Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Quảng trường Kinh Đô Ánh Sáng tại Vinhomes Ocean Park 2 đã nhanh chóng trở thành một điểm đến không thể bỏ qua đối với giới trẻ, đặc biệt là các bạn thuộc thế hệ Gen Z
Nằm tại trung tâm của khu đô thị Vinhomes Ocean Park 2, Quảng trường Kinh Đô Ánh Sáng là một điểm đến đầy hấp dẫn đối với cả du khách và người dân địa phương. Với quy mô lên đến 3.2 ha, quảng trường này không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn là trung tâm của nhiều hoạt động giải trí và sự kiện sôi động.
(Ảnh sưu tầm)
Điểm nhấn của Quảng trường Kinh Đô Ánh Sáng là tượng thần Ánh Sáng cao 50m, một biểu tượng được bao phủ bởi hàng ngàn đèn LED tạo nên một khung cảnh rực rỡ và đầy ấn tượng. Thiết kế lấy cảm hứng từ kiến trúc hoa lệ của Paris, tượng thần này không chỉ là điểm check-in lý tưởng mà còn là trung tâm của mọi hoạt động trên quảng trường.
(Ảnh sưu tầm)
Quảng trường Kinh Đô Ánh Sáng không ngừng thu hút đông đảo du khách bởi các sự kiện âm nhạc, lễ hội và các hoạt động văn hóa diễn ra thường xuyên. Mỗi cuối tuần và dịp lễ hội, quảng trường sẽ chìm đắm trong không khí vui nhộn của những buổi tiệc âm nhạc xuyên màn đêm, với âm thanh chất lượng cao và không gian rộng lớn, mang lại cho khán giả những trải nghiệm âm nhạc đầy sôi động.
(Ảnh sưu tầm)
Ngoài các hoạt động giải trí, Quảng trường còn là nơi hội tụ của ẩm thực đa dạng và mua sắm sang trọng. Đại lộ Kingdom Avenue, khu phố đi bộ "không ngủ" kề cận, mang đến cho du khách cảm giác như đang dạo bước giữa "Champs Elysees" của Paris với các nhà hàng, quán bar và các cửa hàng thời trang hàng đầu thế giới. Đây cũng là nơi lý tưởng để thưởng thức các món ăn ngon và mua sắm các sản phẩm chất lượng cao.
Quảng trường Kinh Đô Ánh Sáng không chỉ là điểm đến hấp dẫn của giới trẻ mà còn là nơi lý tưởng cho gia đình và nhóm bạn. Với không gian xanh mát, các khu vực vui chơi trẻ em và các hoạt động giải trí đa dạng, đây là điểm đến tuyệt vời để tận hưởng những khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc sống.
(Ảnh sưu tầm)
Với sự kết hợp hoàn hảo giữa kiến trúc hiện đại và không gian xanh mát, Quảng trường Kinh Đô Ánh Sáng tại Vinhomes Ocean Park 2 là một điểm đến không thể bỏ qua đối với giới trẻ và những người yêu thích văn hóa, giải trí và ẩm thực. Đây là nơi để trải nghiệm những cung bậc cảm xúc đa dạng và tận hưởng cuộc sống đẳng cấp giữa lòng thành phố biển sôi động Ocean City.
Nằm giáp con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, thuộc thành phố Hưng Yên, văn miếu Xích Đằng hay còn gọi là văn miếu Hưng Yên, là một di tích quan trọng trong quần thể cụm di tích Phố Hiến. Văn miếu được xây dựng vào năm 1832, trải qua gần 400 năm tồn tại và ghi danh 161 vị đỗ đại khoa của trấn Sơn Nam thượng, văn miếu đã trở thành một biểu tượng về truyền thống hiếu học của người dân mảnh đất “Nhất kinh kì, nhì Phố Hiến”. Dù nằm trong khu dân cư, nhưng đi ngay trên cầu Yên Lệnh, thuộc quốc lộ 38 nối Hà Nam với Hưng Yên có thể quan sát được văn miếu Xích Đằng từ hai cây gạo đã có hàng trăm năm tuổi được trồng trước cổng. Nằm trên đường dẫn vào còn có tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ XVIII. Tam quan hay còn gọi là cổng nghi môn là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương. Thay vì lầu trống như ở các văn miếu Quốc tử giám, văn miếu Mao Điền, ở văn miếu Xích Đằng lầu trống được thay vào bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ XVIII. Phía trong cổng có sân rộng, ở giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân có lầu chuông và lầu khánh cùng 2 dãy tả vu, hữu vu. Hai dãy này hiện nay được dùng để trưng bày các hình ảnh và hiện vật liên quan đến giáo dục của tỉnh Hưng Yên. Văn miếu Xích Đằng kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”, mặt chính quay về hướng Nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, cấu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn. Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa, trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.
Hưng Yên 1608 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc đến Hưng Yên là nhắc đến một mảnh đất với rất nhiều địa điểm cho du khách có thể tham quan du lịch. Du lịch Hưng Yên nổi tiếng với các loại hình du lịch như du lịch văn hóa tâm linh, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch làng nghề. Một số những địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng có thể kể đến như làng Nôm, phố Nối, vườn hoa cúc chi, đền Trần,…Đặc biệt không thể không kể đến địa điểm tâm linh nổi tiếng ở mảnh đất này đó là đền thờ Chử Đồng Tử. Đền được xây dựng trên một khu đất cao hình chữ nhật, và có lịch sử khá lâu đời. Đền thờ Đức thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân Tiên Dung công chúa và Tây Sa công chúa. Nơi đây gắn liền với truyền thuyết về tình yêu và đồng thơi gắn với những chiến công lừng lẫy của dân tộc ta như cuộc chiến của Quang Phục chống lại quân Lương; Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi chống quân Minh; nhiều phong trào khởi nghĩa trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,… Đền gồm 2 khu là đền Dạ Trạch và đền Đa Hòa, hai khu đền này cách nhau không quá xa và đều nằm ở huyện Khoái Châu. Tổng diện tích của đền là 18 720 m vuông, bao gồm 18 nóc nhà lớn nhỏ khác nhau. Hai ngôi đền này đều đã được nhà nước chứng nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia. Ngôi đền thu hút các du khách không chỉ bởi vẻ bề ngoài cổ kính rêu phong mà những pho tượng cũng là một trong những nét nổi bật đáng chú ý tại đền. Tiêu biểu là pho tượng đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân đặt ở hậu cung, tượng được đúc bằng đồng, được sơn màu, kẻ mắt rất tinh xảo, và hiện nay thì có ba pho tượng như thế được đặt tại cung Đệ Tam. Du khách có thể lựa chọn đến đây từ 10 đến 12 tháng 2 âm lịch hằng năm, để không chỉ có thể vãn cảnh ngôi đền mà còn có thể tham gia vào lễ hội Chử Đồng Tử. Lễ hội này được tổ chức nhằm ý nghĩa tưởng nhớ công ơn của đức thánh Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đã có công chữa bệnh giúp dân. Lễ hội hết sức độc đáo với nhiều hoạt động đa dạng khác nhau như rước kiệu, múa rồng, hát ca trù, những trò chơi dân gian đặc sắc,…
Hưng Yên 1672 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 4
Đền được xây dựng trên một khu đất cao, bằng phẳng, hình chữ nhật với diện tích 18.720m². Mặt đền quay hướng chính tây, nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên (làng Ngự Dội, xã Tứ Dân) – nơi mà công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng thứ 18, gặp Chử Đồng Tử và hai người nên duyên vợ chồng. Đền được chia thành ba khu. Khu ngoài có diện tích 7.200m², không có tường bao, kiến trúc duy nhất là nhà bia 2 tầng, 8 mái cong, với cửa trổ ra 4 hướng. Trong nhà bia có bia đá với nội dung nói về thời điểm trùng tu đền Đa Hòa và cuộc nhân duyên kỳ ngộ của Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Từ đây, theo con đường lát gạch rộng 6m với hai bên đường là hàng cây gạo cổ thụ tỏa bóng râm mát, sẽ đến cổng chính. Qua cổng chính là vào khu giữa. Khu này có diện tích 3.400m², có tường thấp bao quanh, trồng đan xen nhiều cây xanh và được chia thành hai khu: khu bên phải có lầu chuông, bên trong có quả chuông đồng cao 1,5m; khu bên trái có gác khánh, bên trong có khánh đá với chiều ngang là 1,2m; ngăn cách giữa hai khu này là con đường lát gạch dẫn từ cổng chính đến ngọ môn với ba cửa ra, vào, phía trên treo bức đại tự với bốn chữ sơn son thiếp vàng “Bồng lai cung khuyết “. Bước qua ngọ môn là vào khu trong. Với diện tích 11.520m², kiến trúc kiểu cung đình thời Nguyễn nhưng có sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, khu trong gồm: sân đại, nhà đại tế, sân chầu, tòa thiêu hương, cung đệ nhị, cung đệ tam và hậu cung. Nối liền các cung là thảo xá, thảo bạt, nhà ngựa, nhà pháo… Trong hậu cung có 3 khám thờ: Đức Thánh Chử Đồng Tử (ở giữa), Hoàng hậu Tiên Dung công chúa (bên trái), thứ phi Hồng Vân – Tây Sa (bên phải). Tổng thể công trình kiến trúc trong khu này gồm 18 ngôi nhà mái ngói cong hình 18 thuyền rồng cách điệu. Đây là kiến trúc đặc biệt nhằm tái hiện hoạt cảnh đoàn thuyền của công chúa Tiên Dung đang giăng buồm du ngoạn trên bến sông thuở nào. Ngoài kiến trúc độc đáo, đền Ða Hoà còn lưu giữ nhiều di vật quý hiếm, điển hình như: 3 cỗ ngai thờ bằng gỗ có niên đại vào cuối thế kỉ 17 và 18. Đây được coi là những cỗ ngai cổ nhất còn tìm thấy ở nước ta hiện nay; đôi lọ Bách thọ bằng gốm (một trăm chữ thọ không chữ nào giống chữ nào được khắc trên thành lọ)… Rời đền Đa Hòa, du khách sẽ đến đền Dạ Trạch (thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch), nơi gắn liền với truyền thuyết về đầm Dạ Trạch. Tương truyền, tại vị trí Chử Đồng Tử và hai người vợ là công chúa Tiên Dung và Hồng Vân “hóa” về trời vào đêm 17/11 âm lịch, đã sụt xuống thành một đầm lớn, đầm Dạ Trạch (đầm được hình thành chỉ sau một đêm). Cho là thần linh ứng, người dân địa phương đã lập đền thờ 3 vị trong khu vực đầm Dạ Trạch và đặt tên là đền Dạ Trạch hay còn gọi là đền Hóa. Đền Dạ Trạch đã được trùng tu nhiều lần, tuy nhiên, kiến trúc hiện nay là kết quả lần trùng tu vào năm 1890 với kiểu chữ Công (工), mặt hướng chính đông, ra hồ bán nguyệt, mái khắc nhiều hình long, phượng rất đẹp, gồm ba gian. Trong đó, hậu cung là gian được thiết kế đẹp nhất với mái vòm cuốn tam cấp, gợi cho du khách cảm giác như đứng trong khoang thuyền. Từ ngoài vào, bên phải, đầu tiên là ban thờ thổ công miếu đình, tượng quan võ, rồi đến ban thờ các vị thân sinh của Đức thánh Chử Đồng Tử; bên trái là ban thờ Bế ngư thuyền quan (tượng một con cá chép bằng gỗ sơn son thếp vàng óng ánh), kế đến là ban thờ Triệu Việt Vương (548 – 571). Ở chính giữa hậu cung là 3 khám thờ: Đức Thánh Chử Đồng Tử (ở giữa), Hoàng hậu Tiên Dung công chúa (bên trái), thứ phi Hồng Vân (bên phải). Tại đây còn đặt tượng thờ hai con ngựa, một tượng đỏ, một tượng trắng. Tương truyền, đó là hai con ngựa mà Đức Thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân đã cưỡi để đi chữa bệnh cho dân. Ngoài kiến trúc chính, trong khu vực đền còn có lầu chuông, bên trong đặt một chuông Dạ Trạch từ chung (chuông đền Dạ Trạch) được đúc năm Thành Thái thứ 14 (1902), dài 1,5m, rộng 0,8m; hai dãy nhà chín gian, trước kia, đây là nơi để chín chiếc kiệu; hai bia đá dựng đối diện nhau (một bia đã vỡ), được dựng năm Gia Long thứ 17 (1819), cao 1,6m, rộng 0,8m, dày 0,17m; một hồ bán nguyệt; nhiều hoành phi, câu đối ghi lại sự tích Chử Đồng Tử – Tiên Dung – Tây Sa; đặc biệt là hình ảnh chiếc nón và cây gậy – hai vật mà Đức Thánh Chử Đồng Tử đã dùng để cứu nhân độ thế. Đền Dạ Trạch đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1989. Để ghi nhớ công ơn của Đức Thánh Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, hàng năm, người dân địa phương lại tổ chức lễ hội Chử Đồng Tử. Đây là 1 trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước với các hoạt động văn hóa, thể thao hấp dẫn. Độc đáo nhất là lễ rước nước với sự tham gia của 10 con thuyền nối đuôi nhau ra sông Hồng lấy nước về lễ Thánh tại đền Đa Hòa và Dạ Trạch. Hoạt động này được tổ chức theo đúng phong tục xưa, diễn ra trong suốt hai tiếng đồng hồ. Trong quá trình các thuyền di chuyển, còn biểu diễn múa rồng trên thuyền.
Hưng Yên 1593 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng Nôm thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20km. Năm tháng trôi qua, làng Nôm vẫn là mảnh đất được người dân Hưng Yên trân trọng, gìn giữ. Trước cuộc sống nhộn nhịp, xô bồ, thật khó có nơi nào mà người ta cảm thấy yên bình đến vậy. Những nét đẹp kiến trúc, văn hóa và con người vẫn vẹn nguyên sau hơn 2oo năm biến động. Chính bởi vẻ đẹp “bền vững” đó, du lịch làng Nôm Hưng Yên cũng được nhiều người quan tâm tới. Dời xa phố thị, tới một làng quê nhỏ, bạn sẽ thấy vừa quen và lạ. Quen như ở chính ngôi nhà mình, lạ bởi một miền đất mới. Ở làng Nôm, vẻ đẹp truyền thông dung dị như cây đa, giếng nước, mái đình vẫn được gìn giữ. Qua cánh cổng làng rêu phong, khung cảnh bên trong làng mang đặc trưng của làng quê cổ Việt Nam. Các khu nhà nhỏ nhắn đều nhuốm màu thời gian, hoạt động thường nhật của người dân diễn ra bình lặng, yên ả. Cảm giác vô cùng thoải mái, thư thả. Du lịch Hưng Yên sẽ không trọn vẹn nếu du khách chưa ghé tới làng Nôm. Ngoài việc thưởng thức các món đặc sản Hưng Yên, tới làng Nôm còn là cơ hội cho du khách tìm hiểu về văn hóa con người nơi đây. Qua các kiến trúc và các điểm đến thú vị. Bước qua cánh cổng làng, chợ Nôm là địa điểm mà bạn có được trải nghiệm về chợ quê Việt Nam hoàn hảo nhất. Chợ Nôm trước đây là khu chợ sầm uất nhất vùng Văn Lâm. Khu chợ giản dị, không bê tông cốt thép như các chợ trung tâm thành phố. Một địa điểm hấp dẫn khách tại làng Nôm đó là chùa Nôm. Ngôi chùa còn có tên khác là Linh thông cổ tự. Theo nhiều tài liệu chữ Hán, chùa được xây dựng trên một đồi thông lớn, thời Hậu Lê. Tuy nhiên, qua phân tích các bức tượng đất nung trong chùa, thì nhiều nhà khảo cổ cho rằng ngôi chùa tồn tại khoảng ngàn năm rồi. Chùa Nôm có kiến trúc Á Đông đậm nét, điển hình của chùa cổ Việt Nam. Trong chùa lưu giữ hơn 100 pho tượng đất nung, điêu khắc tinh xảo. Ngôi chùa rất linh thiêng và được người dân làng Nôm trân quý. Những ngôi nhà ở làng Nôm cũng là nơi nhiều du khách tới khám phá. Nhiều ngôi nhà có tuổi đời 200 năm, kiến trúc độc đáo. Nền văn hóa Kinh Bắc chân thực và sống động qua từng nếp nhà.
Hưng Yên 1666 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Bán Nguyệt vẫn được xem như trái tim vàng của Hưng Yên. Đây là thắng cảnh mà người dân Hưng Yên nào cũng biết tới. Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên nằm ở trung tâm phố Hiến, nằm giáp đường Bạch Đằng, phía Đông nằm cạnh Bãi Sậy, phía Tây Nam là đê sông Hồng. Từ trung tâm thành phố chỉ cần đi khoảng 1km là tới đây. Du lịch Hưng Yên, ghé thăm hồ Bán Nguyệt, du khách sẽ được hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên yên ả, thanh bình. Tới đây, bạn được hít hà bầu không khí trong trẻo, dường như mọi mệt mỏi, u buồn đều tan biến, chỉ còn những khoảnh khắc yên bình đúng nghĩa của nó. Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên không chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng mà còn nằm ngay tại vùng đất linh thiêng, nơi có nhiều đình, miếu, đền, chùa. Trong đó có hai địa điểm tâm linh nổi tiếng nằm ngay tại ven hồ được nhiều du khách ghé thăm là đền Trần và đền Mẫu. Đây là hai địa danh mang nhiều dấu ấn lịch sử, nằm in bóng bên mặt hồ Bán Nguyệt tĩnh lặng. Đúng như cái tên gọi, nhiều người đã có thể hình dung được hình dáng của mặt hồ Bán Nguyệt Hưng Yên. Nơi đây giống như một vầng trăng khuyết ấn tượng. Vẻ đẹp của hồ được hiện lên vừa dân dã mà lại cực sống động trong từng lời hát, câu thơ, trong những tác phẩm nghệ thuật. Đến với hồ Bán Nguyệt, bạn sẽ được thỏa thích tận hưởng bầu không khí bình yên, trong lành rồi đọng trong tâm hồn biết bao cảm xúc khó quên. Hồ Bán Nguyệt chứa trong mình dòng nước lững lờ trôi, không gian yên ả, tĩnh lặng tạo nên khung cảnh nhẹ nhàng, nên thơ. Ban đầu, hồ là một đoạn của sông Hồng sót lại sau khi đổi dòng. Người dân nơi đây ví hồ như mảnh gương của Hằng Nga rớt xuống. Hồ dù không thông với bất cứ đâu nhưng nước trong hồ luôn đầy ắp, trong veo. Một bên là đê sông Hồng cùng với thảm cỏ xanh mướt, một bên là phố phường nhộn nhịp. Nếu bạn đang muốn tìm về một không gian yên tĩnh, gần gũi với thiên nhiên xanh mát ở Hưng Yên thì hồ Bán Nguyệt chính là địa điểm khó có thể bỏ qua. Bao quanh hồ Bán Nguyệt là rất nhiều cây xanh, cây nào cũng vươn mình ra rủ bóng xuống mặt hồ phẳng lặng. Mỗi khi có có gió thoảng qua, các hàng cây đung đưa tạo cho người ta cảm giác mộc mạc, yên bình biết bao. Giữa hồ là cột cờ cao 10m với lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, đây được xem là điểm nhấn đặc biệt giữa mặt hồ yên bình. Tham quan hồ Bán Nguyệt, du khách có thể nghỉ ngơi tại các ghế đá, vừa ngắm cảnh, vừa tận hưởng gió mát. Dạo quanh bờ hồ, bạn sẽ được nghe tiếng nước chảy nhè nhẹ, thả hồn vào làn gió đưa, cảnh tượng như một bản nhạc trữ tình. Trong cái nhịp sống hối hả, vội vã của cuộc sống hiện đại thì tới nơi đây, thời gian như được lắng đọng, tâm hồn như nhẹ nhõm hơn. Hồ Bán Nguyệt là nơi diễn ra rất nhiều sự kiện văn hóa, lễ hội thường niên của thành phố Hưng Yên. Vào năm 1905, tổng đốc Lê Hoan tổ chức cuộc thi vịnh Kiều tại ngay hồ với sự góp mặt của Nguyễn Khuyến và Chu Mạnh Trinh.Đến thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã cho xây đắp con đường nhỏ từ cửa đền Mẫu sang điếm canh, chia đôi hồ để triển khai các hoạt động chèo thuyền giải trí. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, con đường này bị phá bỏ để trả lại vẻ đẹp nguyên sơ cho hồ.
Hưng Yên 1989 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Grand World là một trong những địa điểm du lịch gần Hà Nội đang hot rần rần trong thời gian vừa qua. Grand World Hà Nội là tổ hợp vui chơi giải trí, ẩm thực và mua sắm đang “làm mưa làm gió" cộng đồng mê “xê dịch" trong thời gian vừa qua. Nơi đây được xây dựng theo lối kiến trúc độc đáo, ấn tượng, thu hút sự chú ý của du khách. Sức hút của Grand World Hà Nội này đến từ những góc phố lãng mạn, tái hiện lại khung cảnh nước Ý thơ mộng với dòng sông Venice hiền hoà. Bên cạnh đó, các khu phố ăn chơi mang đậm phong cách Hàn Quốc cũng làm giới trẻ “phát cuồng".
Hưng Yên 1062 lượt xem
Tháng 1 - Tháng 12
Nếu bạn là một người yêu thích những giá trị văn hóa thuần túy và khung cảnh miền quê Bắc Bộ thanh bình thì hãy một lần đến với làng hương xạ Cao Thôn (Hưng Yên) để tìm về những xúc cảm an yên và bình dị. Làng hương xạ Cao Thôn cách Hà Nội khoảng 40km đi xe thuộc địa phận xã Bảo Khê, Hưng Yên, nằm sát ngay đê tả sông Hồng với khung cảnh thiên nhiên trong lành, yên ả. Đây là cái nôi của nghề sản xuất hương lâu đời ở miền Bắc nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng thì nghề này được bà Đào Thị Khương khởi xướng rồi truyền lại cho dân trong làng. Hiện nay nghề làm hương tại Cao Thôn hoạt động suốt 4 mùa tạo việc làm cố định cho khoảng 600 lao động. Nghề làm hương không đòi hỏi nguồn nhân lực cao nên có thể tận thu được các lao động nhàn rỗi, hầu hết nếu được đào tạo thì ai cũng có thể làm được. Các cụ già thâm niên có kinh nghiệm sẽ truyền nghề lại cho con cháu vì thế nghề luôn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dường như trong tâm khảm của mỗi người dân nơi làm hương không chỉ là một cái nghề mà còn là trách nhiệm gìn giữ nét đẹp thuần túy của quê hương. Làng hương xạ Cao Thôn có trên 200 gia đình trong đó 170 hộ vẫn luôn duy trì nghề sản xuất hương lâu đời. Sản lượng hương hàng năm của làng Cao Thôn ước tính vào khoảng 10 triệu nén/năm. Với nhu cầu ngày càng cao của thị trường thì người dân đã tiến hành cải tiến mẫu mã, chất lượng để giúp sản phẩm ngày càng được tiêu thụ nhiều hơn. Ngày nay thị trường tiêu thụ hương đã được mở rộng hơn rất nhiều. Hương ở làng hương xạ Cao Thôn Hưng Yên luôn nổi tiếng với chất lượng và hương thơm đặc biệt được thị trường đón nhận nhiệt tình và xuất khẩu sang một số nước. Hương thơm đặc biệt không hề lẫn vào bất cứ vùng nào chính là nhờ và bí quyết sản xuất gia truyền. Chả biết bí quyết đó có gì nổi bật chỉ biết rằng bột hương làm từ thảo mộc và các vị thuốc Bắc. Khi thắp hương lên sẽ tỏa ra mùi dễ chịu, sảng khoái giúp tinh thần con người trở nên thoải mái, thư giãn hơn. Mỗi hộ gia đình ở làng Cao Thôn lại có một bí quyết thảo mộc riêng nên mùi hương có sự đa dạng. Ở mỗi một gia đình bạn lại có thể tìm được cho mình những mùi hương khác nhau tùy theo nhu cầu của mình. Làng hương xạ Cao Thôn sản xuất 3 loại chính là hương sào, hương nén và hương vòng. Ngoài ra còn có hương đen, hương quế,... Loại nào cũng được bàn tay người dân làm cẩn thận, khéo léo và cho ra những sản phẩm chất lượng. Nhờ hình thức đẹp, chất lượng tốt cùng hương thơm dễ chịu nên thị trường ngày càng đón nhận và mở rộng đến nhiều nơi. Khách tiêu dùng không chỉ dừng lại ở trong làng, trong tỉnh mà còn xuất khẩu đến một số nước từ Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia, Pháp, Đức,... Đây cũng là thành quả tuyệt vời cho những nỗ lực gìn giữ và bảo vệ nghề làm hương truyền thống của người dân làng Cao Thôn. Mỗi nén hương khi thắp lên thể hiện sự thiêng liêng, lòng biết ơn của thế hệ sau đối với cố can, ông bà cũng như lòng thành kính dâng lên ở đền, chùa,... Chính vì thế mà người trong làng luôn giữ gìn và phát triển nghề làm hương để giữ gìn giá trị văn hóa thuần túy lâu đời đồng thời muốn dạy dỗ con cháu phải biết hướng về quê hương, cội nguồn của mình. Nhìn những nén hương tuy khá đơn giản, mộc mạc nhưng công đoạn từ pha chế bột, se, nhúng, phơi, đảo đều được thực hiện chi tiết, tỉ mỉ mang trong đó tâm huyết và cái tâm trong sáng của người dân. Sau khi lựa chọn kĩ càng các loại thảo mộc, cân đủ lượng để mùi vị được đảm bảo tốt nhất thì sẽ mang đi xay thành bột mịn. Tiếp tục trộn cùng dây keo để gắn kết bột lại. Từ bột hương đã dính muốn thành hương cần có tăm hương. Theo kinh nghiệm để lại của nhiều người thợ giàu kinh nghiệm tại làng hương xạ Cao Thôn thì tăm hương phải được chọn kỹ từ cây nứa bánh tẻ. Công việc này sẽ giúp hương có độ dẻo dai, độ cong. Chiều dài của tăm hương khoảng 35 - 40cm. Để dùng tăm hương se thì phải chẻ nhỏ, ngâm, phơi rồi đi nhuộm màu ở chân. Việc nhuộm đỏ không chỉ khiến cho nén hương được đẹp mà còn đánh dấu phần bột được dùng trên nén. Tất cả các công đoạn trên hầu hết được làm bằng tay. Sau khi se hương xong thì thợ sẽ mang đi phơi. Công đoạn này cũng cần nhiều tâm sức bởi thời tiết là yếu tố khá quan trọng. Thường thì người dân sẽ mang hương ra phơi khi trời lờ mờ sáng để bắt kịp mặt trời. Nếu trời nắng to thì chỉ cần phơi từ sáng đến chiều là được. Vào những ngày thời tiết ẩm ướt thì hương rất dễ bị mốc nên người dân sẽ phải khá vất vả để phơi hương đúng mùi thơm, thời gian hoàn thành sẽ phải mất khoảng 4 - 5 ngày. Những năm gần đây, làng hương xạ Cao Thôn đã trở thành địa chỉ nổi bật trong hành trình du lịch Hưng Yên. Đến với Cao Thôn, bạn sẽ được đắm mình trong sắc đỏ vàng rực rỡ của những "bó hoa" hương thoang thoảng mùi hương dịu nhẹ. Cảm giác ấy lại yên bình hơn khi đứng giữa cảnh sắc làng quê mộc mạc, yên ả. Đi bất cứ ngõ ngách, làng xóm nào du khách đều bắt gặp được ở các khoảng sân trước nhà mỗi gia đình đều trải đều những bó hương phơi. Ngoài ra khi đến làng hương xạ Cao Thôn Hưng Yên bạn còn được trải nghiệm nhiều điều hấp dẫn như tìm hiểu về quá trình sản xuất, tự tay làm nên những nén hương và mang sản phẩm về. Cho dù làng nghề hương xạ Cao Thôn Hưng Yên trải qua biết bao giai đoạn thăng trầm nhưng ngày nay vẫn đang tồn tại mãnh liệt góp phần thúc đẩy kinh tế, du lịch miền quê yên ả ngày càng đi lên.
Hưng Yên 78 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 11
Chùa Phúc Lâm Hưng Yên - nơi được ví như "chùa vàng Thái Lan" của Việt Nam là một điểm đến tâm linh đầy hấp dẫn nằm cách trung tâm Hà Nội chưa đầy 1 giờ di chuyển. Với kiến trúc độc đáo và vẻ ngoài rực rỡ màu vàng, ngôi chùa này đã chinh phục không chỉ tín đồ Phật Giáo mà còn cả những ai yêu thích sự thanh tịnh của nơi tôn nghiêm này. Chùa Phúc Lâm là một ngôi chùa cổ hơn 100 năm tuổi nằm cách Hà Nội khoảng 40km chính là một trong những điểm đến tâm linh đầy cuốn hút. Được xây dựng vào thế kỷ 17 và phải trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, chùa Phúc Lâm từ một am tự nhỏ đã trở thành công trình kiến trúc lộng lẫy như hiện nay. Ngôi chùa này còn được mệnh danh là "chùa vàng Thái Lan" bởi vẻ ngoài rực rỡ sắc vàng, mang đậm nét kiến trúc Phật giáo của xứ chùa vàng. Chùa Phúc Lâm rộng lớn nằm trên vùng đất rộng khoảng 4ha với khuôn viên rộng rãi, vô số tiểu cảnh xanh mát và hồ nước tĩnh lặng tạo nên một không gian thanh bình. Với diện mạo "dát vàng" nổi bật giữa những cánh đồng trù phú, chùa Phúc Lâm tạo nên không gian tôn nghiêm, thanh tịnh cho bất kỳ ai mỗi khi đến đây. Chùa Phúc Lâm nổi tiếng với vẻ ngoài rực rỡ sắc vàng mang đậm nét kiến trúc Phật giáo của xứ chùa vàng. Kiến trúc nơi đây rất độc đáo cùng nghệ thuật chạm trổ tinh xảo đã khiến chùa Phúc Lâm ghi được dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bất kỳ ai có dịp khoác balo đến đây chiêm bái. Hơn nữa, chùa Phúc Lâm còn được đánh giá là một trong những tượng đài của nghệ thuật kiến trúc và tôn giáo, mang đậm sự tinh tế và thiêng liêng. Kết cấu của chùa Phúc Lâm gồm hai tòa chính là tòa Tiền đường và tòa Thượng điện. Hai tòa nhà này được xây dựng theo kiểu chữ Công, có chiều cao 15m, rộng 20m, được dát vàng hoàn toàn. Điều này tạo nên vẻ ngoài vô cùng rực rỡ, lộng lẫy, khiến ngôi cổ tự này nổi bần bật giữa khung cảnh thiên nhiên xung quanh. Không chỉ vậy, chùa Phúc Lâm còn có bốn tòa tháp cao vút được chạm khắc những hình rồng phượng cực kỳ tinh xảo. Những cánh sen lớn cũng được trang trí trên lan can tầng hai tạo nên vẻ đẹp thanh tao, trang nhã. Toàn bộ mái chùa được chạm khắc hình rồng cực kỳ sống động, mang đậm nét nghệ thuật của người Việt. Những con rồng uốn lượn mềm mại, uyển chuyển giúp toàn bộ không gian ngôi chùa là một tổng thể hài hòa và đầy cân đối. Với lối kiến trúc độc đáo cùng nghệ thuật chạm trổ tinh xảo, chùa Phúc Lâm không chỉ là một địa điểm tâm linh linh thiêng mà còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Thời điểm lý tưởng để tham quan chùa Phúc Lâm là vào mùa xuân và mùa thu: Mùa xuân: Thời tiết mát mẻ, cây cối đâm chồi nảy lộc, tạo nên khung cảnh tươi mới và thanh tịnh. Đây cũng là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội, bạn có thể tham gia các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng. Mùa thu: Thời tiết dễ chịu, không quá nóng bức, thích hợp cho việc tham quan và chụp ảnh. Đây cũng là khoảng thời gian diễn ra lễ Vu lan báo hiếu nên khách hành hương đến chùa rất đông. Chùa Phúc Lâm như một tác phẩm nghệ thuật dát vàng, lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Kiến trúc độc đáo với những đường nét tinh xảo, hoa văn tỉ mỉ mang đậm phong cách Á Đông, khiến du khách không khỏi trầm trồ. Mỗi chi tiết nhỏ đều được chăm chút tỉ mỉ, tạo nên một tổng thể hài hòa và tráng lệ. Không chỉ có kiến trúc chính điện, các công trình phụ như nhà thờ tổ, nhà khách, hay những bức tượng Phật cũng được dát vàng nguy nga. Những chi tiết này cũng góp phần tạo nên một quần thể chùa được du khách ví von giống như một “Thái Lan thu nhỏ” ngay giữa lòng Hưng Yên. Khuôn viên chùa Phúc Lâm rộng lớn với nhiều cây xanh, hồ nước, tạo nên một không gian xanh mát, trong lành. Du khách có thể tản bộ quanh chùa, ngắm nhìn cảnh vật và tận hưởng không khí trong lành. Khung cảnh thanh tịnh, yên bình của ngôi chùa dát vàng Hưng Yên là nơi lý tưởng để du khách tìm về chốn tâm linh, gạt bỏ những muộn phiền của cuộc sống. Tiếng chuông chùa ngân vang, làn khói hương trầm quyện hòa cùng hương sen tạo nên một không gian tĩnh lặng, giúp du khách thư thái tâm hồn. Tại chùa Phúc Lâm, du khách có thể thành tâm dâng hương, cầu nguyện cho gia đình, bạn bè được bình an, hạnh phúc và may mắn. Không khí trang nghiêm, thành kính tại đây sẽ giúp bạn gửi gắm những mong ước của mình. Ngoài ra, du khách còn có thể tham gia các nghi lễ truyền thống của Phật giáo được tổ chức tại chùa như lễ Lồng Tông, Phật đản, Vu lan báo hiếu,… Vào các ngày mùng 1 hay Rằm,chùa cũng tổ chức nhiều hoạt động tụng kinh, cầu an giúp du khách tìm thấy sự an lạc trong tâm hồn. Chiều tà là thời điểm lý tưởng để ngắm nhìn chùa Phúc Lâm với những ánh nắng cuối ngày nhuộm vàng mái chùa, tạo nên một khung cảnh lãng mạn và huyền ảo. Đây cũng là lúc du khách có thể chụp những bức ảnh đẹp làm kỷ niệm. Khi màn đêm dần buông, ánh đèn lồng lung linh càng làm tăng thêm vẻ đẹp lung linh của ngôi chùa. Tất cả tổng hòa tạo nên một không gian huyền ảo, thu hút du khách ghé thăm. Với kiến trúc độc đáo và màu vàng óng ánh, chùa Phúc Lâm được ví như một “Thái Lan thu nhỏ” ngay giữa lòng Hưng Yên. Đây là địa điểm lý tưởng để du khách check-in sống ảo và có những bức ảnh đẹp để khoe với bạn bè. Nhiều góc chụp đẹp tại chùa sẽ giúp bạn có những bức ảnh ấn tượng, từ những bức ảnh chân dung lung linh đến những bức ảnh toàn cảnh. Chùa Phúc Lâm không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với kiến trúc độc đáo và không gian thanh tịnh. Còn chần chừ gì mà không đến tham quan, khám phá chùa ngay hôm nay!
Hưng Yên 83 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12
Du lịch Hưng Yên ngoài Phố Hiến, chùa Nôm… du khách nhất định đừng bỏ qua làng Thủ Sỹ. Đây là một ngôi làng bình dị, mang đậm dấu ấn của thời gian và nổi tiếng với nghề đan đó. Du khách đến đây sẽ có dịp được tìm hiểu nghề đan đó cũng như check in những bức ảnh đẹp về một làng quê yên bình. Cách Thủ đô Hà Nội khoảng 60km, có một ngôi làng nổi tiếng với nghề đan đó có truyền thống hơn 200 tuổi chính là làng Thủ Sỹ. Làng Thủ Sỹ có khoảng hơn 500 người dân chuyên làm nghề đan đó, rọ – đây là những dụng cụ để bắt tôm, cá. Ngoài nghề đan đó, rọ, người dân ở đây còn làm các dụng cụ mây tre đan như dậm, đơm, lờ…Ngoài nổi tiếng với nghề đan đó, làng Thủ Sỹ còn gây tượng với du khách ở những ngôi nhà mang nét đẹp cổ kính của làng quê Bắc Bộ. Đây chắc chắn sẽ là điểm du lịch gần Hà Nội lý tưởng cho du khách bốn phương vào mỗi dịp cuối tuần. Trải nghiệm đầu tiên khi đến làng Thủ Sỹ du khách không nên bỏ lỡ chính là ghé thăm nhà cụ Lương Sơn Bạc để tìm hiểu về nghề đan đó. Cụ Lương Sơn Bạc dù đã hơn tuổi “bát tuần” nhưng ngôi nhà cụ đang ở vẫn lưu giữ lại những nét đẹp riêng của nghề đan đó. Đây là ngôi nhà cấp 4 đã được gần 200 năm tuổi và đến đây bạn sẽ được tận mắt chứng kiến những sản phẩm đó được làm ra như thế nào. Trong căn nhà nhỏ của cụ còn rất nhiều bức ảnh về những nơi mà cụ đã đi qua để giới thiệu về sản phẩm đan đó. Sau khi tìm hiểu về quy trình làm nghề đan đó tại nhà cụ Lương Sơn Bạc, du khách sẽ được trải nghiệm tự tay đan cùng người dân. Ở làng Thủ Sỹ từ những cụ già đến trẻ em 5 – 6 tuổi cũng có thể đan được chiếc đó đẹp. Chính vì vậy, bạn cũng có thể bắt tay vào đan đó dựa trên sự hướng dẫn tỉ mỉ của những người dân trong làng. Làng Thủ Sỹ Hưng Yên không chỉ là điểm dừng chân để du khách tìm hiểu nghề đan đó mà còn là nơi để bạn tận hưởng không gian yên bình của làng quê. Nơi đây có những ngôi nhà mái ngói cũ kỹ, có những lũy tre làng… tất cả tạo nên một khung cảnh miền quê thanh bình. Du khách có thể đi dạo quanh làng để xem hình ảnh những người dân ngồi đan đó hay hình ảnh những đóa hoa bằng tre nứa vô cùng độc đáo và bắt mắt. Đến làng nghề Thủ Sỹ, du khách có thể mua các sản phẩm tại ngôi làng này để về trang trí mỹ thuật hoặc nội thất cho gia đình mình. Ngoài ra, những sản phẩm mang nét đẹp truyền thống, văn hóa này bạn cũng có thể làm quà tặng cho bạn bè, người thân rất ý nghĩa. Ngoài ra bạn có thể ghé thăm các địa điểm du lịch nổi tiếng gần làng nghề Thủ Sỹ như : Chùa Cổ Am, chùa Chuông, đền Mẫu. Đến với làng Thủ Sỹ, du khách sẽ được hòa mình vào không gian làng quê thanh bình, yên ả, với những mái nhà ngói đơn sơ, những con đường làng quanh co và những hàng tre xanh rì rào trong gió. Từng tiếng chẻ tre, tiếng đan đó vang vọng khắp xóm làng tạo nên một bản giao hưởng mộc mạc, bình dị. Đây chắc chắn sẽ là điểm dừng chân lý tưởng của du khách trong chuyến du lịch về quê hương nhãn lồng.
Hưng Yên 20 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.
Cuộc sống bận rộn đôi khi khiến bạn quên mất việc thư giãn. Hãy đi du lịch để tìm lại sự cân bằng và niềm vui. Vị trí bên lề sông Hồng đã giúp làng hoa Xuân Quan nổi tiếng trong hơn 10 năm, không kém cạnh với những vùng trồng hoa lớn như Mê Linh, Tây Tựu. Hơn 1 thập kỷ trước, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, dù là vùng nông thôn chủ yếu canh tác lúa, ngô. Thế nhưng, nhờ vào chính sách khuyến khích nông nghiệp mới, làng hoa Xuân Quan đã nổi lên là điểm trồng hoa trọng điểm của tỉnh Hưng Yên và các tỉnh lân cận. Xã Xuân Quan thị trấn với hơn 60% diện tích đất chuyên trồng hoa và cây cảnh, có 900 hộ dân chuyên nghiệp. Những hộ nông dân này, đặc biệt là những người tiên phong trong ứng dụng công nghệ cao, đang tạo ra thu nhập cao từ nghề trồng hoa. Nghề trồng hoa cây cảnh không chỉ mang lại thu nhập mà còn tạo nên những mùa xuân thịnh vượng cho cộng đồng. Làng hoa Xuân Quan đặc trưng với đa dạng loại hoa, từ hoa hồng ngoại, pansy, đèn lồng, thược dược, ly, đào, đỗ quyên, trà cổ, đồng tiền, cẩm chướng đến trạng nguyên, hải đường... Mỗi loài hoa mang đến một vẻ đẹp riêng, làm tôn lên vẻ độc đáo của làng hoa này. Xuân Quan khác biệt với các làng hoa ở vùng Bắc bởi phong cách trồng hoa trong chậu treo, thay vì trên đất như thường lệ. Phương pháp này không chỉ hiệu quả kinh tế cao mà còn tạo nên vẻ đẹp lôi cuốn, khiến du khách không chỉ choáng ngợp vào dịp Tết Nguyên đán mà còn mọi thời điểm trong năm khi những giỏ hoa, cây cảnh màu sắc treo lủng lẳng đẹp mắt. Nhiều nhà vườn tại làng hoa Xuân Quan thời gian gần đây đã đầu tư vào các giống hoa hồng quý hiếm, có giá trị cao như: hồng Vân Khôi, hồng cổ Sapa, hồng đổi màu, hồng Sa Đéc, hồng trứng, hồng đào… Các loại hoa này đòi hỏi vốn đầu tư lớn và kỹ thuật phức tạp, nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Khi mùa thu về, người dân ở làng hoa không cần phải đến chợ để bán hoa, mà các tiểu thương lại đến tận vườn để mua số lượng lớn. Nhiều gia đình từ việc trồng hoa có thu nhập ấn tượng, lên đến 1,5 đến 2 tỷ đồng mỗi năm. Đồng thời, những người trồng hoa cũng tạo ra việc làm ổn định cho nhiều lao động. Khi đến làng hoa Xuân Quan vào ngày Tết, du khách sẽ bị cuốn hút bởi bức tranh sôi động và phấn khích. Xuân Quan đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong mỗi kỳ nghỉ Tết, mỗi lần xuân về. Nơi này còn rất gần với làng gốm Bát Tràng, giúp thuận tiện giao thông. Du khách có thể ghé Bát Tràng để mua chậu, lọ hoa, sau đó đến Xuân Quan để chọn hoa, tạo nên một không khí Tết tràn ngập sắc màu. Nếu có dịp ghé thăm huyện Văn Giang , Hưng Yên bạn đừng quên ghé thăm làng hoa Xuân Quan này nhé!
Hưng Yên 18 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.
Chùa Thái Lạc, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm còn có tên gọi là Pháp Vân Tự. Xã Lạc Hồng có 4 ngôi chùa thờ 4 vị thần trong Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là các vị thần mây, mưa, sấm, chớp. Trong đó chùa Thái Lạc thờ thần Pháp Vân. Chùa Thái Lạc được xây dựng từ thời nhà Trần và đã trải qua 4 lần tu sửa vào đầu thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Chùa được xây dựng theo kiểu nội công, ngoại thất, qua cổng tam quan là khu thờ chính. Chùa được xây dựng trên gò đất cao, dân gian vẫn thường gọi là lưng con rùa. Chùa hiện vẫn còn giữ 3 tấm bia cổ ghi lại các quá trình trùng tu, tôn tạo. Cho đến nay, trên cả nước chỉ còn 3 công trình bằng gỗ từ thời nhà Trần, là chùa Dâu ở Bắc Ninh, chùa Bối Khê ở Hà Nội và chùa Thái Lạc. Trên các cồn, các đố của bộ vì, và trên các cột đấu có nhiều mảng chạm khắc lớn mang dấu ấn mỹ thuật thời Trần. Thượng điện chùa Thái Lạc được đánh giá là một trong những công trình gỗ cổ nhất Việt Nam từ thế kỷ 14. Chùa Thái Lạc trước kia có khoảng 20 bức phù điêu chạm trổ hay còn gọi là các bức cồn, nhưng nay chỉ còn 16 bức vẫn được giữ tương đối nguyên vẹn. 16 bức chạm trổ được gắn giữa các xà dọc thượng và xà dọc hạ có tác dụng che kín viền trang trí. 16 bức chạm trổ được sắp xếp từ gian ngoài vào gian trong. Những bức chạm nhiều đề tài với kỹ thuật nổi bong. Những nét chạm khắc bằng đục và các thớ gỗ tạo nên sự mềm mại uyển chuyển, huyền ảo như những bức tranh vẽ. Có thể nói 16 bức phù điêu này là những bức chạm có một không hai. Không chỉ vậy, mỗi cột, kèo, những chữ viết còn gìn giữ cho đến ngày nay cũng nói lên sự cổ kính và giá trị của thời gian, lịch sử, sự linh thiêng của chùa Thái Lạc. Người dân trong vùng truyền tai nhau, chùa Thái Lạc rất linh thiêng, nếu ai đi qua không bỏ mũ nón thể hiện sự thành kính sẽ bị ngã, hoặc không xuống ngựa khi qua chùa cũng sẽ bị ngã ngựa. Chùa Thái Lạc được bài trí theo kiểu tiền Thần, hậu Phật, nghĩa là tượng Tứ Pháp được đặt trước tượng Phật. Tượng thần Pháp Vân được đặt ở trung tâm của tòa tam bảo, là bức tượng cổ có niên đại từ thời Hậu Lê. Chùa vẫn giữ được hai bức tượng Tam thế Phật tổ, đại diện cho quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là những bức tượng mang phong cách điêu khắc thời Nguyễn. Với giá trị về mặt lịch sử, thời gian, sự linh thiêng của ngôi cổ tự, chùa Thái Lạc đã và đang trở thành điểm đến tâm linh nổi bật của Hưng Yên. Vì thế chùa được công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2018. Nguồn: Báo Hưng Yên
Hưng Yên 1798 lượt xem
Đền Đa Hòa còn có tên gọi là đền Chính Đa Hoà, thuộc địa phận thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân công chúa. Đền nhìn ra sông Hồng và bãi Tự Nhiên, tương truyền là nơi tác thành mối tình Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Đền Đa Hòa được xây dựng từ lâu, công trình hiện nay được hưng công cuối thế kỷ 19, từ 1884 đến 1886 do Chu Mạnh Trinh, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, quan Án sát tỉnh Hưng Yên đảm trách. Công trình nổi tiếng với quy mô đồ sộ, ý tưởng kiến trúc độc đáo, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên. Khu đền bao gồm 18 công trình lớn nhỏ: nhà bia, gác chuông, gác khánh, ngọ môn, nhà tiền tế, tòa thiêu hương, đệ nhị cung, đệ tam cung, hậu cung và các nhà thảo xá, thảo bạt, nhà ngựa, nhà pháo. Các mái đền tạo dáng hình thuyền rồng cách điệu. Nếu từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy các nóc đền, tổ hợp lại trông giống như một đoàn thuyền đang dập dìu trên sông nước. Chu Mạnh Trinh có ý tạo hình khu đền giống như đoàn du thuyền của nàng Tiên Dung mười tám tuổi con gái vua Hùng thứ 18 đang du ngoạn trên sông. Đền Đa Hòa còn giữ được nhiều di vật quý giá. Tượng đức thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân đúc bằng đồng, tầm vóc cỡ như người thật. Ba cỗ ngai thờ Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân, làm bằng gỗ, bố cục cân đối, đầu ngai chạm rồng trong tư thế quay đầu vào. Ngai có niên đại cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, được coi là cổ nhất của loại hình này hiện còn tìm thấy ở nước ta. Hội đền Đa Hòa tổ chức từ ngày 10-12/2 âm lịch. Ngày chính hội được mở đầu bằng đám rước thần thành hoàng 8 làng thuộc tổng Mễ xưa về đền chính (gồm làng Mễ Sở, Đa Hòa, Bằng Nha, Phú Thị, Phú Trạch, Thiết Trụ, Nhạn Tháp). Mỗi đám rước đều có cờ, chiêng trống, bát bửu, lộ bộ, phường bát âm, kiệu bát cống, múa sinh tiền, rồng, sư tử. Đám rước của 8 làng gặp nhau chiêng trống vang rền, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước. Ngày hôm sau là cuộc rước nước. Đám rước gồm kiệu nước, kiệu thành hoàng của 8 làng tổng Mễ xưa lên thuyền ra giữa dòng sông Hồng làm lễ lấy nước về đền tế lễ. Cả khúc sông tưng bừng tiếng trống chiêng rộn rã, nhạc bát âm rộn ràng. Lễ hội Đa Hòa tổ chức múa rồng, vật lão, cờ người. Múa rồng, có từ 6-8 con rồng. Động tác múa của rồng theo sự điều khiển của người cầm quả cầu và tiếng trống khẩu. Rồng múa vòng quanh, uốn lượn nhịp nhàng. Khi trống đánh chậm thì múa chậm, khi trống đánh nhanh thì múa nhanh, sôi nổi. Rồng múa đơn, múa từng đôi hoặc tất cả rồng các làng đều múa, trình diễn những động tác điêu nghệ của rồng làng mình. Tham gia vật lão là các cụ già 70-80 tuổi, trong trang phục ngày hội, đầu chít khăn điều, mặc áo xanh, áo vàng, thắt lưng đỏ, vàng biểu diễn các động tác vật tượng trưng. Cuộc biểu diễn này gợi mọi người tưởng nhớ tới công ơn của Chử Đồng Tử - Tiên Dung đã cứu nhiều người khỏi bệnh tật và để chứng tỏ mình hoàn toàn khoẻ mạnh, họ kéo nhau ra sân vật nhau, làm trò cho ông bà xem. Cờ người, được tổ chức tại sân đền. Có 32 quân chia làm 2 phe, một phe nam, một phe nữ. Người đóng vai tướng sĩ, quân cờ đều là trai chưa vợ, gái chưa chồng. Đẹp nhất là vai tướng ông, tướng bà. Kỳ thủ các nơi về đọ tài cao thấp. Năm 1962 đền Đa Hòa được nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên 1791 lượt xem
Chùa Nễ Châu có tên chữ là. “Thụy Ứng tự”, gắn liền với tên tuổi bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh, vợ vua Lê Đại Hành. Chùa tọa lạc tại thôn Nễ Châu, xã Hồng Nam, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Tương truyền, chùa Nễ Châu được khởi dựng từ thời Tiền Lê (thế kỷ thứ 10) với quy mô ban đầu còn nhỏ. Khi nghĩa quân Lê Hoàn đóng quân ở đây để chống giặc Tống ngoại xâm, đã cho xây dựng một ngôi chùa mới trên đất làng Phương Cái (ngày nay là thôn Nễ Châu), thay thế cho ngôi chùa cũ đã đổ nát. Khi chùa xây xong, dân làng Phương Cái không đủ sức trả công thợ. Lê Hoàn truyền rằng “Nếu làng nào đủ tiền trả công thợ thì chùa thuộc về làng đó”. Bấy giờ, dân làng Nễ Châu nhờ đến sự giúp đỡ của gia đình bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh nên đã trả được công thợ, chùa thuộc về làng Nễ Châu từ đó. Lê Hoàn cảm mến Ngọc Thanh xinh đẹp nên đã lấy bà làm vợ. Trong thời gian này, bà đã đóng góp công sức, giúp đỡ nghĩa quân cất giấu lương thảo, chăm lo hậu cần. Đánh tan giặc, Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, nhưng bà đã không theo nhà vua về Hoa Lư mà xin ở lại quê hương để chăm sóc cha mẹ già yếu. Sau khi bà mất, nhà vua đã cho lập đền thờ ở đối diện chùa Nễ Châu và sắc phong làm “Ngọc Thanh Hoàng hậu”. Trải qua các triều đại, chùa Nễ Châu đều được tôn tạo, lần gần đây là vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại nguyên niên (1926). Đến năm 1992, chùa Nễ Châu đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Vào năm 2005, trong khuôn khổ dự án tu sửa di tích cổ Phố Hiến giai đoạn II, chùa Nễ Châu tiếp tục được phục dựng theo đúng nguyên bản. Chùa xây theo kiểu “Nội công ngoại quốc” với nhiều hạng mục, trong đó có 3 hạng mục nổi bật là: Tiền đường, Thượng điện và hai dãy hành lang. Nhà Tiền đường của chùa Nễ Châu gồm 7 gian, được kiến trúc theo kiểu vì kèo đơn giản. Ở hai bên đầu hồi có hai cột đồng cao, trên đỉnh cột đắp hai con nghê quay đầu vào nhau. Phía trên, ở chính giữa mái nhà có đắp nổi 3 chữ Hán “Thụy Ứng Tự”. Toàn bộ hoa văn trang trí ở nhà Tiền đường đều được chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt và hoa lá cách điệu, mang đậm nét văn hóa thời Lê. Nhà Thượng điện kiến trúc giống Tiền đường. Bên trong Thượng điện đặt các tượng thờ rất đẹp, có giá trị nghệ thuật điêu khắc cao, trong đó nổi bật là bộ tượng Tam Thế và tượng Tuyết Sơn. Bộ tượng Tam Thế được tạc bằng gỗ, trong tư thế ngồi thiền trên tòa sen, khuôn mặt mỉm cười đôn hậu. Các mặt tòa sen đều được khắc hình hoa lá và một số tích truyện của nhà Phật. Đáng chú ý là cả ba bức tượng Tam Thế đều dựa lưng vào một lá gỗ có hình dáng giống như bài vị. Khác với bộ tượng Tam Thế, tượng Tuyết Sơn được tạc trong tư thế ngồi suy tư, hai tay bó gối. Đây là pho tượng cổ có từ thời Lê, hiện thân của Đức Phật Thích Ca giai đoạn tu luyện trên núi Tuyết Sơn. Hai dãy hành lang của chùa Nễ Châu nằm đối xứng, có hàng trăm pho tượng với các tư thế, vẻ mặt khác nhau, phác họa đầy đủ các tích truyện của nhà Phật. Riêng đền thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh (nằm đối diện chùa Nễ Châu) có kiến trúc kiểu chữ Đinh bao gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung. Đền có kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen, chạm khắc hoa văn cách điệu, mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Hàng năm, chùa Nễ Châu thường tổ chức tế lễ vào các ngày 15 tháng giêng và ngày 15.8 âm lịch để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1744 lượt xem
Đền Mây thuộc địa phận thôn Đằng Châu - phường Lam Sơn - Thị xã Hưng Yên - tỉnh Hưng Yên. Đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át tức Phạm Bạch Hổ, vị tướng tài ba của nước ta trong thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ (đầu thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ 11). Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910), thân phụ là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang (nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu - Kim Động - Hưng Yên (nay là Xích Đằng - Lam Sơn - Hưng Yên). Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên đã đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn. Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử Giao Châu; đánh bại Trần Báo do Đường Minh Tông cử sang cứu viện, rồi xưng tiết độ sứ. Khi Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chết chủ tướng, đoạt chức rồi cầu cứu quân Nam Hán xâm lược nước ta. Phạm Bạch Hổ đã phối hợp với Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi Vua, Phạm Bạch Hổ cùng Đỗ Cảnh Thạc lật đổ Dương Tam Kha đưa Ngô Xương Văn, con của Ngô Quyền lên ngôi, thời kỳ này được gọi là Hậu Ngô Vương. Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt trong nước nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong mười hai sứ quân thời đó. Năm 968 Vạn Thắng vương - Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền, đã dẹp "Loạn 12 sứ quân". Phạm Bạch Hổ đem quân quy thuận được phong là thân vệ Đại tướng quân. Ngày 16/11 năm Nhâm Thân (972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc tối linh thần”. Tương truyền thần rất linh thiêng. Khi xưa Vua Lê Ngoạ Triều (tức Lê Long Đĩnh) khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm gặp mưa to, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”. Vương bèn nói to: "Nếu thần khiến được mưa gió thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ. Trải qua thời gian, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đền được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung từ và hậu cung. Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài. Tiền tế được trang trí bằng hệ thống cửa võng, đại tự, hoành phi, câu đối. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ. “Thái Bình vương Phủ”. Các gian bên treo các bức hoành phi . Nối với tiền tế là 5 gian trung từ được làm song song nhưng nền nhà cao hơn. Hai bên cột treo đôi câu đối ca ngợi công lao của tướng quân. Hậu cung gồm 3 gian, kết cấu vì chồng rường đơn giản, không chạm trổ hoa văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng, hầu hết được tạo tác từ thời Lê, hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý. Hàng năm, lễ hội Đền Mây được tổ chức ở hai thời điểm khác nhau: Tháng Giêng từ ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày sinh; từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày hoá của tướng quân Phạm Bạch Hổ. Trong lễ hội ngoài tế lễ trước đây còn diễn ra phần hội với nhiều trò chơi truyền thống mang đậm nét văn hoá của cư dân Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân, hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ… Năm 1992, Bộ văn hoá thông tin đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1735 lượt xem
Đền Kim Đằng nằm ở trung tâm thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Xưa kia, nơi đây là trang Đằng Man, tổng An Tảo, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam thượng. Tương truyền, đền được xây dựng trên mảnh đất Đinh Điền chọn làm đại bản doanh với thế "Thanh Long, Bạch Hổ chầu về". Cuốn "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: Tướng quân Đinh Điền quê ở Gia Phương - Gia Viễn - Ninh Bình, là con nuôi của Đinh Công Trứ (thân phụ Đinh Bộ Lĩnh). Từ thuở nhỏ ông đã làm bạn "cờ lau tập trận" của Đinh Bộ Lĩnh, lớn lên đã cùng Nguyễn Bặc, Lu Cơ, Trịnh Tú và Đinh Bộ Lĩnh kết nghĩa anh em. Khi đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, mấy anh em bằng hữu đã theo sứ quân Trần Lãm chiếm giữ vùng Bố Hải (nay thuộc Tiền Hải - Thái Bình). Khi đã trở thành Vạn Thắng Vương, Đinh Bộ Lĩnh giao cho Đinh Điền chỉ huy 10 đạo quân đi thu phục các sứ quân khác. Khi đến trang Đằng Man, thấy địa thế đẹp, ông liền cho dựng đại bản doanh và chọn 3 người họ Phan, họ Phạm và họ Nguyễn ở trang Đằng Man làm gia tướng và chọn người con gái họ Phan tên là Môi Nương làm vợ. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư - Ninh Bình. Đến năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị kẻ phản tặc Đỗ Thích giết hại, Đinh Điền cùng các quan đại thần tôn Đinh Toàn (khi đó mới 6 tuổi) lên ngôi vua, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu. Khi quân Tống lăm le xâm lược biên giới phía Bắc, đất nước đứng trước họa ngoại xâm, quân sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, thay cho Đinh Toàn khi đó còn quá nhỏ. Không chấp nhận việc đó, quan Ngoại giáp Đinh Điền và Định quốc công Nguyễn Bặc đang trấn giữ Châu Ái cùng Phạm Hạp dấy binh, đưa quân từ Thanh Hóa ra đánh Hoa Lư nhưng không thành, Đinh Điền lui quân về trại Đằng Man. Ngày 17.11 (âm lịch) năm Kỷ Mão (979), Đinh Điền và phu nhân mất, nhân dân trại Đằng Man đã lập đền thờ trên nền doanh trại, 3 gia tướng của Đinh Diền cũng được phối thờ tại đây. Trải qua thời gian, ngôi đền đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, Đền Kim Đằng còn giữ được nhiều nét kiến trúc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Năm 1997, đền đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin xếp hạng là di tích lịch sử. Đền có kiến trúc kiểu chữ đinh, bao gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung. Tòa tiền tế được làm kiểu chồng diềm 2 tầng, 8 mái; các đao mái đắp nổi đầu rồng; trên đường bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, 2 đầu kìm đắp "lưỡng ngư" (2 con cá chép); mái lợp bằng ngói vẩy rồng, phần cổ diềm đắp 4 chữ "Đinh Đại Linh Từ" bằng chữ Hán. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu quá giang đơn giản, được nâng đỡ bằng hệ thống cột gỗ lim vững chắc. Nối tiếp với tiền tế là 3 gian hậu cung lợp ngói mũi. Kết cấu vì kèo kiểu con chồng, đấu sen, trên các con rường được trạm nổi hình hoa lá cách điệu. Gian trung tâm đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền... Ngoài ra trong di tích còn lưu giữ một số bức hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của thần. Hàng năm, lễ hội Đền Kim Đằng được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài tổ chức rước kiệu còn có các trò chơi dân gian truyền thống như: chọi gà, múa lân, hát nói, hát trống quân, múa rối nước... để góp phần dựng xây tình đoàn kết xóm thôn, giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Báo Hưng Yên
Hưng Yên 1709 lượt xem
Văn miếu Xích Đằng nằm cạnh con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Sở dĩ Văn miếu có tên như vậy là do được khởi dựng trên đất làng Xích Đằng từ thế kỷ 17 (thời Hậu Lê) với qui mô ban đầu nhỏ, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), triều Nguyễn, được xây dựng lại có quy mô như hiện nay trên nền của chùa Nguyệt Đường( chùa Xích Đằng). Với hơn 400 năm tồn tại, ghi danh 161 vị đại khoa, văn miếu Xích Đằng đã thể hiện tinh thần hiếu học của con người trên mảnh đất. "Nhất Kinh kỳ, Nhì Phố Hiến". Thế kỷ 17 dưới thời vua Lê Thánh Tông, để chấn hưng lại đạo Nho, triều đình đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám ở các trấn. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có văn miếu Xích Đằng ( hay còn có tên là văn miếu Sơn Nam) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn. Sau nhiều biến chuyển trong việc chia tách lại địa lý các trấn dưới các triều Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, văn miếu Xích Đằng trở thành văn miếu của trấn Sơn Nam thượng và sau này là của tỉnh Hưng Yên. Trước cổng văn miếu Xích Đằng là hai cây gạo đã có hàng trăm năm tuổi, và tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ 18. Tam quan (hay còn gọi là cổng Nghi môn) của văn miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diềm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương. Thay vì lầu trống như ở các văn miếu Quốc tử giám, văn miếu Mao Điền, ở văn miếu Xích Đằng lầu trống được thay vào bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ 18. Khu nội tự kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”. Mặt chính quay về hướng nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, câu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn. Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa. Trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình. Từ các khoa thi đầu tiên dưới thời nhà Trần đến khoa thi cuối cùng vào cuối thời nhà Nguyễn, tỉnh Hưng Yên đều có người đỗ đạt cao. Thời nào cũng có người tài của đất Hưng Yên đỗ đạt ra giúp việc nước, việc dân. Ở văn miếu Xích Đằng hiện tại đang thờ hai pho tượng của Đức Khổng Tử và các bậc chư hiền nho gia. Cùng với đó là pho tượng của người thầy giáo lỗi lạc, người hiệu trưởng đầu tiên của văn miếu Quốc Tử Giám Chu Văn An. Năm 1992, Văn miếu Xích Đằng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Hàng năm, vào dịp mùng 4, mùng 5 Tết, Văn miếu lại tổ chức lễ hội với các hoạt động như cho chữ đầu xuân, tổ chức tế lễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễ hội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh về văn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sự học hành ngày càng phát triển Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Hưng Yên 1695 lượt xem
Đền Mẫu hay còn được gọi là Hoa Dương Linh Từ, tọa lạc tại đường Bãi Sậy, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Đền Mẫu thờ Dương Quý Phi, được tán xưng là Dương Thiên Hậu. Theo sử sách và Ngọc Phả truyền lại, thì bà là vợ vua Tống Đế Bính. Năm 1279, quân Nguyên xâm lược nước Tống, vua và hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam. Trên đường chạy, họ bị tướng nhà Nguyên là Trương Hoằng Phạm bắt được. Vua Tống cùng một số phi tần không chịu khuất phục đã nhảy xuống biển tuẫn tiết, xác của Dương Quý Phi trôi vào bãi cát, được nhân dân chôn cất chu đáo và lập đền thờ. Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Đền Mẫu được khởi dựng vào thời Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo nguyên niên (1279). Trải qua các triều đại, Đền đều được trùng tu và phong tặng nhiều lần. Đến năm Thành Thái thứ 8 (1896), Đền được trùng tu lớn và có quy mô kiến trúc như ngày nay. Đền được xây trên thế đất “Ngọa Long” nhìn ra hồ Bán Nguyệt với không gian rộng rãi, tạo nên thế “Sơn Diễu Thủy”. Cổng Nghi môn của Đền Mẫu Hưng Yên khá bề thế, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, với các đầu đao uốn cong. Cửa xây vòm cuốn, có một cửa chính và hai cửa phụ, hai cột trụ trên đỉnh có đắp 2 con sấu chầu vào cửa. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi kiểu chữ Triện “Dương Thiên Hậu - Tống Triều” và bức chữ Hán “Thiên Hạ mẫu nghi”. Qua Nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ với tuổi đời hơn 700 năm, được kết hợp bởi 3 cây sanh, đa, si quấn lấy nhau vững chắc, rủ bóng um tùm quanh Đền Mẫu Hưng Yên, càng tăng thêm vẻ trang nghiêm, u tịch. Đây là một trong những cây cổ thụ lâu đời nhất Bắc Bộ. Tòa Đại bái của Đền Mẫu Hưng Yên gồm 3 gian, kiến trúc theo kiểu tám mái lợp ngói vẩy rồng, các đao mái uốn cong kiểu rồng chầu. Các con rường, đấu sen, trụ chạm hình lá hoa, rồng, phượng, các bẩy chạm hình đầu rồng. Hai bên tòa Đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn. Tòa Tiền đường cũng gồm 3 gian, kiến trúc kiểu chồng rường đấu sen, lộng lẫy với hoành phi, câu đối, đồ tế tự, tán lọng, cờ, y môn, giá cắm đồ binh khí, kiệu bát cống, long đình được sơn son thiếp vàng rực rỡ. Nóc được đắp hình “Lưỡng long chầu nguyệt”, đao rồng chầu, phượng múa tinh xảo. Hậu cung gồm 5 gian, kiến trúc theo kiểu chồng rường con nhị với 12 cột cái, 6 cột quân, các bức cốn chạm hoa lá mềm mại, bộ cửa bức bàn chạm lộng mai cúc. Bên trong có tượng Dương Quý Phi với nét mặt đôn hậu, cùng 2 người hầu là Kim Thị và Liễu Thị , niên đại thế kỷ 17-18. Ngoài ra, trong Đền Mẫu Hưng Yên còn lưu giữ nhiều di vật quý như long sàng, long kỷ có niên đại thế kỷ 18-19 và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến Nguyễn, ca ngợi tấm gương trung tiết của Dương Quý Phi. Hàng năm, lễ hội đền Mẫu ở Hưng Yên được tổ chức từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương về tham dự, chiêm bái, cầu mong những điều tốt lành, hạnh phúc. Phần tế lễ diễn ra long trọng. Phần hội có các trò chơi giân dan, hát chầu văn. Đặc biệt, trong dịp lễ hội sẽ diễn ra 2 buổi rước kiệu sôi động. Rước liềm từ Đình Hiến lên Đền Mẫu Hưng Yên, đi đầu là cờ, trống chiêng, long đình, bát bửu, lộ bộ, có đội múa lân, múa rồng. Rước du đi quanh phố phường, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước, có múa “Con đi đánh bồng”... Năm 1990, Đền Mẫu Hưng Yên đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1678 lượt xem
Chùa Hương Lãng, còn gọi là chùa Lạng hay chùa Giác Viên, tọa lạc tại thôn Hương Lãng, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Ngoài thờ Phật, chùa Hương Lãng còn thờ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan - một người phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà dưới thời Nhà Lý. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp, có giá trị lịch sử văn hóa và khoa học. Tương truyền, chùa do Thái hậu Ỷ Lan xây dựng vào thời Lý, khoảng năm 1115. Chùa có quy mô lớn, trên diện tích ngót một héc ta, gồm nhiều tòa, bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”. Bao gồm, cổng tam quan với ba lối vào, bậc tam cấp dẫn lên một nền phẳng. Chùa được chia thành ba cấp, từ cấp này lên cấp thứ hai cũng có ba lối lên, cấp thứ ba là khu chính. Nơi đây là một khu gồm nhà tăng, nhà hội đồng, phật điện. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị phá huỷ, đến năm 1955 mới trùng tu lại. Chùa quay hướng chính ra sông Lạng. Toà tiền đường bố trí trên bậc thềm cao với thành bậc chạm hình sấu đá. Công trình có kiến trúc kiểu vì kèo con chồng đấu sen với bốn hàng chân cột. Tất cả các cột đều được kê trên các tảng kê bằng đá trang trí hoa văn hình cánh sen, phong cách thời Lý. Các bộ vì kèo được làm bằng gỗ lim có chạm khắc hoa văn các đề tài hoa lá. Các khối nổi trên bề tượng hầu như không có góc cạnh gồ ghề, tất cả đều nhẵn, êm và chau chuốt, không có chỗ ngắt nhịp đột ngột. Có thể nói đây là một bệ tượng đồ sộ nhất của Thời Lý hiện còn được lưu giữ tại di tích. Ngoài ra, chùa còn có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng, chồn và hoa cúc dây; 4 cột đá vuông góc đỡ các xà đá của công trình, nhiều tảng đá chân cột chạm khắc cánh hoa sen và hoa cúc rất tỉ mỉ và tinh vi. Đây là những tác phẩm vô giá của Thời Lý còn được lưu giữ. Tòa đại bái quay hướng chính chùa nhìn ra sông Lạng, gần đường làng, được phục hồi năm 2005, với quy mô 7 gian. Muốn vào trong tòa tiền đường phải qua các bậc thềm, ở đây các bậc thềm, được ngăn cách thành 5 lối bởi 6 thành bậc chạm hình sấu đá nằm quay đầu ra phía trước. Toà tiền đường có kiến trúc kiểu vì kèo con chồng đấu sen với bốn hàng chân cột, tất cả các cột đều được kê trên các tảng kê bằng đá trang trí hoa văn hình cánh sen, phong cách Thời Lý. Các bộ vì kèo được làm bằng gỗ lim được chạm khắc hoa văn các đề tài hoa lá cách điệu. Tòa hậu cung cách tòa tiền đường một khoảng trống. Hậu cung có kiến trúc kiểu chồng diềm, hai tầng tám mái. Giữa hậu cung là “Linh vật” sư tử đội tòa sen tạo thành bệ đá lớn. Chùa Hương Lãng hiện còn lưu giữ nhiều di vật thời Lý rất đặc sắc và độc đáo. Cũng tại nơi đây người ta đã phát hiện ra di chỉ được đặt tên là Di chỉ Chùa Lạng gồm tượng sư tử còn gọi là ông Sấm. Chùa có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng và chồn, hoa cúc dây, bốn cột đá vuông bốn góc đỡ các xà bằng đá của công trình trước đây và nhiều tảng đá chân cột chạm khắc cánh sen và hoa cúc. Vì những giá trị về văn hóa - lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, chùa Hương Lãng đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào ngày 13-3-1974. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên 1672 lượt xem
Chùa Chuông có tên chữ là “Kim Chung tự” nằm tại thôn Nhân Dục phường Hiến Nam thị xã Hưng Yên. Tương truyền vào một năm đại hồng thủy, có một quả chuông vàng trên một chiếc bè trôi vào bãi sông thuộc địa phận thôn Nhân Dục. Các nơi đua nhau kéo chuông về địa phương mình nhưng không được. Chỉ có những bô lão thôn Nhân Dục mới kéo được chuông. Dân làng cho là trời phật giúp đỡ bèn góp công của dựng chùa, xây lầu treo chuông. Mỗi lần đánh chuông, tiếng vang xa hàng vạn dặm. Do vậy chùa còn có tên gọi là Kim Chung Tự (chùa chuông vàng). Chùa Chuông được khởi dựng từ thời Lê (thế kỷ 15) và trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo về sau nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê (thế kỷ 17). Trong “Hưng Yên tỉnh nhất thống chí” của Trịnh Như Tấu có ghi “Chùa Chuông - phố Hiến nổi tiếng danh lam”. Năm 1992, chùa Chuông đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Quần thể kiến trúc chùa Chuông có bố cục hài hòa, theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, bao gồm các hạng mục: Tam quan, Tiền đường, Thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu, lầu chuông và 2 dãy hành lang... Mặt tiền chùa quay hướng Nam, đó là hướng của “Bát Nhã” và “Trí Tuệ”. Các công trình chùa Chuông nằm cân xứng trên trục nối từ Tam quan đến nhà Tổ. Cổng Tam quan xây theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, có các họa tiết, hoa văn trang trí như hình rồng đắp nổi, bức phù điêu về thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh ở Tây Trúc... Qua cổng Tam quan là tới cây cầu đá xanh được dựng vào năm 1702, bắc qua ao mắt rồng. Nối tiếp là con đường độc đạo được lát đá xanh dẫn thẳng đến Tiền đường, theo quan niệm nhà Phật là con đường chân chính dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ. Tiền đường có quy mô 5 gian 2 chái, kiến trúc theo kiểu con chồng đấu sen. Tiếp đến là khoảng sân nhỏ, giữa sân có cây hương đá còn gọi là “Thạch trụ”, trên bốn mặt có khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân đóng góp tu sửa chùa Chuông. Thượng điện cũng gồm 5 gian 2 chái, kết cấu giống Tiền đường. Bên trong được bài trí nhiều pho tượng được tạo tác công phu như: tượng Tam Thế, các vị Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Phật Thích Ca, Phật A Di Đà... Qua Thượng điện là tới hai dãy hành lang đối xứng nhau, có đặt rất nhiều tượng được xếp theo thứ tự. Đầu tiên là nhóm tượng phác họa về động “Thập điện Diêm Vương” diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua nơi âm giới theo triết lý nhân quả của nhà Phật. Tiếp đến là tượng Bát Bộ Kim Cương, sau là “Thập Bát La Hán” với 18 vị được tạo tác rất biểu cảm trên từng nét mặt. Cuối dãy hành lang là tượng Đức Ông, đứng cạnh có Già Lan - Chân Tể và tượng Đức Thánh Hiền, đứng cạnh có Diệm Nhiên - Đại Sỹ. Trong chùa Chuông còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như hoành phi, câu đối... đặc biệt là tấm bia đá “Kim Chung Tự thạch bi ký” được dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711). Trên bia ghi danh những người công đức, và mô tả Phố Hiến thời hưng thịnh. Vào các ngày 15 tháng 1, 8 tháng 4, 15 tháng 4, 15 tháng 7 âm lịch hàng năm, lễ hội chùa Chuông được tổ chức, thu hút nhân dân trong vùng và du khách thập phương về dự. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1644 lượt xem
Đền An Xá (còn gọi tên khác là Đền Đậu An), tên chữ là Thụy Ứng Quán, toạ lạc tại thôn An Xá (còn được gọi là làng An), xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Căn cứ vào các tư liệu, hiện vật còn lưu giữ tại di tích và lời kể của các cụ cao niên trong làng, đền An Xá là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngũ Lão Tiên Ông (những vị thần tiên của Văn hóa Đạo giáo), cùng các vị Thiên tiên, Địa tiên - là những người có công khai phá vùng đầm lầy hoang vu, diệt trừ thú dữ, dậy dân cầy cấy, lập làng Chạ, dựng "Thụy Ứng Quán", để cầu mong mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu. Căn cứ vào truyền thuyết, lời kể của các cụ cao niên trong làng và những di vật cổ có giá trị hiện còn lưu giữ được tại di tích cho biết đền An Xá được khởi dựng từ khá sớm, muộn nhất vào khoảng Thế kỷ XVI – XVII, đến nay đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Đền An Xá được khởi dựng trên khu đất cao có dáng hình đầu rồng ở phía Tây ngoài làng An Xá. Phía trước đền là những cây cổ thụ xum xuê tỏa bóng xuống hồ nước trong xanh được xem là nơi “tụ thủy, tụ phúc” của làng. Bao bọc vòng ngoài là những hào nước và khu vực ruộng đồng trù phú. Mặt tiền đền quay hướng Nam, có bình đồ kiến trúc kiểu chữ Công gồm: 5 gian Tiền tế, 3 gian Ống muống và 3 gian Hậu cung. Ngoài ra, nằm trong và ngoài khuôn viên di tích hiện còn một số hạng mục công trình kiến trúc gắn liền với sự hình thành và các tích truyện liên quan tới nhân vật thờ tại di tích: Đền Hạ, đền Kỷ Niệm nằm về hai bên hồi đền chính. Đăng đối hai bên sân đền là hai dãy nhà Giải vũ. Hai bên Tam quan là đền Mẫu và đền Thiên Quan. Bên ngoài khuôn viên di tích về phía Đông là hai ngôi đình Vô và đình Căn. Tam quan: được dựng trên bình đồ hình vuông, gồm 3 cửa ra vào với hai tầng mái. Xung quanh bốn góc dựng bốn cột đồng trụ lớn. Mái Tam quan lợp ngói mũi hài. Tam quan đền An Xá có treo 1 quả chuông đồng được đúc vào thời Hậu Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 và 1chiếc trống. Tòa Tiền tế: là một tòa nhà 5 gian, được làm theo kiểu tường hồi bít đốc. Kết cấu theo kiểu 4 hàng chân cột. Tiền tế là nơi đặt ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế (gian giữa), hai gian bên là nơi đặt ban thờ Thiên Tiên và Địa Tiên cùng các bức hoành phi, câu đối và đồ thờ tự có giá trị. Điêu khắc trang trí tòa Tiền tế chủ yếu gồm ba đề tài chính: linh vật, lá lật và vân xoắn mang phong cách nghệ thuật Thế kỷ XIX và XX. Ống muống: hạng mục này được làm hoàn toàn bằng đá xanh nguyên khối. Toàn bộ hệ thống các cột trụ, câu đối, hoành phi, cửa võng tại đây đều được làm bằng đá có tấm nặng tới hàng chục tấn được các nghệ nhân và thợ thủ công đương thời chạm khắc hình rồng, phía ngoài chạm khắc các đôi câu đối bằng chữ Hán vô cùng tinh xảo và đặc sắc, hiếm thấy trong những công trình kiến trúc tín ngưỡng của người Việt. Hậu cung: gồm 3 gian, theo kiểu tường hồi bít đốc tay ngai. Đây là nơi đặt ban thờ Tam Thanh Lục Ngự. Phía trên mái dưới là phần cổ diêm được làm bằng đá chia thành các ô khác nhau trang trí hình chim phượng, rồng, hoa sen, giữa khắc ba chữ Hán “Thụy Ứng quán”. Mái được lợp ngói di truyền thống, bờ nóc để trơn không trang trí. Tường bao mặt trước được dựng bằng đá xanh nguyên khối. Gian giữa được xây giật vào hàng cột cái tạo thành một khám thờ, cửa chạm khắc các hoạ tiết: Những con dơi ngậm tiền (phúc hàm tiền), hạc đứng trên lưng rùa nhằm thể hiện ước vọng về phúc, lộc và mong muốn cho dân làng An Xá được sống lâu mãi mãi. Trung tâm Hậu cung đặt một nhang án thờ bằng đất nung có dạng hình hộp chữ nhật. Các hạng mục công trình khác gồm. Đền Hạ: Đền Thiên Quan. Đền Mẫu. Đền Kỷ niệm. Đình Vô. Đình Căn. Về giá trị lịch sử: Đền An Xá là trung tâm văn hóa tiêu biểu, một ví dụ khá điển hình của sự chuyển biến, dung hội giữa quán Đạo giáo và đền thờ. Lễ hội đền An Xá diễn ra từ ngày mồng 1 đến 12 tháng Tư (Âm lịch) hằng năm. Với giá trị đặc biệt trên, di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật Đền An Xá đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hưng Yên 1549 lượt xem