Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đền Cờn - một biểu tượng vô cùng linh thiêng và độc đáo Nghệ An, với vẻ đẹp tuyệt trần cùng với cảnh quan thanh tịnh, hữu tình. Cùng với những sự tích lịch sử hay gây tò mò cho khách du lịch Hãy nghe Đậu Phương Anh một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Đền Cờn Nghệ An
Đền Cờn hay còn được biết đến với tên gọi là Đền Mẫu Cờn Nghệ An, là một ngôi đền nằm trên gò Diệc và gần với cửa biển Lạch Cần. Đây là một công trình kiến trúc tôn giáo được xây dựng từ thời nhà Lê - nhà Nguyễn. Đền Cờn được xây dựng từ thế kỷ 17, trong thời kỳ nhà Lê và nhà Nguyễn. Đây là nơi thờ phụng các vị anh hùng dân tộc như Lê Bá Cẩn, Nguyễn Trung Trực. Đền Cờn được xây dựng theo kiểu kiến trúc đền chùa cổ truyền của Việt Nam, với những họa tiết hoa văn, rồng, phượng trang trí tinh xảo.
Công trình bao gồm nhiều hạng mục như cổng tam quan, điện thờ, nhà tấu nhạc...Cách đền Cờn Trong khoảng 1km là đền Cờn Ngoài, tọa lạc trên điểm cao nhất của núi Thằn Lằn, sát cửa biển Lạch Cờn. Đền thờ vua quan nhà Tống là: Tống quốc gia. Đế Bính, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu. Các vị thần này trước được phối thờ ở đền Cờn Trong, song do quan niệm nho giáo “nam nữ bất đồng cung” nên đến thời Lê Thánh Tông được xây dựng đền thờ riêng. Ngôi đền hiện nay được tôn tạo lại với các tòa thượng điện, hạ điện, tả vu, hữu vu và các công trình phụ trợ.
Ở Đền Cờn mỗi năm sẽ diễn ra lễ hội Đền Cờn diễn ra từ ngày 19 đến ngày 21 tháng Giêng Âm lịch để báo ơn và nguyện cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa. Phần hội của Đền Cờn bao gồm những hoạt động thú vị như triển lãm ảnh, thi tiếng chim hót chào xuân hay thi đấu thể thao sôi động. Một vài bộ môn thể thao sôi động được diễn ra tại Lễ hội Đền Cờn chính là bóng chuyền, đẩy gậy, đánh thẻ cờ, đua thuyền… Bên cạnh đó, tại lễ hội còn diễn ra hoạt động văn nghệ như các tiết mục hát tuồng, chèo, chầu văn cũng vô cùng thú vị và ấn tượng..
Đền Cờn là điểm du lịch văn hóa - tâm linh thu hút nhiều khách thập phương đến tham quan, chiêm bái. Ngoài tham quan đền, du khách còn có thể khám phá vẻ đẹp thiên nhiên của vùng sông nước Nghệ An. Với giá trị lịch sử và văn hóa độc đáo, đền Cờn là một địa điểm không thể bỏ qua khi tới tham quan Nghệ An.
Ngày 29/01/1993, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóaThể thao và Du lịch) công nhận Đền Cờn là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 68/QĐ-BVHTT. Ngày 13/6/2016 Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 2067/QĐBVHTTDL đưa Lễ hội đền Cờn và Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Biển Cửa Lò trực thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Nơi đây cách thành phố Vinh khoảng 16km về phía Đông, và cách thủ đô Hà Nội 340km. Xưa kia, Cửa Xá – Lạch Lò được biết đến như một vùng hiểm yếu, có vị trí quân sự mang tính chiến lược. Trải qua dâu bể thăng trầm, biển Cửa Lò mới chính thức được định danh và trở thành điểm nhấn nổi bật trong ngành du lịch ở miền Duyên hải Bắc Trung Bộ. Cửa Lò có nhiều núi nhỏ, đỏa cùng bán đảo, ngoài ra vẫn có địa hình đồng bằng bằng phẳng. Bao bọc xung quanh là sông Cấm và sông Lam xinh đẹp, tạo nên một bức tranh sơn thủy đẹp mắt. Du lịch biển Cửa Lò là lựa chọn lý tưởng cho mọi gia đình để thư giãn và giải nhiệt vào những ngày hè oi ả. Du lịch biển bao giờ cũng hấp dẫn hơn vào những ngày nắng nóng, bởi lúc này bạn có thể tận hưởng sự sảng khoái khi hòa mình vào làn nước mát lạnh. Thời điểm lý tưởng nhất đến đến biển Cửa Lò là từ tháng 5 đến hết tháng 10. Vì đây là lúc Cửa Lò hưởng trọn ánh nắng mặt trời, tiết trời ấm áp, thích hợp cho các hoạt động ngoài trời. Nếu bạn muốn chuyến đi được thoải mái và không quá nhiều người, hãy tránh đi vào những dịp Lễ lớn hoặc cuối tuần. Thế nhưng dù bạn đến vào bất kỳ thời gian nào, biển Cửa Lò vẫn rất đáng để trải nghiệm nhờ vẻ đẹp tuyệt vời cùng nhiều hoạt động thú vị. Bãi biển Cửa Lò được mệnh danh là một trong những nơi đẹp nhất Bắc Trung Bộ. Nơi đây thu hút nhiều tín đồ du lịch không chỉ bởi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng với biển xanh, cát trắng, nắng vàng. Mà còn ấn tượng bởi nhiều hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc và tiết mục bắn pháo hoa mãn nhãn khi kết thúc mùa du lịch ( độ khoảng cuối tháng 9). Đến với Cửa Lò, bạn có thể thưởng thức các món ngon sau. Mọc cua bể: Món ăn không chỉ đánh thức khứu giác và vị giác của mọi thực khách mà còn chứa hàm lượng dinh dưỡng cao. Mọc cua được chế biến kỳ công từ thịt cua và nhiều loại gia vị đi kèm, đảm bảo ăn một lần là không thể quên. Ghẹ hấp me: Tuy là món hải sản phổ biến, nhưng ghẹ hấp me ở Cửa Lò lại hấp dẫn mọi người bởi hương vị đặc trưng. Nước me sền sệt thơm mùi gia vị cùng phần ghẹ đã chiên rồi đem hấp tạo nên hương vị hấp dẫn, sẵn sàng làm siêu lòng mọi thực khách. Cháo nghêu: Dù là món ăn khá bình dị song để nấu được nồi cháo ngon cần trải qua nhiều công đoạn phức tạp, Cháo nghêu khi ăn được trộn thêm với rau thơm để kích thích vị giác. Mực nhảy: Đây là món ăn đặc sản của Cửa Lò bởi độ tươi ngon của mực khi vừa được đánh bắt và chế biến ngay tại chỗ. Mực nhảy có thể hấp, nướng… dùng kèm nước chấm vô cùng hấp dẫn.
Nghệ An 3263 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Hang Thẩm Ồm đặt ở độ cao 15m so với mực nước biển, cửa hang ở hướng Đông Bắc. Nơi đây kỳ vĩ với những hóa thạch và huyền bí cần được khám phá. Hang Thẩm Ồm nằm ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, cách đường 48 khoảng 7km. Nơi này được xem là chứa đựng nhiều hiện vật quý giá của người Việt cổ, lưu giữ nền văn hóa lâu đời. Đi tham quan Hang Thẩm Ồm không chỉ là dịp để tìm hiểu lịch sử mà còn trải nghiệm nền văn hóa cổ xưa. Hang miễn phí và hoạt động cả ngày, nên hãy dành thời gian tới đây để khám phá những điều thú vị tại địa điểm này. Năm 1975, Hang Thẩm Ồm được phát hiện và khai quật. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật quý giá, từ đồng, đá, tới xương răng động vật hóa thạch, phản ánh cuộc sống của người Việt cổ. Người Thẩm Ồm được coi là những con người hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Phiên âm tiếng Thái, “Thẩm Ồm” có nghĩa là hang lớn. Nơi đây thường thu hút nhiều du khách tới tham quan hàng năm. Hang Thẩm Ồm được xem như một tuyệt tác thiên nhiên độc đáo của Nghệ An. Hãy dành thời gian đến địa điểm này để tự mình khám phá, trải nghiệm và cảm nhận vào một ngày gần nhất. Khi đặt chân đến Hang Thẩm Ồm, Quỳ Châu, Nghệ An, bạn sẽ cảm nhận ngay vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của thiên nhiên rừng núi. Tiếng chim hót rộn ràng và không khí mát lành sẽ làm cho chuyến đi của bạn thêm phần hấp dẫn. Bên trong hang là hiện tượng đặc biệt của phong hóa do nước chảy xói mòn trên núi đá vôi. Mỗi bước di chuyển, bạn sẽ bắt gặp thạch nhũ, vách đá lớn, cùng với hình thù đa dạng, độc đáo. Tất cả tạo ra cảm giác như có sự ban tặng đặc biệt từ tạo hóa. Đến với hang này, bạn sẽ được thưởng thức những món ẩm thực dân dã như hoa chuối, quả nhâm, rau dún, măng, nhộng ong rừng, châu chấu thơm ngon đậm đà. Đừng quên mang theo những sản phẩm đặc sản Nghệ An làm quà biếu người thân sau chuyến du lịch nhé.
Nghệ An 2611 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng Hoàng Trù cách làng Kim Liên khoảng 2km, cùng thuộc xã Kim Liên (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), cách thành phố Vinh khoảng 15km. Nơi đây có cụm di tích Hoàng Trù rộng 3.500m2, gồm: Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường - ông ngoại của Bác Hồ, ngôi nhà thờ chi nhánh họ Hoàng Xuân, ngôi nhà của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan - thân sinh Bác Hồ. Vào dịp Tết Mậu Dần năm 1878, cụ Hoàng Đường trên đường đi chúc Tết gặp một chú bé ngồi trên lưng trâu mải mê đọc sách. Chú bé đó tên là Nguyễn Sinh Sắc, vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 4 tuổi. Cảm thương hoàn cảnh và quý trọng đức hiếu học, cụ Hoàng Đường đã xin phép họ Nguyễn Sinh đưa Nguyễn Sinh Sắc về nuôi, cho ăn học. Khi đó Nguyễn Sinh Sắc tròn 15 tuổi. Được sự dạy bảo của cụ Hoàng Đường, Nguyễn Sinh Sắc càng học càng thông minh, nổi tiếng khắp vùng. Năm Nguyễn Sinh Sắc tròn 18 tuổi, hai cụ chọn ông làm con rể cho con gái đầu lòng Hoàng Thị Loan. Năm 1883, hai người thành hôn, ra ở riêng trong ngôi nhà nhỏ 3 gian mới dựng. Ngôi nhà là nơi chứng kiến người học trò Nguyễn Sinh Sắc miệt mài đèn sách, chứng kiến sự tần tảo, thủy chung của người vợ và sự ra đời của những người con. Tại kỳ thi Hương năm Giáp Ngọ 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân trường Nghệ, năm 1895, vào kinh đô Huế để ôn luyện và đưa cả vợ con theo. Sau khi sinh người con thứ tư (năm 1900), bà Hoàng Thị Loan qua đời trên đất Huế ở tuổi 33 (tháng 2-1901). Cha con ông Nguyễn Sinh Sắc đau buồn rời đất đế đô trở lại làng Hoàng Trù sinh sống. Tới kỳ thi Hội khoa Tân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự thi và đậu Phó bảng, được vua Thành Thái ban cho tấm biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn vua ban cho gia đình tốt). Theo truyền thống, ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con tạm biệt làng Hoàng Trù trở về quê nội - làng Kim Liên để vinh quy bái tổ. Khu di tích Hoàng Trù với ngôi nhà nhỏ ba gian là nơi cất tiếng khóc chào đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi đã gắn bó những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ và cũng đầy gian khó, nhọc nhằn của Người cùng ông bà, cha mẹ, các anh chị em. Cũng chính tại nơi đây, Người đã nhận được tình yêu thương của những người thân, của quê hương, được chứng kiến sự dạy dỗ tận tình của ông ngoại với cha mình. Những giá trị tinh thần ấy là khởi nguồn cho một khát vọng lớn lao, để cậu bé Nguyễn Sinh Cung trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa của đất nước Việt Nam và của nhân loại.
Nghệ An 1780 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Một trong những điểm nổi bật của bãi biển này chính là đường bờ cát dài và độ sâu dần đều, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tắm biển, thư giãn trên những bãi cát sạch trải dài bên bờ biển. Biển Cửa Lò Nghệ An cũng là nơi tập trung của nhiều hoạt động giải trí và thư giãn như chạy mô tô nước, bay khinh khí cầu, đi bộ dọc bãi biển, ngắm sao trên bãi biển, đi thuyền thúng câu mực về đêm và nhiều hoạt động khác. Điều này tạo điều kiện cho du khách có thể tận hưởng những khoảnh khắc thư giãn và giải trí đầy thú vị tại biển Cửa Lò - Nghệ An. Mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 8) là thời điểm lý tưởng để đến tham quan Cửa Lò Nghệ An, đặc biệt là với những người thích tắm biển. Lúc này, thời tiết khô ráo, nắng đẹp, du khách có thể thoải mái đi theo lịch trình của mình và lưu giữ lại những khoảnh khắc tuyệt vời. Một trong những hoạt động mới được thêm vào chương trình du lịch tại biển Cửa Lò Nghệ An là bay khinh khí cầu ngắm biển. Với giá 200.000 VND một lượt, du khách sẽ được đưa lên độ cao tối đa 50m để ngắm nhìn vẻ đẹp của bãi biển Cửa Lò. Hoạt động này diễn ra trong các khung giờ từ 6h30 - 9h30 và 16h30 - 18h30. Lưu ý rằng hoạt động chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian sự kiện nên du khách cần theo dõi lịch tổ chức để sắp xếp thời gian hợp lý cho chuyến đi của mình. Buổi sáng sớm là thời điểm lý tưởng để tắm biển và ngắm bình minh tại bãi biển Cửa Lò Nghệ An. Không khí trong lành và nước biển mát mẻ sẽ giúp du khách thư giãn và tận hưởng những khoảnh khắc đẹp tuyệt vời. Ngoài ra, bạn còn có thể tham gia nhiều hoạt động khác như lái mô tô nước, chèo thuyền kayak, đi bộ dọc bãi biển, chụp ảnh trên bãi biển.
Nghệ An 1757 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Cách Thành phố Vinh khoảng 16km, làng Sen (Kim Liên) thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An là quê nội của Bác. Đây là 1 trong 4 di tích quan trọng bậc nhất cả nước và cũng là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ. Bạn có thể đến làng Sen vào bất cứ thời điểm nào trong năm, tuy nhiên thời gian thích hợp nhất đó là vào tháng 5. Đây là dịp mà những đầm sen nở rộ, tỏa hương thơm ngát, mang lại một cảm giác dễ chịu xua tan đi cái oi bức, ngột ngạt của nắng gió khắc nghiệt miền Trung. Di chuyển đến Nghệ An rất đơn giản, bạn có thể dễ dàng di chuyển bằng các phương tiện khác nhau. Từ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đều có các chuyến bay thẳng đến thành phố Vinh. Bạn cũng có thể di chuyển bằng tàu hỏa xuống ga Vinh hay đi bằng xe khách và xe máy. Từ thành phố Vinh, đi theo đường 49 đến cây số 13 rẽ vào con đường đất đỏ rợp bóng bạch đàn và những hàng phi lao xanh ngắt là đến làng Sen. Đầu làng có một hồ sen lớn, đi qua hồ sen là giếng Cốc. Nơi đây, thuở còn thơ ấu, Bác thường ra lấy nước, câu cá và vui chơi cùng bè bạn trong làng. Sau lũy tre rợp bóng xanh mát là ngôi nhà 5 gian lợp mái tranh đơn sơ, giản dị của gia đình cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Bác Hồ. Sau khi đậu Phó bảng tại khoa thi hội năm Tân Sửu 1901, cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng các con rời làng Chùa (Hoàng Trù) về sống tại làng Sen quê nội. Ngôi nhà này là do người dân làng Sen dùng quỹ công dựng lên mừng cụ đậu Phó bảng đem lại vinh dự cho cả làng. Trước nhà có 2 sân nhỏ và 1 thửa vườn được vây quanh bằng hàng rào râm bụt. Kế bên nhà là nhà ngang dùng làm bếp. Hai gian phía ngoài là nơi đặt bàn thờ và tiếp khách. Gian thứ ba là nơi ở của bà Nguyễn Thị Thanh – người chị cả của Bác. Hai gian còn lại là nơi nghỉ và sinh hoạt của gia đình. Gian thứ năm chỉ kê vỏn vẹn 1 bộ phản cũng là nơi nghỉ ngơi của ông Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung (Bác Hồ). Dù đỗ đạt cao nhưng những vật dụng trong nhà vẫn hết sức giản dị như bao căn nhà ở chốn thôn quê khác: tấm phản gỗ, chõng tre, chum sành đựng nước, chạn bát tre,… Phần nhiều những đồ vật này đều do dân làng tặng, những kỷ vật này vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Bác đã gắn bó với ngôi nhà này trong những năm tháng ở tuổi thiếu niên từ cuối năm 1901 đến giữa những năm 1906. Ngôi nhà đã chứng kiến quá trình học tập, trưởng thành của Bác; là nơi ghi dấu những cảm xúc đầu tiên về lòng yêu nước và những nhận thức thời cuộc của Người. Sau 50 năm xa cách quê nhà, bôn ba đi tìm đường cứu nước cho dân tộc, làm cách mạng đưa đất nước thoát khỏi ách thống trị của Thực dân Pháp, Người đã trở về làng Sen 2 lần vào năm 1957 và năm 1961. Bạn có thể thăm những ngôi nhà hàng xóm thân thiết với gia đình Bác thời kỳ đó như lò rèn Cố Điền, nhà cụ cử Vương Thúc Quý, nhà cụ đồ nho, nhà cụ Nguyễn Sinh Nhậm – ông nội của Bác,…
Nghệ An 1883 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Làng Hoàng Trù cách làng Kim Liên khoảng 2km, cùng thuộc xã Kim Liên (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), cách thành phố Vinh khoảng 15km. Nơi đây có cụm di tích Hoàng Trù rộng 3.500m2, gồm: Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường - ông ngoại của Bác Hồ, ngôi nhà thờ chi nhánh họ Hoàng Xuân, ngôi nhà của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan - thân sinh Bác Hồ. Vào dịp Tết Mậu Dần năm 1878, cụ Hoàng Đường trên đường đi chúc Tết gặp một chú bé ngồi trên lưng trâu mải mê đọc sách. Chú bé đó tên là Nguyễn Sinh Sắc, vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 4 tuổi. Cảm thương hoàn cảnh và quý trọng đức hiếu học, cụ Hoàng Đường đã xin phép họ Nguyễn Sinh đưa Nguyễn Sinh Sắc về nuôi, cho ăn học. Khi đó Nguyễn Sinh Sắc tròn 15 tuổi. Được sự dạy bảo của cụ Hoàng Đường, Nguyễn Sinh Sắc càng học càng thông minh, nổi tiếng khắp vùng. Năm Nguyễn Sinh Sắc tròn 18 tuổi, hai cụ chọn ông làm con rể cho con gái đầu lòng Hoàng Thị Loan. Năm 1883, hai người thành hôn, ra ở riêng trong ngôi nhà nhỏ 3 gian mới dựng. Ngôi nhà là nơi chứng kiến người học trò Nguyễn Sinh Sắc miệt mài đèn sách, chứng kiến sự tần tảo, thủy chung của người vợ và sự ra đời của những người con. Tại kỳ thi Hương năm Giáp Ngọ 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân trường Nghệ, năm 1895, vào kinh đô Huế để ôn luyện và đưa cả vợ con theo. Sau khi sinh người con thứ tư (năm 1900), bà Hoàng Thị Loan qua đời trên đất Huế ở tuổi 33 (tháng 2-1901). Cha con ông Nguyễn Sinh Sắc đau buồn rời đất đế đô trở lại làng Hoàng Trù sinh sống. Tới kỳ thi Hội khoa Tân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự thi và đậu Phó bảng, được vua Thành Thái ban cho tấm biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn vua ban cho gia đình tốt). Theo truyền thống, ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con tạm biệt làng Hoàng Trù trở về quê nội - làng Kim Liên để vinh quy bái tổ. Khu di tích Hoàng Trù với ngôi nhà nhỏ ba gian là nơi cất tiếng khóc chào đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi đã gắn bó những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ và cũng đầy gian khó, nhọc nhằn của Người cùng ông bà, cha mẹ, các anh chị em. Cũng chính tại nơi đây, Người đã nhận được tình yêu thương của những người thân, của quê hương, được chứng kiến sự dạy dỗ tận tình của ông ngoại với cha mình. Những giá trị tinh thần ấy là khởi nguồn cho một khát vọng lớn lao, để cậu bé Nguyễn Sinh Cung trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa của đất nước Việt Nam và của nhân loại.
Nghệ An 2075 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Truông Bồn Nghệ An được xem như “tâm điểm của cuộc chiến” với vị trí đặc biệt quyết định trong cuộc chiến giải phóng miền Nam. Mỗi năm, nơi này thu hút một lượng lớn du khách trong và ngoài nước đến tham quan khi họ đến Nghệ An. Nếu bạn có cơ hội du lịch Nghệ An, bạn nhất định không thể bỏ lỡ khu di tích Truông Bồn Nghệ An. Tại đây, bạn sẽ lắng nghe những câu chuyện cổ kính về thế hệ anh hùng của dân tộc. Hãy cùng khám phá tại đây xem Truông Bồn được gọi là gì, đường đi đến Truông Bồn, và lịch sử của Truông Bồn. Khu di tích Truông Bồn, rộng khoảng 22ha, nằm trên tuyến đường chiến lược 15A, xuyên qua xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Nơi này không chỉ là điểm đến du lịch nổi tiếng của Nghệ An và Hà Tĩnh mà còn là một thánh địa huyền thoại, chứa đựng những kí ức về thời kỳ chiến đấu dũng mãnh của quân và dân Việt Nam. Ngày nay, Truông Bồn Nghệ An đã trở thành một trung tâm quan trọng về giáo dục về truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước và niềm tự hào của thế hệ người Việt Nam. Khu di tích Truông Bồn bắt đầu xây dựng vào ngày 27/10/2010 và hoàn thành vào cuối năm 2014, chính thức đi vào hoạt động, trở thành một “địa điểm đỏ” về giáo dục cách mạng. Diện tích tổng cộng xây dựng là hơn 217 nghìn m2, bao gồm nhiều công trình như đài tưởng niệm, nhà truyền thống, tháp chuông, bảng điện tử “tọa độ lửa” Truông Bồn Nghệ An... và điểm nổi bật là khu mộ của 13 anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong. Khu mộ nằm sâu trong rừng thông già - trước đây từng là nơi trú ẩn của thanh niên xung phong. Phía trước khu mộ là vị trí mà quân địch Mỹ đã tấn công mạnh mẽ và cũng là nơi 13 người anh hùng đã hy sinh trong trận bom ngày 31/10/1968. Bên cạnh đó, khu di tích còn tái hiện hình ảnh cuộc sống, quá trình lao động và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong qua bức phù điêu lớn được chạm khắc tinh xảo. Tại khu vực đài tưởng niệm, có 2 nhóm tượng và 6 trụ huyền thoại biểu tượng cho tinh thần chiến đấu quật cường, dũng cảm của lực lượng thanh niên xung phong trong cuộc hành trình bảo vệ Tổ quốc. Truông Bồn Nghệ An chứng kiến một thời khói lửa và hào hùng của dân tộc. Từ năm 1964 đến năm 1968, quân đội Mỹ đã ném xuống đây gần 20.000 quả bom đa dạng và hàng chục ngàn tên lửa. Chính vì vậy, Truông Bồn thường được gọi là “hố bom” của miền Bắc. Vào rạng sáng ngày 31/10/1968, máy bay Mỹ đã ném hơn 200 quả bom xuống Đại đội 317. Khi ấy, tổng đội thanh niên xung phong Nghệ An đang làm nhiệm vụ san lấp hố bom. Hầu hết trong số họ đã hoàn thành nhiệm vụ và chuẩn bị xuất ngũ. Có người sẽ đi học, có người sẽ kết hôn cả ngày, nhưng ước mơ của 13/14 chiến sĩ, ở độ tuổi rất trẻ, đã tan biến trước trận mưa bom ác liệt. Tuy nhiên, với quyết tâm "tim có thể ngừng đập nhưng đường không thể tắc", "sống bám cầu, bám đường; chết kiên cường, dũng cảm"... chiến thắng tại Truông Bồn đã giúp chúng ta giữ vững mạch máu giao thông, đắp hàng triệu mét khối đất đá, đưa 94.000 lượt xe cơ giới qua lại an toàn và vận chuyển hơn 1 triệu tấn hàng. Cũng tại đây, 1.240 anh hùng thuộc các lực lượng công an, quân đội, thanh niên xung phong, và dân công hỏa tuyến đã hy sinh và nằm yên nghỉ trong lòng đất mẹ mãi mãi. Cho đến ngày nay, Truông Bồn - khúc tráng ca bất tử đã đi vào lịch sử như một huyền thoại về mảnh đất thiêng liêng, là dấu son cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Nơi đây mãi mãi là "địa chỉ đỏ" về giáo dục truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí cách mạng kiên cường của những thế hệ đi trước.
Nghệ An 2035 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với vẻ đẹp hoang sơ, đầy thơ mộng, Thác Khe Kèm không chỉ là điểm dừng chân yêu thích của khách du lịch mà còn là nơi vãn cảnh được người dân bản địa ghé chơi thường xuyên. Thác Khe Kèm còn được gọi là thác Kèm hay Bổ Bố, theo cách gọi của người dân tộc Thái có nghĩa là dải lụa trắng. Vì thác nước đổ xuống từ độ cao hơn 500m, độ dốc khoảng 80°, qua ba tầng, trông xa như dải lụa trắng bồng bềnh trên nền xanh thắm của núi rừng. Con đường dẫn vào thác Khe Kèm quanh co, uốn lượn, bốn mùa xanh mát do hai bên đường là những tán cây cổ thụ lâu năm. Du khách có thể lựa chọn di chuyển bằng xe máy để trải nghiệm và hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên và chiêm ngưỡng khung cảnh tuyệt đẹp hai bên đường đi. Vào tới nơi, thác Khe Kèm đổ nước tung bọt trắng xóa sẽ khiến du khách không khỏi trầm trồ. Phía trên và hai bên thác là thảm thực vật phong phú với cỏ cây xanh tốt và hàng trăm loài hoa quanh năm khoe sắc. Những loại cây khác nhau nở hoa theo từng mùa tạo cho du khách cảm giác như lạc vào vườn hoa đại ngàn. Phía dưới chân thác là khe nước dài, với những phiến đá phẳng lỳ như những chiếc bàn lớn làm chỗ nghỉ chân cho du khách. Cũng tại chân thác du khách cũng sẽ thấy những hồ nhỏ với độ nông, sâu khác nhau, nước hồ trong vắt có thể nhìn thấy đáy, tạo nên bức tranh phong cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Vào mùa hè, nhiệt độ tại khu vực thác là khoảng 20°C, vô cùng mát mẻ vì vậy thác Khe Kèm thực sự là điểm đến lý tưởng cho du khách muốn tránh cái nắng nóng oi ả của mùa hè và hòa mình vào thiên nhiên, tận hưởng bầu không khí khoáng đạt, dịu mát. Ngoài ra, du khách cũng có thể men theo đường mòn lên đỉnh thác, thoả sức ngắm cảnh núi rừng. Hay từ đây đi ngược lên thung lũng Khe Bu hoặc đi bộ leo núi Pu Loong – một ngọn núi cao ở Vườn Quốc gia Pù Mát (thời gian đi về mất khoảng từ 6-8 tiếng). Trong hành trình khám phá thác Khe Kèm, du khách sẽ được trải nghiệm bản sắc văn hóa và ẩm thực độc đáo của dân tộc Thái. Những món ăn đặc sản của đồng bào dân tộc Thái được chế biến lạ miệng, hấp dẫn, có thể kể đến như như cơm lam, xôi tím, gà nướng mật ong, cá Mát sông Giăng, tôm khe, chả nhái, chả ếch rừng, cua đá hấp xả... Thác Khe Kèm hứa hẹn sẽ trở thành điểm du lịch sinh thái – văn hóa hấp dẫn với khung cảnh núi rừng hùng vĩ, gắn kết không gian văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số. Để mỗi khi đến đây du khách có thể hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên của núi rừng hoang sơ, lấy lại sự thư thái cho tinh thần và cân bằng trong cuộc sống.
Nghệ An 1854 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm ở 18o46’ vĩ độ Bắc và 104o24’ độ kinh Đông thuộc tỉnh Nghệ An. Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm trên địa giới hành chính của 3 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, và Tương Dương, đường ranh giới phía Nam của Vườn Quốc Gia (VQG) chạy dọc theo đường biên giới Việt Lào. Vườn Quốc Gia Pù nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây là 1.800mm và nhiệt độ trung bình 23,5oC. Nằm trên dải đất miền Trung, Vườn quốc gia Pù Mát có nhiều thuận lợi trong việc phát triển du lịch: diện tích rộng lớn, tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài động vật rừng, thực vật rừng mới được khám phá trong thời gian gần đây: 2.500 loài thực vật thuộc 160 họ và gần 1.000 loài động vật… Đặc biệt, một khung cảnh thiên nhiên hoang sơ như chưa hề có bàn tay của con người chạm đến: Rừng nguyên sinh thượng nguồn Khe Thơi, Khe Bu, Khe Choăng, Cao Vều… Thác Khe Kèm, suối nước Mọc, sông Giăng, rừng săng lẻ và những nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Thái, H’mông, Đan Lai – nét hoang sơ là món quà của thiên nhiên ban tặng cho VQG Pù Mát. Nét đặc trưng độc đáo Với giới khoa học, cái tên Pù Mát không có gì xa lạ bởi đây là một trong những nơi đầu tiên phát hiện loài thú quý hiếm: Sao la. Với diện tích vùng lõi rộng 94.804ha và vùng đệm rộng 86.000 ha, trải rộng trên 3 huyện Tương Dương, Con Cuông và Anh Sơn của tỉnh Nghệ An, Pù Mát chính là nơi ở của người Thái – dân tộc đã sống ở đây nhiều đời. Nét hoang sơ hùng vĩ của núi rừng Pù Mát được pha lẫn với nét văn hoá độc đáo, tinh tế của người Thái. Họ sinh sống ở hầu hết các thôn bản, trong các nhà sàn bằng gỗ với nghề trồng lúa nước. Ở những vùng đồi, họ tham gia trồng cây hoặc đốt nương làm rẫy, trồng màu hoặc các loại cây lương thực khác; chăn nuôi gia súc gia cầm; làm các sản phẩm mây tre đan và dệt vải truyền thống. Vải thổ cẩm của người Thái nổi tiếng về tính độc đáo, màu sắc sặc sỡ và bền đẹp. Giữ truyền thống lâu đời, người Thái sinh sống tập trung theo dòng họ, mỗi cộng đồng dân cư có tín ngưỡng và tập tục riêng, có những lễ hội gắn liền với các mùa bội thu và sản xuất nông nghiệp. Nhảy sạp, uống rượu cần là đặc trưng không thể trộn lẫn trong sinh hoạt thường ngày của người Thái. Chiếm số ít là dân tộc Kinh (chủ yếu sống ở thị trấn Con Cuông) và dân tộc Đan Lai. Người Đan Lai sống tập trung tại 3 bản: Cò Phạt, Bản Cồn và Bản Búng thuộc xã Môn Sơn nằm ở phía Đông Nam của Vườn quốc gia Pù Mát, họ sống và canh tác ở những nơi đất dốc, sinh sống nhờ săn bắn và hái lượm. Những món quà vô giá của thiên nhiên Theo tiếng Thái, Pù có nghĩa là đỉnh núi, Pù Mát là đỉnh núi cao nhất trong khu vực (1.841m) và được đặt tên cho Vườn quốc gia. Hiếm có du khách nào chinh phục được đỉnh núi này dù trước đó có thể họ đã đứng dang tay trên đỉnh Phan xi păng. Pù Mát đẹp ở cái hùng vĩ của rừng xanh, ở vẻ nguyên sinh không chút đụng chạm của bàn tay con người. Đến với Pù Mát du khách sẽ được chiêm ngưỡng nét hoang sơ của rừng nguyên sinh với tính da dạng sinh học cao bậc nhất Việt Nam và nhiều thắng cảnh nổi bật. Đến Pù Mát du khách sẽ được chiêm ngưỡng khu rừng săng lẻ thuần loài cách khu hành chính của vườn khoảng 40km, rộng khoảng 100ha. Đây là khu rừng cổ thụ, cao khoảng 50m và toả bóng mát quanh năm, thuộc xã Tam Đình, huyện Tương Dương. Thiên nhiên ở đây thật kỳ diệu với những tán lá xanh còn đọng những giọt sương vào mỗi buổi sáng, tiếng chim hót chuyền cành khi bình minh lên. Thưởng thức sự thư giãn vào buổi sáng, du khách có thể hoà mình vào thiên nhiên dịu mát của thác Khe Kèm (hay còn gọi là thác Kèm) trong cái nắng nóng oi bức đặc trưng của miền Trung. Cách thị trấn Con Cuông khoảng 20km về phía Nam, thác Kèm hùng vỹ ở độ cao 150m. Rất nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu tại đây đã khẳng định thác Kèm là thác nước gần như nguyên sinh nhất ở Việt Nam. Con đường vào thác quanh co, uốn lượn và gập ghềnh. Có thể điều đó sẽ làm du khách nản lòng nhưng với những ai vượt qua được chặng đường không ngắn chút nào để được tận mắt chiêm ngưỡng một tạo vật thiên nhiên dành cho Pù Mát hẳn người đó sẽ không cảm thấy tiếc nuối. Người Thái gọi thác Kèm là Bổ Bố, có nghĩa là dải lụa trắng. Từ chân thác nhìn lên, bạn sẽ có cảm giác dòng suối tuôn chảy bất tận trong những dải bọt trắng xoá, chẳng khác một dải lụa trắng buông dài bất tận. Hoà trong màu trắng kỳ ảo đó là dòng suối trong vắt, mát rượi cùng tiếng ca của muôn loài chim. Trên đường vào thác Kèm, ấn tượng đọng lại trong du khách về vẻ đẹp của Pù Mát là tiếng nước chảy ở đập Phà Lài (hoa của trời), ở màu đỏ như phượng vĩ trên những tán cây hai bờ sông Giăng (cách khu hành chính của vườn quốc gia khoảng 20km). Một điều kỳ lạ gần như hiếm có ở Pù Mát là trên những chiếc thuyền nhỏ rẽ sóng trên sông Giăng, du khách như được trở về với thiên nhiên đích thực, nơi con người chỉ là một phần nhỏ bé của thiên nhiên. Hai bên bờ cây cối rậm rạp, đậm vẻ hoang sơ với điểm nhấn là dãy núi đá vôi hùng vĩ, điểm xuyết những màu sắc sặc sỡ của các loài Phong lan và làn nước trong xanh dịu mát. Nếu du khách mang theo một vài loại quả, hẳn sẽ được gặp được con cháu lão Tôn không chút sợ sệt ra “nhận quà”. Chúng sẽ đu mình trên những cành cây làm nên cảnh tượng như Hoa quả sơn. Từ ngã ba cầu Khe Diêm trên quốc lộ 7, đi dọc theo đường vào vùng Môn Sơn, Lục Dạ của huyện Con Cuông khoảng 3km, du khách sẽ gặp suối Mọc. Khác với những dòng suối khác, dòng nước ở đây cứ như đội lên từ lòng đất, trong veo ùn chảy làm tan biến cái nóng thiêu đốt của mùa hè. Về mùa thu, dòng suối có vẻ mát dịu hơn cùng với khí trời. Ngược lại, mùa đông, thiên nhiên ở đây lại ban tặng cho dòng suối một điều kỳ diệu: dòng nước ấm áp vô cùng trong những ngày lạnh giá.
Nghệ An 1556 lượt xem
Tháng 06 đến 08
Đảo Hòn Ngư, hay còn được biết đến với tên gọi Đảo Song Ngư, là một viên ngọc nhỏ nằm giữa biển thuộc lãnh thổ của tỉnh Nghệ An, cách bờ biển Cửa Lò khoảng 4km. Với diện tích tổng cộng chỉ khoảng 2.5km2, đảo Hòn Ngư tựa như một viên hòn quý giữa đại dương. Được đặt trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, đảo này hưởng lợi từ thời tiết nắng ấm và biển xanh mát, tạo nên môi trường lý tưởng cho các hoạt động du lịch biển và tour du lịch khám phá vùng Cửa Lò, Nghệ An. Thế nên, Hòn Ngư không chỉ là một địa điểm lôi cuốn với cảnh đẹp tự nhiên hùng vĩ, mà còn là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tận hưởng những trải nghiệm thú vị trên bờ biển miền Trung tươi đẹp.Khi đặt chân đến các đảo Cửa Lò, trải nghiệm tắm biển là điều không thể bỏ qua. Việc ngâm mình dưới làn nước biển trong xanh tại đảo Hòn Ngư sẽ đưa bạn vào một trạng thái thư giãn, với dòng nước mát lành và vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên. Bãi tắm tuyệt vời không chỉ là nơi để bạn tận hưởng sự thư thái khi ngâm mình, mà còn là điểm đến lý tưởng cho những buổi đi dạo, và tận dụng để chụp những bức ảnh “sống ảo”. Đảo Hòn Ngư mang đến một thế giới bình yên, nơi bạn có thể tận hưởng những khoảnh khắc thư giãn đúng nghĩa. Một điều làm cho nhiều du khách ngạc nhiên khi bước chân đến đảo Hòn Ngư chính là bãi sỏi trải dài với sự đa dạng màu sắc tuyệt vời. Khi dòng nước biển ôm bờ, thời gian làm việc của nó đã tạo ra sự bào mòn trên những tảng đá, tạo nên bề mặt mịn màng với đủ loại kích thước khác nhau. Hãy để lại những khoảnh khắc sống động tại bãi sỏi độc đáo của Hòn Ngư khi bạn thăm thú vị này.Các hành trình du lịch Nghệ An thường mang theo những trải nghiệm độc đáo. Tại đảo Hòn Ngư, du khách sẽ được thưởng thức việc ngồi trên những chiếc thuyền thúng và tham gia vào hoạt động câu mực. Nhiều du khách đã trải qua trải nghiệm này và đặc biệt hứng thú khi họ thành công trong việc câu được những con mực tươi ngon. Ngày làm ngư dân thực thụ với hoạt động câu mực trên thuyền thúng chắc chắn sẽ là một kỷ niệm khó quên trong chuyến đi của bạn.Chùa cổ trên đảo Hòn Ngư có nguồn gốc từ thời kỳ nhà Trần vào khoảng thế kỷ thứ 13, với đặc điểm thờ Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn, một tướng thủy nổi tiếng tại Nghệ An và là địa điểm thờ Đức Phật. Điều đặc sắc của ngôi chùa này là sự hiện diện của Giếng Ngọc, nguồn nước ngọt duy nhất trên đảo mà luôn dồi dào. Giếng này không chỉ cung cấp nguồn nước quan trọng mà còn là nguồn nước chính để nấu nên loại rượu đặc sản nổi tiếng là rượu Song Ngư tại Nghệ An.Điểm nhấn đặc sắc nhất trong hành trình đi đảo Hòn Ngư phải kể đến những trải nghiệm vui chơi tại quần thể du lịch – giải trí lớn nhất Bắc Trung Bộ VinWonders Cửa Hội. VinWonders Cửa Hội tọa lạc tại vị trí đắc địa trên bãi biển Cửa Lò và kết nối với quần thể sinh thái đảo Song Ngư bằng hệ thống cáp treo vượt biển hiện đại dài 3.5km. Điểm đến hứa hẹn mang lại cho du khách những trải nghiệm giải trí đẳng cấp quốc tế suốt 4 mùa với hệ sinh thái sản phẩm và dịch vụ giải trí đỉnh cao. Khám phá VinWonders Cửa Hội, bạn có thể hòa vào không khí lễ hội náo nhiệt và trải nghiệm “thả ga” hàng trăm hạng mục vui chơi tại công viên Hội chợ Phù Hoa, Quảng trường Ánh Sáng… Bạn cũng đừng quên “phá đảo” công viên nước Cửa Hội mang tên Thiên đường Nhiệt đới với hệ thống đường trượt và các cụm trò chơi nước hiện đại… Đảo Hòn Ngư sở hữu cảnh đẹp thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ. Hòn đảo này không chỉ hấp dẫn du khách bởi sự mới lạ của cảnh quan mà còn là nhiều hoạt động trải nghiệm thú vị.
Nghệ An 1285 lượt xem
Tháng 05 đến tháng 09
Thành phố Vinh - trái tim của Xứ Nghệ - mảnh đất có bề dày lịch sử hàng trăm năm, nơi từng được vua Quang Trung - Nguyễn Huệ chọn làm nơi xây dựng kinh đô vào năm 1788. Để từ đó còn có tên gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Thành Vinh ngày xưa thuộc xã Vĩnh Yên, phủ Yên Trường, tỉnh Nghệ An. Nay là địa phận phường Cửa Nam -Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ an. Thành có tên gọi cũ là Thành nghệ An, trong dân gian còn có tên là Thành con rùa (thành quy hình). Sở dĩ được gọi là thành con rùa là bởi thành được xây theo hình 6 cạnh, đứng trên núi Quyết nhìn xuống trông giống như hình con rùa. Thành được xây dựng vào triều Nguyễn, đời vua Gia Long. Năm 1802, nhà Nguyễn giành được chính quyền từ vương triều Tây Sơn. Mặc dù rất thù ghét Nguyễn Huệ - Quang Trung, nhưng Gia Long không thể làm ngơ trước cái nhìn có tầm kiệt xuất của nhà quân sự thiên tài Quang Trung- Nguyễn Huệ rằng: núi Quyết, sông Vĩnh có tầm thế của một đế đô thì sao lại không đáng để xây trấn sở của một tỉnh. Chính vì vậy, năm 1804 Gia Long khởi công xây dựng thành. Tuy nhiên, do muốn xóa đi dấu vết triều Tây Sơn nên Gia Long không cho xây Thành ở núi Dũng Quyết mà xây ở địa phận 2 tức là Xã Vĩnh Yên thuộc phủ Yên Trường, chính là nơi mà dấu tích của thành vẫn còn mãi đến bây giờ. Thành được xây bằng đất.Triều đình vua Gia Long đã huy động 1.000 lính Thanh Hoá, 4.000 lính Nghệ An để xây thành. Đến đời vua Minh Mạng, năm 1831 thành được xây bằng đá ong với quy mô to lớn, kiên cố hơn. Đến thời Tự Đức, khi nâng cấp đã lấy 8.599 phiến đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền - một số tiền khổng lồ lúc bấy giờ để xây dựng. Như vậy là chúng ta có thể thấy được quy mô xây dựng thành và vị thế của thành là rất quan trọng. Thành được xây dựng chính bằng sức của nhân dân, thậm chí là bằng cả máu và nước mắt của nhân dân. Thành có cấu tạo hình lục giác, với diện tích khoảng 420.000m2 , chu vi là 2.520m. bao gồm 2 vòng thành: vòng thành trong và vòng thành ngoài. Cùng với hệ thống Thành cao là hệ thống hào sâu. Hào được đào sát bờ thành để lấy đất đắp lũy thành và cũng là hệ thống bảo vệ, tăng thêm sự khó khăn khi đối phương tấn công vào thành. Hệ thống hào hàng năm còn được thả sen để lấy hạt cống nạp triều đình. Thành có 3 cửa ra vào: cửa Tiền, cửa Tả, cửa Hữu. Cửa Tiền là cửa chính hướng về phía nam với ý thức hướng về kinh đô Huế, là cửa để vua ngự giá. Nhà vua được nghênh tiếp một cách long trọng tại đây, các quan trong lục bộ triều đình và tổng đốc ra vào cũng được nghênh đón tại đây. Cửa Tả mở về hướng đông. Chính giữa phía trên vòm cổng khắc hai chữ Hán: “Tả môn”. Phần móng của cổng nay đã bị lấp kín bởi đoạn đường này đã được rải nhựa năm 1990. Cửa Hữu được mở về hướng tây. Phần móng trung gian còn lộ ra những phiến đá xanh được mài nhẵn với nhiều kích thước khác nhau. So với cổng Tiền và cổng tả thì thân cồng Hữu vẫn còn nguyên vẹn hơn cả. Các cổng được thiết kế mái vòm. Đứng ở giữa cổng thành ta vừa có cảm giác như đứng ở giữa một ngôi nhà nhỏ kiên cố, lại vừa có cảm giác như đứng trong một lô cốt chắc chắn. Có thể nói, thành Nghệ An được thiết kế như một pháo đài quân sự, có khả năng phòng thủ cao. Trên đường vào các cổng thành, bắc qua hào sâu thì được xây cầu để đi lại. Cầu được xây theo kiểu vòm cuốn. Dưới phần móng xây bằng đá rất kiên cố. Cầu rộng 4,42 m, cao 2,5m lòng cầu rộng 3,5m thuyền có thể qua lại dưới vòm cầu dễ dàng. Vào thời Nguyễn, bên trong thành, công trình lớn nhất là hành cung. Cùng với đó là các cơ quan như dinh thống đốc, dinh bố chánh, lãnh binh, dinh đốc học, trại lính và nhà ngục. Toàn bộ thành được trang bị 65 khẩu thần công, 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh thống đốc. Thành Vinh ra đời nhằm tạo ra một trung tâm chính trị, quân sự, vừa là một công trình phòng thủ của tỉnh Nghệ An. Năm 1885 Thực dân Pháp nổ súng xâm lược đất nước ta. Chế độ phong kiến nhà Nguyễn chống cự yếu ớt nên thành Vinh nhanh chóng rơi vào tay thực dân Pháp. Kể từ đó, Thành Vinh đã trở thành chứng tích của một thời kỳ bi thương mà hào hùng của nhân dân Nghệ An. Nơi đây chứng kiến sự đấu tranh dũng cảm của người chị gái thương yêu của Bác Hồ - bà Nguyễn Thị Thanh. Bà đã tổ chức lấy trộm súng của doanh trại để cho nghĩa quân có đủ vũ khí đánh úp thành, song việc bị bại lộ, bà bị bắt và bị giải vào nhà Lao Vinh, bị tra tấn giã man. Phiên tòa ngày 4/6/1918 đã xử bà chịu đánh 100 trượng và đày khổ sai 9 năm. Tiếp đó là thời kì sục sôi khí thế của cao trào cách mạng 30, 31. Thành Vinh trở thành nơi chứng kiến những cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt, chứng kiến tinh thần dũng cảm hy sinh của nhân dân xứ Nghệ để làm nên một đỉnh cao Xô Viết. Đến năm 1941, thành Vinh lại chứng kiến sự hy sinh của Đội Cung và những binh sỹ yêu nước đứng trong hàng ngũ quân đội Pháp. Trải qua quá trình lịch sử, lớp bụi thời gian và sự tàn phá của chiến tranh đã khiến Thành không còn được nguyên vẹn. Chỉ còn 3 cổng thành vẫn còn giữ được những kết cấu cơ bản, vẫn sừng sừng án ngự giữa những con đường vào thành nội. Thành cổ Vinh một dấu tích xưa, một công trình kiến trúc độc đáo có giá trị lịch sử - văn hóa vô cùng to lớn. Năm 1998, thành Vinh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích quốc gia. Nguồn: Ban quản lý di tích Nghệ An
Nghệ An 2376 lượt xem
Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn gồm hai địa điểm, cách nhau khoảng 1,5km: quê nội thuộc xóm 2, xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn và quê ngoại thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phan Bội Châu tên húy là Phan Văn San, hiệu Sào Nam, sinh ngày 26/12/1867 trong một gia đình hàn nho, thuộc làng Sa Nam, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; là nhà văn hóa lớn và là người tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Trong đêm trường nô lệ đen tối, trên hành trình đi tìm đường cứu nước với gần ba mươi năm hoạt động gian lao vất vả, bước chân Phan Bội Châu đã trải qua nhiều địa danh: khi tỉnh Quảng, lúc Hoan Đồn, khi Tuyên Quang, Đông Kinh, Thần Hộ, Thượng Hải, Quế Việt, khi ở Nhật Bản, khi ở Trung Quốc, lúc lại về Thái Lan… Các phong trào yêu nước do Cụ Phan phát động như Duy Tân hội, Đông Du, Việt Nam Quang phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng... luôn được các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên, họ xem Phan Bội Châu như thần tượng, lý tưởng để phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu bị Thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải (Trung Quốc) giải về nước, đem xử ở tòa Đề hình Hà Nội, rồi đưa về an trí ở Huế. Sáng ngày 29/10/1940 (tức ngày 29 tháng Chín năm Canh Thìn), Cụ trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế). Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn là nơi gắn bó với cuộc đời Phan Bội Châu từ khi cất tiếng khóc chào đời, cho đến lúc ra đi hoạt động tìm đường cứu nước. Nhà Cụ Phan Bội Châu từng là nơi hội tụ “anh hùng bốn phương” - là những văn thân, sĩ phu yêu nước, dư đảng Cần Vương, khách lục lâm vong mạng nghĩa hiệp... ở khắp mọi nơi cùng nhau luận bàn việc nước. Trong số đó có Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những ngày còn thơ ấu theo cha đến thăm Cụ Phan, được nghe các bậc cha chú luận bàn việc nước, đã góp phần hình thành tư tưởng cứu nước, thương dân trong con người Hồ Chí Minh. Những năm hoạt động ở trong và ngoài nước cho đến khi bị bắt và đưa về giam lỏng ở Huế, Cụ Phan đã mấy lần về thăm quê hương và gia đình. Lần cuối cùng Cụ về thăm nhà là xuân năm Bính Dần - 1926. Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu là nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Các công trình được bố trí hài hòa, kiến trúc phù hợp, tạo thành một thể thống nhất vừa làm tốt chức năng lưu niệm, tri ân danh nhân, đồng thời toát lên sự thanh tao, nho nhã như cốt cách của cụ Phan. 1. Quê nội: nhà Cụ Phan tại quê nội nằm ở phía ngoài đê Tả Lam, nhìn ra xa là dãy Đại Huệ hùng vĩ, phía sau là dòng sông Lam. Phía Tây Bắc là rú Đụn uy nghi, từng là đại bản doanh của Mai Hắc Đế năm xưa. Hiện nay, khuôn viên di tích rộng 754m2, bao gồm các hạng mục: cổng, tường bao, nhà bia tưởng niệm, sân vườn... 2. Quê ngoại: là nơi chào đời và gắn liền với tuổi thơ ấu của Phan Bội Châu, tổng khuôn viên di tích là 4878m2, gồm 2 khu vực chính là: khu lưu niệm gồm ngôi nhà tranh và mảnh vườn của gia đình Cụ Phan Bội Châu; khu tưởng niệm gồm nhà trưng bày hiện vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Cụ Phan và các công trình phụ trợ. Hiện nay, tại di tích còn lưu giữ được 134 tài liệu, hiện vật (51 cổ vật, 83 di vật), bao gồm các chất liệu giấy, gỗ, đá, đồng, tre,... là những kỷ vật thiêng liêng gắn bó với cuộc đời và quá trình hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu. Hàng năm, tại di tích diễn ra hai kỳ lễ trọng, đó là lễ kỷ niệm ngày mất của Phan Bội Châu ngày 29 tháng Chín Âm lịch và lễ kỷ niệm này sinh của cụ Phan Bội Châu vào ngày 26/12 dương lịch, thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân địa phương, các cấp, các ngành tham dự. Ngoài ra những ngày lễ tiết, theo truyền thống địa phương như Tết Nguyên đán, Thượng nguyên, Trung nguyên... và ngày sóc vọng hàng tháng nhân dân địa phương đến dâng hương tưởng niệm rất đông. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Khu lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016). Nguồn: Cục di sản văn hoá
Nghệ An 2180 lượt xem
Đền thờ Hoàng đế Quang Trung tọa lạc trên Núi Dũng Quyết - nơi được ví như viên ngọc xanh mà thiên nhiên đã ban tặng cho Nghệ An và thành phố Vinh. Núi Dũng Quyết có 4 chi: Long Thủ (đầu rồng), Phượng Dực (cánh Phượng), Quy Bôi (cồn Rùa) và Kỳ Lân. Người xưa gọi địa thế nơi đây là đất tứ linh, bởi có đủ Long, Ly, Quy Phượng. Đây được xem là vị trí yết hầu trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước trên con đường thiên lý xuyên việt. Sau khi tham vấn La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ đã chọn vùng núi Dũng Quyết là nơi đắc địa, có khí tượng tươi sáng, hình thế rộng rãi để định đô tính kế lâu dài. Ngày 3 tháng 9 năm Mậu Thân (1/10/1788) Nguyễn Huệ Quang Trung đã xuống chiếu giao cho Trần Thủ Thận và La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tổ chức xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở vùng đất giữa núi Dũng Quyết và núi Kỳ Lân. Do đó, ngày 1/10/1788 được chọn là ngày kỷ niệm Phượng Hoàng Trung Đô. Để tuởng nhớ đến công lao to lớn của vị anh hùng áo vải, lưu giữ mối gắn bó keo sơn giữa Hoàng đế Quang Trung với quê cha đất tổ Nghệ An, ngày 15/8/2005 UBND tỉnh Nghệ An đã tiến hành khởi công xây dựng đền thờ Hoàng đế Quang Trung. Sau hơn 1000 ngày thi công, đền được khánh thành vào ngày 7/5/2008. Đền gồm có các công trình: Nghi môn tứ trụ được thiết kế theo kiến trúc hai tầng tám mái. Tiếp theo là các công trình phụ trợ: Nhà tả vu và hữu vu nơi đón tiếp đại biểu và nhà trưng bày hiện vật. Trung tâm toàn bộ kiến trúc ngôi đền là nhà tiền đường gồm có 3 gian nhà: hạ điện, trung điện, thượng điện, được thiết kế theo hình chữ Tam cao dần lên. Cả ba nhà được làm bằng gỗ lim, chạm khắc họa tiết theo phong cách thời Nguyễn. Nhà Hạ điện có khung thờ được bố trí theo tín ngưỡng thờ phụng của người Việt – Tiền phật hậu thánh. Nhà Trung điện gồm có ba gian thờ: Ở giữa bàn thờ Công đồng- thờ chung các quan lại tướng sỹ thời Tây Sơn; hai bên tả hữu thờ các quan văn và quan võ triều Tây Sơn. Nhà Thượng điện là nơi thờ Hoàng đế Quang Trung và thân phụ của Người - ông Hồ Phi Phúc và thân mẫu là bà Nguyễn Thị Đồng. Hàng năm, Thượng điện được mở vào hai dịp lễ lớn: Ngày 29 tháng 7 âm lịch - ngày giỗ của Hoàng đế Quang Trung và ngày 5 tháng 1- ngày kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Đền thờ Hoàng đế Quang Trung và di tích Phượng Hoàng Trung Đô được UBND tỉnh Nghệ An công nhận là điểm du lịch ngày 21/12/2017. Nguồn: Cổng thông tin điện tử sở du lịch tỉnh Nghệ An
Nghệ An 2158 lượt xem
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được thành lập ngày 15/ 1/1960, tọa lạc trong khu vực Thành cổ Nghệ An, tại số 10 đường Đào Tấn, phường Cửa Nam, Tp Vinh. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được đặt trên nền nhà lao Vinh, nơi mà trước đây, năm 1929 đến 1931 đã giam cầm hàng ngàn chiến sỹ cách mạng tham gia trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh là bảo tàng trưng bày chuyên đề về một sự kiện lịch sử tiêu biểu của dân tộc khi Đảng ta mới ra đời, đó là cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh 1930 - 1931. Đây cũng là một trong ba bảo tàng được thành lập sớm nhất trong hệ thống bảo tàng Việt Nam. Bảo tàng xây dựng 2 tầng, trên một khu đất rộng 2 hecta, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh vừa có kiến trúc đẹp, cổ kính, vừa hiện đại vừa mang đậm nét bản sắc dân tộc. Đây là công trình văn hóa độc đáo lưu giữ trên 5.000 hiện vật gốc và các tư liệu cách mạng của nhân dân Nghệ An trong cao trào Xô Viết 1930 - 1931. Trong khuôn viên bảo tàng rộng hơn 15.000m2, ngoài nhà trưng bày thường trực, còn có 2 công trình văn hóa, tín ngưỡng, đó là: “Đài tưởng niệm các chiến sỹ yêu nước và cách mạng bị giam cầm tại nhà lao Vinh” và “Nhà tưởng niệm các liệt sỹ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930- 1931”. Nhà trưng bày thường trực gồm có 9 phòng giới thiệu toàn bộ tiến trình của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngoài ra, bảo tàng còn có hai phòng trưng bày chuyên đề: Cuộc đời, sự nghiệp của lãnh tụ Lê nin; Chủ tịch Cay-Xỏn Phôm-Vi-Hản và tình hữu nghị Việt Nam – Lào. Phòng trưng bày số 1 là phòng khánh tiết Phòng trưng bày số 2 trưng bày, trang trí nhiều hiện vật liên quan đến phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, Phong Trào Cần Vương là hai phong trào tạo tiền đề cho Xô Viết – Nghệ Tĩnh diễn ra. Phòng trưng bày số 3 ghi lại quá trình thành lập, các hoạt động tiêu biểu của Đảng Bộ tỉnh Nghệ An. Phòng trưng bày số 4 có sa bàn mô phỏng lại cuộc đấu tranh Xô Viết – Nghệ Tĩnh cùng nhiều tranh ảnh cổ động có giá trị. Phòng trưng bày số 5 số 6, số 7 bao gồm các tranh tư liệu ghi lại diễn biến, quá trình đấu tranh chống lại sự khủng bố của kẻ thù và kết quả của phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh trong từng các giai đoạn khác nhau. Phòng trưng bày số 8 là mô hình thu nhỏ của Nhà Lao Vinh – nơi giam cầm những người hoạt động trong phong trào Cần Vương, phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh với nhiều dụng cụ tra tấn tàn bạo. Ngoài ra, cò có mô hình thu nhỏ của thành cổ Vinh. Phòng trưng bày số 9 gồm những tư liệu nói về sức ảnh hưởng của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã phấn đấu không ngừng và trưởng thành về mọi mặt, trở thành một thiết chế văn hóa nổi bật trong họat động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa xứ Nghệ. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1997. Nguồn: Tổng hợp cổng thông tin điện tử tỉnh Nghệ An
Nghệ An 2100 lượt xem
Đền Cuông tọa lạc trên núi Mộ Dạ, xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, Nghệ An là ngôi đền thờ Thục Phán An Dương Vương. Từ tư liệu đền Cuông, đền còn có tên gọi khác là đền Công, bởi xưa kia nơi đây có rất nhiều con chim công sinh sống. Đặc biệt ngọn núi này có dáng hình con chim công khổng lồ, đầu con chim công là nơi ngôi đền tọa lạc. Đền Cuông gắn liền với một vị vua trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Ngôi đền cũng gắn với truyền thuyết nỏ thần, mối tình ngang trái Mỵ Châu – Trọng Thủy. Sau khi được Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi, Thục Phán đã đoàn kết sức mạnh toàn quân, đại phá quân Tần và lên ngôi vua, lấy hiệu là An Dương Vương. Khi lên ngôi, An Dương Vương đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, trị vì đất nước trong 50 năm (từ năm 257 đến năm 208 trước công nguyên). Tương truyền, khi được thần Kim Quy giúp xây thành và làm nỏ thần, An Dương Vương mất cảnh giác và đã mắc mưu của Triệu Đà. Năm 208 trước công nguyên, sau khi chiếm được nỏ thần, Triệu Đà đã cho quân tấn công bất ngờ nước Âu Lạc, An Dương Vương phải rút lui về phương Nam. Khi đến nơi đây, cùng đường (trước mặt là núi, phía đông là biển, sau lưng là giặc), An Dương Vương đã rút gươm chém Mỵ Châu rồi tuẫn tiết tại Cửa Hiền, phía Bắc chân núi Mộ Dạ. Để tưởng nhớ An Dương Vương, sau khi nhà vua mất, nhân dân vùng này đã lập đền thờ vua ở đây. Đền đã có từ rất lâu. Cho đến nay, chưa có tài liệu nào xác định được chính xác thời điểm khởi dựng ngôi đền. Tuy nhiên, dưới thời nhà Nguyễn, đền Cuông đã được trùng tu nhiều lần, đặc biệt vào năm Giáp Tý (1864), vua Tự Đức đã ban sắc chỉ xây dựng lại ngôi đền với quy mô như ngày nay. Đền Cuông là một công trình kiến trúc đẹp, vững chắc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên, xung quanh có trồng nhiều cây xanh đan xen. Đền có kiến trúc kiểu chữ Tam, bao gồm tam quan, ba tòa thượng, trung và hạ điện. Lễ hội đền Cuông được tổ chức vào các ngày 14, 15 và 16 tháng 2 Âm lịch hằng năm. Lễ hội Đền Cuông có quy mô lớn nổi tiếng của Nghệ An, thu hút sự quan tâm đông đảo người dân địa phương và du khách khắp mọi miền đất nước. Ngày 16/01/2023, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã Quyết định chính thức ghi danh Lễ hội truyền thống đền Đông Cuông vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Nguồn: Sở du lịch Nghệ An
Nghệ An 2045 lượt xem
Cột mốc số 0 đường Hồ Chí Minh nằm cạnh bờ sông Con, dưới chân động Truông Dong, ẩn mình trong dãy đại ngàn Bồ Bồ - Ba Xanh, Động cầu ở Trại Lạt xưa, nay là thị trấn Lạt, thuộc huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Ngày 27/4/1990, Mốc Km số 0 được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Xây dựng trong khuôn viên đẹp, có suối nước chảy quanh, trước mắt là con đường Trường Sơn cũ đi qua nghĩa trang liệt sĩ của huyện. Nhà truyền thống hiện đang trưng bày nhiều hiện vật quý: Cột mốc không số bằng đá granit được dựng đầu tiên, đến cột mốc bằng gỗ khắc chạm “Đường Hồ Chí Minh Km 0”. Nơi đây có những cái tên nghe đã thấy địa linh như: Động Thờ, Khe Thần, Trại Lạt, Tập Mã. Tiếp giáp với các huyện vùng bán sơn địa như Yên Thành, Đô Lương, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Anh Sơn. Mảnh đất ấy đã đi vào lịch sử dân tộc gắn với bao chiến công lẫy lừng của chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn mà như trong thơ Nguyễn Trãi đã viết: “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”. Miền thượng Trà Lân ấy ngày nay thuộc huyện Tân Kỳ và một phần của huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Nơi mà kẻ thù vào đó sẽ tiến thoái lưỡng nan, bởi bốn bề là núi cao vực thẳm. Nghĩa quân Lam Sơn xưa đã chọn vùng đất này để lập trại (Trại Lạt); luyện tập binh mã (Tập Mã). Quân lương được đồn trú trong những thung lũng kín đáo (bản Đồn)... giàu nguồn tiếp tế. Họ đã lập ra những trại cây tự túc lương thực tại chỗ, chờ thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Đầu năm 1969, Tồng thống Ních-Xơn vừa mới lên nắm quyền đã bật tín hiệu tái diễn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam cho mở “Chiến dịch cắt cổ” hòng ngăn chặn con đường mòn huyền thoại và các trục nhánh đi vào miền Nam. Trục đường 15 A - con đường chiến lược thượng đạo mà Nguyễn Huệ hành quân thần tốc ra Thăng Long xưa, nay là những trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ, chúng oanh tạc ngày đêm, nhiều lần tập kích bằng không quân, pháo từ hạm đội 7 bắn vào các cửa tử như Bò Lăn, Dốc Lụi, Truông Én, Phà Sen, Truông Bồn, Phà Linh Cảm... Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định phải đánh bại âm mưu, chiến lược của địch. Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Quân khu 4, Quân chủng Phòng không - Không quân hợp đồng tác chiến đập tan “Chiến dịch cắt cổ” của địch. Như mối lương duyên, Trại Lạt lại một lần nữa được chọn làm đại bản doanh để xuất binh giải phóng miền Nam. Ngày 5/2/1973, Thường vụ Quân uỷ Trung ương triệu tập Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên và Chính uỷ Đặng Tính giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn: Xây dựng hệ thống đường chiến lược, đặc biệt coi trọng xây dựng cơ bản đường Trường Sơn từ Tân Kỳ - Nghệ An đi Chơn Thành - Bình Phước thành con đường quốc lộ xuyên Bắc Nam...”. Sau Hiệp định Paris, tranh thủ thời cơ thuận lợi trên mặt trận ngoại giao, Bộ Tư lệnh 559 tập trung thực thi nhiệm vụ công tác khảo sát, thiết kế được coi trọng, cán bộ kỹ thuật cần có kiến thức, đơn vị có trang thiết bị hiện đại.Bốn sư đoàn công binh gồm F470, F472, F565, F473 trực tiếp thi công. Đường Trường Sơn sôi động thành một đại công trường với lực lượng trực tiếp thi công gồm công binh, thanh niên xung phong phối thuộc. Nhà nước Cu Ba giúp ta trang bị máy móc hiện đại thi công trị giá 6 triệu USD; cố vấn cho kiến trúc sư, kỹ sư, kỹ thuật viên từng li từng tí, Nhờ vậy, đường chiến lược đã áp sát các đồn bốt, cứ điểm các quân đoàn, quân khu của địch. Ngày 13/5/1973, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên báo cáo với Thường trực Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và các Phó Thủ tướng" Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ về kế hoạch xây dựng tuyến đường Trường Sơn chạy suốt Bắc - Nam. Con đường mòn đi dưới tán rừng già, luồn lách trong lòng khe cạn để tránh bom thù. Một thung lũng rộng dài từ Đông Nam Phủ Quỳ chạy men bờ con sông Hiếu (hay còn gọi là sông Con) xuôi theo đường “15A mới” là điểm tập kết bí mật bất ngờ. Hàng vạn công binh, dân công hoả tuyến, thanh niên xung phong được điều động về đây để đào hầm hào cất giấu quân trang, quân dụng; cho xe vận tải, xe tăng, pháo, tên lửa trú ẩn, che chở cho hàng chục sư đoàn quân chủ lực. Khu rừng thiêng nước độc, dọc từ làng Ga, xã Nghĩa Bình xuống Động Thờ, Trại Lạt dài hơn 20km. Nơi đây có ba ngả đường, một ngả nối với đường 15B, một ngả là đường 15 A chạy về Đô Lương, một ngả chính là con đường vận tải chiến lược chạy vào miền Nam. Thiếu tướng Võ Sở Nguyên - Chủ nhiệm chính trị Đoàn 559 là người trực tiếp khảo sát và xây dựng điểm tập kết tại km số 0 này. Đây trở thành nơi trú quân lý tưởng của những binh đoàn chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Cũng từ đây, con em miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, họ là những cán bộ, công nhân viên ở các nông trường quân đội quốc doanh: 1 tháng 5, Đông Hiếu, Tây Hiếu, Nông trường 3 tháng 2, sông Con... có nguyện vọng về quê chiến đấu; là lực lượng cán bộ chủ chốt cho cách mạng miền Nam. Và cũng từ đây, đại binh có thể tránh được những cửa tử như ga Si, cầu Cấm, ga Vinh, Truông Bồn, phà Bến Thuỷ, phà Linh Cảm, Ngã ba Đồng Lộc để hành quân theo đường ra trận, tránh được bom đạn đánh phá, tránh được những túi lửa khổng lồ suốt đêm ngày trên tuyến lửa Khu 4. Ngày nay đường Hồ Chí Minh đã được nâng cấp, mở rộng rải nhựa Asphalt phẳng. Cột mốc số 0 cũng đã được tôn tạo và công nhận là Di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Nghệ An
Nghệ An 2010 lượt xem
Đền Quả Sơn tọa lạc dưới chân núi Quả, nay thuộc xã Bồi Sơn (huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) cách TP Vinh hơn 70km về phía tây bắc. Ngôi đền có tuổi thọ gần một ngàn năm, quy mô lớn, nổi tiếng linh thiêng này là nơi thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – Tri châu Nghệ An. Theo sử sách ghi lại, Lý Nhật Quang là con trai thứ 8 của vua Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ). Năm 1039, Lý Nhật Quang được nhà vua cử vào trông coi việc tô thuế ở vùng đất Nghệ An với tước hiệu “Uy Minh Thái tử”. Đến năm 1041, Lý Nhật Quang được bổ nhiệm làm tri châu Nghệ An với tước hiệu “Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang”. Đây là dấu mốc quan trọng khẳng định vai trò và ảnh hưởng to lớn của Lý Nhật Quang với vùng đất Nghệ An. 3 năm sau, vua Lý Thái Tông đã phong cho Lý Nhật Quang từ tước “Hầu” lên tước “Vương” thành Uy Minh Vương Lý Nhật Quang và ban cho ông quyền “Tiết Việt” (tức có quyền thay mặt nhà vua, được vua tin cậy và ủy thác quyền được định đoạt mọi chuyện chính sự tại Nghệ An). Suốt 16 năm làm Tri Châu ở Nghệ An, Lý Nhật Quang đã thể hiện tài kinh bang tế thế. Với đường lối Vương đạo, thân dân, ông là người có công rất lớn trong việc củng cố, xây dựng Nghệ An từ một vùng đất “biên viễn”, “phên dậu” trở thành một trọng trấn, pháo đài kiên cố cả về quân sự, kinh tế, văn hóa không chỉ đối với nhà Lý mà cả với các triều đại về sau. Trong thời gian trị nhậm ở đây, Ngài đã có nhiều chiến công lớn lao về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng như: Lập nên trại Bà Hòa, cung cấp quân lương cho vua Thái Tông đi mở cõi phương Nam, làm đường, đào kênh, đắp đê, mở thêm 52 châu, 22 trại, 56 sách, giúp nhân dân ổn định đời sống, biên giới được giữ vững, các nước láng giềng kính phục. Năm 1057, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang quy hóa và hiển thánh ngay dưới chân núi Quả và được nhân dân xứ Nghệ lập đền thờ gọi là đền Quả Sơn. Chuyện còn ghi lại, sau khi quy hoá, Lý Nhật Quang đã hiển thánh và luôn phù hộ cho triều đình đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược, nên các triều đại về sau, mỗi khi xuất quân đánh giặc đều về đền Quả Sơn thắp hương cầu ngài phù hộ và sau khi thắng trận thì quay về đền thắp hương tạ lễ báo công. Vì thế, người dân nói, Lý Nhật Quang sống đánh giặc, chết hiển linh đánh giặc. Hiện, ngôi mộ linh thiêng của Ngài tại di tích đền Quả Sơn luôn được nhân dân chăm sóc, phụng thờ, hương khói. Đền Quả Sơn được xây dựng từ đầu thế kỷ XI, được liệt vào hàng “quốc tế, quốc tạo”, sau đó được trùng tu nhiều lần vào thời Hậu Lê, Nguyễn. Đến đầu thế kỷ 20, đền trở thành một quần thể có quy mô lớn, gồm bảy tòa, là một trong “tứ đại thắng tích” của xứ Nghệ. Đền Quả Sơn là một công trình kiến trúc cổ, đồ sộ, là công trình hội tụ tư duy sáng tạo, mới mẻ: Bộ khung của các công trình trong đền được lấy từ các nơi đưa về và dựng lại. Đền bao gồm nhiều hạng mục, điển hình như: Tòa nhà hình chữ công gồm Thượng điện, Trung điện và Hạ điện nối liên tiếp với nhau – thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, Tả vu thờ Đông Chính Vương, Hữu vu thờ Dực Thánh Vương, phần mộ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, nhà bia, nhà ngựa và ông ngựa… Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, do thời gian và chiến tranh, đền Quả Sơn ngày nay không còn lưu giữ được quy mô và tầm vóc như xưa. Năm 1952, bom đạn đã làm cho đền bị phá hoại nghiêm trọng. Đền chỉ còn lại tấm bia đá cổ và ngôi mộ của Ngài. Đến năm 1996, thực hiện chủ trương bảo tồn, phục hồi và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa dân tộc, ngôi đền được chính quyền và nhân dân trung tu. Ngày 12/02/1999, đền Quả Sơn được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa” cấp quốc gia. Năm 2019 Lễ hội đền Quả Sơn được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, điểm du lịch của tỉnh Nghệ An. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Đô Lương Nghệ An
Nghệ An 2000 lượt xem
Làng Sen thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn ( Nghệ An ) là nơi cất tiếng khóc chào đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời cũng là nơi sinh sống thời niên thiếu của Bác. Nơi đây còn lưu giữ nhà tranh thân thương mộc mạc, ao sen, những ký ức thiêng liêng gắn liền với gia đình, tuổi thơ của Bác Hồ. Làng Sen có vẻ đẹp mộc mạc, yên bình, đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc miền Trung, giống như tâm hồn của người dân nơi đây. Có thể cảm nhận được không khí ấy khi bước chân trên con đường đất nhỏ dẫn vào ngôi nhà Bác ở năm xưa. Đôi bờ tre rì rào trong gió, hàng râm bụt đung đưa nhè nhẹ, hoa cau hoa bưởi thơm nồng, lòng cảm thấy thanh thản an nhiên đến lạ... Từ thành phố Vinh đi theo quốc lộ 46 khoảng 15km là tới làng Sen, đây cũng là một trong bốn di tích quan trọng bậc nhất cả nước về vị Chủ tịch kính yêu của dân tộc và là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ vùng đất của “địa linh nhân kiệt” nơi sinh ra nhiều bậc nhân tài gắn liền với vận mệnh của đất nước. Tham quan khu di tích du khách có thể cảm nhận đầy đủ hơn về một làng quê Việt Nam, một làng quê xứ Nghệ được ghé thăm những ngôi nhà hàng xóm thân thiết của Bác thời kỳ đó như : Lò rèn Cố Điền; nhà cụ Vương Thúc Quý; nhà thờ họ Nguyễn Sinh; nhà cụ Nguyễn Sinh Nhậm- ông nội của Bác. Các di tích cây đa, giếng Cốc, khu trưng bày hiện vật, tài liệu nhà tưởng niệm Bác Hồ... Những cảnh quan và các hiện vật quá đỗi thân thuộc gắn liền với hình ảnh của Bác như vẫn còn đọng lại một ít hơi ấm quanh đây. Trên lưng núi Động Tranh thuộc dãy Đại Huệ (xã Nam Giang-Nam Đàn) là nơi mai táng bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Bác Hồ. Mộ bà được đặt trên lưng chừng dãy núi có độ cao chừng 100m so với mực nước biển. Ngày 10.5.2012, Khu di tích Kim Liên vinh dự được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Đây thực sự là niềm vui, niềm vinh dự của người dân Nghệ An – nơi tự hào là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Mỗi năm, các tầng lớp nhân dân, kiều bào và khách quốc tế nườm nượp về quê Bác, để chiêm nghiệm những giá trị văn hóa, nhân văn cao cả. Nguồn: Báo du lịch Nghệ An
Nghệ An 1968 lượt xem
Đền Đức Hoàng tọa lạc tại xã Phúc Thành (Yên Thành, Nghệ An). Tương truyền vào đời vua Trần Nhân Tông năm Thiện Bảo, 1285 nước ta bị giặc Nguyên - Mông xâm lược. Hoàng Tá Thốn quê ở làng Vạn Phần, (xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu ngày nay), nghe theo lời gọi cứu nước của triều đình lên đường đánh giặc. Do tư chất thông minh, mưu trí và có tài bơi lội nên ngài được một tướng chỉ huy tiến cử lên Hưng Đạo Vương và được vào thủy quân thiện chiến của nhà Trần. Sau thời gian luyện tập, thấy Hoàng Tá Thốn có tài, đức và dung mạo khác thường đúng như lời truyền tụng nên Trần Hưng Đạo đã đưa ông về làm nội gia đồng tử và huấn luyện thêm về binh thư, binh pháp. Ông có nhiều công lao lớn trong đánh giặc ngoại xâm, lừng lẫy nhất là cuộc chiến trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tý 1288. Sau khi đất nước sạch bóng quân thù Hoàng Tá Thốn vẫn thường xuyên luyện tập cho binh sỹ và nhiều lần thân chinh đi kiểm tra, tổ chức hệ thống đồn lũy ở ven biển các vùng: Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An để trấn áp bọn cướp biển. Cũng trong thời gian này, Hoàng Tá Thốn về thăm lại quê hương, thấy cảnh xóm làng tan hoang, nhân dân vất vả, đói khổ vì giặc dã, bão tố, ông rất thương cảm. Trước tình cảnh ấy ông bỏ tiền của giao cho người con trai cả tìm đất mới dễ làm ăn để đưa dân làng đến lập làng mới. Rồi trong một lần đi tuần, ngài bị bệnh từ trần đột ngột tại cửa Trào, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Triều đình nghe tin vô cùng thương tiếc đã cho thuyền rồng đến chở linh cữu ngài về mai táng tại quê nhà, cho lập đền thờ và phong là Sát Hải Chàng Lại đại tướng quân, thiên bồng nguyên soái chi thần, còn gọi là Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn. Đền Đức Hoàng được khởi dựng từ thời nhà Trần trên một địa thế cao, thoáng, râm mát, cửa đền trông ra hồ Diệu Ốc. Ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ đơn sơ, đến năm 1505 mới được xây tường, lợp ngói tòa thượng điện. Hơn 300 năm sau, vào năm 1882 mới xây tòa trung điện và đến năm 1936 xây thêm nhà hạ điện. Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đền đã được nhiều lần tu bổ, sửa sang, đến nay, cảnh quan cũ của đền có nhiều thay đổi nhưng vẫn giữ được kiến trúc ban đầu. Đặc biệt là nghệ thuật trang trí, đắp phù điêu, tạc tượng ở đền đã đạt đến trình độ cao trong sáng tác nghệ thuật thần sắc, phong thái, trang phục của các hình tượng được lột tả, thể hiện một cách cụ thể, sinh động, màu sắc trang nhã, hình dáng thanh thoát, tạo nên cho ngôi đền vẻ đẹp linh thiêng. Nhất là tượng voi, ngựa trước sân đền, các mảng trang trí tam sơn, con giống ở trước hạ điện và chồng diêm, tượng quan võ ở trước hậu cung là những công trình nghệ thuật công phu. Ngoài thờ Hoàng Tá Thốn, đền Đức Hoàng còn thờ Bạch Y công chúa, là con gái của vua Hồ Quý Ly; thờ Phật Thích ca, công chúa Liễu Hạnh và thờ thần rắn. Sự thờ phụng trong đền giữa các bậc tiền nhân có công giữ nước với Phật, Thánh Mẫu tạo nên "tam giáo đồng nguyên”, như một sự giao hòa giữa trời, đất, núi sông, giữa tâm linh và trần thế. Điểm nhấn của đền Đức Hoàng đó chính là hồ sen Diệu Ốc, một trong 8 cảnh đẹp nức tiếng của xứ Đông Thành xưa kia. Chớm hạ du khách đến thưởng lãm đền Đức Hoàng gặp mùa sen nở, hương sen thơm ngát, sắc hồng của hoa, sắc xanh của lá dệt nên một tấm thảm sen khổng lồ uốn quanh theo làng mạc rất nên thơ. Sau lưng đền Đức Hoàng là rừng cây nguyên sinh với nhiều chủng loại gỗ quý, vì vậy mà không khí nơi đây quanh năm mát mẻ, rộn tiếng chim ca, sóc nhảy. Lễ hội đền Đức Hoàng hàng năm được diễn ra trong 3 ngày, bắt đầu từ 29 tháng Giêng và mồng 1, mồng 2 tháng 2 Âm lịch. Được chia làm 2 phần chính: Phần lễ và phần hội. Phần lễ trang nghiêm thành kính, bảo tồn nét đẹp trong lễ tế. Phần hội với các hoạt động văn hóa thể thao phong phú như, bóng chuyền, đấu vật truyền thống, đẩy gậy, kéo co, thi trống tế giữa các dòng họ, thi đua thuyền, chọi gà, đấu vật, đấu cờ người, đu tiên, bắt cá, bắt vịt, nhảy dây, nấu cơm, đi cầu kiều... Với phong trào văn nghệ quần chúng phục vụ lễ hội, nơi đây cũng nổi lên nhiều giọng ca ví dặm được nhiều nơi chiêu mộ và đào tạo thành tài. Nguồn: Du Lịch Nghệ An
Nghệ An 1845 lượt xem
Truông Bồn là một đoạn đèo dốc có chiều dài 5km, độ cao gần 70m trên dãy núi Thung Nưa có đỉnh cao nhất là 450m so với mực nước biển, nằm trên tuyến đường chiến lược 15A đi qua địa phận xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trong kháng chiến chống mỹ cung đường độc đạo Truông Bồn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, bởi là nơi kết nối các huyết mạch giao thông của ta từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Nơi đây được xem là tuyến lửa ác liệt nhất trên tuyến đường chiến lược 15A. Nắm được vị trí chiến lược của Truông Bồn, đế quốc Mỹ rải bom đạn huỷ diệt, hòng cắt đứt mạch máu giao thông của ta. Chỉ tính từ năm 1964 – 1968, chúng đã trút xuống nơi đây gần 20 nghìn quả bom các loại, hàng chục ngàn quả tên lửa. Trung bình mỗi kilomet đã phải hứng chịu hơn 4.000 quả bom. Truông Bồn vốn là đỉnh núi cao 70m so với mặt biển, sau nhiều năm đánh phá ác liệt Truông Bồn đã trở thành bình địa, độ cao chỉ còn hơn 30m so với mặt biển. Với số lượng bom đạn khủng khiếp như vậy, Truông Bồn được ví là hố bom của miền Bắc. Giữa mảnh đất bom cày đạn xới, khi mà cái chết luôn cận kề, nhưng hàng vạn con người nơi đây đã vượt lên bom đạn, vất vả thiếu thốn, ngày đêm bám trận địa,. Với quyết tâm sắt đá “tim có thể ngừng đập nhưng đường không thể tắc”, chúng ta đã giữ vững mạch máu giao thông, đào đắp hàng triệu m³ đất đá, đưa hơn 94 nghìn lượt xe cơ giới, vận chuyển và giải tỏa hơn 1 triệu tấn hàng vượt qua Truông Bồn theo sát các đoàn quân vào chiến trường miền Nam. Trong cuộc chiến sinh tử này, 1.240 cán bộ, chiến sỹ đã dũng cảm chiến đấu và anh dũng hy sinh, tiêu biểu là sự hy sinh của 13 chiến sỹ thanh niên xung phong Đại đội 317 ngày 31/10/1968. Đó là một buổi sáng đặc biệt, các đơn vị nhận được mật lệnh đảm bảo thông đường để đoàn xe quân sự vượt qua Truông Bồn trước khi trời sáng, mọi người hồ hởi, náo nức ra trận địa. Khi công việc sắp hoàn thành, bất ngờ, những tốp máy bay gầm rú, lao tới oanh tạc Truông Bồn, những tiếng nổ xé toang cả bầu trời, mặt đất rung chuyển, đội hình Tiểu đội 2 đã không kịp rút về hầm trú ẩn, lập tức đã bị vùi nát dưới trận bom dữ dội, đồng đội chưa kịp ứng cứu thì những loạt bom vẫn liên tục giội xuống, trên đoạn đường chỉ có chiều dài 120m này thôi nhưng đã phải hứng chịu 170 quả bom tàn phá. Mặc khói bom nồng nặc, mặt đất bốc cháy, đồng đội lao ra tìm kiếm, từng lớp đất, hòn đá được lật tung, may mắn tìm thấy chị Trần Thị Thông bị vùi sâu bên cạnh hố bom và vẫn còn cơ hội sống sót, còn lại 13 chiến sỹ thân thể đã hòa lẫn vào đất đá, cỏ cây, tất cả những gì tìm được chỉ là những phần thi thể không nguyên vẹn hình hài. Gạt nước mắt, đồng đội gom về những mẩu xương thịt trộn lẫn bùn đất, không biết được của ai, đành ngậm ngùi đắp cho các chị, các anh một ngôi mộ chung. Đau đớn không chỉ bởi trận bom khủng khiếp và tàn khốc ấy đã cướp đi sinh mạng của 11 cô gái và 2 chàng trai khi mà chỉ còn ít giờ nữa, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom trên toàn miền Bắc, chỉ còn ít giờ nữa thôi họ sẽ bước chân về phía hòa bình với nhiều dự định cho tương lai. 5 chị chuẩn bị bước vào giảng đường, giấy báo nhập học vẫn đang gói trong từng chiếc khăn mùi soa; và cũng chỉ 1 giờ đồng hồ nữa thôi, chị Tâm, anh Hòa sẽ đưa nhau về làm lễ đính hôn. Có những nỗi đau không thể nói thành lời, có những hy sinh không sử sách nào ghi hết, họ đã gạt qua bao nhiêu nước mắt, nỗi nhớ, niềm thương để sống và chiến đấu vì lý tưởng chung của cả dân tộc, họ đã lấy máu xương, tuổi thanh xuân cao quý của mình để hiến dâng cho Tổ quốc. Đó là kết tinh cao đẹp nhất tinh thần yêu nước, của ý chí quyết thắng chống giặc ngoại xâm, của lòng dũng cảm, nhân phẩm, lương tri và khát vọng hòa bình, để viết nên 1 huyền thoại Truông Bồn trong thế kỷ XX. Ghi nhận địa danh Truông Bồn, ghi nhận sự cống hiến và hy sinh oanh liệt của các chiến sĩ Truông Bồn, tiêu biểu là sự cống hiến và hy sinh oanh liệt của 13 chiến sĩ TNXP “Tiểu đội thép”, ngày 12/1/1996, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích lịch sử Quốc gia Truông Bồn. Ngày 23/9/2008, Chủ tịch nước có Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho tập thể 14 chiến sĩ TNXP Truông Bồn thuộc Đại đội 317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An, – trong đó có, 11 chiến sĩ nữ và 2 chiến sĩ nam đã anh dũng hy sinh. Nguồn: Báo công an nhân dân online
Nghệ An 1711 lượt xem
Khối 2, Quốc Lộ 7, Huyện Con Cuông, Nghệ An, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Nghệ An
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
212, Bình Minh, Thị Xã Cửa Lò, Nghệ An, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Nghệ An
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ