốt của người Tày, Nùng sinh sống lâu đời ở xóm Bản Giốc. Nhìn từ trên xuống thác Bản Giốc như một bức tranh kì vĩ (ảnh sưu tầm)
Vẻ đẹp của Thác Bản Giốc được phô bày rõ nhất là vào mùa mưa, khi lưu lượng nước chảy đều cả dòng chính lãn dòng phụ. Đây là thời điểm thác Bản Giốc mang trong mình vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội. Nước thác cuồn cuộn, tung bọt trắng xóa, ngỡ như làn mây trời đang lũ lượt kéo về khi mưa đến. Từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau là mùa khô. Lúc này, dòng nước hiền hòa và thanh bình hơn, các dòng chảy phụ giảm tốc nhô ra các ghề đá xanh rêu. Lúc này, thác Bản Giốc mang trên mình nét đẹp yên bình, dòng nước xanh trong vắt, lại kết hợp với mùa lúa chín vàng trên những thửa ruộng bậc thang tầng tầng lớp lớp nối tiếp nhau dưới chân thác tạo nên một khung cảnh không thể lãng mạn hơn, đẹp tựa một bức họa muôn màu. Du lịch tại thác Bản Giốc (ảnh sưu tầm)
Với nét đẹp thiên nhiên quyến rũ hòa cùng vẻ thanh bình của làng quê, nơi đây đã được công nhận là thắng cảnh cấp Quốc gia từ 1997. Những năm gần đây, được sự quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng và xúc tiến quảng bá tiềm năng; khu du lịch thác Bản Giốc ngày càng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước tìm tới thưởng ngoạn.
Du lịch Cao Bằng chưa bao giờ hết thú vị bởi mảnh đất núi non Đông Bắc này ẩn chứa vô vàn những điều thú vị khiến du khách cứ muốn tiếp tục khám phá và trải nghiệm. Trong số đó không thể không nhắc tới động Ngườm Ngao – một trong những hang động đẹp nhất đất nước, là món quà vô giá được trao tặng từ tạo hóa. Động Ngườm Ngao nằm ở bản Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Động được một nhà thám hiểm người Pháp phát hiện ra vào năm 1921 (thế kỷ XX). Theo khảo sát của hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh năm 1995, hang động này có tổng chiều dài 2.144m, có 3 cửa chính: Ngườm Ngao, Ngườm Lồm và Bản Thuôn. Để đến được động Ngườm Ngạo, bạn cần vượt qua 89km đường núi, qua đèo Mã Phục, đèo Khau Liêu. Chuyến du lịch Cao Bằng của bạn sẽ vô cùng thiếu sót nếu bạn không ghé Thác Bản Giốc kết hợp thăm quan Động với khoảng cách của hai điểm này chỉ khoảng 3km. Động Ngườm Ngao dài khoảng 2.144m nhưng mới chỉ khai thác được gần 980m, bên trong động gần như còn nguyên sơ với hàng trăm hình thù độc đáo, hấp dẫn. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, Ngườm Ngao là động đá vôi được hình thành cách đây 300 triệu năm trước công nguyên. Cùng với thời gian, những nhũ đá và măng đá đã tạo nên những khung cảnh thật sinh động, kì thú khiến con người phải thán phục, kinh ngạc. Theo tương truyền, xưa kia trong động có rất nhiều hổ dữ sinh sống nên người dân tộc Tày mới đặt tên động là Ngườm Ngao với ý nghĩa là: Động Hổ. Tuy nhiên có thuyết cho rằng những tiếng gầm rú được phát ra nhờ tiếng nước chảy từ suối trọng động tạo lên nghe giống tiếng gầm của Hổ rữ vì vậy người dân đặt tên động là Ngườm Ngao. Động Ngườm Ngao cũng như bao động khác, được tạo thành do sự phong hoá lâu đời của núi đá vôi. Chỉ cần những bước đầu tiên vào trong động, chúng ta sẽ có cảm giác như lạc vào một thế giới khác, tách biệt với hẳn thế giới bên ngoài. Phải mất nhiều thời gian thì những hình thù độc đáo trong động mới được định hình, nào là những nhũ đá nằm dọc, nhũ đá nằm ngang, nhũ đá có hình thù rõ ràng, lại có những nhũ đá mà chỉ những người ưa tưởng tượng mới nhìn ra tạo hình. Khám phá Động Ngườm Ngao, du khách còn có thể phát hiện được vô vàn hình thù đặc biệt phía trong hang, những hình ảnh ruộng bậc thang, giường tiên, vịnh Hạ Long thu nhỏ, tượng ba ông Phúc – Lộc – Thọ, núi vàng, núi bạc… cũng được kiến tạo thật đặc biệt. Động Ngườm Ngao còn gắn với rất nhiều sự tích và truyền thuyết, trong đó có sự tích về đài sen úp ngược. Khi vào động Ngườm Ngao, nếu để ý kỹ, bạn sẽ thấy ở giữa hang là nhũ đá hình đài sen úp ngược. Chuyện kể rằng, ngày xưa có một vị sư ngồi trên đài sen tu mãi mà không thành chính quả, vì quá buồn chán, phẫn chí nên ngài đã úp ngược đài sen xuống, còn mình thì biến thành cột đá đứng bên cạnh đài sen úp ngược đó. Cũng dễ hiểu vì sao người ta lại nói rằng bạn sẽ choáng ngợp ngay từ giây phút đầu tiên bước chân vào động. Nhiệt độ trung bình trong động khoảng 15-20 độ nên luôn khiến cho bạn có cảm giác mát mẻ và thoải mái, chênh lệch hẳn với nhiệt độ bên ngoài, nhất là khi bạn du lịch động Ngườm Ngao vào mùa hè. Đặc biệt trong động Ngườm Ngao, nơi có khe hở thông lên trời, vào đúng 14 giờ chiều ngày 22 tháng 4 hàng năm, sẽ có 3 luồng ánh sáng gặp nhau làm một khoảng lòng động rực sáng như ban ngày trong vài phút. Đây là một hiện tượng thiên nhiên đẹp mắt và rất nhiều du khách du lịch phải trầm trồ về ánh sáng rực rỡ nơi động Ngườm Ngao vào khoảnh khắc này. Du lịch Cao Bằng tức là trải nghiệm những gì thuộc về thiên nhiên nhất, những khung cảnh có vẻ đẹp tuyệt mỹ đến mê lòng. Chắc chắn vẻ đẹp của động Ngườm Ngao sẽ khiến bạn “nhung nhớ” không muốn trở về.
Cao Bằng 2123 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thác Bản Giốc nằm cách thành phố Cao Bằng khoảng 90km và cách trung tâm thủ đô Hà Nội 400km, thuộc địa phận xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh. Xuất phát từ thành phố Cao Bằng bạn có thể đi theo hướng Trà Lĩnh – Tống Cọt để tới bản Giốc. Với những người đam mê phượt có thể lựa chọn con đường qua đèo Mã Phục vì phong cảnh núi rừng trên đường đi rất đẹp và thu hút. Khí hậu ở thác Bản Giốc Cao Bằng được chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Thời điểm mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 9. Đây cũng là thời điểm ngọn thác tuôn nước, đổ bọt trắng xoá, rất thích hợp cho những chuyến đi thác Bản Giốc, đặc biệt là vào thời điểm tháng 8 – tháng 9. Thác vào mùa khô lại mang một sắc thái hoàn toàn khác. Thời điểm này, thác Bản Giốc Cao Bằng khá yên bình, những cánh đồng lúa chín vàng dưới chân thác tạo nên một khung cảnh lãng mạn , nhưng cũng rất yên bình. Khi đến Thác Bản Giốc, bạn có thể thưởn thức các món đặc sản như: Rau dạ hiến, rau bò khai, bánh coóng phù, hạt dẻ Trùng Khánh, phở chua, cháo nhộng ong, chè dây, chè đắng, bánh khảo, mận Bảo Lạc, lê Đông Khê, cá hồ Thang Hen, măng chua, lạp xườn, vịt quay, lợn sửa quay…
Cao Bằng 2036 lượt xem
Từ tháng 6 đến tháng 9
Vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén là một khu rừng đặc biệt nằm trong hệ thống công viên Non nước Cao Bằng. Nơi đây được UNESCO công nhận là Công viên Địa chất toàn cầu bởi hệ thống địa chất đặc biệt với những dãy núi cao, nhiều khoáng sản quý hiếm và có hệ sinh thái đa dạng, nhiều loài động thực vật quý hiếm. Diện tích vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén trải dài trên địa bàn của 5 xã Thành Công, Hưng Đạo, Quang Thành, Phan Thành và Tĩnh Túc thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng và cách trung tâm thành phố Cao Bằng khoảng 73km. Đây là nơi có quan cảnh thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành và đặc biệt có băng tuyết vào mùa đông nên rất lý tưởng cho phát triển du lịch sinh thái. Phia Oắc - Phia Đén nằm trong khu vực công viên địa chất toàn cầu nên địa hình nơi đây cũng rất đa dạng, phong phú từ những thung lũng trũng xuống như lòng chảo sâu, những dòng sông uốn lượn quanh co tạo nên khung cảnh nên thơ hữu tình đến những dãy núi cao vời vợi tạo nên một khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ. Phia Oắc - Phia Đén là tên hai đỉnh núi cao trong khu vườn quốc gia. Đỉnh núi Phia Đén cao 1.391m và đỉnh núi Phia Oắc có độ cao đến 1.931m, được ví như “nóc nhà” phía tây của tỉnh Cao Bằng. Ngoài ra, trong khuôn viên vườn quốc gia này cũng có rất nhiều ngọn núi cao ấn tượng khác như đỉnh Tam Loang cao 1.446m, đỉnh núi Niot Ti cao 1.574m. Ngoài ra, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén còn có cấu tạo địa chất đa dạng và đặc biệt với sự đan xen giữa các loại đá lục nguyên, đá vôi và đá granit tạo nên nhiều loại khoáng sản quý hiếm như: bạc, vàng, thiếc, vonfram... Nơi đây được phân thành 3 khu vực chính: khu bảo vệ nghiêm ngặt, khu phục hồi sinh thái và khu dịch vụ hành chính, với các thảm thực vật đa dạng như rừng á nhiệt đới mưa mùa, rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và một kiểu rừng nguyên sinh đặc trưng của miền Bắc Việt Nam đó là rừng lùn hay còn gọi là rừng rêu. Trong khuôn viên vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén có đến 1.287 loài thực vật đa dạng, trong đó có đến 90 loài thực vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao, đang được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam như là thiết sam núi đá, vù hương, sến mật, thông pà cò, lát hoa và nghiến… Hơn nữa, trên ngọn núi Phia Oắc còn tồn tại rất nhiều loài dược liệu quý của Việt Nam như thất diệp nhất chi hoa, đông trùng hạ thảo, sâm núi… Không chỉ đa dạng về thực vật,Phia Oắc - Phia Đén còncó hệ sinh thái động vật phong phú với 496 loài động vật có xương sống khác nhau và hàng nghìn loài động vật không xương sống, côn trùng… Đặc biệt, có tới 58 loài trong rừng sinh thái này thuộc nhóm động vật quý hiếm, bao gồm 30 loại thú có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 12 loài bò sát, trong đó có 12 loài ở hạng cực kỳ quý hiếm cần được bảo tồn. Đây là nguồn tài sản vô cùng quý hiếm , có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn cao. Chính vì thế, ngoài mang khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén còn là khu bảo tồn được tỉnh Cao Bằng và nhà nước chú trọng. Có thể nói thiên nhiên đã vô cùng ưu ái khi ban tặng cho vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén một bầu không khí trong lành và mát mẻ suốt bốn mùa. Sự hòa quyện của những thảm thực vật xanh thăm thẳm cùng với núi non trùng điệp, những đám mây trắng lững lờ bay tạo nên một khung cảnh thiên nhiên nên thơ, đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Những ngày trời trong, đứng trên đỉnh núi Phia Oắc, du khách có thể nhìn thấy quang cảnh núi non hùng vỹ. Đặc biệt, với đặc trưng khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình thấp, độ ẩm cao, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén như là thiên đường của các loài hoa với màu sắc rực rỡ, mang vẻ đẹp hoang dã, mê hoặc, được nhiều du khách ca ngợi là “nàng tiên ngủ quên” của núi rừng Đông Bắc. Rải rác xung quanh vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén là những làng bản, những dòng suối, những triền đồi, những thửa ruộng bậc thang được đồng bào dân tộc trồng lúa, những thửa ngô, sắn, những rừng chè bao la… tạo nên những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống. Hơn nữa, vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén vẫn còn dấu tích các khu biệt thự cổ hay các nhà nghỉ mang phong cách châu Âu của các công chức Pháp xưa để lại nên bạn có thể tham quan các công trình kiến trúc châu Âu cổ tại đây nữa đấy. Ngoài ra, du khách có thể tham quan các địa điểm du lịch khác như di tích đồn Khay Phắt, làng dệt thổ cẩm in sáp ong của dân tộc Dao Tiền, mỏ thiết Tĩnh Túc, đồi chè Kolia, trang trại cá hồi,... Mặc dù mỗi thời điểm thì nơi đây đều mang một hương sắc rất riêng với phong cảnh thơ mộng và hùng vĩ, nhưng cuốn hút du khách nhất vẫn là mùa xuân và mùa đông. Mùa xuân tới là lúc vườn quốc gia Phia Oắc - Phia Đén như được thay một tấm áo mới rực rỡ với vô vàn các loài hoa rừng đua nhau khoe sắc. Từ sắc đỏ quyến rũ của những đóa hoa đỗ quyên đến sắc xanh ngọc bích tươi mát của cẩm tú cầu hay sắc tím, trắng, vàng mộng mơ của những nhành lan rừng. Đặc biệt, khí hậu mát mẻ và độ ẩm cao của nơi đây như tiếp thêm nguồn sinh lực cho những bông hoa nở to hơn, rực hơn hơn và hương thơm tỏa ra cũng nồng nàn ngây ngất lòng người khiến ai cũng như quên lối về. Vào mùa đông tới, khi nhiệt độ bắt đầu xuống thấp, vùng núi Phia Oắc - Phia Đén chìm trong một màu trắng xóa tuyệt đẹp tựa như trời Âu. Băng giá phủ đầy đỉnh núi, sương trắng lượn lờ bao quanh, tạo cho du khách cảm giác như đang lạc vào trong chốn bồng lai tiên cảnh.
Cao Bằng 2004 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Quần thể khu di tích lịch sử Pác Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Theo tiếng dân tộc Tày - Nùng thì nơi Pác Bó có nghĩa là “đầu nguồn”. Đây là nơi được Bác Hồ chọn làm căn cứ địa lãnh đạo cách mạng và là nơi có dấu ấn quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Trải qua những dấu mốc quan trọng sau ngần ấy năm nơi đây vẫn lưu giữ gần như nguyên vẹn những chứng tích và dấu ấn của cách mạng và của Hồ Chủ tịch. Pác Bó Cao Bằng bao phủ bởi những dãy núi non hiểm trở, những thác nước như vẫy gọi vỗ về, những rặng tre xanh mát cả vùng trời. Ngoài cảnh đẹp của non nước, đến du khách có thể ghé tham quan những địa danh lịch sử như suối Lê Nin, Núi Các Mác, đài tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, hang Pác Pó… Khám phá khu di tích lịch sử Pác Bó Cao Bằng du kháchsẽ được đắm mình trong không gian thiên nhiên hoang sơ huyền bí và cảm nhận những giá trị lịch sử và văn hóa của vùng đất này. Suối Lê Nin xưa kia được dân bản gọi là suối Khuổi Giàng, theo tiếng Tày có nghĩa suối trời, nhưng vào năm 1941 Bác về nước chọn hang Pác Bó ở và làm việc thì Bác đã đặt tên cho suối này là suối Lê Nin. Suối Lê Nin nằm trong khu di tích lịch sử Pác Bó Cao Bằng, nổi tiếng với làn nước xanh vắt có thể nhìn dưới đáy tựa như mặt gương phản chiếu đại cảnh của đất trời, tạo nên cảnh quan tuyệt đẹp. Điểm đến này được nhiều người yêu thích bởi không gian yên tĩnh, cảnh sắc thơ mộng trữ tình. Thực sự không có một mỹ từ nào có thể diễn tả được nét đẹp và sự trong lành của dòng suối Lê Nin. Theo dòng lịch sử trôi qua thì dòng suối này vẫn giữ được nét đẹp trọn vẹn và càng ngày càng thu hút du khách bởi vẻ đẹp đằm thắm và yêu kiều của con nước. Đến nơi đây du khách sẽ cảm tưởng được nơi mà Bác từng sinh sống, tưởng chừng cảm nhận được hơi ấm của Người, nhìn được những khung cảnh mà Người đã từng gắn bó trong thời kháng chiến. Một điểm tham quan không thể bỏ lỡ khi đến Pác Bó Cao Bằng chính là núi Các Mác. Cùng với suối Lê Nin thì núi Các Mác cũng được Bác đặt tên, đây là tên của hai nhà tư tưởng ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác. Núi Các Mác có có rừng cây xanh thẳm với địa hình thông thông thoáng bên trong nhưng lại hiểm trở và bí mật bên ngoài, có lẽ vì địa hình như vậy mà Bác đã chọn làm nơi hoạt động bí mật. Gần cạnh núi Các Mác men theo suối Lê Nin du khách sẽ thấy được vườn trúc Bác đã trồng vẫn còn. Tất cả như tạo nên được không gian nên thơ đầy yên bình cho nơi Bác đã từng dừng chân. “Sáng ra bờ suối, tối vào hang” câu thơ của Bác trong bài Tức cảnh Pác Bó như miêu tả cuộc sống hằng ngày của Bác thuở hoạt động tại Pác Bó Cao Bằng. Hang Pác Bó hay còn được gọi là hang Cốc Pó chỉ rộng khoảng 15m2, là nơi bác sống và làm việc thuở mới về nước, đây là nơi chứa đựng nhiều dấu ấn của Người. Trong Hang có tấm phản gỗ Bác Hồ nằm nghỉ, bếp lửa sưởi ấm, bàn đá chông chênh nơi người làm việc, hay tảng đá bằng Bác hay ngồi câu cá cạnh suối Lê Nin, vườn trúc cạnh hang Bác tự tay trồng… tất cả vẫn còn đó, và đã trở thành những dấu ấn lịch sử quan trọng của khu di tích lịch sử Pác Bó. Đến khu di tích lịch sử Pác Bó đừng quên ghé thăm đền thờ của Bác nằm trên ngọn đồi Tiếng Chấy. Ngôi đền được xây dựng vào tháng 5/2011 vào dịp kỷ niệm 121 năm ngày sinh của Bác. Ngôi đền được xây dựng với phong cách nhà sàn vô cùng gần gũi và quen thuộc của đồng bào dân tộc nơi đây. Đây không chỉ là điểm đến tham quan của nhiều du khách trong và ngoài nước, mà còn mang giá trị lịch sử, văn hóa và thể hiện được sự tôn kính và tình cảm thiêng liêng đối với Bác Hồ - Người đã cống hiến hết mình cho sự độc lập của dân tộc. Pác Bó Cao Bằng nơi non nước hữu tình, mùa nào cũng có một nét đẹp riêng. Tuy nhiên nếu muốn ngắm trọn vẻ đẹp của nơi đây du khách nên chọn đến và tháng 10 đến tháng 5. Vào thời điểm này tiết trời mát mẻ, không quá lạnh cũng chẳng nắng gắt, trời lại khô ráo thuận lợi cho việc di chuyển đường núi đồi gập ghềnh của Pác Bó. Đặc biệt là có thể ngắm trọn vẻ đẹp đầy nên thơ của suối Lê Nin. Suối Lê Nin nổi tiếng với màu nước xanh ngọc đẹp ngây ngất, nhưng trong năm sẽ có khoảng 2-3 tháng mùa mưa (từ tháng 7 đến tháng 9), nước chảy cuộn nên mặt nước sẽ không trong xanh, khó lòng thưởng ngoạn được cảnh đẹp trầm ấm đầy nên thơ của nơi từng in dấu chân Bác.
Cao Bằng 1893 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Thang Hen ẩn sau những tán rừng già, những mỏm đá tai mèo là một hồ nước hình thoi bốn mùa xanh ngắt. Người Tày bảo nó giống phần đuôi của con ong nên gọi Thang Hen (“đuôi ong” trong tiếng Tày). Thang Hen là hồ nước ngọt rộng nhất trong số 36 hồ nước ngọt ở huyện Trà Lĩnh. Tuy được được ngăn cách riêng biệt nhưng chúng lại được thông nhau bằng những hang động dưới lòng đất. Nước hồ có màu xanh ngọc bích mờ ảo quanh năm, kể cả vào mùa lũ – khi các hồ nước khác trong cùng khu vực đã đỏ ngầu vì bùn. Lý do là bởi hồ có thượng nguồn là hang Thăng Hen ở trên cao. Nước từ trong miệng hang đổ ra cung cấp nguồn “nước sạch” cho hồ. Theo truyền thuyết của người Tày, đất Cao Bằng ngày xưa có chàng Sung tuấn tú, thông minh. Sau khi đỗ trạng, chàng được vua cho phép về vinh quy bái tổ trong bảy ngày. Về quê, chàng kết duyên với nàng Boóc. Mải đắm say với người vợ xinh đẹp, chàng quên mất việc phải về kinh. Tới tận đêm ngày thứ bảy, chàng Sung mới sực nhớ ra. Chàng vội chia tay vợ, chạy về kinh giữa đêm tối. Chàng Sung chạy được 36 bước chân thì ngã đầu đập vào núi rồi chết. 36 bước chân của chàng chính là 36 hồ lớn nhỏ ở quần thể hồ Thang Hen (nay thuộc huyện Trà Lĩnh). Còn những cái hang đá bao quanh hồ chính là do ngón chân của chàng Sung vấp phải mà tạo thành. Cứ vào quãng tháng Chín, tháng Mười hằng năm, nước hồ Thang Hen sẽ bị rút cạn chỉ trong vài ba giờ đồng hồ. Vì thế, nếu được chứng kiến hiện tượng kỳ lạ này là một điều cực kỳ may mắn. Ngay cả những người dân bản địa cũng chỉ có thể áng chừng được thời điểm chứ không chắc chắn lúc nào hồ sẽ cạn nước. Khi nước chỉ còn xăm xắp, người dân sẽ đua nhau xuống dưới hồ bắt cá, tôm, tép về ăn. Những con cá to là mục tiêu “săn lùng” hàng đầu để nướng đãi khách. Kỳ lạ là dù hàng nghìn m3 nước hồ tụt xuống nhưng cảnh vật xung quanh vẫn không có gì thay đổi. Vì thế, nhiều người ví hồ Thang Hen như một túi nước bị ai đó chọc thủng đáy. Người dân nơi truyền miệng nhau rằng, hiện tượng hồ Thang Hen rút cạn chỉ trong một đêm là loài thuỷ quái bị giam giữ trong thung lũng nhiều năm. Trong cơn cuồng loạn vì bị săn đuổi, nó đã dùng móng vuốt tạo nên những hang động ngầm dọc ngang dưới lòng đất. Để ngắm cảnh đẹp của Thang Hen, bạn đừng nên ngủ nướng. Khi mặt trời vừa ló sau dãy núi là thời điểm tuyệt vời nhất để có thể hòa mình vào tiên cảnh nơi đây. Lúc này, mặt hồ như một chiếc gương màu ngọc bích được phủ lên một chiếc khăn voan trắng. Thấp thoáng xung quanh là những ngọn núi ẩn hiện. Cảnh vật ban sớm nơi đây yên bình đến lạ kỳ, tách biệt hẳn với thành phố xô bồ bên ngoài. Khu vực hồ Thang Hen có bờ vực đá dựng đứng. Trên đó, những vị khách tham quan có thể dễ dàng nhận ra những cây gỗ nghiến có tuổi thọ hàng trăm năm, nhiều giống hoa lan rừng. Đây là môi trường sống của các loài động vật hoang dã như: khỉ vàng, gà gô, chim gáy…
Cao Bằng 1851 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc tới du lịch Cao Bằng, nhiều du khách thường nghĩ đến Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Pác Bó, thác Bản Giốc – động Ngườm Ngao… nhưng đối với những người yêu thích tìm hiểu về văn hóa, lịch sử hào hùng của dân tộc gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của quân đội nhân dân Việt Nam thì nên dành thêm thời gian ở Cao Bằng để tham quan và tìm hiểu về Di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950. Các địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 cách thành phố Cao Bằng khoảng 40 km (theo hướng quốc lộ 4A từ Cao Bằng đi Lạng Sơn) có 19 điểm di tích được phân bố thành 4 cụm di tích nằm trên địa bàn 3 xã và 1 thị trấn của huyện Thạch An bao gồm: Cụm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng Biên giới năm 1950 (xã Đức Long); Cụm di tích cứ điểm Đông Khê (thị trấn Đông Khê); Cụm di tích Khau Luông (xã Đức Xuân); Cụm di tích Cốc Xả - điểm cao 477 (xã Trọng Con). Trong đó, các điểm liên quan đến Chiến dịch Biên giới năm 1950 được phân bố chủ yếu trong Cụm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng Biên giới năm 1950 và Cụm di tích cứ điểm Đông Khê. Di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 có giá trị đặc biệt quan trọng gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và sự trưởng thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với vị trí, vai trò, ý nghĩa lịch sử quan trọng của di tích, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của quân và dân Cao Bằng cũng như quân dân cả nước trong việc bảo tồn và phát huy hiệu quả giá trị của di tích, ngày 25/12/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2082/QĐ-TTg xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950. Sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947, quân và dân ta đã đập tan chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp, làm cho cục diện chiến trường giữa ta và địch chuyển sang thế "cầm cự, giằng co", ta đã từng bước chuyển sang thế phản công. Ở Đông Dương, quân Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến và lâm vào thế phòng ngự bị động. Để có thể cứu vãn tình thế, Chính phủ Pháp lập kế hoạch Rơve để phong tỏa biên giới, dùng quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng, tập trung quân Âu - Phi thành lực lượng cơ động thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Tại Cao Bằng, Pháp tập trung củng cố hệ thống các cứ điểm và đồn bốt quân sự trên Quốc lộ số 4 từ thị xã Cao Bằng đến Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn; trong đó Đông Khê là một tiểu khu quan trọng, lá chắn của Cao Bằng. Về phía ta, cùng với việc tăng cường lực lượng quân sự, mở rộng vùng giải phóng, để tranh thủ sự ủng hộ của các nước dân chủ nhân dân trên thế giới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh công tác ngoại giao với phương châm "thêm bạn, bớt thù". Đứng trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến thuận lợi, nhằm đưa cuộc kháng chiến tiến lên bước mới, tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới, lấy tên là "Chiến dịch Lê Hồng Phong II" nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới; mở đường biên giới với các nước xã hội chủ nghĩa phá vỡ thế bao vây của Pháp, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Ban Thường vụ Trung ương quyết nghị thành lập Đảng ủy mặt trận có 05 đồng chí: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Bí thư Đảng ủy mặt trận; đồng chí Trần Đăng Ninh - Ủy viên Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp; đồng chí Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng; đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị; đồng chí Bùi Quang Tạo, Phó Bí thư Liên khu ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc làm Ủy viên. Cao Bằng được chọn làm chiến trường chính của chiến dịch Biên giới, vì Cao Bằng có đường biên giới chung với tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc, đường giao lưu quốc tế thuận lợi, là đầu mối của những trục đường chiến lược quan trọng, đường số 4 chạy dọc biên thùy Đông Bắc tới miền Duyên hải Vịnh Bắc Bộ. Đường số 3 nối liền Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên. Hơn nữa người dân Cao Bằng đã được thử thách, tôi luyện trong thời kỳ cách mạng. Đến cuối năm 1949 các địa phương quanh vùng quốc lộ 3 từ Ngân Sơn đến Bắc Kạn và phần lớn các huyện trong tỉnh Cao Bằng được giải phóng. Với tầm quan trọng của Chiến dịch, từ cuối tháng 8/1950, dù bận nhiều việc hệ trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao đã lên đường ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch, động viên quân và dân chiến đấu. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc. Chiến dịch Biên giới năm 1950 là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là chiến dịch có tầm quan trọng đặc biệt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chiến dịch Biên giới đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.300 tên địch, giải phóng toàn tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, với diện tích rộng 4.500 km2; chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và Pháp, tạo bước chuyển biến mới về chiến lược tiến công, phản công, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Khi nhìn lại thất bại của nước Pháp ở cuộc chiến tranh Đông Dương, nguyên Toàn quyền Đông Dương Catơru đã chua chát xác nhận: "Sự thất bại của quân đội Pháp tại biên giới Việt – Trung tháng 10/1950 đã có ảnh hưởng quyết định đến số phận của Đông Dương và Điện Biên Phủ sau này đã phải chịu ảnh hưởng đó". Thắng lợi của chiến thắng Biên giới năm 1950 chứng minh tính đúng đắn của đường lối chiến tranh "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính" mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra. Bài học về phát huy nội lực, xây dựng lực lượng kháng chiến, xây dựng quân đội để làm nên chiến thắng Chiến dịch Biên giới 1950 vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Cao Bằng 1970 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3919 lượt xem
Địa điểm Đài tiếng nói Việt Nam tại hang Ngườm Chiêng (1966 - 1978), thuộc thị trấn Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Hang Ngườm Chiêng với địa hình hiểm trở và địa thế vững chắc, được chọn làm nơi lập đài dự phòng của Đài Tiếng nói Việt Nam (gọi là Điện Đài A3). Trạm phát sóng điện đài A3 là nơi sơ tán của Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứ nước giai đoạn từ 1966 - 1978. Đây là một trong những “cứ điểm” quan trọng có nhiệm vụ tiếp âm, phát sóng, phát thanh đi Phần Lan và các nước Bắc Âu, góp phần đảm bảo làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam được duy trì và thông suốt, truyền đi tiếng nói của Đảng và Chính phủ, tiếng nói của nhân dân Việt Nam kiên cường và kiêu hãnh trên tuyến đầu chống Mỹ, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Hơn 10 năm hoạt động (từ ngày đầu phát sóng 24/4/1966 đến năm 1978), Đài A3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử, ghi dấu bao kỷ niệm của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ và hào hùng, đặc biệt là của những người làm phát thanh với bản lĩnh và nhiệt tình cách mạng cháy bỏng. Điện Đài A3 khi bắt đầu xây dựng gọi là Công trường 50, thời gian hai năm xây dựng có thời điểm đã phải huy động đến 300 dân công để mở đường, khai phá khu vực xung quanh để đảm bảo cho việc phát sóng, phát thanh được nhanh nhất có thể. Khi được chọn làm nơi lập đài dự phòng của Đài Tiếng nói Việt Nam, Ngườm Chiêng được mở rộng thêm lòng hang xuyên qua núi rất rộng và sâu. Trước cửa hang bên trái được xây một nhà thông gió bằng đá kiên cố. Phía trong hang được xây dựng 3 nhà để đặt máy phát và nhà kho. Phía cuối hang cũng là khoảng trống và cuối cùng là con đường đi lên cửa hậu được xây bằng 124 bậc thang dẫn ra ngoài hang phía sau núi và cũng là nơi đặt hệ thống máy thu. Đứng ở đây quan sát được con đường Quốc lộ 4A đi Thác Bản Giốc và khu vực xung quanh. Ngoài hang chính còn có một hang phụ với lòng hang hẹp hơn để đặt hệ thống máy nổ. Phía trước hang là dãy nhà cơ khí nằm ở bên phải, xa hơn về phía bên trái là nhà của lực lượng bảo vệ và nhà ăn. Tất cả những dãy nhà này đều được xây bằng đá rất kiên cố, chắc chắn. Khoảng đất trống và bằng hơn ở phía dưới trước cửa hang là nơi đặt hệ thống Ăng ten thu phát. Trải qua thời gian dài cùng với tác động của tự nhiên và con người, hiện nay những gian nhà được xây dựng ở trong hang Ngườm Chiêng để đặt máy phát sóng, phát thanh đã bị phá hủy chỉ còn lại nền nhà lát gạch hoa và hệ thống móng nhà, phía cuối hang vẫn còn nguyên 124 bậc thang dẫn ra cửa hậu là nơi đặt máy thu. Hang nhỏ bên phải để đặt hệ thống máy nổ hiện nay vẫn còn lại bệ xi măng đá và cốt thép. Trước cửa hang những dãy nhà cơ khí, nhà của lực lượng bảo vệ, nhà ăn và bể nước vẫn còn nguyên, hiện nay chỉ hỏng phần mái. Tất cả các dãy nhà đều được xây bằng xi măng, đá kiên cố và chắc chắn. Khu vực đất để đặt các cột Ăng ten hiện nay là ruộng lúa cùa bà con xóm Bó Đa, thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh. Di tích hang Ngườm Chiêng có diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ 1 là 6.616,7m2 và khu vực khoanh vùng bảo vệ 2 là 42.016,6m2. Với giá trị tiêu biểu trên, Địa điểm Đài tiếng nói Việt Nam tại hang Ngườm Chiêng (1966 - 1978), đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 29/6/2021. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Cao Bằng 2180 lượt xem
Quần thể di tích Đà Quận bao gồm 3 di sản văn hóa vật thể được xếp hạng, đó là chùa Viên Minh, đền Quan Triều (đều được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh vào năm 2008) và đôi chuông “Thần chung” được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2016. Chùa Đà Quận hay chùa Viên Minh đều là một. Viên Minh là tên chữ của ngôi chùa, còn Đà Quận là tên Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn - Danh tướng nhà Mạc, ở làng Đà Quận, xã Xuân Tĩnh, châu Thạnh Lâm, nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng. Chùa có từ thời Lý, vì trong chùa có hai câu đối như sau: “Viên Minh thắng tích hưng tiền Lý, Đà Quận thần chung chú Hậu Lê”. Tạm dịch: Thắng tích Viên Minh được khởi dựng trước, vào thời Lý. Chuông thần Đà Quận được đúc sau, vào thời Lê. Đôi câu đối này, như nghĩa của nó, cũng là phản ánh truyền ngôn trong dân gian về lịch sử ngôi chùa. Chùa là một quần thể hoàn chỉnh, kiến trúc thống nhất mở đầu bằng tam quan và kết thúc bằng gác chuông. Kiến trúc trang trí ở đây lấy cái ý: “sắc sắc không không của Phật giáo làm gốc”. Đối diện với chùa là đền Quan Triều. Tương truyền, đền Quan Triều được xây dựng từ thời nhà Lý, đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175). Trải qua thời gian và do biến cố của lịch sử, đền đã bị hoang phế hoàn toàn, đến khi nhà Mạc lên đất Cao Bằng đóng đô đã cho trùng tu lại, nay chỉ còn nền móng cũ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhân vật lịch sử của Di tích lịch sử văn hóa đền Quan Triều là Dương Tự Minh, người dân tộc Tày, quê ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương (đạo thừa tuyên Thái Nguyên). Dương Tự Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có cha là quan châu mục, thủ lĩnh một đội dân binh Tày, từng đánh trận Ung Châu, trận sông Như Nguyệt, một võ quan của triều đình nhà Lý ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương, nay là xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương (Thái Nguyên). Làm quan phủ, Dương Tự Minh được muôn dân kính trọng bởi sự thanh liêm và đức độ. Nhưng sau đó, triều đình rối ren, quan lại lộng quyền, Dương Tự Minh vì lòng chính trực mà bị gian thần trả thù. Dương Tự Minh bị vua Anh Tông đày đi nơi rừng sâu, nước độc ở chân núi Đuổm, phủ Phú Lương. Vị chủ tướng oai hùng năm xưa trở thành “ông già núi Đuổm”, nhưng chính cái tên hiền lành đơn sơ ấy cùng với những kỳ tích năm xưa mãi mãi khắc sâu danh tiếng anh hùng Dương Tự Minh trong lịch sử. Chùa Viên Minh là một trong ba ngôi chùa cổ nhất của tỉnh, giá trị lịch sử lâu đời ấy được khắc ghi tại đôi chuông đang hiện diện tại đây. Năm 1993, đôi chuông này có giá trị nghệ thuật điêu khắc. Với những giá trị đặc sắc, năm 2016, đôi chuông được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia. Quả chuông to cao 1,75 m, miệng rộng 1,07 m; quả chuông nhỏ cao 1,55 m, miệng rộng 0,95 m. Cả hai đều đúc bằng hợp kim đồng, lâu ngày đã ngả sang màu gang. Chuông chùa Viên Minh là một trong số ít những di sản của nhà Mạc còn lại ở vùng đất biên viễn này. Quần thể di tích Đà Quận, Đền Quán Triều nơi lưu giữ đôi chuông cổ được công nhận là Bảo vật Quốc gia này có giá trị rất lớn về mặt lịch sử và văn hóa. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2139 lượt xem
Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo nằm dưới chân núi Slam Cao thuộc địa bàn 2 xã Tam Kim, Hoa Thám (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đây là nơi lưu giữ một hệ thống các di tích gắn liền với giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo là nơi ghi dấu sự thành lập và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khu di tích gồm 5 điểm quan trọng: Cụm di tích rừng Trần Hưng Đạo (gồm Địa điểm thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Lán nghỉ và bếp ăn, mỏ nước phục vụ nước sinh hoạt, Đỉnh Slam Cao); Hang Thẳm Khẩu (xã Tam Kim) - từng được sử dụng làm trạm liên lạc, đưa cơm phục vụ cho các đồng chí hoạt động cách mạng; Đồn Phai Khắt (xã Tam Kim) - nơi diễn ra trận đầu ra quân của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (25/12/1944); Đồn Nà Ngần (xã Hoa Thám) - nơi ghi dấu trận đánh thứ 2 giành thắng lợi của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (26/12/1944); di tích Vạ Phá (xã Tam Kim). Với những giá trị lịch sử này, năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là di tích quốc gia đặc biệt. Nhà trưng bày tại khu di tích sau khi được hoàn thành, đưa vào sử dụng đã góp phần tôn vinh và tri ân thế hệ đi trước, đồng thời bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích. Các hiện vật tại đây được trưng bày tập trung, đảm bảo tính khoa học và giá trị lịch sử chân thực theo 3 chủ đề: Cao Bằng - Đất nước, con người và truyền thống; Quá trình hình thành, ra đời và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; Quân đội anh hùng truyền thống vẻ vang. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo, không chỉ là một địa chỉ đỏ về truyền thống lịch sử vẻ vang với nhiều điểm di tích mà còn là một khu rừng nguyên sinh. Với diện tích rộng trên 201,7 ha, rừng Trần Hưng Đạo mang một vẻ đẹp hoang sơ với bầu không khí trong lành. Nằm sâu dưới những tán cây cổ thụ là nhà bia 34 chiến sĩ của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, lán nghỉ và bếp ăn mô phỏng lại cuộc sống đời thường giản dị của các chiến sĩ. Men theo con dốc nhỏ chừng 50m là mỏ nước tự nhiên, cũng là điểm lấy nước sinh hoạt của các chiến sĩ, trải qua nhiều năm vẫn cho ra những dòng nước mát lạnh và trong vắt. Cũng tại rừng Trần Hưng Đạo, cây sấu cổ thụ 300 năm tuổi từng gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã được công nhận là Cây di sản Việt Nam. Trải qua 75 năm, những dấu tích từ thuở đầu thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân luôn được đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng trân trọng và gìn giữ, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng cho các thế hệ trẻ sau này. Khu rừng nguyên sinh rộng lớn xòe từng tán cây, bao bọc những di tích thiêng liêng trong tháng ngày hoạt động cách mạng gian khó của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Cao Bằng 2101 lượt xem
Để tưởng nhớ người Đội trưởng Đội Nhi đồng cứu quốc anh dũng hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ bảo vệ cách mạng, Đảng, Nhà nước xây dựng Khu Di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng tại làng Nà Mạ, xã Trường Hà (huyện Hà Quảng) tỉnh Cao Bằng. Ngày 15/5/1941, mãi mãi sáng chói trong trang vàng lịch sử truyền thống của Đội TNTP Hồ Chí Minh. Ngày ấy ở gần hang Cốc Bó, xuôi dòng suối Lê-nin, dưới chân núi Thoong Mạ, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng, 5 thiếu niên gồm: Nông Văn Dền (bí danh Kim Đồng), Nông Văn Thàn (Cao Sơn), Lý Văn Tịnh (Thanh Minh), Lý Thị Nì (Thủy Tiên) và Lý Thị Xậu (Thanh Thủy), được anh Đức Thanh và các anh cán bộ cách mạng giác ngộ, thử thách, tập hợp để lập thành Đội Nhi đồng cứu quốc theo quyết định của Đảng; trong đó Nông Văn Dền được bầu làm Đội trưởng. Đội Nhi đồng cứu quốc có mục đích tham gia đánh Tây, đuổi Nhật, giành độc lập cho nước nhà, với nhiệm vụ giao thông liên lạc, đưa đón, bảo vệ cán bộ, canh gác các cuộc họp của Đảng... Từ sau tháng 5/1941, các đội thiếu nhi cứu quốc được thành lập ở mọi nơi để tham gia cách mạng, nhiều đội thiếu niên đã lập công xuất sắc làm sáng ngời trang sử vàng của Đội thiếu nhi, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 8/1942, Kim Đồng vinh dự được gặp Bác Hồ tại hang Nộc Én ở trên núi sau làng Nà Mạ. Bác khen ngợi Đội trưởng Kim Đồng mưu trí, nhanh nhẹn, dũng cảm. Bác khuyên Kim Đồng cùng các đội viên hãy giúp đỡ, tích cực bảo vệ cách mạng, vừa hoạt động vừa học văn hoá, chính trị để sau này nước nhà giành được độc lập, góp phần xây dựng đất nước. 5 giờ sáng ngày 15/2/1943, trong lúc đang làm nhiệm vụ canh gác cuộc họp của ban Việt Minh, khi phát hiện giặc lùng sục đến gần, Kim Đồng đã nhanh trí đánh lạc hướng để bảo vệ cán bộ cách mạng, địch nổ súng, Kim Đồng bị trúng đạn và đã hy sinh, khi đó vừa tròn 14 tuổi. Năm 1997, Kim Đồng được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Khu Di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng được xây dựng ngay trên quê hương anh tại Làng Nà Mạ, xã Trường Hà (Hà Quảng). Khu di tích gồm có Mộ anh Kim Đồng và Tượng anh khang trang tại chân rặng núi đá cao đồ sộ, bên cạnh cây nghiến xanh biếc, luôn toả bóng mát. Tượng anh Kim Đồng với bộ quần áo Nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư. Nơi đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và nhi đồng của tỉnh và cả nước thường tụ hội về đây tổ chức kết nạp đội viên mới, cắm trại, vui chơi, các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến với người đội trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, núi Các Mác và hang Pác Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng 2056 lượt xem
Khu di tích lịch sử Chiến Thắng Đông Khê (Chiến dịch Biên giới 1950) nằm tại Nà Lạn, xã Đức Long, huyện Thạch An, cách thành phố Cao Bằng. Đây là một khu di tích gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với chiến thắng Chiến dịch Biên giới năm 1950, do Bộ Tư lệnh Quân khu, Quân khu 1, Quân khu II và tỉnh Cao Bằng phối hợp xây dựng. Khu di tích được đưa vào sử dụng ngày 19/05/2004, thể hiện đạo lý cao cả "Uống nước nhớ nguồn " đối với vị lãnh tụ thiên tài, vị cha già kính yêu của dân tộc và ghi lại dấu ấn oanh liệt, hào hùng của một chiến thắng mang ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Khu di tích gồm 2 phần: Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông. Nhà tưởng niệm được thiết kế theo kiểu kiến trúc sàn hiện đại, trưng bày những hình ảnh, hiện vật liên quan đến hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi quan sát trận đánh trên núi Báo Đông. Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông làm bằng vật liệu compozit giả đồng, cao 2,8m, nặng 418 kg, cột bê tông cốt thép, toàn bộ bức tượng đặt trên bệ đá ốp gạch lát hoa. Để đến Đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông đi qua 846 bậc đá, được chia thành 79 cung bậc, tượng trưng cho 79 mùa xuân của Bác. Những bậc đá hôm nay chính là con đường năm xưa, ngày 13/9/1950, Bác rời Sở Chỉ huy Chiến dịch đến Sở Chỉ huy tiền phương ở Nà Lạn, lên núi Báo Đông quan sát trận đánh Đông Khê. Sáng sớm 16/9/1950, từ vị trí quan sát đặt trên núi Báo Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm chú quan sát, theo dõi chặt chẽ diễn biến trận Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới năm 1950, tạo tiền đề cho cuộc kháng chiến thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngày 16/9/1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu Chiến dịch bằng trận đánh vào cứ điểm Đông Khê. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng rút về; đồng thời, cho quân đánh lên Thái Nguyên để thu hút chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên đường số 4 khiến cho 2 cánh quân này không gặp được nhau. Đến lượt Thất Khê bị uy hiếp, ngày 8/10/1950, quân Pháp phải rút về Na Sầm; ngày 13/10/1950, Pháp rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh, quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, ngày 22/10/1950, đường số 4 được giải phóng. Ngày 3/10/1950, tỉnh Cao Bằng được giải phóng, ghi dấu mốc quan trọng trong lịch sử, trở thành ngày kỷ niệm lớn của Cao Bằng hằng năm. Chiến dịch Biên giới kết thúc, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.300 tên địch, giải phóng toàn tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, với diện tích rộng 4.500 km2 ; chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và Pháp, tạo bước chuyển biến mới về chiến lược tiến công, phản công, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến tới đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng 2008 lượt xem