Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Khám phá nơi được gọi là thiên đường mây ngợp trời để có những trải nghiệm đáng nhớ về vùng đất sở hữu thiên nhiên hùng vĩ mang đậm nét văn hóa núi rừng Tây Bắc. Hãy nghe Đậu Phương Anh một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Tà Xùa ở đâu ?
Tà Xùa, nằm ở độ cao hơn 2.800 m so với mực nước biển, là một trong những đỉnh núi cao nhất Việt Nam, thuộc huyện Bắc Yên (Sơn La), giáp với huyện Trạm Tấu (Yên Bái). Tà Xùa cách Hà Nội 240 km nếu đi từ Hà Nội đến Tà Xùa bằng xe máy thì mất khoảng 5 tiếng để đến nơi, khí hậu mát mẻ quanh năm, nổi tiếng là điểm săn mây đẹp từ tháng 10 đến tháng 4.
Di chuyển đến Tà Xùa
Tà Xùa có gì?
Khi đến Tà Xùa có rất nhiều trải nghiệm hay để các bạn khám phá nhưng có lẽ nổi tiếng nhất ở đây là trải nghiệm ‘săn mây’ đây có lẽ là điều thu hút khách du lịch đến Tà Xùa nhiều nhất, cái không khí mát lạnh cộng thêm những đám mây trắng xóa giăng phủ khắp đỉnh đồi núi, đã làm cho mỗi du khách đến đây phải xao xuyến đến mê ly. Nhưng không phải lúc nào đến đây cũng sẽ săn được mây đây là lúc phải xem nhân phẩm của bạn có tốt hay không đấy nhé
Săn mây lúc sáng sớm
Ở đâu ăn gì?
Khi đến Tà Xùa hãy bỏ túi cho mình những homes view xinh ngay ở trung tâm có thể săn mây như: Pơ Mu homestay, homestay Tà Xùa nhà của Táo, Tà Xùa clouds homestay,... (nên book trước khoảng 1 tuần tránh hết phòng)
Tà Xùa hơi ít quán ăn nên các bạn có thể mua đồ đi chợ để nấu mở tiệc bbq hoặc lẩu ăn luôn ở homes mình ở cho tiện, và hãy báo luôn lúc đặt phòng để homes chuẩn bị.
Ăn BBQ tại homestay
Chơi ở đâu?
Đến Tà Xùa đẹp nhất vẫn là đón bình minh, hoàng hôn, săn mây.
- Đón hoàng hôn ở Đỉnh gió, hoặc quán cf Mị Ơi, view ngắm núi đồi xinh lắm
- Thào coffee - một quán cf yên bình giữa núi đồi cùng những chú chó dễ thương
- Săn mây và ngắm bình minh ở Sống lưng khủng long. Tuỳ mùa mà mặt trời mọc từ 5h30-6h30, đây là khoảng tg đẹp nhất lên hình. Nếu ở trong homes thị trấn bạn cần phải dậy sớm thật sớm (4h30-5h) để kịp đón bình minh ở đây.
Thị trấn nhỏ tại Tà Xùa
Hãy xách bà lô lên và tận hưởng một kì nghỉ hè thật tuyệt tại một nơi thật tuyệt cùng gia đình và người thân của bạn nhé.
Ngoài cái tên Dải Yếm, ngọn thác này còn được gọi là “thác Nàng” hay “thác Bản Vặt”. Thác bắt nguồn từ hai khe nước Bó Co Lắm và Bo Ta Cháu, nằm ở vị trí hợp lưu của suối Vặt và suối Bó Sập, thuộc xã Mường Sang, huyện Mộc Châu. Tương truyền rằng hơn 700 năm trước, có một đôi trai gái yêu nhau thắm thiết. Nhưng vì chiến tranh, cả hai phải chia cắt. Chàng trai ra trận, còn cô gái ngày ngày đến bên dòng thác chờ người yêu trở về. Một hôm, trời mưa bão, nước dâng ngập cả ngọn thác. Cô gái bị cuốn trôi, chỉ còn lại tín vật tình yêu là chiếc khăn thêu vương lại gần thác nước. Dân bản tiếc thương nên đã đặt tên cho thác là “Dải Yếm”, theo tiếng Thái cổ nghĩa là “Sợi Yêu”. Cũng bởi truyền thuyết cảm động này nên dòng thác đã trở thành nơi “chứng duyên” và là điểm đến lý tưởng cho rất nhiều cặp tình nhân. Hiện nay, thác đang được bảo tồn và chịu sự quản lý bởi Khu du lịch thác Dải Yếm. Giống như một người con gái đang tuổi yêu đương, thác nước Dải Yếm có lúc nhẹ nhàng, êm đềm nhưng cũng có lúc dữ dội và cuồng nhiệt. Để cảm nhận được hết vẻ đẹp hoang dã pha lẫn chút mộng mơ của con thác, bạn nên đến đây vào mùa nước đổ. Khoảng thời gian từ tháng 4 – 9 chính là thời lúc vời nhất để ngắm thác. Lúc này, suối chảy xiết, lượng nước đổ về rất lớn, tạo thành một tấm màn trắng xóa, đầy mê hoặc, khiến người xem phải choáng ngợp và thích thú. Nhưng nếu muốn nhìn thấy một điều gì đó nhẹ nhàng, trầm lắng hơn, bạn cũng có thể tham quan thác vào mùa khô. Khi đó, con thác sẽ trở nên dịu dàng và đầy mộng mơ. Tiếng suối chảy róc rách hòa cũng giọng hót líu lo của những chú chim từ rừng sâu, tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một khung cảnh đậm ý thơ. Nhưng nếu muốn nhìn thấy một điều gì đó nhẹ nhàng, trầm lắng hơn, bạn cũng có thể tham quan thác vào mùa khô. Khi đó, con thác sẽ trở nên dịu dàng và đầy mộng mơ. Tiếng suối chảy róc rách hòa cũng giọng hót líu lo của những chú chim từ rừng sâu, tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một khung cảnh đậm ý thơ. Trải nghiệm đầu tiên mà bất cứ du khách nào cũng không thể bỏ qua đó là chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác Dải Yếm. Thác có độ cao hơn 100m, được chia tách thành hai nhánh rõ rệt: thác phía trên rộng khoảng 4.000 m2 với 9 tầng tượng trưng cho 9 bậc tình yêu, còn thác phía dưới nhỏ hơn (diện tích tầm 300 m2) và gồm 3 tầng. Hai cụm thác cách nhau khoảng 200m, thi nhau ngày đêm chảy xiết, nhìn từ xa trông giống như một dải yếm đào mềm mại uốn lượn quanh vách núi. Với vẻ đẹp kỳ ảo đậm nét thi thơ, ngọn thác này đã trở thành địa điểm tham quan, dã ngoại, check in chụp ảnh của rất nhiều du khách, đặc biệt là giới trẻ.
Sơn La 1645 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Tiền Phong Sơn La là địa danh tiêu biểu của nét đẹp hoang sơ và hùng vĩ, nhưng lại vô cùng lãng mạn nơi núi rừng Tây Bắc. Ghé thăm vùng đất này, du khách sẽ được chiêm ngưỡng phong thủy hữu tình và tận hưởng không khí trong lành của thiên nhiên, có nhiều trải nghiệm thú vị khi đi du thuyền trên mặt hồ. Nằm giữa thảo nguyên bao la, hồ Tiên Phong ngàn gió và nắng ấm đã làm say lòng bao du khách. Hồ Tiền Phong Sơn La là thuộc địa bàn xã Mường Bom, huyện Mai Sơn. Địa danh nằm ngay sát trục đường Quốc lộ 6, cách 23km về thị xã Sơn La, cách 7km về thị trấn Hát Lót và cách 2km để tới sân bay Nà Sản. Đây là vị trí đắc địa của núi non hùng vĩ. Là nơi được bao quanh bởi thiên nhiên tươi đẹp – giữa thảo nguyên ngút ngàn. Phía Đông và phía Bắc là hai dãy núi trùng điệp nối tiếp nhau hùng vĩ. Phía Đông là cao nguyên Nà Sản đầy ắp các loại trái cây và ngút ngàn đồi chè xanh ngát. Tất cả đã tạo nên phong cảnh hữu tình, thiên nhiên cuốn hút, mang lại những giây phút thư thái và bình yên, níu chân người lữ khách. Cảnh sắc hồ Tiền Phong được tạo nên từ con đập Tiền Phong bằng đất và kiên cố bởi những mảng bê tông vững chắc. Đập Tiền Phong cao 23m, chân rộng 120m2 và dài 120m. Tới đây, du khách được tận mắt chứng kiến khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp với một màu xanh biếc trải dài. Mặt hồ bao la màu xanh ngọc bích, đằng xa xanh thẳm những cánh rừng nhiệt đới và cảnh sắc mây trời thăm thẳm. Thiên nhiên dìu bước, lòng người không muốn rời khỏi khung cảnh non nước hùng vĩ Tiền Phong. Du thuyền là trải nghiệm hấp dẫn du khách khi đến thăm hồ Tiền Phong Sơn La. Vừa lững lờ trên mặt nước và thu vào tầm mắt thiên nhiên tuyệt diệu thì còn gì tuyệt vời hơn. Bạn có thể lựa chọn chèo thuyền bằng tay, thuyền đạp chân hoặc thuyền máy tùy theo sở thích. Nhiều du khách cũng lựa chọn câu cá giữ thiên nhiên tuyệt đẹp. Hãy cứ làm theo cách mình thích, thả hồn vào thiên nhiên để cảm nhận thời gian chậm trôi, lưu giữ những cảm xúc tuyệt vời nhất. Nhìn từ xa, đảo nổi giống như mai một con rùa đang lênh đênh giữa mặt hồ. Cảnh quan nơi đây lúc nào cũng xanh mướt một màu xanh tươi mát từ những thảm cỏ non và hàng đây vi vu gió. Gió đưa hơi nước mát lành và sảng khoái cho hòn đảo nhỏ. Khám phá đảo nổi, du khách sẽ được thả hồn vào thiên nhiên tươi mát nơi đây, thưởng thức không khí trong lành và bình yên nhất của cuộc đời.
Sơn La 1752 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Sở hữu độ cao ấn tượng so với mực nước biển là 2.000 m, đỉnh núi nằm ở khu vực biên giới Việt - Lào và nhận được sự yêu thích của nhiều khách du lịch đến tham quan trong thời gian những năm gần đây. Sau khi đến trung tâm huyện Mộc Châu bạn cần di chuyển thêm 40 km để đến được chân núi. Ngoài tên gọi đỉnh Pha Luông, du khách còn có thể dùng tên Bờ Lung để nói về điểm du lịch này. Khi đến đây bạn sẽ được trải nghiệm cảm giác chinh phục đỉnh núi với độ cao ấn tượng. Đặc biệt, là cảm giác được ngắm nhìn khung cảnh mọc trong từ trên cao vừa hùng vĩ, vừa hoang sơ mà không phải ở đâu cũng có. Với những người yêu thích khám phá và đam mê bộ môn mạo hiểm thì đây sẽ là điểm đến tuyệt vời. Bạn còn có thể tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ của vùng cao miền Bắc và thư giãn sau những căng thẳng, mệt mỏi trong cuộc sống tại đây. Đối với những bạn trẻ thì đây là điểm check in lý tưởng và “săn mây” siêu đỉnh vào buổi sáng sớm. Mang đặc trưng khí hậu của miền Bắc với bốn mùa thay đổi rõ rệt, du khách có thể đến đỉnh Pha Luông bất kỳ thời gian nào trong năm. Bởi nơi đây vào mỗi thời điểm sẽ mang vẻ đẹp riêng biệt và ấn tượng riêng cho khách du lịch. Tuy nhiên, vì đường lên đỉnh núi có độ cao đến 2000m và khó khăn, nên du khách hãy chọn thời gian du lịch từ tháng 3 đến tháng 4. Đây là thời điểm có nắng ấm và không có mưa, thuận tiện cho việc leo núi an toàn hơn cũng như giúp quá trình ngắm cảnh. Một trong những điểm check-in nổi tiếng khi chinh phục đỉnh Pha Luông, đó chính là mỏm đá có hình dáng độc đáo. Sự bao quát trong không gian và cảnh vật, cùng mỏm đá chìa hẳn ra phía ngoài càng làm cho tấm hình của bạn thêm ấn tượng. Du khách không cần lo lắng bởi đá có kích thước khá lớn và dày dặn, cần lưu ý khi check-in vào trời mưa do dễ trơn trượt. Ngoài những trải nghiệm về cảnh vật và bầu không khí tại đỉnh núi, du khách còn có cơ hội khám phá thêm về phiên chợ đặc trưng của người Lào. Bạn có thể tìm thấy những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, món ăn đặc sản tại Mộc Châu, thịt khô,... làm quà cho người thân hoặc bạn bè sau chuyến đi. Mặc dù là một điểm du lịch thu hút và mang vẻ đẹp hoang sơ, ấn tượng cho khách du lịch. Nhưng đỉnh Pha Luông khá khó chinh phục, nên ngoài kinh nghiệm bạn cũng cần biết một số lưu ý sau: Với độ cao 2000m, khi đến đỉnh núi bạn sẽ thấy nhiệt độ giảm xuống nhanh chóng. Đặc biệt, nếu đến vào mùa Đông thì mức nhiệt càng thấp nên bạn cần mang theo quần áo giữ ấm, khăn, nón len, bao tay,... Nhằm tránh nhiệt độ thay đổi đột ngột khiến cơ thể bị ảnh hưởng. Trong quá trình leo núi bạn nên sử dụng giày chuyên dụng dành cho leo núi, không nên đi giày bệt hoặc dép vì có thể gây trơn trượt và nguy hiểm trong quá trình di chuyển. Du khách lên cân nhắc kỹ về sức khỏe và khả năng vận động của mình trước khi quyết định leo núi Pha Luông. Với những người mắc các bệnh về tim mạch thì không nên di chuyển lên núi. Trước khi thực hiện quá trình chinh phục đỉnh núi, bạn nên ăn nhẹ và uống nước để có thêm năng lượng cho bản thân. Tuyệt đối không tự ý vứt rác bừa bãi trong quá trình di chuyển hoặc tham quan đỉnh núi. Luôn mang theo giấy tờ tùy thân để xuất trình làm thủ tục tại đồn biên phòng.
Sơn La 1908 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 4
Giữa lòng thành phố có ngọn đồi mang tên Khau Cả nằm soi mình bên dòng suối Nậm La, nơi đây còn lưu giữ chứng tích lịch sử Nhà Tù Sơn La - minh chứng của một thời kỳ lịch sử đấu tranh cách mạng, tinh thần bất khuất của những người cộng sản kiên cường đã bị đầy ải bởi thực dân Pháp giam cầm, và bảo tàng Sơn La nơi trưng bày nhiều hiện vật quý, giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hoá của cộng đồng 12 dân tộc đoàn kết cùng nhau xây dựng Sơn La thành tỉnh giàu có của Việt Nam. Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2. Nhà tù xây dựng khá kiên cố: tường được xây dựng bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôn, không có trần, giường nằm cho tù nhân cũng được xây bằng đá, mặt láng xi măng, mép ngoài được gắn hệ thống cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Trong mỗi phòng giam đều có hố xí nổi được xây cao hơn sàn nằm, không có nắp đậy, không có nước dội, không được vệ sinh thường xuyên. Với lối thiết kế như vậy, mùa hè những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc gây nên cái nóng như thiêu như đốt, những đợt sương muối tạo ra cái lạnh giá, rét thấu xương thịt vào mùa đông cộng với môi trường ô nhiễm ở mỗi phòng giam đã làm bệnh tật phát sinh và lây lan rất nhanh chóng trong tù nhân. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh chống lại chế độ tàn bạo của thực dân phong kiến. Phong trào đấu tranh đã làm kẻ địch bất ngờ, chúng lồng lộn tìm đủ mọi cách đàn áp, bắt bớ những người Việt Nam yêu nước hòng dập tắt phong trào cách mạng. Mặt khác tăng cường xây dựng và mở rộng thêm hệ thống nhà tù trong cả nước trong đó chúng đặc biệt chú ý đến nhà tù Sơn La. Năm 1940, Nhà tù Sơn La được mở rộng thêm một trại giam lớn để giam thêm tù nhân và đưa một số tù nhân nữ lên Sơn La nhưng âm mưu đó đã không thực hiện được. Như vậy, qua 3 lần xây dựng và mở rộng, nhà tù Sơn La có tổng diện tích là: 2.170m2. Thực dân Pháp đã biến nơi đây thành một địa ngục trần gian để giam cầm, đầy ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những người Cộng sản. Bằng chế độ nhà tù cực kỳ hà khắc và những thủ đoạn tra tấn vô cùng hiểm ác, kẻ thù tưởng sẽ tiêu diệt được tinh thần và thể xác của những chiến sĩ cách mạng nhưng chính tại nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng, rèn luyện ý chí và bổ sung cho Đảng, cho cách mạng những chiến sỹ, đảng viên cộng sản trung kiên, nổi bật nhất là vai trò của đồng chí Tô Hiệu và bao đồng chí trung kiên khác. Trải qua 2 lần tàn phá bằng bom của giặc, di tích xưa giờ đã xiêu vẹo, hầu như chỉ còn là một bãi gạch tan hoang, những bức tường nhà ngục đổ nát là minh chứng cho tội ác dã man của kẻ thù. Còn lại nguyên vẹn là cây đào Tô Hiệu, biểu tượng gắn với tên tuổi người Bí thư Chi bộ kiên trung của nhà tù vẫn trổ hoa rực rỡ khi mùa xuân về... Năm 1952, khi thực dân Pháp rút khỏi Sơn La, đã ném bom nhằm xóa đi dấu vết tội ác của chúng, lần 2 vào năm 1965, đế quốc Mỹ đã dánh phá Thị xã Sơn La phá hủy một phần của nhà tù. Năm 1980, Bảo tàng Sơn La tiến hành phục chế lại lần thứ nhất: San lấp hố bom, xây dựng lại một số đoạn tường rào bao quanh; lần thứ 2, vào năm 1994, phục chế lại 2 tháp canh, nhà bếp, trại giam lớn, gia cố lại hầm ngầm, xây dựng các bức tường của các phòng giam theo dấu vết của các nền móng cũ. Năm 1994, Bảo tàng Sơn La đưa ra ý định phục chế lại toàn bộ khu di tích lại như nguyên dạng ban đầu, nhưng không sưa tầm được đầy đủ hồ sơ, nên không đủ cơ sở khoa học để khôi phục lại toàn bộ mà chỉ xây các bức tường lên cao một chút để khách tham quan có thể hình dung được cấu trúc của khu nhà tù Sơn La. Mỗi năm, tại di tích lịch sử nhà tù Sơn La đã đón tiếp hàng trăm ngàn lượt du khách đến tham quan, nghiên cứu, học tập….Chắc hẳn, một lần nào đó du khách đến với Sơn La, về với núi rừng Tây Bắc để được trải nhiệm, hồi tưởng lại cuộc chiến tranh diễn ra hơn một thế kỷ đã qua; Với sự lãnh đạo tài tình của đảng, tinh thần yêu nước nồng nàn sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, tình đoàn kết keo sơn giữa các dân tộc…Đã để lại cho hậu thế hôm nay một đất nước thanh bình.
Sơn La 1692 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với diện tích 6.915m2, Hang Dơi chứa đựng trong mình một mạch nước ngầm không bao giờ cạn. Cái tên Hang Dơi vốn bắt nguồn từ việc xưa kia có những đàn dơi lớn ở lại đây sinh sống và làm tổ nhưng hiện tại chúng đã rời đi nơi khác. Tuy nhiên, cái tên Hang Dơi vẫn được người dân ở đây gọi cho tới hiện tại như một cái tên thân thuộc từ lâu. Phía trên trần của hang động là những vòm đá cao rủ xuống tại thành những khối nhũ lung linh huyền ảo. Những khối thạch nhũ này tạo thành nhiều hình thù kỳ thú như ông tiên, bà tiên, các con vật… Tất cả tạo nên một cảnh vật vừa lung linh vừa hùng vĩ. Đây là một địa điểm mà khi đi du lịch Mộc Châu bạn không nên bỏ qua! Tương truyền rằng, ngày xưa có một con rồng thiêng, khi bay qua vùng đất này, thấy núi non nơi đây hùng vĩ, khí hậu lại mát mẻ nên đã hạ mình ẩn xuống Hang Dơi và trú ngụ ở đây. Chính vì vậy, dãy núi này có nhiều màu sắc rất huyền bí như: màu trắng ngần lúc ban mai, xanh biếc lúc trưa rồi lại chuyển hồng lúc chiều, cuối cùng là màu tím lúc hoàng hôn. Người dân ở đây thường bảo nhau đấy là do thân rồng đang bao quanh núi. Về sau, khi con rồng chết đi, nó đã nhả ra 7 viên ngọc để trả ơn. 7 viên ngọc chính là 7 ngọn núi đã tạo nên hang Dơi sau này. Nhờ những câu chuyện truyền thuyết đã được lưu truyền từ đời này qua đời khác khiến cho nơi đây càng trở nên hấp dẫn và khiến cho nhiều du khách tò mò muốn đến đây để kiểm chứng. Từ khi bước vào từ cửa hang, ánh sáng hắt vào trong hang sẽ làm cho bạn cảm thấy như mình đang lạc vào một chốn thần tiên với những mảng tối, sáng khác nhau. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp từ các khối nhũ đá vôi rủ xuống tạo nên một bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Hơn nữa, những khối đá này còn có nhiều hình thù khác nhau tạo khiến du khách thấy hứng thú khi liên tưởng. Đặc biệt nhất là khối đá hình một cặp nam nữ yêu nhau ở hồ nước cạn giữa động, là điểm nhấn khiến ai cũng phải trầm trồ. Trong động, ngoài những hình thù được tạo nên từ những khối đá vôi còn có rất nhiều cây đa mà mà rễ của nó tạo thành những hình thù ở dưới đất như hình con voi, con hổ... Một điều đặc biệt nữa của Động Sơn Mộc Hương là phần giữa hang vòm cao hơn những chỗ khác trong động, có bức mành đá chắn ở lối vào, đây được gọi là buồng “công chúa”, cũng là một điểm thu hút ở nơi đây. Hang Dơi vừa là nơi tham quan vừa là nơi thám hiểm với rừng núi và cây cối mọc xung quanh, vậy nên du khách cần chú ý một số điều sau: Vì hang nằm ở nơi có rừng cây rậm rạp nên du khác nên mặc những trang phục kín và thoải mái để vừa có thể leo núi mà vừa tránh bị cồn trùng hay muỗi cắn.Nên mang thêm cả kem xịt muỗi để đảm bảo an toàn, nhất là với trẻ em. Khi đi tham quan Động Sơn Mộc Hương, bố mẹ cần để ý đến sức khỏe của con mình khi leo núi và tham quan động, sau đó, đưa ra những giải pháp kịp thời nếu trẻ quá mệt hoặc quá hiếu động mà chạy nhảy lung tung.
Sơn La 2611 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Mộc Châu có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với thời tiết ôn hòa, quanh năm có hoa trái. Tháng 1, cao nguyên có màu xanh của những đồi chè nảy lộc, hoa đào, hoa mận, hoa mơ, mai anh đào... Từ giữa tháng 5, mận bắt đầu chín rộ, người dân vào vụ thu hoạch mận, đổ bán cho các thương lái miền xuôi. Mùa hè không có hoa, cũng không phải mùa dâu tây nhưng nơi đây lại rất thích hợp để dã ngoại bởi không khí trong lành và nhiều hoạt động ngoài trời. Mùa hồng chín ở Mộc Châu bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12 hàng năm. Trong đó, mùa hồng giòn thường có sớm hơn, từ tháng 8 đến tháng 10, còn từ tháng 10 đến cuối năm là mùa của hồng chát. Mùa cải trắng ở Mộc Châu bắt đầu vào tháng 11. Tháng 12, hoa dã quỳ vàng rực rỡ tô điểm cho cao nguyên. Mộc Châu cách Hà Nội gần 200 km. Nếu đi bằng xe máy, bạn nên đi theo đường quốc lộ 6 cũ bởi dọc đường có rất nhiều cảnh đẹp nhưng nên lưu ý tay lái bởi đường xuống cấp cũng khá nhiều. Quãng đường đi mất khoảng 4-5 tiếng. Trên đường đi, bạn sẽ qua cung đường chữ S thuộc huyện Vân Hồ. Hầu hết phượt thủ đều dừng lại ngắm cảnh và check-in tại đường cong mềm mại hình chữ S này. Còn nếu đi xe khách, bạn có thể chọn các tuyến đi Sơn La từ bến xe Mỹ Đình hoặc Yên Nghĩa, sau đó xuống ở Mộc Châu với giá vé xe chất lượng cao khoảng 200.000 đồng. Nếu tự lái ôtô, bạn không cần quá lo lắng vì đường to, dễ đi dù nhiều đèo dốc. Lưu ý, chạy đúng tốc độ và chú ý làn khi vượt. Vào mùa hè, đường ít sương mù nhưng tầm nhìn hạn chế khi trời mưa. Đoạn có thể nhiều mây mù là đường từ đoạn Thung Khe. Mộc Châu có khá nhiều nhà nghỉ. Tuy nhiên, để có được phòng ở chất lượng trong mùa cao điểm, bạn vẫn nên gọi điện đặt trước. Ở đây có hình thức nhà nghỉ sinh thái (có núi đồi, hồ nước, nhà sàn) hoặc nhà nghỉ cộng đồng kiểu homestay. Giá của một phòng khoảng 200.000 - 300.000 đồng một đêm nhưng cũng có rất nhiều nhà nghỉ có mức giá thấp hơn. Vài homestay "chill" gợi ý là MAMA's House, Le Chalet du Lac, Fairy House Mộc Châu, House By Lake, The Nordic Village, Mộc Châu Retreat... Giá phòng từ 300.000 đến 1.000.000 đồng một đêm. Để khám phá hết Mộc Châu, bạn có thể đi nhanh trong 2 ngày. Nếu có thời gian nhiều hơn khoảng 3-4 ngày là tuyệt nhất, bạn sẽ có nhiều thời gian để tìm ra những góc máy đẹp để chụp ảnh hoặc rẽ sang các khu vực du lịch nổi tiếng lân cận như Thung Nai, Mai Châu, thủy điện Hòa Bình... Các địa điểm bạn có thể ghé qua: Rừng thông Bản Áng, Thung lũng mận Mu Náu, Vường hoa Hướng Dương, Đổi chè Mộc Châu, Thác Chiềng Khoa, Thác Nàng Tiên, Thác Dải Yếm, Đồng cỏ 68, Làng Nguyên Thủy, Đỉnh Pha Luông. Các quán ăn, nhà hàng nằm dọc theo trung tâm thị trấn đoạn quốc lộ 6 đi qua. Ngoài các đặc sản như mận, trà hay sữa, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi ăn ngon. Những món ăn không thể bỏ qua khi tới đây là bê chao, cá suối rán, cá lăng đủ món, lẩu cá hồi, tiết canh heo, thịt trâu gác bếp, rau chấm nước sốt lòng cá hay cơm ngũ sắc. Muốn ăn thịt bê sữa, bạn có thể tìm các nhà hàng Đông Hải, Xuân Bắc 181, Nam Hưng 70, hay Lan Hồng 64, Bê Quán Mộc Châu... Món ăn lạ miệng nên thử là lẩu sữa tươi Mộc Châu. Nước dùng được ninh từ xương và các loại rau củ, thêm một lượng sữa vừa phải được thêm vào sao cho có đủ màu trắng sữa và vị thơm dịu, thêm ngô cho ngọt. Khi lẩu bắt đầu sôi, lớp sữa phía trên bắt đầu đóng váng, có vị béo và thơm. Đây cũng là lúc nước lẩu ngon nhất. Trong hai năm trở lại đây, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi tạo ra dâu tây có chất lượng không thua kém Nhật Bản hay Hàn Quốc do trồng bằng công nghệ Nhật. Mùa đông sẽ là mùa thu hoạch dâu tây tại các trang trại với những khu vườn ngập dâu chín đỏ mọng, vị chua ngọt thanh mát và nếu ăn kèm với sữa chua Mộc Châu thì rất dễ gây "nghiện". Vào mùa hè, sau mùa mận sẽ là mùa dưa gang với những trái thơm ngọt. Bạn có thể mua chè, sữa, táo mèo, ngô, rượu ngô... về làm quà từ các địa điểm: ngã ba 73 gần thị trấn, tiểu khu 32 và Bó Bun, ngã ba 70, ngã ba vườn đào, tiểu khu Chiềng Bi. Mộc Châu thường có nắng ấm vào ban ngày, nhưng nhiệt độ ban đêm khá thấp và có sương mù. Bạn cần mang đủ quần áo ấm để đảm bảo sức khỏe, kiểm tra đèn xe trước khi khởi hành. Không xả rác, dẫm lên các luống cải của đồng bào hoặc leo trèo trên cây, bẻ cành đào rừng, cành mận, hoa...
Sơn La 1954 lượt xem
Tháng 1 đến tháng 12
Cao nguyên Mộc Châu lộng gió nổi tiếng với cảnh sắc nên thơ cùng những thắng cảnh trời ban và Ngũ Động Bản Ôn là một trong số đó. Hệ thống hang động huyền bí, chưa bị tác động bởi bàn tay con người là điểm đến hấp dẫn du khách, đặc biệt là những ai đam mê phiêu lưu, mạo hiểm. Đến với nơi đây, bạn sẽ có dịp chiêm ngưỡng một kiệt tác được kiến tạo bởi tự nhiên, hoang sơ nhưng cũng không kém phần lộng lẫy. Ngũ Động Bản Ôn là hệ thống 5 hang động nằm sâu dưới lòng đất, thuộc địa phận Bản Ôn, thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu. Các hang động này được phát hiện vào năm 2006, sau một cơn lũ lịch sử. Với vẻ đẹp nguyên sơ và đầy bí ẩn, Ngũ Động đã trở thành điểm đến hấp dẫn tại Mộc Châu, thu hút các tín đồ đam mê khám phá. Khí hậu ở cao nguyên Mộc Châu cực kỳ mát mẻ và dễ chịu, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 7 và tháng 9 đến tháng 12. Lúc này, trời nắng nhẹ, ít mưa, phù hợp cho hoạt động khám phá hang động. Bên cạnh đó, đây cũng là mùa cao điểm du lịch ở Mộc Châu, du khách có thể ngắm nhìn cao nguyên lộng gió cũng như tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí khác. Từ tháng 8, Mộc Châu bước vào mùa mưa, nền nhiệt thấp, tiết trời xấu và mưa nhiều. Đường lên động cũng vì thế mà khó khăn hơn do nền đất ẩm ướt trơn trượt. Vì vậy, nếu có ý định đi du lịch Ngũ Động Bản Ôn, du khách nên tránh đi vào thời gian này. Ngũ Động Bản Ôn mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ và kỳ bí, là thử thách mà mọi tín đồ du lịch luôn muốn chinh phục. Đón chào du khách ở Ngũ Động là vô vàn trải nghiệm hấp dẫn, có một không hai. Muốn khám phá trọn vẹn quần thể này, du khách phải dành ra ít nhất là một ngày. Muốn lên Ngũ Động, bạn phải vượt qua một cung đường dài và không kém phần hiểm trở. Hai bên đường là những đồi chè xếp tầng, xếp lớp, đẹp đến nao lòng. Cung đường dài hơn 20 km, uốn lượn quanh đồi chè xanh mướt, trông xa xa giống hệt dải lụa xanh nằm vắt mình qua cao nguyên Mộc Châu lộng gió. Điểm cuốn hút lớn nhất trên đoạn đường này là vẻ đẹp rực rỡ của muôn ngàn hoa. Mỗi mùa sẽ là một sắc hoa, những thảm hoa trải dài khắp các triền núi, đẹp mộng mơ không kém gì thiên đường hoa bản Pa Phách. Trên đường đi có một căn nhà nhỏ, vừa là điểm nghỉ chân vừa là toạ độ cho bạn ngắm cảnh. Ngũ Động Bản Ôn là một hệ thống với 5 hang động, có động 3 và động 4 đã được đưa vào khai thác du lịch. Động 3 là hang động sâu và rộng nhất, được trang bị đầy đủ máy phát điện. Cửa hang nhỏ và hẹp, chỉ đủ chỗ cho một người lách qua nhưng bên trong là cả một không gian rộng lớn. Lòng hang mang dáng vẻ nguyên sơ và đầy bí ẩn với hệ nhũ đã hàng ngàn năm tuổi. Mỗi khối thạch nhũ là một hình dáng, màu sắc riêng biệt, tạo nên một không gian lung linh và huyền bí. Ngay cửa động là ban thờ Thánh mẫu Âu Cơ – nơi người dân thường vào lễ bái mỗi dịp lễ tết. Động 4 nằm độc lập và khá xa so với các hang động còn lại nên lượng khách tham quan còn hạn chế. Trong hang có hệ thống đèn chiếu sáng, soi rọi hệ thạch nhũ khổng lồ, muôn hình vạn trạng. Vào sâu trong hang, du khách sẽ thấy những chiếc trụ, những con lạc đà, tắc kè, ốc sên… được tạo hình từ đá, hệt như một tác phẩm chạm trổ kỳ công của tạo hoá. Con đường chinh phục Ngũ Động Bản Ôn đầy chông gai và hiểm trở nhưng thành quả sẽ không khiến bạn phải thất vọng. Nếu có dịp đến với cao nguyên Mộc Châu lộng gió, du khách đừng bỏ qua toạ độ này nhé!
Sơn La 925 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 07 hoặc từ tháng 09 đến tháng 12.
Mộc Châu từ lâu được xem như là một vùng đất thiên đường dành cho những ai yêu thích thiên nhiên, tìm về bầu khí hậu trong lành, mát mẻ, và tránh xa khỏi mọi ồn ào, náo nhiệt nơi thành phố tấp nập. Những địa điểm du lịch tại Mộc Châu luôn đem đến sự thơ mộng, quyến rũ, khiến cho ai ai mỗi khi đặt chân đến đây đều sẽ cảm thấy bị lưu luyến. Trong số đó, sự xuất hiện của rừng thông Bản Áng hứa hẹn sẽ mang đến những sắc màu trong xanh giữa núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, đại ngàn. Rừng thông Bản Áng là một địa danh nằm trong khu vực bản Áng thuộc xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Sở hữu tổng diện tích có quy mô lên đến khoảng 43 ha, nơi đây bao gồm khu rừng thông xanh cao vút, trải dài trên những triền đồi nâu đỏ, và đi cùng với đó là một hồ nước trong veo rộng lên đến 5 ha, đã trở thành một điểm đến điểm cắm trại vô cùng mới mẻ cho khách du lịch tại miền Bắc. Thời điểm lý tưởng nhất mà bạn có thể lựa chọn tham quan rừng thông Bản Áng này là vào khoảng thời gian từ tháng 1 cho đến tháng 3. Lúc này, thời tiết tại Mộc Châu thường se lạnh, có sương mù nhẹ, cùng với đó là tràn ngập những mùa hoa trải dài trên khắp nẻo đường, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để cho bạn có thể sở hữu những bức ảnh check-in “cực chill” cũng như ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng tại khu vực này. Đến với rừng thông Bản Áng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vườn dâu tây Chimi được chăm sóc kỹ lưỡng, tỉ mỉ qua những đôi tay khéo léo của người dân địa phương tại đây. Vườn dâu này luôn mang đến hương thơm lan tỏa sự ngọt ngào, phủ kín khắp cả một khu vườn, khiến cho bạn cảm thấy ngỡ ngàng, mê hoặc khi đặt chân đến với khu vực này. Bên cạnh đó, bạn cũng sẽ được thưởng thức những trái dâu tươi với hương vị hòa quyện giữa vị chua và vị ngọt, mang lại những cảm giác sảng khoái tuyệt vời, mát mẻ ngỡ như đang đi lạc vào thành phố ngàn hoa Đà Lạt. Bên cạnh đó, rừng thông Bản Áng cũng là nơi lý tưởng để cho bạn có thể chiêm ngưỡng màu sắc lung linh, quyến rũ của mùa hoa mận Mộc Châu vào những tháng đầu xuân, từ tháng 1 đến tháng 3. Với sự kết hợp giữa độ trong lành của thiên nhiên, và sắc màu tươi mát, óng ánh nhưng không kém phần thơ mộng của hoa mận. Tất cả đã tạo nên sắc màu rực rỡ về một rừng thông mang đến nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của thiên nhiên giữa vùng cao nguyên Tây Bắc bao la, hùng vĩ. Cùng với rừng thông xanh mát bao quanh và bầu không gian trong lành, mát mẻ, rừng thông Bản Áng là một điểm đến hoàn toàn không thể thiếu giúp cho bạn có thể tổ chức những buổi cắm trại dã ngoại tại khu vực này. Tại đây xuất hiện khá nhiều khu đất trống để cho bạn có thể tha hồ chọn cho mình một điểm phù hợp nhất để dựng lều, tổ chức những buổi tiệc nướng BBQ hoành tráng, và đốt lửa trại cùng đám bạn, tận hưởng gió trời của rừng núi Tây Bắc đại ngàn. Có thể nói, rừng thông Bản Áng không chỉ là nơi chứa đựng những sắc màu thiên nhiên vốn có của đất trời, mà đây còn là vùng đất thiên đường của những hoạt động trải nghiệm thú vị, dành cho những ai đam mê, muốn đắm chìm vào bầu không gian trong lành, mát mẻ, và ngắm nhìn thiên nhiên xanh mát, ngút ngàn. Hành trình tham quan tại rừng thông này chắc chắn sẽ đọng lại phần nào trong tâm trí bạn những kỉ niệm khó quên.
Sơn La 973 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 03.
Không chỉ nổi tiếng khi sở hữu không gian xanh và hệ sinh thái đa dạng, Mộc Châu còn được biết đến với nhiều đồi chè xanh rộng lớn. Trong những năm gần đây đồi chè Mộc Châu đã trở thành điểm du lịch thu hút được nhiều khách ghé thăm và không còn đơn giản là nơi thu hoạch chè thông thường. Nếu có nhiều thời gian bạn nên khám phá hết các vườn chè tại đây và lưu giữ những khoảnh khắc đáng nhớ cho mình. Du khách khi đến tham quan vùng đất xanh phủ đầy chè này không chỉ được ngắm nhìn cảnh vật ấn tượng. Bên cạnh đó, bạn còn có cơ hội thử các hoạt động thú vị khác như check-in, tham quan hoặc hái lá chè thú vị. Được biết đến là những điểm du lịch nổi tiếng tại khu vực Mộc Châu, đồi chè Đài Loan luôn khiến du khách ấn tượng bởi có tổng quan tạo hình ấn tượng và xanh mát. Hiện nay, đồi chè nằm trong khu vực bản Ôn, thị trấn Nông Trường tại Mộc Châu và cách trung tâm khoảng 10km. Vì là nông trường liên doanh với Đài Loan nên nơi đây còn có tên gọi khác là đồi chè trái tim Đài Loan. Không gian của đồi chè không chỉ được bao phủ bởi một màu xanh tươi mát kết hợp cùng màu không khí trong lành tự nhiên của vùng đất Sơn La. Đặc biệt, phải nói đến tạo hình mới lạ và phá cách giúp nơi đây có được điểm nhấn thú vị trong mắt du khách đến tham quan. Ngoài ra, điều này còn tạo nên nhiều niềm vui cho người dân trong quá trình thu hoạch chè. Bằng vẻ đẹp thiên nhiên ấn tượng và tạo hình lãng mạn tượng trưng cho các cặp đôi, cũng như tình yêu lâu dài. Đồi chè Đài Loan đã được nhiều cặp tình nhân, vợ chồng lựa chọn ghé tham quan và check-in với background cực độc đáo, lãng mạn. Nhìn chung, thời tiết tại Mộc Châu khá mát mẻ và có phần lạnh hơn so với các tỉnh khác tại khu vực miền Bắc. Với đặc điểm 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và bầu không khí trong lành, du khách có thể đến tham quan đồi chè trái tim bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, một lời khuyên cho bạn là nên cân nhắc đến Mộc Châu vào tháng 3 - tháng 4. Vì lúc này thời tiết có nắng ấm và thuận tiện cho quá trình di chuyển tham quan, đồng thời chè cũng xuất hiện chồi non tạo nên tổng quan khu vườn xanh tươi hơn sau đợt thu hoạch chè đầu mùa. Nếu bạn yêu thích vẻ đẹp lãng mạn và muốn chiêm ngưỡng các loài hoa mơ, hoa mận nở rộ thì thời điểm tháng 1 - tháng 2 cũng rất lý tưởng cho chuyến tham quan. Một trong những điểm giúp đồi chè tại Mộc Châu trở nên thu hút nhiều bạn trẻ hiện nay, đó chính là không gian trong xanh và background cực “xịn” cho dân thích check-in. Đặc biệt, vào thời gian tháng 3 - tháng 4 chồi non xuất hiện sẽ tạo nên một khu vườn xanh mơn mởn đầy ấn tượng. Bên cạnh đó, với tạo hình trái tim độc đáo và lãng mạn càng tạo nên sức hút riêng cho du khách. Trong đó phải nói đến các cặp đôi muốn lưu giữ những kỷ niệm đáng nhớ, cũng như minh chứng cho tình yêu luôn tươi xanh của mình. Tùy vào mỗi du khách có thể mang theo trang phục mà mình yêu thích, hoặc thuê quần áo dân tộc tại khu vực gần đồi chè để chụp ảnh. Mang đặc trưng thời tiết của miền Bắc mát mẻ và nhiều cây cối, đồi chè trái tim Mộc Châu luôn tạo cho khách du lịch cảm giác được thư giãn, gần gũi với thiên nhiên khi ghé thăm. Khác hẳn với sự đông đúc và tấp nập của trung tâm huyện, nơi đây luôn có nét đẹp bình yên, nhẹ nhàng nhưng không kém phần lãng mạn. Đến với vườn chè tại Mộc Châu du khách sẽ được nhìn thấy cảnh những người dân thu hoạch lá chè xanh chân thật. Nhờ đó, bạn có thể hiểu rõ hơn về giá trị của những lá chè, cùng tâm huyết của người dân khi thu hoạch từng lá chè tươi xanh. Lúc này bạn cũng có thể hiểu hơn về đời sống và văn hóa của người bản địa, tham gia vào hoạt động hái chè đầy thích thú. Một trong những điểm mạnh giúp ngành du lịch tại khu vực Mộc Châu - Sơn La phát triển, cũng như nhiều người đến đồi chè tham quan đó chính là ẩm thực đa dạng của vùng đất này. Khách du lịch có thể tìm thấy nhiều món ngon đặc sản được chế biến độc đáo, khác biệt bởi người dân nơi đây. Trong đó, có thể kể đến một số món nổi tiếng sau: Bê chao, nậm pịa, cá hồi, bún cá lóc, ốc đá Suối Bàng, sữa bò tươi, rau cải mèo,... Từng món ăn đều được dùng các nguyên liệu tươi mới dễ tìm tại địa phương, hoặc nuôi trồng trực tiếp một cách vệ sinh. Kết hợp cùng sự khéo léo của người dân nơi đây, tạo nên hương vị món ăn đặc trưng khó quên ngay từ lần thưởng thức đầu tiên. Mỗi mùa, cao nguyên Mộc Châu như lại được thay một lớp áo mới, nhưng màu xanh của những đồi chè vẫn còn đó, như bất diệt, như vĩnh cửu. Một lần đến với Mộc Châu – xứ sở của những mùa hoa, đừng quên ghé lại đồi chè để cảm nhận nét đẹp trong trẻo, tuyệt vời của nơi này.
Sơn La 917 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 04.
Tà Xùa cách trung tâm huyện vùng cao Bắc Yên hơn 10km, khí hậu quanh năm mát mẻ. Nơi đây, không chỉ được biết đến bởi những cây chè shan tuyết cổ thụ, cách sao chè bằng tay vô cùng độc đáo của bà con dân tộc Mông, mà còn nổi tiếng với những biển mây bồng bềnh, trắng xóa, thu hút du khách đến tham quan, trải nghiệm, chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ. Nằm ở độ cao 1.500m - 1.800m so với mặt nước biển, xã Tà Xùa thường được bao phủ bởi những đám mây cuồn cuộn, tầng tầng, lớp lớp như những con sóng. Những ngày đầu tháng 12, nhiệt độ thấp, độ ẩm cao và nắng nhẹ là điều kiện lý tưởng để du khách “săn mây” tại Tà Xùa. Chúng tôi tản bộ tham quan trên đỉnh Gió, bản Chung Trinh, xã Tà Xùa, nơi có vị trí ngắm toàn cảnh thung lũng xinh đẹp và biển mây bồng bềnh. Nơi đây vẫn giữ được nhiều nét hoang sơ; cuộc sống của người dân bình dị, yên ả; thậm chí sóng điện thoại cũng hạn chế, vì thế khi đến đây, ngoài nghỉ dưỡng và săn mây, du khách sẽ được hòa mình vào thiên nhiên, núi rừng hùng vĩ; khám phá, tìm hiểu bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Mông. Muốn "săn mây", du khách phải thức dậy từ sáng sớm, để được ngắm những dòng mây trắng xóa ùn ùn dâng lên từ phía chân các thung lũng, lấp đầy không gian rộng lớn. Hiện tượng tự nhiên đặc biệt đã tạo cho khung cảnh nơi đây thành bức họa vô cùng tráng lệ, được du khách đặt cho những cái tên ấn tượng như “Biển mây Tà Xùa” hay “Thiên đường mây Tà Xùa”. Có nhiều khoảnh khắc “săn mây” trong ngày, nhưng đẹp nhất là lúc bình minh và hoàng hôn. Thức giấc vào sáng sớm, du khách có thể tận hưởng không gian yên tĩnh, ngắm nhìn những dải mây trắng tinh khôi bồng bềnh trôi lưng chừng núi. Khi tia nắng mặt trời ló rạng, những lớp mây tan dần lộ ra bầu trời xanh ngắt, cao vời vợi. Tia nắng rọi xuống thung lũng mây dày đặc phía dưới, ánh nắng chiếu đến đâu, mây tan nhanh lộ ra bản làng nguyên sơ của bà con dân tộc bản địa. Chỉ vài giây trước, cả thung lũng còn chìm trong sương mờ, bỗng bừng lên rực rỡ dưới ánh nắng và bầu trời xanh thẳm. Khi hoàng hôn buông xuống, những tia nắng cuối ngày chiếu rọi, xuyên qua những đám mây tạo nên không gian với gam màu hồng, màu cam vô cùng ấn tượng. Cũng bởi vẻ đẹp thơ mộng ấy, Tà Xùa mùa này đang thu hút đông đảo các nhiếp ảnh gia và những bạn trẻ yêu thích khám phá, mạo hiểm. Du khách thực sự thỏa mãn với cảnh sắc tuyệt diệu của “biển mây” nơi núi rừng Bắc Yên. Ấn tượng nhất, khi biển mây dày đặc, trắng xóa bồng bềnh ngay dưới chân, sau một đợt gió thổi mạnh mây tràn qua các sườn núi, phủ kín các rừng cây, bản làng, thực sự rất thú vị. Tôi đã chụp lại rất nhiều khoảnh khắc đẹp để lưu giữ kỷ niệm với vùng đất bình yên này và chắc chắn sẽ trở lại nơi này nhiều lần nữa. Những địa điểm như ngã ba Tà Xùa, đỉnh Gió, trung tâm xã Tà Xùa, mỏm Cá Heo, cây cô đơn... và những quán cà phê cũng là “tọa độ” mà nhiều du khách lựa chọn làm nơi "săn mây" lý tưởng. Thưởng thức tách trà đặc sản Tà Xùa tỏa hương thơm ngào ngạt, du khách bị hút hồn bởi vẻ đẹp thơ mộng giữa "biển" mây rộng bao la với những đợt sóng mây đập vào sườn núi. Hình ảnh mây trắng có khi dày đặc, có khi lững lờ trôi rất thú vị, mang đến cảm giác như đang thả hồn vào giữa mây trời, hòa mình cùng thiên nhiên núi rừng. Hơn nữa, thưởng thức một tách trà Tà Xùa trong không gian thoáng đãng, với tiết trời se lạnh, cảm thấy vô cùng dễ chịu và bình yên. Với không khí trong lành, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, đẹp tựa chốn "tiên cảnh", cùng những nụ cười thân thiện của bà con dân tộc bản địa hiền lành, mến khách, “Thiên đường mây Tà Xùa” đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong hành trình đến với Sơn La và Tây Bắc.
Sơn La 937 lượt xem
Từ tháng 10 đến tháng 04 .
Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận Châu thuộc bản Pán, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu. Nơi đây đánh dấu một sự kiện lịch sử ngày 7/5/1959 Hồ Chủ Tịch cùng với Ban lãnh đạo Đảng và Chính phủ lên thăm Tây Bắc. Trong kháng chiến chống Pháp và sau hoà bình lập lại trên Miền Bắc, mặc dù bận trăm công ngàn việc của đất nước, Bác Hồ, Vị cha già kính yêu của dân tộc luôn quan tâm tới nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Đáp lại lòng tin của Bác, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã dũng cảm trong chiến đấu, hăng hái thi đua lao động sản xuất và mong ước được đón Bác lên thăm và được báo cáo với Bác những thành tích đã đạt được. Ngày 7/5/1959, mong ước của nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã trở thành hiện thực. Quảng trường của thủ phủ khu tự trị Thái, Mèo rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ khẩu hiệu và hơn 1 vạn người đại diện cho 43 vạn nhân dân các dân tộc Tây Bắc hân hoan đón chào Bác dẫn đầu phái đoàn của Đảng, Chính phủ lên thăm. Bằng cử chỉ vô cùng giản dị, thân mật và gần gũi, Bác đã ghi nhận, biểu dương sự hy sinh và những đóng góp hết sức to lớn của nhân dân các dân tộc Tây bắc trong kháng chiến chống pháp, trong khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Người đã thay mặt Chính phủ tặng nhân dân các dân tộc Tây Bắc tấm Huân chương lao động hạng nhất. Người căn dặn: Phải hăng hái thi đua phát triển kinh tế, xã hội, củng cố các thành phần kinh tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển mạng lưới giáo dục, y tế, củng cố an ninh quốc phòng. Hơn 40 năm đã trôi qua, lời dặn của Người đã được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La bền bỉ phấn đấu thực hiện, đã và đang làm cho vùng đất Miền Tây của Tổ quốc có những đổi thay to lớn. Ngày nay Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận châu nằm ngay trong khuôn viên sân vận động huyện Thuận Châu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 2299 lượt xem
Di tích lịch sử Văn bia Quế Lâm Ngự Chế thuộc tổ 3, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La. Nơi đây đã minh chứng thời kỳ lịch sử của vị vua hùng tài, đại lược Lê Thái Tông cùng quân sỹ đi chinh phạt quân phiến loạn ở vùng biên cương phía Tây của Tổ quốc, giữ bình yên cho bờ cõi nước nhà. Di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia ngày 05/02/1994. Vua Lê Thái Tông, tên húy là Nguyên Long, là con thứ của Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và Cung từ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, người hương Quần Lai, huyện Lôi Dương (nay là Thọ Xuân – Thanh Hóa). Từ khi lên ngôi, Vua Lê Thái Tông rất chú ý đến miền Tây Bắc, miền đất phên dậu của Tổ quốc. Để củng cố và đảm bảo sự thống nhất Quốc gia, cũng như Vua Lê Thái Tổ và các vị vua khác, trong 9 năm trị vì đất nước, vua Lê Thái Tông đã 2 lần chỉ huy quân sỹ lên miền Tây Bắc dẹp bọn phản nghịch. Tháng 3 năm Canh Thân (1440), nhà vua lần đầu tiên thân chinh cùng quân sỹ lên trấn Miền Tây đi đánh thổ quân phản nghịch tên là Thượng Nghiễm ở Châu Mường Muổi (nay là huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La). Nhà vua đi tới đâu cũng được nhân dân ủng hộ nên quân của triều đình đã nhanh chóng dẹp tan bọn phản nghịch. Trên đường trở về, nhà vua cùng quân sỹ nghỉ chân tại Động La (Thẳm báo ké), một hang đá tự nhiên ở châu Mường La. Vua thấy nơi đây cảnh đẹp, địa lý thuận lợi, với ý nghĩa sâu xa và tâm hồn thanh thản, nhà vua đã cho quân sỹ khắc bài thơ và lời tựa trên vách đá ở cửa Động La. Bài thơ, Quế Lâm Ngự Chế có ý nghĩa như sau: “Tù trưởng Thuận Châu là Thượng Nghiễm phản nghịch, vong ơn bội nghĩa, đem quân theo người Ai Lao làm phản. Thân chinh điều khiển sáu quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bèn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về để lại một bài thơ. Đúng một năm sau, tháng 3 năm 1441 vua lại đem quân lên dẹp loạn Nghịch Nghiễm ở Châu Mường Muổi, đi đến đâu cũng được nhân dân hưởng ứng, giúp đỡ vì vậy quân của triều đình đã nhanh chóng bắt được tướng Ai Lao là Đạo Mông, đồng thời bắt được con của Thượng Nghiễm là Sinh Tượng và Chàng Đồng. Tên phản nghịch Thượng Nghiễm ra hàng và chịu tội, kể từ đây dải đất biên cương phía Tây của Tổ quốc đã được yên bình. Để tri ân công đức của Vua Lê Thái Tông và để di tích Văn bia Quế Lâm Ngự Chế mãi mãi trang nghiêm, tỏa sáng trong lòng các thế hệ nối tiếp, đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng lành mạnh của đông đảo các tầng lớp nhân dân, được sự nhất trí của Bộ Văn hóa, Thông tin, tháng 9/2001 Tỉnh ủy và UBND Sơn La đã cho khởi công xây dựng đền thờ Vua Lê Thái Tông tại thị xã Sơn La và được khánh thành ngày 22/01/2003, lấy tên là “Quế Lâm linh từ”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 2076 lượt xem
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị của chúng tại vùng Tây Bắc. Chúng cho xây dựng Nhà tù Sơn La để giam cầm, đày ải, thủ tiêu ý chí đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng và những người Việt Nam yêu nước. Tháng 12/1939, những tù nhân chính trị tại nhà tù đã họp bí mật và quyết định thành lập Chi bộ lâm thời. Chi bộ đã chọn cây đa bản Hẹo làm địa điểm liên lạc bí mật với cơ sở cách mạng bên ngoài nhà tù và với Trung ương Đảng. Năm 1942 - 1943, tình hình cách mạng trong nước và thế giới có nhiều biến động, Trung ương Đảng chỉ đạo khu căn cứ Yên Bái, Phú Thọ phải lập đường dây liên lạc với Chi bộ nhà tù Sơn La. Hàng ngày tù nhân chính trị Nhà tù Sơn La phải đến khu vực cây đa để lấy củi, nên các tù nhân đã đặt một hòm thư bí mật, để liên lạc nhận định tình hình địch, hòng tổ chức vượt ngục. Theo kế hoạch đã định, tháng 1 năm 1943. Các Đồng chí ở cơ quan Trung ương đã bố trí gặp các đồng chí trong Chi bộ nhà tù Sơn La tại cây đa Bản Hẹo. Thống nhất kế hoạch hoạt động vượt ngục. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các tù nhân từ bên trong nhà tù cho đến các đồng chí, chiến sĩ bên ngoài nhà tù, ngày 3/8/1943, Chi bộ đã tổ chức thành công cuộc vượt ngục cho các tù nhân ưu tú về cơ quan Trung ương Đảng tiếp tục hoạt động cách mạng. Như vậy, trong suốt thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với các địa điểm liên lạc khác, cây đa bản Hẹo, nơi đặt hòm thư bí mật, nơi gặp gỡ, liên lạc giữa các chiến sỹ cộng sản thuộc Chi bộ nhà tù với lãnh đạo Trung ương - đã thực sự giữ vai trò quan trọng, góp phần tạo nên một mạng lưới thông tin vững chắc, che mắt được mạng lưới mật thám dày đặc của kẻ thù, phục vụ cho sự phát triển của cách mạng và góp phần to lớn vào thắng lợi của phong trào đấu tranh giành chính quyền ở Sơn La nói riêng và cả nước nói chung. Cây đa bản Hẹo nay là một di tích lịch sử cách mạng trong quần thể di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, do Bảo tàng tỉnh quản lý. Hàng năm, di tích đón hàng trăm nghìn lượt khách đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu. Dù đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cây đa vẫn còn đó như một minh chứng cho một thời kỳ lịch sử cách mạng thế kỷ XX. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Sơn La
Sơn La 2014 lượt xem
Tập đoàn cứ điểm Nà Sản nằm trên cao nguyên Nà Sản, là một lòng chảo thuộc địa phận xã Chiềng Mun - huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La với diện tích khoảng 10km2 được bao quanh bởi các dãy núi cao trên 700m. Tại đây có sân bay, Sở chỉ huy, một số đồn bốt, hệ thống hỏa lực mạnh của bốn khẩu pháo 105mm và nhiều đường giao thông hào vây quanh bảo vệ khu trung tâm. Cũng như Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quan trọng nhất của khu căn cứ quân sự này là sân bay Nà Sản, có nhiệm vụ tiếp tế cho quân Pháp đang làm nhiệm vụ tại đây. Sân bay này được xây dựng từ năm 1950 khi quân Pháp đặt sự thống trị, đàn áp nhân dân các dân tộc Tây Bắc sau khi chiếm được quyền kiểm soát từ tay Việt Minh. Ban đầu sân bay Nà Sản để phục vụ cho nhu cầu đi lại với hệ thống đường băng ngắn, nhỏ và kết cấu đơn giản, sau này được mở rộng, kéo dài và nâng cấp nền lát ghi sắt, có thể đáp ứng cho loại máy bay Dakota cất và hạ cánh. Trong khoảng thời gian gần một tháng từ khi quân Pháp rút về đây, chúng liên tục tăng viện lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược, dây thép gai và những vật liệu cần thiết để củng cố khu căn cứ quân sự này. Vì thời gian gấp rút nên hệ thống công sự ở đây được làm nhanh chóng bằng những vật liệu thô sơ như tre, gỗ, .. và được xây, đắp tạm thời để ở và chiến đấu. Tại các cứ điểm tại khu trung tâm, xung quanh sân bay được ưu tiên hơn, xây dựng kiên cố bằng xi măng, cát, lát tấm ghi sắt. Hầm chỉ huy trung tâm còn có hệ thống giao thông hào tương đối an toàn thoát ra sân bay trong trường hợp cần thiết. Chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ ngày 01-10-1952 và kết thúc vào ngày 10-12-1952. Sau 3 đợt tiến công quyết liệt của quân và dân ta nên chiến dịch nhanh chóng kết thúc sớm so với dự kiến ban đầu là 4 tháng. Ta đã tiêu diệt được nhiều quân địch và thu nhiều vũ khí, đạn dược, địch phải rút về co cụm ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Trước thế bị động cô lập hoàn toàn, chúng biết khả năng không thể tồn tại trên mảnh đất này, nên đã bí mật tháo chạy bằng đường hàng không ở sân bay Nà Sản. Chiến dịch Tây Bắc đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn. Đến nay, người ta ít biết đến Tập đoàn cứ điểm Nà Sản vì quy mô nhỏ lẻ và còn mang tính chất thụ động đối phó. Tuy nhiên đây là khởi nguồn đầu tiên cho hình thức đánh tập đoàn cứ điểm của Thực dân Pháp, là ý tưởng hình thành Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau này, là hình thức phòng ngự có ý nghĩa chiến lược lần đầu tiên xuất hiện trong chiến tranh Việt Nam. Tập đoàn cứ điểm Nà Sản là chứng tích của những năm tháng oanh liệt của quân và dân ta chống thực dân Pháp tại chiến trường Tây Bắc, là dấu ấn cho sự thất bại thảm hại của thực dân Pháp. Tập đoàn cứ điểm Nà Sản được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia vào ngày 24-1-1998. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 1978 lượt xem
Nhà tù Sơn La được thực dân Pháp xây dựng năm 1908, bên cạnh dòng suối Nậm La trên đỉnh đồi Khau Cả, nay thuộc phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Nơi đây đã giam giữ 1007 lượt tù nhân cộng sản, là trường học cách mạng, nơi ươm mầm “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam. Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2, chủ yếu để giam cầm tù thường phạm. Năm 1930, trước phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam ngày càng dâng cao, thực dân Pháp đã mở rộng Nhà tù Sơn La thêm 1.500 m2 và bắt đầu giam chính trị phạm. Năm 1940, thực dân Pháp cho xây dựng một trại giam có diện tích 170m với ý định giam tù nhân nữ, nhưng âm mưu này đã không thực hiện được. Như vậy, qua 3 lần xây dựng và mở rộng, Nhà tù Sơn La có tổng diện tích là 2.170 m2. Đặc biệt, trong quá trình mở rộng nhà tù, thực dân Pháp còn cho xây dựng một dãy xà lim ngầm nằm sâu dưới lòng đất 3m, được che giấu bởi khu nhà bếp ở trên. Hệ thống xà lim ngầm gồm 5 phòng giam cá nhân và 2 phòng giam tập thể, trong đó có 1 xả lim tối. Nhà tù Sơn La được xây dựng kiên cố, tường xây bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôn. Giường nằm cho tù nhân xây bằng đá, mặt láng xi măng, mặt ngoài gắn hệ thông cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Với thiết kế như vậy, những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc với cái nóng như đổ lửa vào mùa hè cùng những đợt sương muối giá rét vào mùa đông đã khiến các loại bệnh phát sinh và lây lan nhanh chóng. Nhà tù Sơn La được ví như “chiếc quan tài nắp mở, chỉ chờ tù nhân tắt thở đem chôn”. Từ năm 1930 đến năm 1945, thực dân Pháp đã đày lên Nhà tù Sơn La 14 đoàn tù chính trị với tổng số 1.013 lượt tù nhân, trong đó có rất nhiều đồng chí là Ủy viên Trung ương, Xứ ủy, Thành ủy và nhiều cán bộ cốt cán của Đảng. Trực diện với tội ác của kẻ thù, hơn bao giờ hết, khí tiết của những người cộng sản đã tỏa sáng và thắp lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng khắp núi rừng Tây Bắc, góp phần rất lớn vào sự thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng vĩ đại, đào tạo, bồi dưỡng cho Đảng và cách mạng Việt Nam những chiến sĩ Cộng sản xuất sắc tiêu biểu như: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàng đồng chí trung kiến khác. Hòa bình lập lại, Bảo tàng tỉnh Sơn La đã tiến hành ba lần tu bổ, tôn tạo di tích Nhà tù vào các năm 1980, 1994, 2009 - 2010. Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La còn có 2 điểm là: cây đa Bản Hẹo, địa điểm liên lạc giữa Chi bộ Nhà tù Sơn La với Trung ương Đảng và Nghĩa trang liệt sĩ Nhà tù Sơn La (Nghĩa trang Gốc Ổi) là nơi yên nghỉ của hơn 60 anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh tại Nhà tù Sơn La. Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La đã trở thành một địa chỉ đỏ trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ các dân tộc Sơn La và nhân dân cả nước. Nhà tù Sơn La được xếp hạng quốc gia năm 1962 và Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vào ngày 31-12-2014. Di tích Nhà tù Sơn La đã trở thành một trường học, một trung tâm giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Sơn La
Sơn La 1974 lượt xem
Cầu Tà Vài, thuộc bản Tà Vài, xã Chiềng Hặc, huyện Yên Châu là di tích lịch sử nổi tiếng của tỉnh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp cây cầu không chỉ mang ý nghĩa dân sinh mà còn là di tích lịch sử. Bản Tà Vài nơi có cây cầu với 46 trận đánh phá ác liệt và phải hứng chịu 1.272 quả bom của máy bay Mỹ nhằm cắt đứt huyết mạch Quốc lộ 6. Nhưng cây cầu vẫn đứng vững, đảm bảo giao thông thông suốt. Năm 1965, giặc Mỹ đã dùng không quân, biệt kích điên cuồng phá hoại miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với đồng bào miền Nam. Cây cầu Tà Vài ngày đó là trọng điểm mà giặc Mỹ bắn phá, ngày 20-6-1965, máy bay Mỹ đã ném 6 quả bom xuống bản Khâu Đay (Chiềng Hặc, Yên Châu) và 20 quả rốc két xuống cầu Tà Vài. Bắt đầu từ đây, các loại máy bay Mỹ liên tục bắn phá Yên Châu, nhưng do có sự chuẩn bị tốt các phương án đối phó với chiến tranh phá hoại của Mỹ nên Yên Châu bước vào cuộc chiến mà không bị bất ngờ. Lúc này cây cầu Tà Vài trở thành nơi giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Với quyết tâm bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt trong mọi tình huống, quyết bám trụ tại trọng điểm giao thông cầu Tà Vài, lực lượng dân quân tự vệ cùng các đơn vị lực lượng vũ trang đã luôn bám mặt đường và cầu để đảm bảo cho xe thông tuyến. Tại đây, từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1966 ta đã bố trí Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ để bảo vệ cầu Tà Vài, trong đó Đại đội 3 gồm 2 khẩu đội pháo 37 ly được bố trí trận địa khu vực đồi bản Tát, giáp cầu Tài Vài, Đại đội 2 gồm 4 khẩu 37 ly được bố trí liên hoàn ở phía Tây cầu Tà Vài. Ngoài hai trận địa chính với phản lực là pháo 37 ly, còn một trận địa phụ gồm 1 đại đội 12,7 ly được bố trí ở địa hình thấp hơn cũng ở gần cầu Tà Vài. Để bố trí được trận địa như vậy, nhân dân bản Tà Vài đã cùng bộ đội đào công sự làm đường vòng quanh sườn đồi để kéo pháo lên. Mỗi khẩu pháo 37 ly phải huy động 200 người mới kéo được. Để động viên tinh thần và giúp đỡ bộ đội chiến đấu, nhân dân bản Tà Vài vừa hăng hái tham gia chiến đấu, vừa sản xuất lúa gạo để đóng góp cho tiền tuyến. Trong những năm tháng đó, nhân dân Tà Vài đã cùng với các bản khác trong xã Chiềng Hặc đóng góp gần 9 tấn rau, 500kg gia cầm, hàng tấn lương thực… Ngoài ra, đội văn nghệ của xã còn đến tận trận địa phục vụ bộ đội và dân quân. Nhiều lần phải di chuyển trận địa, nhân dân đã cùng bộ đội lấy dây rừng bện lại để kéo pháo; lấy tre, nứa làm lán cho bộ đội và giúp bộ đội đào trên 3.000 mét hầm trú ẩn trên trận địa với quyết tâm bảo vệ huyết mạch giao thông cho chiến trường. Địch phá hỏng cầu, đường, nhưng tinh thần của quân và dân ở đây không hề nao núng, mặc cho bom đạn gào thét vẫn hăng hái sửa đường cho xe qua, với phong trào thi đua “Tiếng hát át tiếng bom” và “Địch phá, ta sửa ta đi. Địch phá ta cứ đi”. Ngày 8-12-1966, địch tổ chức 3 tốp máy bay thả bom trên đồi nơi có trận địa pháo phòng không và bắn phá cầu Tà Vài, lúc này 2 nhịp cầu đã bị trúng bom và rơi xuống suối, giao thông đường 6 bị cắt đứt. Do cầu ở vị trí hiểm trở, suối rộng, nước sâu, hơn nữa giặc lại đánh cả ngày lẫn đêm nên rất khó làm lại cầu. Trước tình hình đó, đơn vị bảo vệ cầu quyết định làm đường tránh và đường ngầm để đảm bảo giao thông bằng mọi giá. Đường ngầm cầu Tà Vài được quân và dân làm cách chân cầu khoảng 1km về phía hạ lưu, nhưng giặc vẫn phát hiện và tiếp tục bắn phá. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, các đơn vị bộ đội và dân quân tự vệ đã bảo đảm tốt mạch máu giao thông. Phát huy truyền thống chiến đấu ngoan cường, tinh thần đoàn kết một lòng, nhân dân bản Tà Vài với khí thế sục sôi căm thù quân xâm lược, biến thành hành động cách mạng trong chiến đấu và sản xuất, góp phần xuất sắc vào thành tích đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ. Tại trận địa cầu Tà Vài, quân và dân Yên Châu đã bắn rơi 2 máy bay F105 và bắt sống giặc lái Mỹ bằng súng trường, huyết mạch chi viện cho Miền Nam luôn thông suốt, chiến công đó đã nhanh chóng lan rộng đi khắp nơi, được cả nước biết đến. Ngày nay, chiến tranh đã lùi vào quá khứ, người dân Tà Vài chăm chỉ lao động sản xuất và tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho quê hương, nơi có cây cầu Tà Vài ghi dấu tội ác của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Nói đến cầu Tà Vài là nói đến tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường và chiến đấu vẻ vang của quân và dân Yên Châu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 1949 lượt xem
Hang Thẩm Cắn còn gọi là hang “Vợ chồng A Phủ”, chính là khu căn cứ cách mạng 99 trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của tỉnh Sơn La. Hang thuộc xã Hồng Ngài, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn la. Khu di tích gồm có hai hang: Hang thứ nhất (hang khô) nằm dưới chân của ngọn núi U Bò, xung quanh là khu rừng nguyên sinh, khí hậu thoãng đãng, mát mẻ. Trước cửa hang là nương rẫy của bà con nhân dân được bao trùm khắp 4 mùa một màu xanh hoa trái. Hang khô gồm có 2 cửa nằm ở 2 phía Đông, Tây nối thông với nhau chia hang làm 3 khoang. Tổng chiều dài của hang từ Tây sang Đông khoảng 200m. Cửa phía Tây cao khoảng 3m, rộng 1,5m, lối vào hang nhỏ hẹp, hạn chế ánh sáng. Càng đi sâu lòng hang càng mở rộng , trần hang cao trung bình từ 20 đến 40 mét, độ rộng trung bình 15 đến 30 mét. Nền hang gồ ghề và hơi dốc, có nhiều hòn đá nằm rải rác khắp trên nền hang. Trần hang có nhiều nhũ đá khá đẹp hình các loại muông thú, rừng cây...Trong khoang thứ 2, 3 còn có nhiều ngách hẹp chạy dọc theo vách hang, sâu trung bình 10 đến 15 mét. Đi hết khoang 3 là đến cửa phía Đông. Cửa hang hình bầu dục cao khoảng 50 đến 60 mét, phía đáy rộng khoảng 20 mét, ở phần giữa cửa hang rộng khoảng 30 mét. Đây là nơi Đại đội quân báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu đã tạm trú hai ngày để tìm cách vượt sông Đà chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc 1952. Theo lời kể của nhân dân địa phương thì hang Thẩm cắn cũng là nơi đóng quân và cất giữ vũ khí của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Ngoài ra hang Thẩm cắn trong văn học với tên gọi khác là hang Vợ chồng A Phủ. Theo truyền thuyết sau khi thoát khỏi gia đình Thống lý Pá Tra để đến với khu du kích Phiềng Sa thì Mỵ và A phủ (hai nhân vật chính trong tác phẩm) đã dừng chân tại đây một thời gian để tránh sự lục soát của bọn Thống lý. Hang thứ 2 là hang nước cách hang thứ nhất khoảng 20 mét về phía Nam. Cửa vào hang nằm sâu dưới lòng đất khoảng 5 mét. Đường xuống hang dốc, nhiều tảng đá gập ghềnh, rất nguy hiểm. Hang có chiều dài khoảng 300 mét. Lòng hang tối, có độ rộng khoảng 7 mét, từ nền hang đến trần hang cao trung bình khoảng 10 đến 12 mét, có chỗ chỉ cao 4 đến 5 mét. Nền hang là một dòng suối chảy dọc theo hang từ Tây sang Đông. Đây là nơi Đại đội quân báo đến lấy nước sinh hoạt trong thời gian tạm trú ở hang khô. Hang Thẩm Cắn - Khu căn cứ kháng chiến 99 được xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh vào ngày 28-5-2012. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La
Sơn La 1744 lượt xem
Ngã ba Cò Nòi (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La), một địa danh lịch sử, một mốc son chói lọi khắc ghi một thời kỳ chiến đấu oanh liệt của lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam trong cuộc kháng chiến thần thánh chín năm chống thực dân Pháp. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ Ngã ba Cò Nòi là điểm nút giao thông quan trọng nhất để các mũi tiến quân của quân và dân ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Địa điểm này đã trở thành "Điểm đỏ" để Thực Dân Pháp bắn phá ác liệt nhất, nhằm chặn đứng và phá tan huyết mạch giao thông của quân và dân ta. Một ngày tại đây chúng đã ném khoảng 69 tấn bom để cày xới phá huỷ, nhưng dưới làn mưa bom của địch, các lực lượng vũ trang, Thanh niên xung phong trong cả nước đã dũng cảm bám trụ, ngày đêm vẫn đảm bảo thông đường mạch máu giao thông vẫn chảy đều trên tuyến lửa. Trong quá trình phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tại Ngã ba Cò Nòi 100 chiến sỹ và Thanh niên xung phong đã hy sinh. Tháng 12 năm 1952 Trung ương Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, mở rộng và củng cố vùng giải phóng chuẩn bị cho chiến dịch, hàng vạn bộ đội, dân công, thanh niên xung phong ở khắp các địa phương được huy động lên chiến trường Tây Bắc. Trong chiến dịch lịch sử này, Sơn La đóng một vai trò hết sức quan trọng vừa là hậu phương lớn gần chiến trường vừa là cửa ngõ để tiến vào Tây Bắc. Sơn La án ngữ các tuyến đường huyết mạch giao thông nối đồng bằng Bắc Bộ, chiến khu Việt Bắc; Liên khu III, IV với chiến trường Điện Biên Phủ. Trong đó ngã ba Cò Nòi là nút giao thông quan trọng bậc nhất, được ví như "yết hầu" trên tuyến lửa. Ngã ba này là nơi giao nhau giữa hai tuyến quốc lộ là 13A (quốc lộ 37 hiện nay) và đường 41 (quốc lộ 6 hiện nay), thuộc địa phận xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn. Địa hình nơi đây hiểm trở, được bao bọc bởi những dãy núi trùng điệp tạo thành một thung lũng hẹp và sâu có chiều dài hơn 2 km. Tất cả mọi hoạt động chi viện vũ khí, lương thực, thực phẩm của quân và dân ta từ hậu phương Việt Bắc và liên khu III, IV tiến lên chiến trường Điện Biên Phủ đều phải đi qua cửa ải này. Trong hồi ký của mình Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "Ngã ba Cò Nòi là một cửa ải, tất cả những người ra trận đều phải vượt qua". Với vị trí chiến lược quan trọng đó, ngã ba Cò Nòi đã trở thành "túi bom", một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của không quân Pháp trên địa bàn Sơn La. Chúng cho rằng việc ngăn chặn và cắt đứt con đường vận tải, tiếp tế về mọi mặt của hậu phương Miền Bắc cho chiến trường Điện Biên Phủ là vấn đề sống còn của quân đội viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Với tinh thần cả nước phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, khẩu hiệu xuyên suốt chiến dịch của quân và dân ta là: "Tất cả cho tiền tuyến" "Tất cả để chiến thắng". Nhân dân các tỉnh lần lượt tiễn con em hăng hái lên đường tham gia quân ngũ, đi thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến. Cuộc chiến đấu trên mặt trận tiếp tế, vận tải, tháo dỡ bom mìn đảm bảo giao thông, liên lạc diễn ra khẩn trương, quyết liệt ngay từ ngày mở màn đến lúc kết thúc chiến dịch. Để đời đời tri ân công ơn các liệt sỹ thanh niên xung phong đã chiến đấu, hi sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc tại ngã ba Cò Nòi. Ngày 21/4/2000 Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La đã khởi công xây dựng nhóm đài tưởng niệm liệt sỹ thanh niên xung phong tại ví trí "tọa độ lửa" năm xưa với diện tích 20.000m2. Công trình được khánh thành ngày 7/5/2002, nhóm tượng gồm 3 thanh niên xung phong ở các tư thế khác nhau được tạo từ chất liệu đá granit. Tượng cao 12 mét, được đặt trên bệ một khối đá nặng 280 tấn. Cùng với nhóm tượng đài, còn có hai bức phù điêu thể hiện hình ảnh toàn dân ra trận chiến đấu chống thực dân Pháp. Mỗi bức phù điêu có diện tích 42m2, nặng 52 tấn, được phủ bằng kim loại, tái hiện hình ảnh quân và dân ta hăng hái chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ, thể hiện ý chí quật cường của lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954 - 2004) di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Mai Sơn
Sơn La 1723 lượt xem
Khu di tích cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô, thuộc xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La là một địa danh, một biểu tượng cao đẹp của tình quân dân Việt Nam – Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây cũng là một trong những căn cứ cách mạng đầu tiên dọc biên giới Việt Nam - Lào, nơi để lại dấu ấn đậm nét về sự giúp đỡ của người dân trong vùng đối với Người Chỉ huy của Ban xung phong Lào – Bắc (Lào) là Chủ tịch Kaysone Phomvihane. Ngày nay, Khu di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút nhân dân hai nước tới tham quan và tìm hiểu. Nằm sát biên giới, bản Lao Khô có vị trí địa lý hết sức quan trọng, phía Tây và Nam giáp huyện Xiềng Khọ, tỉnh Hủa Phăn (Lào); địa hình hiểm trở, núi cao, nhiều thung lũng sâu, rừng rậm, là điều kiện thuận lợi cho việc đóng quân và hoạt động bí mật của du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 20/5/1948, Ban xung phong Lào Bắc được Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam ra chỉ thị thành lập. Ban Xung phong Lào Bắc do đồng chí Kaysone Phomvihane (sau này là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Thủ tướng, Chủ tịch nước Lào) làm Trưởng ban, có nhiệm vụ gây cơ sở vùng sau lưng địch, phát động phong trào du kích để thành lập căn cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp, đào tạo cán bộ địa phương. Ban Xung phong Lào Bắc đã chọn bản Phiêng Sa, xã Chiềng On, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La làm nơi đứng chân, chuẩn bị mọi điều kiện cho thực hiện nhiệm vụ. Tại đây, nhân dân bản Phiêng Sa và gia đình ông Tráng Lao Khô đã ủng hộ, chia sẻ lương thực, thực phẩm để nuôi giấu cán bộ cách mạng, giúp đồng chí Kaysone Phomvihane và Ban xung phong Lào Bắc từng bước tiến sâu vào nội địa Lào, gây dựng cơ sở, phát triển lực lượng, góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân các bộ tộc Lào phát triển. Bản Phiêng Sa, xã Chiềng On, nay là bản Lao Khô, xã Phiêng Khoài trở thành địa danh lưu nhiều dấu ấn về liên minh đoàn kết chiến đấu, biểu tượng của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam - Lào. Một niềm vinh dự khác mà người dân ở bản Lao Khô cũng như gia đình ông Tráng Lao Khô hết sức tự hào, đó là vào ngày 19/3/2010, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã trao tặng Huân chương Tự do hạng III và Huân chương Hữu nghị. Điều này đã thể hiện sự biết ơn sâu sắc của Đảng, Nhà nước, nhân dân Lào đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nói chung, bản Lao Khô nói riêng. Với giá trị quốc tế, lịch sử nổi bật của cách mạng hai nước Việt Nam và Lào, ngày 3/4/2012, Di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đến ngày 29/8/2022, Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam-Lào được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Nhằm bảo tồn di tích cách mạng trong kháng chiến chống thực dân Pháp, là nơi ôn lại truyền thống lịch sử, ghi nhớ công ơn của thế hệ cha, ông trong quá trình giải phóng dân tộc Việt Nam - Lào, góp phần ổn định chính trị, giữ vững an ninh, chủ quyền biên giới, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc. Nhằm phát huy di tích gắn liền với phát triển du lịch, Quốc hội hai nước đã quyết định và chỉ đạo xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô. Từ đó đến nay, khu di tích là nơi giới thiệu, tôn vinh những giá trị lịch sử to lớn, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa nhân dân hai nước, khẳng định tinh thần quốc tế cao cả và sự hy sinh to lớn của quân đội và nhân dân Việt Nam giành cho nhân dân Lào. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 1620 lượt xem
Đồn Mộc Lỵ do thực dân Pháp xây dựng vào năm 1951 tại Mộc Châu. Đồn nằm trên một núi đá tai mèo nằm độc lập, địa thế hiểm trở, có nhiều vách đứng án ngữ trên ngã ba đường từ Hà Nội lên Tây Bắc, từ Việt Nam sang vùng Thượng Lào nhằm mục đích ngăn chặn quân ta tiến đánh giải phóng Tây Bắc và vùng Thượng Lào. Chúng trang bị hoả lực dày đặc nên đồn Mộc Lỵ được mệnh danh là: "Chiếc áo giáp sắt" bất khả xâm phạm ở phân khu Sơn La. Đồn Mộc Lỵ do tên quan ba Pháp Vanh - Xăng chỉ huy hơn một tiểu đoàn Thái tăng cường. Ngoài trang bị vũ khí cá nhân đầy đủ như tiểu liên, súng trường, Đồn còn được trang bị một pháo 94 ly, 6 súng cối 81 và 60 ly, 3 đại liên, 27 trung liên, lương thực, thực phẩm, vũ khí thường xuyên được bổ sung đảm bảo cho chiến đấu dài ngày. Đây là một vị trí then chốt hết sức quan trọng nên Tướng Đờ- Ly-Na-Rét đã đích thân tới đây để kiểm tra việc bố phòng và giao nhiệm vụ cho sĩ quan, binh lính phải chống giữ đến cùng khi bị tấn công. Bộ chỉ huy quân đội Pháp còn rút từ Phát Diệm (Ninh Bình) lên tăng cường cho Đồn Mộc Lỵ Những toán biệt kích, ác ôn được lựa chọn và huấn luyện kỹ để tung vào hoạt động các vùng mà chúng nghi là căn cứ giấu quân của ta. Vào đầu tháng 9/1952, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới. Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Chủ trương của Trung ương Đảng là “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh" và hướng tiến công là Tây Bắc. Với quyết tâm tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ sức mạnh của nhân dân, phá tan “xứ Thái tự trị” giả hiệu của thực dân Pháp, giải phóng Tây Bắc, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, giữ vững đường giao thông quốc tế Lào - Vân Nam (Trung Quốc), tạo điều kiện phát triển cách mạng Lào, cô lập, làm rối loạn hậu phương của địch. Chính vì vậy, việc đánh chiếm đồn Mộc Lỵ đối với quân và dân ta có một ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định việc triển khai vận chuyển hậu cần cho chiến dịch từ Hoà Bình lên Tây Bắc. Lúc này các binh đoàn chủ lực của ta đã tiến sâu vào vùng hậu phương của địch. Nên việc đảm bảo lương thực, thực phẩm, vũ khí đang là một trong những vấn đề cấp bách có tầm quan trọng hàng đầu trong việc quyết định các phương án tác chiến. Vì vậy trong ngày 17 và 18/11/1952 các đơn vị bí mật đào công sự, chiếm lĩnh trận địa. Các tiểu đoàn 249 và 888 luồn rừng theo dòng suối tiến lên phía Tây Bắc hình thành thế bao vây chặn quân tiếp viện của địch từ Sơn La xuống. Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Bắc, ngày 19 tháng 11 năm 1952, quân ta xiết chặt vòng vây quanh vị trí đồn Mộc Lỵ. Sau đúng 3 giờ chiến đấu vô cùng ác liệt, trận đánh đồn Mộc Lỵ kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt và bắt sống 350 tên trong đó có tên (quan ba Vanh - Xăng cùng một số sĩ quan) thu hơn 500 khẩu súng các loại cùng toàn bộ kho tàng vũ khí, quân trang, quân dụng và lương thực, thực phẩm, giải phóng trên 1000 dân. Phối hợp với bộ đội chủ lực, các đội du kích Tú Nang, A Má, Chiềng Khừa, Pa Háng tổ chức bao vây tiến công đồn Pa Khôm, Pa Háng. Địch hoảng sợ vội vã mở đường rút chạy lên Yên Châu và sang Lào. Sau khi giải phóng Mộc Châu, Đại đoàn 316 chia làm 3 cánh quân tiếp tục tiến lên giải phóng Mộc Châu, Sơn La. Ngày 10 tháng 12 năm 1952 chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi giòn giã. Chiến thắng Đồn Mộc Lỵ có một ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp của quân và dân ta. Ta đã nối thông đường giao thông từ Hoà Bình lên Sơn La, tạo thuận lợi cho việc giải phóng Tây Bắc và giải phóng Điện Biên Phủ, ngăn chặn và cắt đứt giao thông của địch đối với vùng Thượng Lào. Bên cạnh đó chiến thắng Đồn Mộc Lỵ còn có một ý nghĩa về mặt chiến lược quân sự, quân và dân ta rút ra bài học kinh nghiệm đánh đồn kiên cố phải đánh từ trên đánh xuống. Trong trận đánh Đồn Mộc Lỵ đã có 53 chiến sĩ thuộc Trung đoàn 174, sư đoàn 316 anh dũng hy sinh. Để tưởng nhớ những công lao to lớn của các liệt sĩ Đảng, Nhà nước và nhân dân các dân tộc Sơn La đã xây dựng Nhà bia tưởng niệm khắc ghi tên tuổi của 53 liệt sỹ. Ngày nay Di tích lịch sử Đồn Mộc Lỵ là nơi giáo dục truyền thống cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ của tỉnh Sơn La. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, Di tích lịch sử Đồn Mộc Lỵ được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Quốc gia ngày 20/01/1998. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ VHTTDL
Sơn La 1460 lượt xem