Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
(SGTT) – Bản Khun (xã Bằng Lang, huyện Quang Bình) là điểm đến mới trên bản đồ du lịch Hà Giang. Đặt chân đến đây, du khách sẽ cảm nhận không khí mát mẻ, trong lành cùng cảnh sắc yên bình.
(SGTT) – Bản Khun (xã Bằng Lang, huyện Quang Bình) là điểm đến mới trên bản đồ du lịch Hà Giang. Đặt chân đến đây, du khách sẽ cảm nhận không khí mát mẻ, trong lành cùng cảnh sắc yên bình.
Bản Khun nằm giữa thung lũng, có khoảng 178 hộ dân sinh sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống độc đáo của bốn dân tộc Tày, Nùng, Dao, La Chí. Văn hóa đời sống, ẩm thực, trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca… luôn được người dân gìn giữ và phát huy.
Là biểu tượng đánh dấu điểm cực Bắc của Việt Nam, cột cờ Lũng Cú được xây dựng trên đỉnh núi Rồng, thuộc một xã nhỏ ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Nằm ở độ cao 1.470m so với mực nước biển, đây là một trong những địa điểm check in của nhiều bạn trẻ, đồng thời còn là điểm chinh phục của hầu hết tất cả các khách du lịch đến với Hà Giang. Để đến được cột cờ Lũng Cú bạn cũng cần phải sắp xếp đến Hà Giang du lịch, và cần phải có một lịch trình cụ thể, sớm nhất để tham quan nơi này vì cột cờ cách khá xa so với đoạn đường núi gần 200km. Nếu bạn muốn đến Hà Giang du lịch và ngắm nhìn được khung cảnh xinh đẹp nơi này thì một số thời điểm thích hợp nhất mà bạn nên cân nhắc chính là: Từ tháng 1 đến tháng 3: Vào khoảng thời gian này hoa mận, hoa đào, hoa cải vàng sẽ nở rộ, bạn sẽ chiêm ngưỡng được biệt danh “miền đá nở hoa” là như thế nào, nên đến đây vào thời gian này bạn sẽ được tham quan và tận hưởng những cảnh hoa đua nhau nở cực đẹp mắt. Bạn cũng có thể đến vào tháng 5 mùa nước đổ hay tháng 6 - 8 là khoảng mùa hè với thời tiết khô ráo, dễ dàng di chuyển và thuận lợi hơn trong việc tham quan cột cờ Lũng Cú. Hoặc bạn cũng có thể đến Hà Giang vào tháng 10 - 12 để tham quan cột cờ đồng thời đây là khoảng thời gian mùa hoa tam giác mạch nở trên cao nguyên đá Đồng Văn, bạn sẽ ngắm nhìn được những khung cảnh tuyệt vời nhất vào thời gian này. Điều đầu tiên khi bạn muốn đến tham quan cột cờ Lũng Cú Hà Giang là phải có một tấm vé máy bay đi Hà Nội. Sau khi đã đến Hà Nội rồi thì việc bạn cần làm sau đó là tìm cho mình một chiếc xe khách để đến thành phố Hà Giang của tỉnh Hà Giang, từ đây bạn cũng có thể thuê cả xe máy hoặc ô tô để lên đến Lũng Cú. Còn nếu bạn đang ở khu vực các tỉnh miền Bắc, bạn có thể lựa chọn đi xe khách, xe máy hoặc ô tô để đến cột cờ Lũng Cú theo đường quốc lộ 4C để đến Quản Bạ sau đó từ đây sẽ lên đến Đồng Văn. Nếu đã đến Đồng Văn rồi bạn chạy thẳng sẽ đến xã Sà Phìn, tiếp tục đi đến bạn sẽ gặp một ngã ba nếu đi thẳng bạn sẽ đến phố cổ Đồng Văn còn nếu ngược lại sẽ hướng về Lũng Cú. Được xây dựng trên đỉnh núi Rồng, nên để lên được đỉnh núi bạn cần trải qua 839 bậc thang, được chia làm 3 chặng, ở mỗi chặng sẽ có khu nhà chờ để du khách có thể nghỉ chân hoặc ngắm cảnh phía dưới núi. Sau khi leo hơn 800 bậc thang, bạn chắc chắn sẽ sững người đến tự hào khi chứng kiến cột cờ Lũng Cú với lối kiến trúc được xây dựng theo hình bát giác, có chiều cao 33.15m và lá cờ Tổ quốc 54m2 luôn tung bay trên đỉnh núi Rồng. Xung quanh thân cột cờ là hình mặt trống đồng Ðông Sơn và dưới chân cột cờ là tám tấm phù điêu minh họa cho các thời kỳ lịch sử vẻ vang của đất nước. Từ trên cột cờ nhìn xuống, bạn sẽ có cảm giác như được ngắm nhìn bờ cõi nước Nam ta trong tầm mắt. Được cảm nhận được không khí se lạnh của núi rừng Đông Bắc. Đứng ở núi Rồng, cảm giác như núi rừng Đông Bắc hòa cùng mây trời cao rộng, không những vậy, chỉ cần ngước mắt nhìn lên là hình ảnh tự hào dân tộc lại càng nâng cao lên với màu sáng tươi của lá quốc kỳ thiêng liêng tung bay. Vừa tạo cảm giác tự hào vừa lại hưng phấn khi chinh phục được đỉnh cao của một cột mốc lớn.
Hà Giang 2040 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đèo Mã Pí lèng tại Hà Giang còn có tên gọi khác là Mả Pí Lèng hay Mã Pỉ Lèng có nghĩa “sống mũi con ngựa”. Mã Pì Lèng được mệnh danh là một trong những cung đường đèo tử thần của vùng núi đất Bắc, vì những đường cong hiểm trở, thách thức tay lái. Đèo tọa lạc trên quốc lộ 4C, xã Pả Vi và Pải Lủng, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, thuộc một trong những con dốc cao và hiểm trở nhất vùng núi Đông Bắc, cũng là cái tên nằm trong danh sách “tứ đại đỉnh đèo” của Việt Nam đáng để chinh phục. Nằm ở độ cao khoảng 1.200m so với mực nước biển, và dài khoảng 20km (nối liền thị trấn phố cổ Đồng Văn và thị trấn Mèo Vạc), Mã Pí Lèng uốn cong và quấn quanh ngọn núi như một con trăn trắng. Men theo cung đường này, bạn sẽ đi qua được thêm nhiều bản làng hay địa danh nổi tiếng như Pả Vi, Sín Cái… Hà Giang đẹp quanh năm. Mỗi mùa đều có một bản sắc riêng. Cũng như nước hoa, không có mùi hương nào là thơm nhất, chỉ có mùi hương phù hợp nhất. Và MIA.vn đã lập ra một danh sách liệt kê một số đặt điểm của Hà Giang qua từng tháng cho bạn rồi đây. Tháng 1-3 là mùa hoa mận, hoa đào. Nếu bạn yêu thích màu hồng của loài hoa này chắc chắn đừng bỏ qua. Tháng 4 là thời điểm chợ tình Khâu Vai diễn ra. Phiên chợ độc đáo mỗi năm đều chỉ tổ chức một lần vì thế, nếu thích thú với lễ hội này thì bạn cũng nên đến Hà Giang vào tháng 4. Tháng 9 chính là mùa mà những ruộng bậc thang ở Hà Giang nhuộm vàng ươm sắc vàng của lúa chín đẹp như tranh vẽ. Tháng 10, 11 mùa hoa tam giác mạch – Loài hoa lãng mạn chỉ có mặt ở vùng đất Đông Bắc. Tháng 12 mùa hoa cải, và nếu nhiệt độ đủ thấp thì còn sẽ có cả tuyết rơi đấy nhé. Dám cá rằng dù có là phượt thủ hay không thì bạn cũng đã từng nghe đến danh tiếng của con đèo Mã Pì Lèng này. Đây chính là một trong “tứ đại đỉnh đèo” mang vẻ đẹp vừa hoang sơ, hiểm trở nhưng lại quyến rũ và cuốn hút lạ kỳ. Mã Pì Lèng khó chinh phục. Vì vậy mà làm mọi người càng khao khát thêm để có thể một lần vượt qua được hết những cung đường ngoằn ngoèo, quanh co với xung quanh là núi đá tai mèo cao, dựng đứng và vực sâu thẳm. Nằm chênh vênh giữa ngọn núi, nên bạn cũng sẽ đi qua đến 9 khúc cua quanh co “rùng rợn” khi một bên tay lái sẽ là vực thẳm sâu hun hút. Cung đường lại hẹp, đôi khi chỉ đủ chỗ cho một chiếc xe. Ấy vậy mà trên đường đi bạn cũng có thể ngắm nhìn được con sông Nho Quế xanh và uốn lượn như một dải lụa. Sông biến đổi theo mùa cực kỳ đặc biệt. Đây cũng là một góc check-in huyền thoại cho giới trẻ ưa thích mạo hiểm. Ngoài ra, bạn cũng có thể đi đến mỏm đá nằm cheo leo giữa vách núi – Nơi sẽ bắt trọn được toàn cảnh núi rừng hùng vĩ và sông nước bạt ngàn. Trên đường lên đỉnh Mã Pì Lèng cũng sẽ còn có cả những thửa ruộng bậc thang mùa lúa chín sẽ trở nên vàng ươm, bát ngát cả một vùng núi đất Đông Bắc. Ngoài ra, tùy mỗi mùa mà không gian bên dưới sẽ là màu trắng tinh khôi của hoa cải, hoa mận hay màu đỏ nổi bật của các loại hoa khác. Ấm thực Đông Bắc có một sức lôi cuốn kỳ lạ và đặc biệt. Các món ăn có thể kể đến như thắng cố, thịt trâu gác bếp, lạp xưởng… đều là những đặc sản mà du khách không nên bỏ qua khi du lịch Hà Giang. Ngoài ra, bạn đã nghe đến rêu nướng chưa? Hương vị của món ăn này có 1-0-2, ăn xong đảm bảo sẽ gây nghiện nặng đó nha. Đa phần vì thời tiết giá rét nên các món ở Hà Giang cũng là món nướng và nhâm nhi thêm chút rượu cần để trải nghiệm được trọn vẹn nhất văn hóa ăn uống của vùng đất địa đầu Tổ quốc này.
Hà Giang 1913 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thị trấn Đồng Văn nằm lọt thỏm giữa bốn bề núi phủ mây phong của cao nguyên đá. Chỉ có khoảng vài chục ngôi nhà nằm rải rác quanh khu trung tâm và xen kẽ vào những vách đá dựng đựng ở giữa trời xanh. Vẻ đẹp của phố cổ Đồng Văn được nổi lên như một bức tranh thủy mạc, trữ tình với đủ những tông màu của thiên nhiên cùng hội tụ. Những ngôi nhà cổ được người dân địa phương dựng lên liền kề bên vách núi như một sự thử thách của sức mạnh, ý chí quyết tâm của con người trước tạo hóa. Phố cổ Đồng Văn được hình thành từ những năm đầu của thế kỷ XX, trải qua những biến thiên của lịch sử, thăng trầm của thời cuộc dường như khu phố vẫn như được nét quyến rũ, hoang sơ của buổi ban đầu. Phố được dựng lên bởi người Tày, người Mông và cả người Hoa. Ngày nay, khi đến du lịch Hà Giang bạn sẽ không khó để bắt gặp hình ảnh những ngôi nhà được thiết kế theo lối nhà dài, nhà mái lợp ngói âm dương. Qua thời gian, phố cổ Đồng Văn đón nhiều cư dân khác nhau đến sinh sống và làm ăn. Điều này đã làm cho khu phố có sự dung hòa, tổng hợp và tiếp biến nhiều hình thái văn hóa của các sắc dân khác nhau. Đến với phố cổ Đồng Văn, bạn không chỉ được xem những chiếc đèn lồng được giăng như mắc cửi trên các tuyến phố mà còn tận mắt chứng kiến những phiên chợ vùng cao với những tiếng khèn, điệu nhạc và sản vật tiêu biểu của vùng cao nguyên đá. Vào những đêm cuối tuần, không gian trong các quán chợ trở nên rộn rã bằng tiếng hát câu hò của những đôi trai gái. Họ trao nhau điệu múa, câu hò giao duyên bên ánh lửa bập bùng của phiên chợ tình vùng cao. Phố cổ Đồng Văn không chỉ là một địa chỉ giao thương của người dân trong vùng mà nó đã trở thành một “trung tâm thương mại” của một vùng cao nguyên rộng lớn. Không chỉ có người dân địa phương, người dân ở các vùng lân cận mà ngay cả những người đi buôn bán ở miền xuôi cũng muốn lên đây mua bán sản vật. Du lịch Hà Giang đến với phố cổ Đồng Văn cũng là địa chỉ tổ chức những lễ hội tryền thống của người Tày, Mông và đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi Tây Bắc. Trong những trang phục truyền thống các thiếu nữ người Mông, Tày, Pu Péo, Lô Lô… tay trong tay với điệu nhạc trao duyên. Điểm nhấn của khu phố cổ là chợ Đồng Văn, chợ được xây bằng nguyên liệu chủ yếu là đá từ năm 1920, qua gần một thế kỷ đến nay khu chợ vẫn còn giữ gìn nét văn hóa khá nguyên vẹn. Để ngắm phố cổ Đồng Văn từ trên cao bạn hoàn toàn có thể thu gọn toàn bộ khung cảnh của khu phố trong tầm mắt. Những dãy nhà được xếp thành hình chữ U lợp ngói âm dương chay dọc theo triền núi. Nếu hỏi thử xem du lịch Hà Giang mùa nào đẹp nhất? Thì hãy đến Hà Giang trong mùa hoa tam giác mạch, bạn hoàn toàn có thể đắm mình trong không gian của núi rừng và những triền đồi trắng dãy một màu, cùng mùi hương ngát dịu của loài hoa nức danh vùng Tây Bắc này. Ở phố cổ Đồng Văn khi đêm về, bạn có thể ghé vào một quán cafe để thưởng thức vị ngon của cafe và lắng nghe từng tiếng gió rít bên những triền đồi vang vọng lại. Mùi hương của loài hoa tam giác mạch sẽ ru bạn đắm chìm trong sự mê mẫn của tiếng khèn, tiếng sáo và những ánh lửa bập bùng trong tiếng nhạc du dương. Về tổng thể phố cổ Đồng Văn có kiến trúc theo kiểu người Hoa là khá phổ biến, chủ yếu lợp ngói âm dương, vì kèo được thiết kế chắc chắn. Đặc biệt, đá dường như là nguyên liệu chủ yếu và trở nên phổ biến trong xây dựng. Những cối đá, tường đá, cột đá được đầu tư xây dựng nên không gian cảnh quan các tuyến phố rất gần gũi với thiên nhiên, ít bị tác động của bàn tay con người. Hầu như mỗi ngôi nhà ở khu phố cổ điều có treo đèn lồng, có lẽ đây là nét văn hóa riêng có của đồng bào thiểu số và hình ảnh của ngọn lửa cũng giúp xua tan đi cái lạnh buốt của vùng cao nguyên đá về đêm. Theo kinh nghiệm du lịch Hà Giang, thì mỗi năm, tỉnh Hà Giang điều tổ chức nhiều lễ hội mang đậm dấu ấn truyền thống của đông bào thiểu số tại Đồng Văn, trong đó phải kể đến “Đêm phố cổ”. Đến với đêm phố cổ các bạn sẽ có cơ hội xem những chiếc váy thổ cẩm, những chiếc đèn lồng, những món ăn truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Hà Giang, một vùng đất du lịch ấn tượng với nhiều địa chỉ văn hóa, lịch sử vẫn còn khá nguyên vẹn. Đặt chân đến đây, cũng là đến với vùng đất của trời mây non nước trữ tình, mọi thứ điều rất hoang sơ. Vùng đất của những cánh đồng hoa Tam giác mạch, của món Thắng cố, của thổ cẩm thiêu tay và tiếng khèn của đôi lứa trao duyên trên phố cổ Đồng Văn – cao nguyên đá.
Hà Giang 2073 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đồng Văn từ lâu đã trở thành một địa điểm du lịch vô cùng hấp dẫn và nổi tiếng của du khách trong và ngoài nước khi nó sở hữu cho mình muôn vàn cảnh đẹp và đặc biệt hơn nữa là cột cờ Lũng Cú, một biểu tượng hết sức thiêng liêng của đất nước Việt Nam. Nhưng đó chưa phải là tất cả của Đồng Văn. Nằm ẩn sâu trong lớp lớp đất đá tai mèo có một thị trấn nhỏ mang tên phó bảng. Nơi đây là một vùng đất ít người biết đến, dù bị năm tháng lãng quên thế nhưng nó vẫn giữ trọn vẹn được nét hoang sơ, cổ kính và yên bình đến lạ thường. Trước đây khi nhắc tới Phó Bảng người ta thường nghĩ ngay đến một trung tâm buôn bán cần sa và ma túy sầm uất nhất Hà Giang nhưng sau khi được giải tỏa nơi này lại nằm thu mình và có một cuộc sống gần như khép kín với thế giới bên ngoài. Do vị trí địa lý ẩn sâu trong lớp đất đá chính vì thế đường lên Phó Bảng khá khó khăn và hiểm trở. Ta có thể bắt đầu đi từ phố cổ Đồng Văn ngược lại khoảng 17 km. Với những khúc đường đèo hiểm trở chênh vênh khi một bên là vực sâu, một bên là núi cao bạn hãy nắm vững tay lái chú ý biển báo và những chiếc gương lồi gắn hai bên đường. Nếu như chưa có một kinh nghiệm nào về du lịch đường đèo thì lớp học cho dân phượt có lẽ là một lựa chọn thích hợp nhất mà bạn phải chuẩn bị trước khi lên đường. Mặc dù cung đường khó khăn nhưng du khách cũng đừng quá lo lắng và sợ hãi bởi trên đường đi bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi non hùng vĩ duy nhất chỉ có tại Hà Giang hay như cứ coi đây là một thách thức mà bạn đặt ra cho bản thân mình để chạm đến những giới hạn cao hơn trong cuộc sống. Sau quãng đường dài di chuyển, thị trấn Phó Bảng mở ra trước mắt ta một khung cảnh tựa như đang lạc vào một miền quê của đất nước Hàn Quốc xa xôi. Vốn được mệnh danh là nàng thiếu phụ ngủ trên cao nguyên đá Đồng Văn, khi bước vào Phó Bảng bạn sẽ cảm nhận được một khung cảnh bình yên với nhịp sống nhẹ nhàng, thanh thản. Những ngôi nhà trình tường bên trên là mái âm dương với màu rêu cổ kính, bức tường đất vàng ngà pha chút nâu đỏ. Khung cửa sổ cũ kỹ, bức vách với những vết nứt tưởng như sắp sập xuống nhưng lại hết sức vững chắc trước phong ba bão tố của đất trời Hà Giang, treo trên đó là những câu đối đỏ và chiếc đèn lồng có khắc chữ của đồng bào dân tộc Hoa đã bạc màu theo năm tháng. Những thứ lâu đời tưởng như không sử dụng được giờ đây dưới bàn tay tài hoa của đồng bào dân tộc sinh sống ở mảnh đất này đã tạo nên một vẻ đẹp cổ kính, hoang sơ hiếm có tại vùng núi cao Tây Bắc. Với phó bảng bốn mùa đều có một nét đẹp riêng biệt nhưng có lẽ mùa thu là mùa mà nơi đây đẹp và hoàn hảo nhất. Thu sang thị trấn khoác lên mình một vẻ đẹp hoang tàn nhuốm màu ký ức nhưng ẩn chứa sâu bên trong là sức sống tràn trề, mãnh liệt. Tận hưởng bầu không khí trong lành tại một vùng đất bình yên, ngắm nhìn những đồi hoa tam giác mạch nồng nàn, đi lang thang du ngoại ở ven đường của thị trấn nhỏ cùng một chiếc máy ảnh trên tay chắc chắn bạn sẽ có những phút giây thật tuyệt vời trên mảnh đất ngủ quên này. Không chỉ có vẻ đẹp mới làm lay động lòng người, thị trấn Phó Bảng còn để lại một dấu ấn vô cùng sâu sắc trong lòng du khách bởi nét giản dị, chất phát của người dân nơi đây. Sống tại phó bảng chủ yếu là đồng bào dân tộc Hoa và người Mông. Đến với nơi đây bạn chắc chắn sẽ không thể kìm lòng được khi nhìn thấy ánh mắt sáng ngời của đồng bào dân tộc. Họ là những người dù sống trong nghèo khó, tối tăm nhưng cũng không bao giờ bị tha hoá, biến chất bởi đồng tiền và sự hào nhoáng xa hoa nơi thành thị mà sống một cách chậm rãi thong thả và cần cù lao động. Ngày này qua ngày khác dù trời đất và con người có biến động như thế nào nhưng nếp sống của đồng bào dân tộc vẫn đi trên một quỹ đạo nhất định. Những thanh niên trai tráng vẫn vác gùi đi làm rẫy, những người phụ nữ tần tảo địu con trên lưng mà không quên công việc của mình. Thi thoảng ta lại nhìn thấy mấy đứa trẻ nhỏ quần áo lấm lem nhưng trong ánh mắt lại toát lên sự trong trẻo, hồn nhiên hoang dại mà tràn đầy sức sống như những bông hoa tam giác mạch mọc trên triền núi đá khô cằn. Với một khung cảnh hoang sơ cổ kính ít người biết đến, một đồng bào dân tộc có nếp sống giản dị thanh tao tất cả đã tạo nên thị trấn nhỏ Phó bảng yên bình. Dù không nổi tiếng như những địa danh khác của Đồng Văn nhưng nơi đây đã giữ được những nét văn hóa truyền thống lâu đời. Đó là món quà vô cùng quý báu mà người dân Phó Bảng đã giữ gìn cho Hà Giang nói riêng và cả đất nước Việt Nam nói chung. Chính vì thế chúng ta hãy góp phần chung tay để bảo vệ một nét đẹp đang dần bị phai nhòa theo năm tháng.
Hà Giang 1916 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Yên Minh là thị trấn cách thành phố Hà Giang khoảng 100km về phía Đông Bắc, men theo quốc lộ 4C từ Cán Tỷ lên trung tâm phố huyện chạy qua 3 xã: Bạch Đích, Na Khê, Lao Và Chải. Cung đường Yên Minh kéo dài 50km từ Quản Bạ, hai bên đường thông mọc thẳng tắp, trải dài hàng chục km, đón chào những phượt thủ bằng những con đường quanh co, uốn lượn cùng làn sương mờ mờ ảo ảo phía xa xa. Khung cảnh rừng thông Yên Minh ngút trời, những trảng cỏ xanh và làn sương mù lãng đãng cùng bầu không khí trong mát khiến du khách có cảm giác tâm hồn trở nên thoải mái, tinh thần dễ chịu, như được đi vào một “Đà Lạt thứ hai”. Đi giữa rừng thông nghe tiếng rì rào, ngân nga vài câu hát khiến người ta yêu đời hơn, lòng thư thái cùng hoà vào thiên nhiên, tận hưởng cảm giác được ở một thiên đường xanh yên bình trên mặt đất. Ngắm nhìn rừng thông Yên Minh từ trên cao xuống, cảm giác như bạn vừa được đi trên mình một con sóng với những khúc uốn quanh, mềm mại. Đặc biệt là, bên cạnh những ngọn núi cao có những con sông trải dài lên tới thượng nguồn. Sự kết hợp hài hoà giữa sông núi mây trời sẽ giúp bạn có thêm nhiều những trải nghiệm hấp dẫn và cảm nhận vẻ đẹp trữ tình đặc biệt của mảnh đất nơi này. Theo như kinh nghiệm du lịch Hà Giang, xuôi về phía đồng bằng, cách trung tâm huyện Yên Minh khoảng tầm 12hm còn có một thảo nguyên xanh ở Lao Và Chải. Nơi này mang một nét đẹp lãng mạn, là một điểm dừng chân trên con đường phượt rừng thông Yên Minh, cũng chính vì lẽ đó mà thảo nguyên xinh xắn, thơ mộng này trở thành một địa điểm chụp ảnh cưới lý tưởng của bao cặp đôi. Là một điểm du lịch Hà Giang vừa độc đáo như khung cảnh Đà Lạt lại vừa thơ mộng, yên bình và êm ái đến nôn nao cả cõi lòng, rừng thông Yên Minh sẽ là một trải nghiệm khó quên với mỗi du khách.
Hà Giang 1869 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu đã một lần đến với Hà Giang, hay thậm chí là nhìn qua những bức ảnh trên Internet bạn cũng sẽ thấy được một Hà Giang với sức hấp dẫn không tưởng được. Không chỉ là bởi vì cảnh sắc núi rừng thiên nhiên nơi đây mà còn là vì con người với những nét đẹp của văn hóa. Thung lũng Sủng Là được biết đến là một thung lũng xinh đẹp nhất thuộc địa phận của cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Nằm trên quốc lộ 4C nối các thị trấn của tỉnh Hà Giang và Sủng là chỉ cách huyện Đồng Văn hơn 20Km, được biết với rất nhiều biệt danh như là “ốc đảo”, “thung lũng nơi đá nở hoa” hay là “đóa hoa rực rỡ đầy quyến rũ của cao nguyên đá”. Khi đến đây, bạn sẽ cảm nhận được sự hài hòa của thiên nhiên thơ mộng và con người địa phương, dường như hòa quyện vào nhau tạo nên bức tranh xinh đẹp giữa núi trời. Được hình thành trên địa hình chênh vênh của đá tai mèo đầy hiểm trở, nhưng với sức sống mãnh liệt, ý chí kiên cường của các chồi hoa đã vươn lên tạo cho thung lũng một cảnh sắc ngọt ngào mê hoặc lòng người. Hiện nay, thung lũng Sủng Là được xem là địa điểm du lịch nổi tiếng của Hà Giang không chỉ với người Việt mà còn là du khách nước ngoài. Hơn hết với sự xuất hiện trong bộ phim “Chuyện của Pao”, thung lũng Sủng Là trở nên ngày càng nổi tiếng và được nhiều người yêu thích. Khi đến với thung lũng Sủng Là, thứ bạn cảm nhận được đầu tiên đó chính là không khí vô cùng trong lành, dễ chịu, hơn hết là sự yên bình đến lạ của thung lũng. Thứ ấn tượng nhất đối với bạn có thể là sự hùng vĩ của những dãy núi đá tai mèo dựng đứng tạo nên sự hoang sơ của nơi đây. Xa xa bạn sẽ thấy được những cánh đồng lúa xen giữa những dãy núi và những người dân chân chất, mộc mạc đang trên đồng làm việc. Thung lũng Sủng Là với đá tảng lớn lại còn vút cao, đất đai chỉ toàn là sỏi đá nhiều nên rất khó khăn cho cây cối phát triển một cách toàn diện. Tuy nhiên, khi đến đây bạn sẽ choáng ngợp bởi không gian thiên nhiên đầy sắc màu của hoa cỏ. Đặc biệt là vào khoảng tháng 10 và tháng 11 bạn sẽ thật sự ấn tượng với vẻ đẹp của những đóa hoa tam giác mạch. Được biết đến là loài hoa đặc trưng của Hà Giang nên hầu như ở bất kỳ ở đâu cũng có rất nhiều loài hoa này, nhưng ngay tại Sủng Là bạn có thể ngắm nhìn những bông hoa tam giác mạch đua sắc rực rỡ. Ngoài ra bạn còn có thể đến thung lũng vào khoảng tháng 12 để có thể ngắm nhìn được vẻ đẹp của hoa cải trắng hay cải vàng. Đây chắc chắn là khung cảnh bắt mắt không kém gì tam giác mạch. Hay bạn cũng có thể đến vào những tháng đầu năm để ngắm nhìn những bông hoa đào rừng đua nở, ngập tràn hương thơm của thiên nhiên. Thiên nhiên đã ban tặng cho Sủng Là một cảnh sắc tuyệt vời giữa núi trời hùng vĩ và cỏ cây hoa lá mỏng manh, một sự đối lập nhưng lại vô cùng hài hòa. Đã đến với thung lũng Sủng Là thì bạn không nên bỏ qua việc ghé thăm làng văn hóa Lủng Cẩm - một ngôi làng nhỏ xinh bao gồm hơn 60 hộ gia đình đang sinh sống tại xã Sủng Là, huyện Đồng Văn của tỉnh Hà Giang. Ngôi làng có lịch sử hơn 100 năm và hiện nay là địa điểm du lịch văn hóa cộng đồng thu hút rất nhiều khách du lịch tìm đến trải nghiệm. Khi đã đến đây bạn sẽ được hòa mình vào những nét văn hóa đặc sắc của người dân nơi đây, bạn sẽ được mặc những trang phục dân tộc nhiều màu sắc và họa tiết hấp dẫn, bên cạnh đó bạn còn được trải nghiệm vào những điệu nhảy và những bài hát sôi động của bữa tiệc hoặc lễ hội. Đến đây bạn còn được tham quan và ngắm nhìn vẻ đẹp của các căn nhà của người H’Mông với lan can bằng gỗ, bức tường và mái ngói đã nhuộm màu rêu phong của thời gian. Nếu đã từng xem qua bộ phim “Chuyện của Pao” 2005 thì chắc chắn có 1 nơi mà bạn chắc chắn phải ghé thăm khi đến với thung lũng Sủng Là. Đó chắc chắn chính là nhà của Pao, nơi được sử dụng làm bối cảnh của bộ phim. Đây cũng chính là địa điểm check in mà rất nhiều bạn trẻ yêu thích khi đến Sủng Là. Căn nhà này được xây dựng rất mộc mạc, với khoảng sân trước nhà và hàng rào được làm bằng đá và chiếc ngói âm dương vô cùng đẹp mắt. Nơi đây còn trồng những cây mận và đào nên vào dịp đầu năm bạn sẽ ngắm được những đóa hoa rực rỡ trước cửa nhà. Nơi đây sẽ là địa điểm rất phù hợp cho bạn khi đã đến với thung lũng Sủng Là, nơi đây bạn có thể hóa thân vào không gian cổ kính, mộc mạc như trong phim, hoặc cũng có thể sử dụng bộ trang phục sặc sỡ tạo điểm nhấn cho bức ảnh của bạn. Điều bạn cần khi đến với Sủng Là là một tinh thần tốt nhất và một chiếc điện thoại hoặc máy ảnh dung lượng để bạn có được những bộ ảnh tuyệt vời có một không hai.
Hà Giang 1830 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Dinh thự Vua Mèo hay còn được biết đến với cái tên Dinh thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn, xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình (hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên. Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2. Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây dựng bởi và tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì. Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi những cánh cung núi gọi là thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn vẹn nguyên như ngày đầu, tạo sự kích thích với mọi người đến đây để khám giá ít nhất một lần trong đời. Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho lính canh và nô tì), trung dinh và hậu dinh (là nơi ở và làm việc) với 64 buồng nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng cho việc xây các mái ngói để tạo hình dễ hơn nhưng không kém phần chắc chắn. Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ mỗi khi có chiến sự xảy ra. Dù có sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận xét rằng dinh thự họ Vương vô cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy là công trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung vì nó được cấu tạo từ những phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng gần gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa. Nhìn chung, đa số nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ và bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ có một số ghế và đồ gỗ được làm bằng thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim và gỗ nghiến để không bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc… Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, là loại cây mà Vua Mèo kinh doanh để làm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh hưởng bởi phương tây có trong công trình này có thể kể đến như bồn tắm sữa dê bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp. Tồn tại cùng kiến trúc độc đáo của Dinh thự Vua Mèo là những câu chuyện xung quanh được lưu truyền từ khi nó được xây dựng đến mãi về sau. Tương truyền rằng, nơi ở ban đầu Vua Mèo Vương Đức Chính là trong một chân núi cao cạnh một hẻm núi lớn. Được sự gợi ý của một thuộc hạ về việc chỗ ở không hợp phong thủy, họ Vương nghe theo và tìm thầy am hiểu thiên văn, địa lý để nhanh chóng tìm nơi vừa có địa thế thuận lợi, vừa có phong thủy tốt. Ông đã sai lính sang tận bên đất Trung Hoa để mời Trương Chiếu, một người giỏi xem tướng để xây dựng nhà cửa, sang tìm địa điểm xây dựng dinh thự. Sau một thời gian suy xét kĩ lưỡng, thầy đã chọn Sà Phìn làm nơi ở mới cho Vua Mèo. Trương Chiếu quả quyết rằng thứ được thung lũng Sa Phìn bao quanh kia là một quả đồi hình con rùa, xây dựng trên lưng rùa sẽ giàu sang phú quý, cũng là mảnh đất mà anh hùng quy tụ. Một giai thoại bí ẩn khác liên quan đến Dinh thự Vua Mèo là vào thời người con Vương Chí Sình. cả nhà họ Vương đã bị yểm bùa bởi một thầy phong thủy người Hán, đến mức suýt chút nữa không có người nối dõi tông đường. Theo đó, Vua Mèo khi còn sống bị chứng đau lưng, đã thử qua rất nhiều thần y và phương thuốc tứ phương mà không khỏi. Một ông thầy người Hán phán rằng mộ của cha ông đang chôn trên lưng rồng, có tội nên bề trên quở trách. Tin lời, Vua Mèo di dời ngôi mộ đến một địa điểm khác mà ngờ rằng bị người Hán chơi xấu, bịa chuyện để hãm hại. Vì phạm chuyện cấm kỵ, những người vợ đầu tiên của Vua Mèo đều không thể sinh con. Đến người vợ thứ 4 mới sinh ra được một người con trai, đặt tên là Vương Duy Thọ.
Hà Giang 1687 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khi nhắc đến Hà Giang, chắc hẳn nhiều du khách sẽ nhớ đến thiên nhiên hùng vĩ, những con đèo bám núi uốn lượn tài tình, hay thung lũng bình yên, cùng các thửa ruộng bậc thang trải dài tít mắt. Đặc biệt, bạn sẽ không bỏ qua những điểm đến đặc sắc, đẹp nhất Hà Giang, nào là Cột mốc Km số 0 Hà Giang, Cổng trời Quản Bạ, Đèo Mã Pì Lèng, Cột cờ Lũng Cú, Dinh thự Vua Mèo (Dinh thự họ Vương)... Trong đó, hình ảnh núi đôi xanh mượt, độc nhất vô nhị, nằm ở phía Tây Nam của Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn - Núi Đôi Quản Bạ dường như có sức hấp dẫn kỳ diệu, khiến bất kỳ lữ khách nào đến Hà Giang đều không quên dừng chân check-in và xuýt xoa ngắm nhìn. Núi Đôi Quản Bạ còn có tên gọi khác là Núi Đôi hoặc Núi Cô Tiên, có niên đại cách đây khoảng 1,6 triệu đến 2 triệu năm. Hai quả núi có hình dáng tròn trịa, đầy quyến rũ, trông giống như đôi gò bồng đảo căng tròn của nàng tiên đang say giấc nồng giữa núi rừng kỳ vĩ. Sở dĩ gọi là Núi Đôi Quản Bạ bởi vì hai quả núi gần như bằng nhau, xếp song song, được hình thành từ quá trình vận động của thềm lục địa vỏ Trái Đất, sự đứt gãy của các khối núi đá vôi, là nơi chuyển tiếp của địa tầng đá vôi với núi đất. Núi Đôi Quản Bạ cách trung tâm thành phố Hà Giang khoảng 52 km về phía Bắc. Do đó, du khách có thể di chuyển đến tọa độ du lịch này bằng nhiều phương tiện như xe máy, ô tô… chạy dọc qua Quốc Lộ 4C. Tuyến đường nhanh nhất gợi ý cho bạn tham khảo là Nguyễn Trãi - Quốc Lộ 2 - Quốc Lộ 4C. Sau đó, du khách di chuyển qua khu vực dốc Bắc Sum tầm vài cây số nữa là sẽ nhìn thấy ngay phía trước hai quả núi nằm sát nhau, có hình chóp nón, đó chính là Núi Đôi Quản Bạ. Vào mỗi mùa, Núi Đôi Quản Bạ đều sẽ mang một vẻ đẹp khác nhau, lúc nào cũng tràn trề sức sống, làm xao xuyến biết bao trái tim của du khách gần xa: Vào mùa xuân thì cây trái đâm chồi nảy lộc, vạn vật sinh sôi sau thời gian ngủ đông. Núi Đôi Quản Bạ trông như trái tim thiếu nữ đang e ấp độ xuân thì. Đến mùa hè là khoảng thời gian mà những đồng lúa xanh thẳm trải dài trên khắp các triền đê trông như dải lụa mềm mại đang uốn lượn. Đặc biệt là khi hoàng hôn buông xuống, cả đất trời nhuộm một màu đỏ rực, vạn vật như dừng lại, núi sông bao la cũng trở nên tĩnh lặng. Khi sang thu cũng là lúc Núi Đôi Quản Bạ vào thời điểm đẹp nhất. Bởi vì đây là mùa lúa chín, mùi thơm lan tỏa khắp nơi. Màu vàng ươm của cánh đồng lúa, kết hợp với màu xanh mướt của rừng cây và bầu trời tạo nên khung cảnh bình dị, nên thơ. Hơn nữa, những vườn hoa tam giác mạch cũng đang mùa nở rộ, đua nhau khoe sắc đẹp đến nao lòng. Mùa đông thì địa điểm này lại mang một vẻ đẹp khác biệt giữa tiết trời băng giá. Lúc này, du khách sẽ chỉ thấy những làn sương khói giăng kín khắp lối, bao trùm hết lên cả hai ngọn núi. Đến khi bình minh lên, những tia nắng nhỏ nhoi sẽ làm sương mù tan bớt đi, và trả lại nét đẹp vốn có của Núi Đôi Quản Bạ. Theo kinh nghiệm của các “fan ruột” thì du khách nên tham quan Núi Đôi Quản Bạ từ tháng 1 đến tháng 3 và từ tháng 8 đến tháng 9. Vào thời điểm này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng màu sắc rực rỡ của hoa tam giác mạch cùng vàng ươm rực của cánh đồng lúa chín. Không chỉ bị mê hoặc bởi kiến tạo hình hài độc đáo của hai quả núi, điểm nhấn ấn tượng khác tại Núi Đôi Quản Bạ chắc chắn nằm ở không gian xung quanh như một bức tranh tuyệt tác của tạo hóa. Khi đặt chân đến đây, du khách sẽ có cơ hội được chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang xanh trải tít tăm tắp, xen lẫn trong các dãy núi nhấp nhô, như đang tô vẽ cho bức tranh thiên nhiên thêm phần sinh động. Và tùy từng thời điểm, cả một vùng trời của Núi Đôi Quản Bạ sẽ khoác thêm chiếc áo mới lộng lẫy, kiêu sa, khiến ai cũng phải ngước nhìn.
Hà Giang 1795 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhiều người khi nghe đến cái tên Chợ Lùi sẽ thường liên tưởng ngay đến những hình ảnh cực kì thú vị và có chút ngộ nghĩnh: có thể là phiên chợ được họp ở nơi miền núi và người dân khi tham gia đều phải đi lùi. Nhưng thật ra không phải như vậy đâu bạn ơi. Xem thêm: Chợ phiên Hoàng Su Phì - Nét đẹp văn hóa độc đáo nơi cao nguyên đá Sở dĩ những phiên chợ này được đặt tên như thế là do chính cách tính ngày họp chợ mà người đồng bào các dân tộc sinh sống nơi vùng cao nguyên đá sử dụng trong suốt những năm qua. Gọi là chợ lùi là bởi vì các phiên chợ này sẽ được họp lùi lại một ngày so với phiên chợ trước đó mà thôi. Hoặc nói theo cách đơn giản hơn thì lịch họp của các phiên Chợ Lùi Hà Giang sẽ thường diễn ra cố định 6 ngày một lần. Nhưng bởi vì một tuần có bảy ngày nên phiên chợ diễn ra sau đó sẽ tự động được lùi lại một ngày theo cách tính của lịch dương. Ví dụ như nếu như trong tuần này, phiên chợ được tổ chức vào ngày Chủ nhật thì sang tuần tiếp theo, chợ sẽ được họp vào ngày thứ Bảy và cứ thể xoay vòng mãi. Tuy nhiên, đối với người đồng bào dân tộc H’Mông và người Hoa thì họ sẽ tính lịch họp Chợ Lùi Hà Giang theo cách riêng của mình. Thay vì tính theo lịch dương, đồng bào H’Mông và Hoa sẽ tính theo 12 con giáp, tức là họ sẽ họp chợ vào những ngày được cho là xung khắc với nhau. Có thể là cặp Tý – Ngọ, Dần – Thân, Tị - Hợi đại loại vậy. Khác với những phiên chợ khác tại vùng cao nguyên đá sẽ được tổ chức tại một điểm cố định, chẳng hạn như Chợ tình Khâu Vai, Chợ phiên Mèo Vạc, v.v, những phiên Chợ Lùi Hà Giang sẽ không có điểm tổ chức cụ thể nào cả. Nếu những phiên chợ khác ở vùng biên viễn này thường họp cố định vào những ngày thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần thì chợ lùi có đến tận 8 chợ cơ, bao gồm chợ Phó Bảng, chợ Phố Cáo, chợ Sà Phìn, chợ Lũng Phìn, chợ Lũng Cú, chợ Sủng Trái, chợ Tráng Kìm và chợ Ma Lé. Các chợ này sẽ lần lượt được tổ chức vào những thời điểm và các địa điểm như: Chợ Phó Bảng, Chợ Phố Cáo, Chợ Sà Phìn, Chợ Lũng Phìn,... Nói những phiên chợ lùi là đặc sản của vùng cao nguyên đá cũng chẳng sai tí nào. Vì tính cho đến thời điểm hiện tại, chỉ duy nhất nơi cao nguyên đá Đồng Văn mới là nơi tổ chức những phiên chợ đặc biệt này. Đây là phiên chợ mang đậm đà nét văn hóa đặc sắc trong đời sống văn hóa, đồng thời là món ăn tinh thần không thể thiếu của các đồng bào dân tộc H’Mông, Dao, Lô Lô và người Hoa sinh sống tại những bản làng khắp vùng cao Hà Giang. Trong hành trình khám phá Hà Giang, nếu như bạn muốn cảm nhận được trọn vẹn nếp sống thường ngày cũng như hơi thở đặc trưng của vùng biên viễn, vậy thì bạn không nên bỏ qua những phiên chợ lùi đặc biệt này. Đi dạo khắp phiên chợ, bạn sẽ nhìn thấy trên gương mặt của bà con là sự háo hức và hồ hởi trong mỗi lần xuống chợ. Ngoài ra, khi đến Chợ Lùi Hà Giang, bạn sẽ được nhìn thấy rõ hơn sự thật thà, chất phác của những người mua kẻ bán nơi này và cả tình người hào sảng, thân thiện và hiếu khách của họ nữa. MIA.vn tin rằng những điều đó sẽ làm nên những dấu ấn khó quên trong lòng bạn khi đến với vùng biên viễn xa xôi và hẻo lánh này. Không chỉ được trải nghiệm nếp sống bình dị, thật thà chân chất của người dân nơi đây, khi đến tham dự những phiên chợ lùi Hà Giang, bạn sẽ có thể tìm thấy vô vàn đặc sản của vùng cao nguyên đá mà chẳng thể tìm thấy ở bất kì nơi nào. Các loại đặc sản thường được người dân mang ra buôn bán, trao đổi ở các phiên chợ lùi có thể là gà đen, hạt tê, cải méo, lợn mán, v.v. Ngoài ra, trong suốt phiên chợ, mọi người sẽ cùng nhau tổ chức những tiết mục múa khèn ngẫu hứng nhưng đặc biệt đến lạ cùng một loạt những chương trình giao lưu văn hóa và các trò chơi dân gian khác.
Hà Giang 1782 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hoàng Su Phì là vùng đất trải dài gồm 6 xã là Bản Luốc, Hồ Thầu, Sán Sả Hồ, Bản Phùng, Thông Nguyên và Nậm Ty thuộc vào địa bàn của Hà Giang. Sở hữu vị trí địa lý đặc biệt nằm ở cực Bắc Việt Nam, Hoàng Su Phì gây thương nhớ bởi các cánh đồng ruộng bậc thang vào độ tháng 9, 10 khi lúa chín vàng. Hãy thử đến đây và khám phá nhiều điều ý nghĩa nhé. Hoàng Su Phì là huyện vùng núi có địa hình bị chia cắt mạnh do đó ở đây có rất nhiều vùng khí hậu, thổ nhưỡng cũng như cảnh quan thiên nhiên khác nhau. Chính vì lý do đó mà khi du lịch tới địa điểm này thì bạn nên lựa chọn thời điểm phù hợp: Mùa xuân là khoảng thời gian lý tưởng dành cho những ai yêu thích khám phá các lễ hội độc đáo của Hoàng Su Phì. Đây cũng là cơ hội dành cho các tín đồ sống ảo được check-in cùng các vườn đào, lê, đồi chè. Khoảng từ giữa tháng 4 đến tháng 6 là mùa cấy lúa. Đến Hoàng Su Phì vào mùa này bạn sẽ được chiêm ngưỡng những cánh đồng lúa bạt ngàn nối đuôi nhau từ dãy núi này sang dãy núi nọ. Từ giữa tháng 9 hàng năm là bắt đầu vào mùa lúa chín các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và ruộng bậc thang Hoàng Su Phì nói riêng. Đây là giai đoạn tuyệt vời nhất dành cho những ai yêu thích chụp ảnh nghệ thuật, sống ảo trên những cánh đồng ruộng bậc thang vàng ươm. Cuối năm, khi bước sang mùa đông miền Bắc. Nếu không ngại cái lạnh, các bạn có thể lên Hoàng Su Phì khám phá Tây Côn Lĩnh, Chiêu Lầu Thi để săn mây, săn tuyết cũng hứa hẹn rất thú vị đấy nhé. Bản Phùng là một xã nằm gần biên giới với Trung Quốc. Để đến được địa điểm này bạn cần men theo một con đèo dài gần 30km vắt ngang qua núi mới đến được trung tâm xã. Không chỉ có những thung lũng rộng lớn, tại Bản Phùng còn có rất nhiều cánh đồng ruộng bậc thang nằm cheo leo trên sườn núi dốc. Cùng với Bản Luốc, đây là nơi có những thửa ruộng bậc thang cao nhất Việt Nam. Đến du lịch Hoàng Su Phì, bạn có thể đến thăm các địa điểm sau. Đầu tiên, Bản Phùng là một xã nằm gần biên giới với Trung Quốc. Để đến được địa điểm này bạn cần men theo một con đèo dài gần 30km vắt ngang qua núi mới đến được trung tâm xã. Không chỉ có những thung lũng rộng lớn, tại Bản Phùng còn có rất nhiều cánh đồng ruộng bậc thang nằm cheo leo trên sườn núi dốc. Cùng với Bản Luốc, đây là nơi có những thửa ruộng bậc thang cao nhất Việt Nam. Tam giác mạch là loài hoa đặc trưng của xứ đá tai mèo với vẻ đẹp miên man, hoang dại. Lên Hoàng Su Phì vào thời điểm cuối thu, bạn sẽ được chìm đắm trong sắc tím biếc của những bông hoa tam giác mạch. Nằm dưới chân đỉnh Tây Côn Lĩnh hùng vĩ, Chợ phiên Hoàng Su Phì họp vào ngày Chủ nhật hàng tuần. Tại đây người dân có thể trao đổi hàng hóa trong sinh hoạt hằng ngày như rau quả, vải vóc, thêu thùa… Tuy không quá sầm uất nhưng không khí tại đây lúc nào cũng rất vui tươi. Người dân đi chợ nhưng náo nức như đi hội. Vì thế, có những chàng trai, cô gái chuẩn bị xuống chợ từ đêm hôm trước để kịp giờ họp chợ. Hiện nay, trên các sườn núi của huyện Hoàng Su Phì có hàng trăm ngôi mộ cổ nằm rải rác theo một đường vòng cung trong một khu vực hàng ngàn km2 theo sườn núi với kích cỡ mỗi ngôi cao khoảng 1,5 mét, rộng từ 15 – 25 mét vuông. Đền Vinh Quang nằm tại trung tâm thị trấn Vinh Quang huyện Hoàng Su Phì, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh việc thờ một số vị thần thánh khác theo tín ngưỡng tâm linh của người dân địa phương thì đền Vinh Quang còn thờ Hoàng Văn Đăng là Chánh tổng của Hoàng Su Phì. Một số lưu ý khi du lịch Hoàng Su Phì tự túc, để hành trình khám phá Hoàng Su Phì thêm phần trọn vẹn thì bạn cần lưu ý một số điều bên dưới đây: Bạn cần mang theo đầy đủ các loại giấy tờ cần thiết như CCCD/CMND, giấy phép lái xe và kiểm tra chất lượng xe, mang theo đồ phản quang, kiểm tra đèn, phanh xe kỹ lưỡng trước khi xuất phát. Thời tiết tại Hoàng Su Phì khá lạnh nên khi đi du lịch tại đây bạn cần mang theo áo ấm và các trang phục giữ nhiệt tốt nhé. Ngoài ra bạn cũng nên mang theo đồ ăn nhẹ như bánh, kẹo, nước uống tại vì trên đường đi có khá ít quán bán đồ ăn. Đặc biệt là bạn nhớ mang cả quần áo, sách vở và bánh kẹo để tặng cho các em nhỏ ở đây đấy nhé. Trên đây là toàn bộ những kinh nghiệm đi du lịch Hoàng Su Phì Hà Giang tự túc mà MIA.vn muốn gửi gắm đến bạn. Hy vọng chỉ với một vài thông tin vừa rồi cũng đã có thể giúp bạn ít nhiều trong chuyến du lịch đến Hoàng Su Phì trong thời gian sắp đến.
Hà Giang 1870 lượt xem
Tháng 9 đến tháng 10
Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ thuộc thôn Làng Quá, xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Đồn và tường thành là hai khu vực riêng biệt và nằm cách nhau khoảng 2km, độ cao 742m so với mực nước biển, Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ cách thành phố Hà Giang 106 km về phía Bắc. Theo tài liệu của Pháp, năm 1907 vùng đất Đường Thượng thuộc tổng Đông Minh, xã Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong chuyến đi thị sát các vùng Đại Miên, Tiểu Miện, Yên Minh, Yên Định, Du Già, Đường Thượng của Trung tá Boifacy chỉ huy đạo quan binh thứ 3, trong báo cáo số 1165, tháng 9/1913 vùng đất này “cần được theo dõi và chính vì thế mà phải có đồn Đường Thượng…” Sau chuyến thị sát này công việc lên kế hoạch xây dựng đồn bốt mới dần được tiến hành. Đồn bốt Đường Thượng cũ nay là đồn Lũng Hồ được xây dựng và hoàn thiện từ những năm 1935 - 1940. Công việc xây dựng đồn bốt vô cùng vất vả, chúng đã bắt dân chúng khu vực xung quanh làm phu phen, tạp dịch, vác đá, lấy nước để xây dựng, ai không tuân theo bị chúng đánh đập hoặc bắn chết. Tường thành: Tường thành cách đồn gần 2km được bố trí dựa vào điều kiện tự nhiên theo triền núi hai bên con đường độc đạo nối giữa Lũng Hồ và Yên Minh với mục đích kiểm soát hàng hoá, người ngựa trên khu vực này, báo động sẽ liên lạc về đồn cách đó khoảng 2km. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Đồn Lũng Hồ: Đồn được xây dựng trên khu đất cao, khá bằng phẳng quay hướng Đông - Tây. Chiều dài tường bao quanh gần 200m được bố trí các ụ bắn. Các ụ bắn đều có lỗ châu mai quan sát bên ngoài. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Thiết kế của đồn gồm có Khu nhà ngang và dãy nhà dọc ở phía Tây; Khu dãy nhà dọc và tháp canh ở phía Đông; Giữa khu phía Đông và phía Tây là khoảng đất rộng. Nhìn chung nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, hư hại, hầu như toàn bộ phần mái của các dãy nhà dọc và ngang bị tháo dỡ. Về mặt quân sự Đồn và tường thành Lũng Hồ là công trình quy mô, có vị trí quan trọng án ngữ con đường từ Lũng Hồ sang Đường Thượng, đồng thời ngăn chặn hoạt động tuyên truyền cách mạng tại vùng Đường Thượng của ta trong thời gian này. Công trình là bằng chứng của một thời kỳ lịch sử Pháp chiếm đóng và hoạt động tại khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh của tỉnh Hà Giang. Dưới sự kìm kẹp, nô dịch của thực dân Pháp ở khu Đường Thượng, cuộc sống của nhân dân rơi và cảnh lầm than. Thực hiện nghị quyết lãnh đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng. “Cuối năm 1944 đồng chí Việt Hưng thực hiện nhiệm vụ khơi thông con đường liên lạc từ Cao Bằng - Bắc Cạn - Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc) để đón cán bộ và chuyển vũ khí từ nước ngoài về nước. Đồng chí Việt Hưng tới Lũng Hồ, Đường Thượng gây dựng cơ sở, lấy Đường Thượng làm căn cứ, cán bộ Việt Minh đi đến đâu cũng nhận được sự ủng hộ của đồng bào. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật đảo chính Pháp. Ở Đường Thượng (Yên Minh) Bang tá Đào Văn Ất hốt hoảng bỏ đồn chạy trốn. Nắm bắt thời cơ đó cán bộ Việt Minh ở Đường Thượng đã họp khẩn cấp, chiếm đồn Đường Thượng, phá kho và lấy ngô, thóc chia cho dân và đặt trạm cảnh giới ở ngoài khu căn cứ được tiến hành rất khẩn trương. Ngày 16/3/1945 ta đã chiếm được đồn Đường Thượng, làm chủ và kiểm soát hoàn toàn khu Đường Thượng, từ đây các cán bộ Việt Minh toả về cơ sở lãnh đạo phong trào". Cùng với Khu di tích Sùng Chứ Đà, cơ sở cách mạng Đường Thượng, hang Mậu Long được công nhận là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, vườn quốc gia Du Già và Lễ hội Gầu tào, Lồng tồng, Cầu trăng, Cấp sắc, Thượng thọ... Nổi bật, là Lễ hội Tết Cá của người Tày được tổ chức tại xã Mậu Duệ. Cùng với định hướng của huyện và tỉnh trong thời gian tới, di tích Đồn và tường thành Lũng Hồ sẽ tiếp tục là những điểm đến hấp dẫn du khách khi tới Yên Minh. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang
Hà Giang 2398 lượt xem
Di tích Kỳ Đài nằm trên Quảng trường 26 tháng 3 thuộc phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang. Kỳ Đài là nơi ghi dấu lưu niệm sự kiện Bác Hồ thăm và nói chuyện với hơn 16.800 đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang vào ngày 27/3/1961. Trong dịp này Bác Hồ căn dặn nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang 8 nội dung chủ yếu sau: Trước hết, tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Hai là: Đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất, và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người đều áo ấm cơm no. Ba là: Muốn sản xuất tốt, phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông cụ. Bốn là: Cần phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà… là nguồn lợi lớn, lại là nguồn phân bón cho ruộng nương. Năm là: Khai thác lâm thổ sản, bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng, trồng cây ăn quả và cây làm thuốc. Sáu là: Đồng bào phải chú ý vệ sinh, để giữ gìn sức khoẻ thì phải ăn uống sạch, mặc sạch, ở sạch. Sức khoẻ thì lao động sản xuất mới tốt. Bảy là: Đồng bào phải cố gắng xoá nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì làm ăn mới tiến bộ được. Tám là: Đời sống của đồng bào rẻo cao còn có nhiều khó khăn hơn đồng bào các nơi khác, nhân dân các cấp và cán bộ từ khu đến huyện cần phải ra sức giúp đỡ đồng bào rẻo cao khắc phục khó khăn, xây dựng cuộc sống mới. Lời căn dặn của Bác Hồ thấm sâu vào lòng nhân dân các dân tộc Hà Giang trong sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang trong thời gian qua. Kỳ Đài được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1993. Ngày 30/3/2001 UBND tỉnh Hà Giang khởi công xây dựng Quảng trường và cụm tượng đài trước cửa Kỳ Đài lấy tên là Quảng trường 26 tháng 3. Quảng trường bao gồm toàn bộ phần sân vận động trước đây. Chính giữa quảng trường đặt nhóm tượng đài "Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang". Mẫu tượng do nhà điêu khắc Nguyễn Phú Cường sáng tác, công ty Mỹ thuật Trung ương thi công. Công trình cao hơn 11m, gồm 200 khối đá, nặng 600 tấn. Hình tượng Bác Hồ đứng giữa nhóm 7 nhân vật, đứng nép âu yếm gần Bác là 2 em bé dân tộc Mông và Nùng. Đứng thấp hơn một chút là thiếu nữ dân tộc Kinh và Dao. Phía sau là hình tượng người chiến sỹ biên phòng và anh cán bộ người Tày, với ánh mắt rạng rỡ như muốn ghi lại từng lời dạy của Bác. Bố cục nhóm tượng hoà quyện với nhau, liên kết theo một sợi dây tình cảm xuyên suốt, sống động. Sự hình thành nhịp điệu đó chính là một sử lý sáng tạo có chủ đích mang tính biểu trưng của khối phụ trợ, đem lại cho người xem cảm giác về không gian hùng vĩ của núi rừng Hà Giang với tầng tầng mây bay lượn, hoà với lớp lớp ruộng bậc thang.... Với lợi thế tượng đài được đặt ở quảng trường, nên công trình có một không gian hoành tráng với chiều cảm thụ đa hướng, nhiều chiều. Đây là công trình văn hoá - nơi hội tụ của đông đảo người dân, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng của công trình và tiến hành các sinh hoạt cộng đồng. Kỳ Đài và quảng trường 26 tháng 3 trở thành nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước. Là địa điểm sinh hoạt văn hoá cộng đồng của nhân dân các dân tộc Hà Giang. Nguồn: Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Hà Giang
Hà Giang 2303 lượt xem
Căng Bắc Mê - di tích lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tọa lạc trên sườn núi Rồng thuộc địa bàn thôn Đồn Điền, xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang. Căng Bắc Mê được người Pháp xây dựng trước năm 1938 trong thời gian chiếm đóng Hà Giang. Được người Pháp chọn xây dựng tại nơi đây bởi vị trị chiến lược trọng yếu, dễ dàng kiểm soát được khu vực rộng lớn, thuận lợi cho những hoạt động quân sự của Pháp trong thời gian chiếm đóng nơi đây. Căng bắc mê được xây dựng dựa trên sườn núi đá tai mèo hiểm trở, cao vút. Phía sau là núi Rồng như che chắn bảo vể cho đồn bốt này, trước mặt là dòng sông Gâm giúp cho việc quan sát, bao quát tình hình được dễ dàng. Căng Bắc Mê ban đầu được người Pháp xây dựng để kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối 3 tỉnh miền núi phía bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng. Khi mới xây dựng nơi đây được sử dụng như một trại binh tập kết binh linh của Pháp và tay sai trong thời gian chiếm dóng tại địa bàn này. Sở dĩ nơi đây được gọi là Căng Bắc Mê, bởi theo tiếng Pháp căng mang ý nghĩa là “đồn”, Bắc Mê theo tiếng địa phương là “Pác Mìa” được hiểu là cửa chòi. Để chỉ đồn bốt nơi đóng quân cũng như là nơi đặt chốt quan sát của thực dân Pháp. Căng Bắc Mê được xây dựng bao gồm hệ thống những đồn bốt, nhà thông tin, vọng gác nhằm phục vụ cho mục đích cai trị của chúng. Từ năm 1939-1942 Căng Bắc Mê được người Pháp biến thành trại tù binh để giam giữ các chiến sỹ cộng sản mà chúng bắt được. Có rất nhiều đồng chí cách mạng yêu nước của ta bị giam giữ tại nơi đây như: đồng chí Xuân Thủy, Hoàng Hữa Nam, Hoãng Bắc Dũng, Lê Giản, Nguyên Hồng, Đặng Việt Châu... Tận dụng địa thế trọng yếu của đồn bốt được xây dựng ở nơi rừng thiêng, nước độc có địa thế cheo leo hiểm trờ của khu vực này. Chúng bắt những tù nhân chính trị, những chiến sỹ cộng sản yêu nước giam cầm tại nơi đây. Hàng ngày những chiến sỹ đó phải chịu những đòn roi tra tấn, phải lao động trong điều kiện khắc nghiệt, kham khổ dưới sự kiểm soát gắt gao của chúng nhằm dập tắt tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng của những người con mà chúng gọi là Việt Cộng. Song tất cả những khó khăn gian khổ đó không khắc phục được ý chí quật cường của nhân dân ta. Những người con yêu nước đã biến đau thương thành hành động, biến nơi tù đầy thành trường học chính trị. Họ thành lập cả chi bộ Đảng trong tù, tích cực rải truyền đơn và liên lạc với nhân dân và các chiến sỹ bên ngoài. Đứng trước những hoạt động đấu tranh mạnh mẽ của tù nhân cùng nhân dân trong khu vực, chúng buộc phải thay đổi nơi giam giữ với những đồng chí cộng sản sang những nơi khác. Đến năm 1992 Căng Bắc Mê được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Trải qua thời gian địa danh này đã bị hư hỏng nhiều. Năm 2003 Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Hà Giang phối hợp với các cơ quan ban ngành trong tỉnh, cùng với Huyện Bắc Mê đã cho tiến hành trùng tu một số hạng mục của di tích như: vọng gác, nhà giam, đường lên xuống... Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch Hà Giang
Hà Giang 1992 lượt xem
Dinh thự Vua Mèo hay còn được biết đến với cái tên Dinh thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn (Xà Phìn), xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình (hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên. Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2. Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây dựng, tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì. Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi những cánh cung núi gọi là thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn vẹn nguyên như ngày đầu. Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho lính canh và nô tì), trung dinh và hậu dinh (là nơi ở và làm việc) với 64 buồng nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng cho việc xây các mái ngói để tạo hình dễ hơn nhưng không kém phần chắc chắn. Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ mỗi khi có chiến sự xảy ra. Dù có sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận xét rằng dinh thự họ Vương vô cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy là công trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung vì nó được cấu tạo từ những phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa. Nhìn chung, đa số nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ và bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ có một số ghế và đồ gỗ được làm bằng thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim và gỗ nghiến để không bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc… Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, là loại cây mà Vua Mèo kinh doanh để làm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh hưởng bởi phương tây có trong công trình này có thể kể đến như bồn tắm sữa dê bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp. Nguồn: Báo du lịch Hà Giang
Hà Giang 1869 lượt xem
Là cột cờ quốc gia, tượng trưng cho cột mốc cực Bắc của Tổ Quốc, cột cờ Lũng Cú nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Địa điểm này nằm ở độ cao khoảng 1.470m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú Có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều lần phục dựng, tôn tạo, cột cờ mới hình bát giác có độ cao trên 30m được khánh thành ngày 25 tháng 9 năm 2010. Được xây dựng đầu tiên từ thời Lý Thường Kiệt, ban đầu cột cờ chỉ làm bằng cây sa mộc. Cột được xây dựng lại từ thời Pháp thuộc năm 1887. Những năm sau đó như 1992, 2000 và đặc biệt năm 2002 cột cờ tiếp tục được trùng tu , xây dựng lại nhiều lần với kích thước, quy mô lớn dần theo thời gian. Năm 2002 cột cờ được dựng với độ cao khoảng 20m, chân và bệ cột có hình lục lăng và dưới chân cột là 6 phù điêu họa tiết bề mặt trống đồng Đông Sơn. Theo thiết kế cột cờ hiện nay xây dựng theo mô hình cột cờ Hà Nội nhưng có kích thước nhỏ hơn, chiều cao 33,15m (hơn cột cờ cũ 10m) trong đó phần chân cột cao 20,25m, đường kính ngoài thân cột rộng 3,8m. Chân, bệ cột cờ có 8 mặt phù điêu bằng đá xanh mô phỏng hoa văn mặt của trống đồng Đông Sơn và những họa tiết minh họa các giai đoạn qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, cũng như con người Địa điểm này cũng được xếp hạng Di tích lịch sử và danh thắng quốc gia, là biểu tượng khẳng định chủ quyền dân tộc. Hàng năm, cột cờ Lũng Cú đón lượng lớn khách du lịch đến khám phá. Nguồn: Di sản Tràng An
Hà Giang 1855 lượt xem
Khu di tích Tiểu khu Trọng Con ở xã Bằng Hành, cách trung tâm huyện lỵ Bắc Quang gần 30 km, có tuyến đường Quốc lộ 279 chạy từ huyện Bắc Quang (Hà Giang) qua xã Bằng Hành tới huyện Chiêm Hóa của tỉnh Tuyên Quang. Từ khoảng năm 1939, phong trào đấu tranh chống đế quốc đã nhen nhóm ở nơi đây khi đồng chí Phạm Trung Ngũ, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, được phân công tới tổng Bằng Hành, nay thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) để gây dựng cơ sở cách mạng thông qua việc dạy học. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí Phạm Trung Ngũ đã khơi dậy lòng yêu nước, ý thức cách mạng của đồng bào trong vùng, tố cáo ách thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, do bị thực dân Pháp phát hiện nên đồng chí Phạm Trung Ngũ đã phải rút khỏi Bằng Hành đến nơi khác hoạt động. Thực hiện Chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, ngày 1/6/1945, đồng chí Lê Quảng Ba (tức Lê Tâm), đồng chí Bế Triều (tức Hải Nam) chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền gồm 54 chiến sĩ xuất phát từ Cao Bằng về tổng Bằng Hành để tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng. Để đảm bảo bí mật và an toàn, các đồng chí trong Ban Chỉ huy chia nhỏ thành từng nhóm đi tuyên truyền, xây dựng cơ sở. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội vũ trang tuyên truyền đã mở được nhiều lớp đào tạo ngắn ngày, thành lập các đội du kích, tự vệ, các đoàn thể cứu quốc và đặt tên vùng hoạt động là "Tiểu khu Trọng Con" (tên anh hùng Lý Tự Trọng) bao gồm các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc, Vô Điếm, Hữu Sản. Ngày 24/6/1945, đại biểu chính quyền cách mạng các xã trong Tiểu khu Trọng Con đã tổ chức mít tinh tại Thác Vệ, xã Bằng Hành, để thành lập chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh tổng hội. Tại đây, nhân dân đã được chứng kiến việc chính quyền cách mạng đốt bằng sắc, ấn triện, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, tổ chức cho nhân dân sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, xây dựng đời sống mới. Từ đó, phong trào cách mạng ngày một phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng lan rộng trong toàn huyện Bắc Quang và các vùng lân cận. Tháng 8/1945, phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang đã lớn mạnh, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. 74 năm đã trôi qua, mỏm đá Thác Vệ còn đó bên dòng sông Lô, khắc ghi đóng góp của các chiến sĩ cách mạng, nhân dân các dân tộc vùng tả ngạn sông Lô thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) cho cách mạng, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. Năm 1996, Di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) được Nhà nước công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Hà Giang 1849 lượt xem
Núi Cấm Sơn thuộc cung đường Bà Triệu, thị xã Cấm Sơn, phường Nguyễn Trãi, tỉnh Hà Giang. Không giống với những ngọn núi khác khi thường nằm ở nơi hoang vu, heo hút, núi Cấm Sơn Hà Giang thì lại khác. Ngọn núi này tọa lạc ngay giữa lòng thành phố Hà Giang ồn ào, nhộn nhịp, đứng sừng sững kỳ vĩ cũng giống như đang bao bọc, chở che cho người dân địa phương sống ở nơi đây. Núi cũng có tên gọi khác là Núi Cấm, xuất hiện với một hình ảnh thật riêng biệt, độc đáo, tạo nên vẻ trầm mặc, bí ẩn và sức hút khó cưỡng đối với những lữ khách đường xa lần đầu đến mảnh đất cao nguyên đá. Theo kết cấu địa chất núi được chia thành hai vùng riêng biệt. Phía từ đỉnh núi chạy dài theo dốc Mã Tim chủ yếu là núi đá vôi tai mèo với địa hình hiểm trở, hang sâu vách đá dựng đứng, như con Sư Tử với dáng oai vệ. Từ trên đỉnh núi trải dài về phía sông Lô là rừng núi đất, sườn núi vách dốc trải dài suốt từ đường 19 tháng 5 đến Quảng trường 26 tháng 3. Dưới chân núi “Cấm Sơn” là những phố phường đông đúc dân cư làm ăn sầm uất. Nhưng chắc rằng người dân Hà Giang ít ai có thể hiểu, thấy hết được những vẻ đẹp tự nhiên, song cũng đầy huyền bí của “Cấm Sơn”, vì là núi đá hiểm trở nên có rất ít đường lên núi, chỉ có một con đường độc đạo duy nhất có thể leo lên đỉnh núi. Trên đỉnh núi, nơi có một hang sâu thẳm, thẳng đứng như một cái “giếng trời”. Chính với địa thế hiểm trở và độc đáo này mà khi thực dân Pháp xâm lược, đã chọn nơi đây là chốt canh giữ chính, để bảo vệ thị xã. Theo truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian, đội quân “cờ đen” của Lưu Vĩnh Phúc, khoảng những năm 1870 - 1875, địa hạt Hà Giang có đội quân “cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh kéo đến để cướp bóc, chúng bị đội quân của đồng bào các dân tộc là “Quân cờ trắng” đánh trả quyết liệt, bao vây truy kích, năm 1875, quân “Cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh bị co cụm, đội quân của mình lên núi Cấm để cố thủ, lương thực cạn kiệt dần, xung quanh núi Cấm lại bị bao vây chặt chẽ, biết không thể thoát, cả tướng lẫn quân “Cờ vàng” đã nhảy xuống hang sâu trên núi tự vẫn. Với tấm lòng bao dung và nhân ái nhân dân địa phương đã lập ngôi miếu thờ nhỏ, cầu nguyện cho những linh hồn oan khuất được siêu thoát. Núi đã trở thành nơi linh thiêng ít có người dám lên, núi “Cấm sơn” càng trở nên huyền bí. Trải qua những năm tháng thăng trầm của thời gian miếu thờ cũng không còn nữa, dân địa phương đã đưa về thờ tại “Cấm Sơn Linh Từ” nay là đền Mẫu dưới chân núi Cấm. Đền Mẫu được xây dựng từ năm 1889 để thờ Đức Thánh Mẫu Thiên Tiên (tức Mẫu Thượng Ngàn Công Chúa Liễu Hạnh) và Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Với hơn 100 năm tuổi, Đền Mẫu đã trở thành một nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng trong tín ngưỡng người địa phương. Đây cũng là nơi lưu trữ nhiều hiện vật nghệ thuật, kiến trúc quý báu như các bức hoành phi, câu đối, chuông đồng, tượng thờ,… Nguồn: Báo điện tử Hà Giang
Hà Giang 1816 lượt xem
Di tích Bãi đá cổ thuộc địa phận thôn Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Theo tiếng Nùng địa phương, “Nấm Dẩn” có nghĩa là khu vực nguồn nước. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 21/02/2008. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được phát hiện vào năm 2004 bởi các nhà khoa học Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hà Giang. Khu di tích đá cổ chạm khắc các hình vẽ có cách đây cả nghìn năm nằm trong một thung lũng rộng. Khác với di tích đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn còn được ít người biết đến nhưng vẻ đẹp của các hình vẽ và những điều bí ẩn xung quanh các phiến đá thì không kém phần hấp dẫn và lôi cuốn. Các di tích cự thạch này nằm giữa dãy núi Tây Ðản và dãy núi đồi Nấm Dẩn, ngay gần sát với con suối Nậm Khoòng. Nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc bờ suối với hình thù đa dạng và độc đáo. Có tảng đá như một bàn cờ phẳng, có tảng lại giống tấm phản nằm hay một chiếc ghế ngồi. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá vẫn giữ được nguyên trạng phong hóa tự nhiên. Nhân dân trong vùng gọi khu vực này là Nà Lai (ruộng nhiều chữ) vì trên một số tảng đá có khắc hình, chữ. Các hình khắc vẽ rất đa dạng, mang vẻ đẹp riêng trong phong cách tạo hình của nghệ thuật cổ. Ngoài hơn 80 hình khắc vẽ, trên bề mặt tảng đá còn có khoảng 80 lỗ vũm, được khoét với đường kính trung bình 5 - 6cm, sâu 1 – 2cm, các vũm phân bố chủ yếu ở đầu phía tây của tảng đá. Mỗi tảng đá là một điều bí ẩn, gắn với những câu chuyện ly kỳ mang dấu ấn tín ngưỡng, thể hiện sự linh nghiệm cầu ứng các đấng thần linh của nhân dân các dân tộc thiểu số trong vùng. Bãi đá bao gồm bảy phiến đá lớn và hai cự thạch (tảng đá cực lớn) khắc và vẽ 79 hình thù, bao gồm: sáu hình hồi văn hình vuông, hai hình hồi văn hình tròn, 40 hình tròn, một hình vuông, hai hình chữ nhật, sáu hình đục khắc song song tương tự ruộng bậc thang, năm hình biểu tượng sinh thực khí phụ nữ, còn lại là các hình bàn chân người với kích thước tương đương kích cỡ thật, có ngón chân khắc lõm sâu vào đá, hình người trong tư thế giơ hai tay, dang hai chân... Theo lời những già làng tại Nấm Dẩn thì: “Ở đây có tục thờ đá từ lâu đời nên những khối đá cổ bí ẩn kia không ai dám xâm phạm tới”. Cùng với đó người dân địa phương cũng đã truyền tai nhau qua biết bao nhiêu thế hệ về truyền thuyết rằng khu bãi đá cổ chính là nơi thần thánh đã cất giữ những bí mật “thiên cơ bất khả lộ”. Những hình vẽ trên các tảng đá được người dân coi là “thiên tự” còn khu vực này là “đất thánh” mà không ai ở đây dám coi nhẹ. Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử còn tìm thấy khá ít. Theo các nhà KH, di tích cự thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng 2000 năm. Đây có thể là di tích mộ của thủ lĩnh cộng đồng hoặc là khu đất thiêng, thờ cúng thần linh, tổ tiên và các nhân vật lỗi lạc của cộng đồng dân cư. Ngoài ra, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có khả năng liên quan đến tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử. Có thể nói Bãi đá cổ Nấm Dẩn có giá trị đặc biệt về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng và giá trị nghiên cứu khoa học cao. Nguồn: Sở văn hoá thông tin du lịch tỉnh Hà Giang
Hà Giang 1811 lượt xem
Tên gọi Đồng Văn được phiên âm từ tiếng quan hỏa “Tổng Puôn” có nghĩa là cánh đồng buôn bán, trong lịch sử đây là trung tâm giao thương của cả huyện Đồng Văn rộng lớn, là đầu mối chính trung chuyển thuốc phiện sang Trung Quốc. Khu vực trung tâm thị trấn Đồng Văn xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên tỉnh Hà Tuyên. Sau đó tách nhập thuộc châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Năm 1887 khu vực Đồng Văn bị thực dân Pháp chiếm giữ và để thuận tiện cho việc cai trị đô hộ, chúng chia Đồng Văn thành các Châu nhỏ, đứng đầu mỗi Châu là một dòng họ thổ ty cai quản.Vùng đất Đồng Văn ngày ấy do thổ ty họ Nguyễn là ông Nguyễn Chấn Quay cai quản. Trước đây khu Phố cổ chỉ là một vùng thung lũng hoang sơ, dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 khi người Pháp chiếm đóng Hà Giang, với ý định đưa khu vực này trở thành trung tâm giao thương sầm uất nên khu Phố cổ đã được xây dựng và hình thành. Từ trên cao nhìn xuống, 3 dãy nhà chợ xếp thành hình chữ U, lợp ngói âm dương. Khi mới xây dựng chợ được dựng lên bằng tranh tre nứa lá, Những người già hiện đang sống trên khu phố kể lại: Tết Nguyên Đán năm 1923, khu vực phố cổ Đồng Văn xảy ra trận hỏa hoạn lớn. Ngọn lửa đó thiêu trụi gần như toàn bộ các ngôi nhà, hàng quán lợp bằng lá tranh, nứa. Thực dân Pháp chiếm đóng lúc bấy giờ đã cho quy hoạch lại và cử một số người Tày, Mông sang thuê thợ từ Trung Quốc sang thiết kế xây dựng khu nhà chợ ngày nay. chợ cổ gồm 15 gian nhà chợ, chia thành 3 dãy đối xứng tạo thành kiến trúc chữ U. cột trụ là những cột đá lớn dầy 3,4 người ôm được đục đẽo kỳ công dưới những bàn tay con người. Theo tài liệu thu thập được thì hiện tại Phố cổ Đồng Văn còn 2 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm tuổi. Ngoài ra trong khu phố này còn có một số biệt phủ của các thổ ty khác như biệt thự của thổ ty người Tày Nguyễn Đình Cương (1828-1865) và dòng họ Nguyễn, hiện nay đã bị đánh sập chỉ còn cái nền nhà cũ. Từ 1923-1940 các ngôi nhà ở khu vực phố Đồng Văn lần lượt được các người thợ Tứ Xuyên và những người thợ địa phương xây dựng. Về kiến trúc: Hầu hết các ngôi nhà cổ ở Phố Đồng Văn do những người thợ Trung Quốc và thợ địa phương thiết kế xây dựng nên có những sắc thái rất chung, như: phần móng nhà và hàng hiên được xây dựng bằng đá xanh, tường thì được trình bằng đất sét trộn vôi, mật mía và giấy bản hoặc gạch nung hay gạch mộc do đó có độ bền vững chắc. Cửa ra vào và cửa sổ được thiết kế dưới dạng cửa vòm hoặc cửa vuông có ốp đá hay gạch nung ở khung cửa. Cột nhà được xây dựng bằng gạch nung hoặc gỗ nghiến, gỗ thông chắc chắn, hiện nay một số nhà trong khu phố còn giữ lại được những chân cột bằng đá có chạm trổ cầu kỳ với nhiều hình dạng khác nhau, chủ yếu là hình trụ 4 cạnh hoặc hình tròn với dáng vẻ của quả hoa Anh Túc. Trong ngôi nhà những sàn, gác 2 đều được lát ván bằng các loại gỗ quý. Các ngôi nhà được thiết kế xây dựng theo kiểu 3 gian 2 mái, lợp ngói âm dương hoặc nhà vuông ở giữa sân có lát đá (như nhà UBND cũ). Nhà cổ ở Phố cổ Đồng Văn được xây dựng trang trí, sắp đặt giống nhau gian giữa là gian quan trọng dùng để đặt bàn thờ, thẳng cửa ra vào đồng thời cũng là nơi tiếp khách, sau bàn thờ của gian giữa và hai gian bên cạnh là phòng ngủ, buồng giữa sau bàn thờ là phòng của những người lớn tuổi trong gia đình, hai bên cạnh là buồng của con cháu, nếu nhà rộng thì có thể làm bếp riêng hoặc cầu thang lên gác hai tùy theo cách bố trí của từng gia đình Những ngôi nhà có dáng vẻ oai phong và nét mềm mại tinh sảo của chạm khắc gỗ đá kết hợp hài hoà giữa kiến trúc cổ TQ và nghệ thuật VN. Đến vùng cao nguyên đá thăm phố cổ Đồng Văn, thăm chợ phiên vùng cao để được hòa mình vào dòng văn hóa bản địa. Có thể nói chợ phiên là nơi thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hóa của người dân nơi đây. Chợ phiên vùng cao không chỉ là nơi giao thương mà còn là nơi hò hẹn gặp gỡ của các chàng trai cô gái, đây thực sự là ngày hội của đồng bào nơi biên cương heo hút đá.vào những ngày Chủ Nhật hàng tuần khi chợ phiên được tổ chức, một không khí ồn ào, tấp nập và huyên náo, những chàng trai cô gái súng sính với những bộ váy áo sặc sỡ xuống chợ phiên. Họ có thể đi mất nửa ngày đường mới tới chợ, có người đi chợ để mua bán sản phẩm hàng hóa. Các bà vợ, bà mẹ đi chợ để mua sắm, các ông chồng đi chợ để giao lưu uống rượu, ăn Thắng Cố, còn các thanh niên nam nữ thì đi chợ để giao lưu tìm kiếm bạn tình. Đây là những biểu hiện đậm nét bản sắc văn hóa chợ của vùng cao nguyên đá. Chúng ta có thể bắt gặp đâu đó hình ảnh người vợ đứng che ô chờ chồng say rượu ngủ ở góc chợ, lề đường. Đó là hình ảnh đẹp mang đậm bản sắc không nơi nào có được. Với những nét cổ kính rêu phong tồn tại theo dòng chảy của thời gian, Phố cổ Đồng Văn đã được công nhận là di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật năm 2010. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang
Hà Giang 1784 lượt xem
Chùa Sùng Khánh thuộc địa phận thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên. Chùa nằm gần Quốc lộ 2, cách Thành phố Hà Giang 9 km. Chùa Sùng Khánh được khởi công xây dựng từ tháng giêng năm Bính Thân thời Thiệu Phong (1356) đến rằm tháng tư thì hoàn thành. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, ngôi chùa được xây dựng thời Trần và sau này được trùng tu vào thời Lê đã bị đổ nát, tượng Phật và các đồ thờ tự đã bị mai một. Duy nhất chỉ còn 2 tấm bia đá và 1 quả chuông cùng trường tồn với thời gian, trong đó đáng chú ý nhất là tấm bia dựng dưới triều vua Trần Dụ Tông vào năm 1367. Bia đặt trên một con rùa đá tương xứng, điểm độc đáo là ở trán bia được bao bọc trong băng trang trí hình cánh cung được chia ra 3 ô: Ô chính giữa khắc hình Phật bà A Di Đà ngự trên toà sen 2 tầng cánh, mỗi bên có một đệ tử đứng chầu tay chắp trước ngực; hai ô bên cạnh khắc 2 con rồng giống nhau, tựa như đối xứng trong tư thế đang bay, đầu nghển cao hướng tới toà sen. Theo các nhà nghiên cứu, trán bia này là một tổ hợp trang trí đặc biệt, chưa từng thấy trên một tấm bia nào khác hiện đã biết ở nước ta. Tấm bia này là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn, được dùng để so sánh đối chiếu một số tự dạng thời Trần khi nghiên cứu các văn bản khác. Tấm bia không chỉ khẳng định sự ra đời của một ngôi chùa thờ Phật ở vùng biên cương hẻo lánh, mà còn có một sử liệu quan trọng là việc dòng họ Nguyễn thế tập làm phụ đạo quản trị ở đây ràng buộc với ngôi chùa. Bia đá chùa Sùng Khánh là một tài liệu bia ký nguyên vẹn, trang trí hình Phật, rồng, hoa dây…chưa từng thấy trên tấm bia thời Trần nào hiện biết. Tấm bia còn giúp thêm tài liệu cho việc tìm hiểu địa danh, lịch sử, chữ viết thời Trần, đặc biệt là sự xuất hiện của chữ Nôm khắc trong văn bia. Ngoài ra, chúng ta còn biết chế độ Phụ đạo ở thời Trần được chính quyền Trung ương thi hành rộng rãi. Tấm bia còn là chứng cớ nói lên ảnh hưởng của Phật giáo thời Trần thời bấy giờ. Hơn nữa, một hệ quả lịch sử mà chúng ta thấy được, đó chính là một biểu hiện lớn mạnh của chính quyền trung ương thời Trần đã quản lý chặt chẽ mọi miền biên viễn của đất nước. Chính vì vậy tấm bia này được công nhận là Bảo vật quốc gia vào năm 2013. Đến năm 1705 ngôi chùa được trùng tu lại. Lần trùng tu này đúc quả chuông và tạc 1 bia đá ghi lại sự kiện trùng tu chùa. Chuông cao 0,90m, đường kính miệng rộng 0,67m. Đặc biệt là ở 4 múi chuông, mỗi múi có 2 phù điêu hình người đắp nổi (cao 10cm bố trí ở góc các múi) để bảo vệ và trấn 8 hướng. Sau năm 1964, do điều kiện lịch sử, chiến tranh khốc liệt, ngôi chùa Sùng Khánh không được chăm nom bảo vệ thường xuyên và ít lâu sau đã bị đổ sập. Đến năm 1989 ngôi chùa được xây dựng lại; năm 1993 chùa Sùng Khánh được xếp hạng là di tích lịch sử; năm 1999, được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa Sùng Khánh gắn liền với lễ hội Lồng Tồng nơi đây. Từ năm 1994 đến nay, lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) được phục hồi lại. Lễ hội diễn ra vào ngày 15 tháng giêng âm lịch, được tổ chức tại thửa ruộng trước cổng chùa. Vào ngày này bà con nhân dân trong thôn, xã và các vùng lân cận quy tụ về đây dự lễ và lễ Phật. Vẫn theo lệ từ xưa, phần lễ đầu tiên là cúng tạ các thần linh cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, bản làng bình yên no ấm. Sau đó, người ta tiếp tục dâng lễ lên chùa lễ Phật. Tiếp theo phần lễ là phần hội với nhiều trò chơi dân gian truyền thống mà trong đó vui nhất, đông nhất là hội tung còn. Người dân địa phương thường quan niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm thì năm đó bản làng mới làm ăn thuận lợi. Lễ hội được tổ chức vui tươi, tưng bừng và phấn khởi, với mục đích mở mùa gieo trồng mới, tạ ơn trời, đất, thần Nông, thần Phục Hy, Thành hoàng làng bản…, cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa và cuộc sống an yên,yên lành, hạnh phúc… Chùa Sùng Khánh là một điểm du lịch tâm linh trên mảnh đất Vị Xuyên. Dù trải qua bao biến cố thăng trầm, nơi đây vẫn lưu giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa từ ngàn xưa. Về chùa Sùng Khánh, chúng ta có được khoảng không gian yên bình, tĩnh lặng giữa núi rừng non cao hùng vỹ, là cơ hội để cùng thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên yên bình, thơ mộng của Hà Giang. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang
Hà Giang 1776 lượt xem
Quốc Lộ 2, Cầu Mè Phương Thiện, Quốc Lộ 2, Thành Phố Hà Giang, Hà Giang, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Hà Giang
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
Tổ 2, Quang Trung, Thành Phố Hà Giang, Hà Giang, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Hà Giang
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
SN 102, Tổ 7, Thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, Tỉnh Hà Giang
Hiệp hội du lịch Hà Giang
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ