Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Chill cùng Nắng là khu dã ngoại lý tưởng tại Ninh Bình, nơi mang đến cho du khách những trải nghiệm thư giãn, vui chơi và khám phá thiên nhiên tuyệt vời. Hãy nghe Ma Thị Hải Anh (Ninh Bình) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Chill cùng Nắng tọa lạc tại Ninh Xuân, Ninh Bình, là nơi lý tưởng để du khách tìm đến nếu muốn tận hưởng không gian yên tĩnh và trong lành. Không gian tại khu dã ngoại này được thiết kế rộng rãi, thoáng đãng, giúp mọi người cảm nhận sự thư thái ngay từ khi đặt chân đến. Bạn có thể nghỉ ngơi dưới những tán cây xanh mát, hòa mình vào không khí trong lành của núi non và sông nước bao quanh. Mỗi góc nhỏ trong khu dã ngoại đều mang đến một cảm giác bình yên, giúp bạn tránh xa sự ồn ào của cuộc sống thường ngày. Đây là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn thư giãn và tìm lại sự cân bằng trong cuộc sống.
Không chỉ vậy, Chill cùng Nắng còn có nhiều khu vực để bạn tự do lựa chọn, từ khu vực cắm trại ngoài trời đến những chiếc lều bạt được trang bị đầy đủ tiện nghi. Bạn có thể dựng lều và tận hưởng một đêm giữa thiên nhiên, lắng nghe tiếng suối chảy và gió thổi qua những tán cây. Khung cảnh nơi đây cũng rất đẹp, tạo ra những bức ảnh ấn tượng mà bạn khó có thể bỏ qua. Không gian thoải mái và gần gũi với thiên nhiên chắc chắn sẽ mang đến cho bạn những giờ phút thư giãn tuyệt vời. Đặc biệt, nếu bạn yêu thích hoạt động ngoài trời, nơi đây có không gian lý tưởng để cắm trại, nghỉ ngơi và tham gia vào những trò chơi thú vị.
Khu dã ngoại Chill cùng Nắng mang đến cho du khách một loạt các hoạt động ngoài trời thú vị. Bạn có thể tham gia cắm trại trong những chiếc lều được chuẩn bị sẵn, cùng bạn bè và gia đình thưởng thức bữa ăn trong không gian mở. Cắm trại là một trải nghiệm tuyệt vời để hòa mình vào thiên nhiên, thư giãn và có những khoảnh khắc ý nghĩa bên người thân yêu. Những khu vực cắm trại được bố trí thoáng mát, dễ dàng di chuyển và rất an toàn, tạo điều kiện cho du khách tận hưởng trọn vẹn kỳ nghỉ.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Ngoài cắm trại, Chill cùng Nắng còn tổ chức các hoạt động khác như chèo thuyền kayak trên mặt hồ. Đây là cơ hội tuyệt vời để bạn thử sức mình với các môn thể thao dưới nước, đồng thời ngắm nhìn cảnh quan thiên nhiên xung quanh. Các hoạt động thể thao này không chỉ mang đến những phút giây sảng khoái mà còn giúp du khách thư giãn và tái tạo năng lượng. Các trò chơi cũng rất đa dạng, từ làm nông, chăm sóc cây trồng đến các trò chơi nhóm vui nhộn. Tất cả những hoạt động này đều phù hợp với mọi lứa tuổi và mang lại những trải nghiệm khó quên.
Ẩm thực tại Chill cùng Nắng là một điểm nhấn không thể bỏ qua khi đến đây. Du khách sẽ được thưởng thức các món ăn đặc sản của Ninh Bình như cơm cháy, dê núi, cùng nhiều món ăn khác mang đậm hương vị địa phương. Những món ăn này được chế biến từ nguyên liệu tươi ngon, sạch sẽ, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và mang lại hương vị thơm ngon, hấp dẫn. Bữa ăn tại đây không chỉ ngon mà còn rất phong phú, từ các món ăn dân dã đến những món cao cấp, phù hợp với khẩu vị của nhiều du khách.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Khi đêm xuống, Chill cùng Nắng lại càng trở nên hấp dẫn với những chương trình giải trí đặc sắc. Một trong những hoạt động không thể bỏ qua là tham gia vào buổi lửa trại, nơi bạn và những người thân có thể ngồi quanh đống lửa, hát hò và chia sẻ những câu chuyện vui vẻ. Đêm lửa trại là một trải nghiệm tuyệt vời để kết nối với nhau, tận hưởng không khí ấm cúng và tạo ra những kỷ niệm đáng nhớ. Đây cũng là dịp để bạn cảm nhận sự thân thiện, ấm áp của thiên nhiên và con người nơi đây.
Chưa hết, đội ngũ nhân viên tại Chill cùng Nắng luôn nhiệt tình và chu đáo, sẵn sàng hỗ trợ du khách trong suốt chuyến đi. Mọi nhu cầu của bạn đều được đáp ứng một cách nhanh chóng và chuyên nghiệp, giúp bạn cảm thấy thoải mái như ở nhà. Điều này khiến cho mỗi chuyến đi đến Chill cùng Nắng luôn tràn đầy sự hài lòng.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Chill cùng Nắng đã nhanh chóng trở thành một điểm đến thu hút đông đảo du khách, không chỉ bởi không gian thiên nhiên tươi đẹp mà còn vì những dịch vụ du lịch chất lượng. Sự kết hợp hoàn hảo giữa các hoạt động giải trí, ẩm thực phong phú và không gian thiên nhiên làm cho khu dã ngoại này trở thành điểm đến lý tưởng cho mọi lứa tuổi. Với những hoạt động ngoài trời thú vị và không gian thoải mái, bạn sẽ có cơ hội thư giãn và khám phá vẻ đẹp của Ninh Bình một cách trọn vẹn.
Tam Cốc – Bích Động thường được biết đến với những cảnh đẹp nên thơ, thanh bình nhưng không kém phần mỹ miều, làm say đắm lòng người – nơi được ưu ái bằng những cái tên đầy ví von “Nam thiên đệ nhị động” hay “Vịnh Hạ Long trên cạn.” Sẽ thật là một thiếu sót nếu bạn không dành thời gian du lịch Tam Cốc – Bích Động Ninh Bình, bởi đây là một điểm đến tuyệt vời. Phải nói Tam Cốc – Bích Động mùa nào cũng đẹp, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng. Nhưng nếu bạn muốn chiêm ngưỡng những cánh đồng lúa xanh mơn mởn, tràn trề sức sống trải dài trên dòng sống uốn lượn như một dải lụa mềm mại, mang đến cho bạn cảm giác trong veo, tươi mới, đắm chìm trong hương vị của đất trời, của sông nước, của thiên nhiên thì dịp sau Tết vào độ tháng 1, tháng 2 là thời điểm thích hợp. Còn nếu bạn muốn chiêm ngưỡng một bức tranh tuyệt đẹp của tạo hóa với những nét chấm phá xen lẫn của màu vàng lúa chín, hòa quyện với màu xanh núi rừng và xa xa điểm xuyến bằng những con thuyền nhẹ trôi vô cùng thơ mộng thì tầm cuối tháng 5, đầu tháng 6 – khi mùa hạ đã về là dịp thích hợp để thưởng thức vẻ đẹp của Tam Cốc – Bích Động. Một kinh nghiệm du lịch Tam Cốc – Bích Động đó là bạn có thể đi rồi về trong ngày, để tiết kiệm thời gian – hãy xuất phát từ sáng sớm vừa được hít hà không khí ban mai, vừa có một chuyến đi trọn vẹn vì Tam Cốc – Bích Động chỉ cách trung tâm Hà Nội tầm 110km, cũng chính vì vậy hành lý bạn mang theo chỉ cần một vài đồ dùng đơn giản như áo khoác mỏng phòng khi vào đi thuyền vào hang nhiệt độ thấp cùng với hơi nước sẽ gây cảm giác lành lạnh. Bạn cũng có thể mang thêm ô để dùng trong lúc ngồi thuyền trên sông. Thêm nữa, tốt nhất bạn nên mang giày bệt để thuận tiện cho quá trình di chuyển và tham quan thoải mái. Ngoài ra bạn có thể mang thêm chút đồ ăn nhẹ để dùng khi đói. Có hai lựa chọn cho bạn, một là bạn tự túc di chuyển bằng phương tiện cá nhân như ô tô hay xe máy để chủ động trong suốt quá trình du lịch Tam Cốc – Bích Động, hoặc nếu bạn đi nhóm đông người và muốn có cơ hội vừa tham quan vừa tản bộ thì có thể đón xe đi Ninh Bình từ bến xe Giáp Bát, Mỹ Đình. Để chuyến đi thuận lợi thì các bạn nên thống nhất trước phương tiện, thời gian di chuyển cũng như tôn trọng sự đúng giờ. Để chiêm ngưỡng và hòa mình vào vẻ đẹp Tam Cốc Bích Động, bạn chỉ có một lựa chọn duy nhất là đi thuyền. Và nếu bạn là một người ưa chụp ảnh, mong muốn lưu giữ lại những khoảnh khắc đáng nhớ, những khung cảnh nên thơ thì hãy trao đổi và nhờ sự giúp đỡ của những người lái thuyền. Kinh nghiệm và sự thông thạo địa hình của họ sẽ giúp bạn ghi lại những tấm hình kỉ niệm. Một lưu ý nữa là bạn nên căn thời gian để chuyến đi được trọn vẹn vì thời gian ngồi thuyền khi du lịch Tam Cốc – Bích Động cũng chiếm gần 3h đồng hồ, tránh việc phải ngồi thuyền vào giờ trưa lúc có nắng to, hay quá tối muộn khi mặt trời đã lặn. Và chắc chắn là sẽ rất tuyệt nếu bạn tìm được một chỗ ngồi lý tưởng để ngắm mặt trời lặn ở đây, ánh hoàng hôn chan hòa bao bọc cả những cánh đồng, cả những dòng sông như câu chuyện gắn bó, sẽ chia của tự nhiên với con người nơi đây. Đến với Tam Cốc – Bích Động bạn nhất định sẽ có những giây phút thư giãn tuyệt vời và đáng nhớ.
Ninh Bình 2027 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Cố đô Hoa Lư là một quần thể kiến trúc đặc sắc ở tỉnh Ninh Bình, đã được UNESCO công nhận là một trong 4 vùng lõi thuộc quần thể di sản Thế giới Tràng An. Nơi đây cũng được nhà nước xếp hạng là quần thể kiến trúc, di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt quan trọng, cần được hết sức gìn giữ. Với bề dày lịch sử hơn 1000 năm, nơi đây đã cùng trải qua biết bao thăng trầm biến chuyển của dân tộc, là nơi lưu giữ các di tích lịch sử qua nhiều thời đại cũng như trở thành minh chứng lịch sử cho đất nước ta tự ngàn đời. Tuy nhiên cho dù đã trải qua nhiều thăng trầm của thời gian nhưng Hoa Lư vẫn còn giữ được những dấu vết lịch sử của nó. Đó là những bức tường thành vững chãi, là hai ngôi đền thờ vưa Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành uy nghiêm được xây dựng mô phỏng kinh đô Hoa Lư xưa. Các bạn có thể đến Hoa Lư vào bất kì thời điểm nào trong năm đều được. Tuy nhiên mùa xuân là thời điểm đẹp nhất cũng như rất nhiều lễ hội được tổ chức, thế nên đây là thời điểm thích hợp dành cho bạn nếu muốn tham gia và trải nghiệm không khí nhộn nhịp, đông đúc của những lễ hội này. Còn nếu là người thích yên tĩnh, muốn tận hưởng không gian thanh bình của nơi đây thì bạn có thể lựa chọn đi vào những ngày còn lại. Từ trong quá khứ, Hoa Lư đã là đế đô thật nguy nga, tráng lệ. Những núi đồi mọc lên trùng điệp xung quanh vòng đai kinh đô như bức tường thành vững chãi. Con sông Hoàng Long uốn khúc và cánh đồng Nho Quan, Gia Viễn mênh mông là hào sâu thiên nhiên vô cùng thuận lợi. Toàn bộ khu di tích lịch sử – văn hóa Cố đô Hoa Lư, bao gồm vùng bảo vệ đặc biệt, vùng đệm và các di tích như động Thiên Tôn, chùa Bái Đính, đều nằm trong hệ thống núi đá vôi ở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, trực thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, giáp ranh giới hai huyện Gia Viễn và Hoa Lư. Nơi đây cách phía Nam thủ đô Hà Nội khoảng gần 100km. Cố đô Hoa Lư là một quần thể kiến trúc, và mỗi kiến trúc lại mang một nét riêng, tất cả làm nên vẻ cổ kính và hào hùng của di tích lịch sử thời xưa. Các dấu tích lịch sử vẫn còn lưu lại tại quần thể di tích rất đa dạng và phong phú, gồm các kiến trúc tường thành, hoàng thành, hang động, đền chùa, lăng mộ và nhiều loại công trình kiến trúc khác có giá trị lịch sử và văn hóa cao. Đặc biệt nhất, tại đây vẫn còn hai di tích là đền vua Đinh và đền vua Lê. Đây là hai di tích được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 với nghệ thuật điêu khắc trên gỗ đá vô cùng kì công và đặc sắc. Con đường vào đền vua Đinh dẫn du khách đi dưới tán những hàng cây phượng vĩ ven đường. Người ta gọi Hoa Lư là kinh thành đá và đền vua Đinh, vua Lê cũng sử dụng nhiều chất liệu từ đá. Ví dụ như khi bước vào sân đền, du khách sẽ thấy long sàn bằng đá tảng và hai con nghê chầu cũng được tạc bằng đá xanh nguyên khối. Vào hậu cung, du khách sẽ thấy tượng thờ vua Đinh được đúc bằng đồng đặt trên tảng đá xanh. Đền vua Lê nằm cách đền vua Đinh 50m cũng cùng chung cấu trúc như thế. Cách đền vua Lê 200 m, là chùa Nhất Trụ, được xây từ đời vua Lê Đại Hành, trước cửa chùa có cột đá, cao 4,16 m hình tám cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm do nhà vua làm để dâng nhà Phật. Nằm ngay cạnh là khu di tích gắn liền với câu chuyện của công chúa thứ ba của vua Đinh Tiên Hoàng đã nhảy xuống giếng tự vẫn chứ không theo chồng phản tặc chống lại vua cha. Ngôi đền này thờ cô công chúa ấy. Vào ngày 8/3 – 10/3 hàng năm là thời điểm diễn ra lễ hội truyền thống cố đô Hoa Lư nhằm tôn vinh các vị vua và anh hùng dân tộc đã xây dựng và phát triển nên kinh đô Hoa Lư, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt vào thế kỉ X. Lễ hội Cố đô Hoa Lư bao gồm 2 phần: phần lễ và phần hội. Bên cạnh phần lễ thì phần hội với các trò chơi đậm nét truyền thống như đua thuyền, đấu vật, hát chèo… được diễn ra trong không khí vô cùng tưng bừng, náo nhiệt. Khi đến khu di tích này bạn cần lưu ý những điều sau. Hoa Lư Ninh Bình là địa điểm du lịch tâm linh, vì thế khi đến đây bạn cần phải ăn mặc lịch sự, kín đáo. Đến thăm đền vua Đinh, vua Lê các bạn cần phải nhẹ nhàng trật tự để giữ gìn sự tôn nghiêm cũng như thắp hương để tỏ lòng thành kính với các vị vua đã có công với nước. Cần phải tuân thủ theo sự hướng dẫn của ban quản lý di tích hoặc hướng dẫn viên nếu đi theo đoàn. Phải vứt rác đúng nơi quy định, không được xả rác bừa bãi. Nếu tự đi thì bạn nên xem trước bản đồ để thuận tiện hơn cho chuyến hành trình khám phá của mình. Các bạn có thể trực tiếp trò chuyện với các cụ trong ban quản lý di tích đền để tìm hiểu sâu hơn về lịch sử, giá trị văn hóa, kiến trúc… của khu di tích. Nếu muốn được tận mắt ngắm nghía, chiêm ngưỡng những công trình vô cùng có giá trị lịch sử cũng như giá trị kiến trúc thì hãy mau tới với cố đô Hoa Lư Ninh Bình-một công trình mang ý nghĩa lịch sử hết sức lớn láo mà thế hệ cha ông ta đã bỏ công gìn giữ và bảo tồn đến tận bây giờ. Hãy cùng về nơi đây để thăm lại cố đô xưa, sống lại với những giây phút hào hùng của lịch sử dân tộc.
Ninh Bình 2297 lượt xem
Tháng 1 đến tháng 12
Đã từ lâu, Nhà thờ đá Phát Diệm không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh chung của bà con giáo dân trong vùng Kim Sơn, mà còn là công trình kiến trúc đặc sắc thu hút du khách gần xa đến tham quan, chiêm ngưỡng. Bởi đây không chỉ là một công trình kết hợp hài hoà, đặc sắc giữa nghệ thuật kiến trúc phương Đông và phương Tây mà còn là một kỳ tích của thế hệ cha ông để lại cho đời sau. Nhà thờ đá Phát Diệm được Chánh xứ Phát Diệm Phêrô Trần Lục (tức Cụ Sáu) - người được bổ nhiệm làm Chánh xứ Phát diệm vào năm 1865 cho xây dựng vào những năm cuối thế kỷ 19 sau nhiều năm nghiên cứu, hoàn chỉnh phác thảo họa đồ và tập trung tài lực, vật lực. Nhà thờ được làm bằng chất liệu chủ yếu là đá và gỗ. Trên từng phiến đá, phiến gỗ như nở hoa khoe sắc với các đường nét khắc trạm tinh xảo. Đáng chú ý nhất là nghệ thuật điêu khắc đá vô cùng mềm mại, uyển chuyển, có những mảnh đá chỉ dày 3,5cm. Cả khu kiến trúc gồm có 9 vỉ kèo với 9 giai thợ khác nhau, do vậy mỗi vỉ kèo mang một nét văn hoá riêng biệt, thể hiện khiếu thẩm mỹ phong phú của những người thợ thủ công lành nghề. Hơn nữa, nhà thờ được xây dựng toàn bằng đá mà không cần đến lõi bê tông cốt thép. Phần khó nhất của công trình này là việc xử lý nền móng. Do Kim Sơn vốn là vùng đất bãi bồi lầy lội nên Chánh xứ Phê rô Trần Lục phải cho khai thác và vận chuyển hàng ngàn tấn đá từ một quả núi ở Thanh Hóa đưa về chống lún, trong đó có những khối đá nặng đến 20 tấn. Đồng thời, cụ Lục cũng cho khai thác và vận chuyển hàng mấy trăm cây gỗ lim từ rừng núi Nghệ An về xây dựng công trình. Tuy nhiên, điều làm cho các nhà nghiên cứu văn hóa, kiến trúc sư say mê ở quần thể Nhà thờ Phát Diệm, là kiểu kiến trúc đình chùa phương Đông kết hợp hài hòa với lối kiến trúc Gôtic của phương Tây. Cụ Sáu là người đã thiết kế, sáng tạo ra nhà thờ với những chi tiết vô cùng mới lạ. Cũng có thể do cụ không phải là người theo đạo Thiên chúa mà theo đạo Phật nên trong bản thiết kế của mình, cụ đã có sự kết hợp rất tài tình giữa kiến trúc nhà thờ phương Tây và kiến trúc mái uốn cong như mái đình trong đạo phật. Tinh hoa nghệ thuật ở nhà thờ đá Phát Diệm còn thể hiện rõ sự hài hòa giữa nghệ thuật chạm khắc đá và nghệ thuật chạm khắc gỗ của Việt Nam như biểu tượng thánh giá (biểu trưng đạo Công giáo) ngự trên đài sen (biểu trưng Phật giáo), những chữ “vạn” của nhà Phật khắc trên mấy đóa hoa mân côi, các phù điêu đá, gỗ chạm khắc hình ảnh Chúa Jesus và các vị thánh; trong đó các vị thánh trang phục theo kiểu Việt nhìn thật sống động mà gần gũi, quen thuộc như xem tranh dân gian; cột đá chạm hình hoa sen biểu hiện các giai đoạn “sinh - lão - bệnh - tử” theo triết lý nhà Phật. Ấn tượng hơn nữa là Nhà thờ Trái tim Đức Mẹ được tạo dựng hoàn toàn bằng đá, cung thánh sơn son thếp vàng chói lọi với nhiều hoa văn, họa tiết chạm trổ tinh tế, công phu nhưng vẫn tạo cảm giác thật dịu dàng, yên bình bởi thiết kế bình dị và quen mắt theo nguyên lý Dịch học của phương Đông “trời tròn, đất vuông”. Nơi đây còn có một câu Kinh thánh được chạm khắc lên đá bằng Việt ngữ thời sơ khai. Có thể nói, Quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm là sự giao thoa, sự kết hợp hài hoà, tinh tế của lối kiến trúc nhà thờ phương Tây và kiến trúc truyền thống phương Đông. Công giáo mang đức tin đến cho con người nhưng phong cách kiến trúc, không gian thờ tự mang đậm hình ảnh mái đình, ngôi chùa vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, tạo nên sự bình an, che chở, đây cũng là biểu tượng của sự gặp gỡ giữa công giáo và truyền thống tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam từ rất sớm.
Ninh Bình 1931 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Quần thể Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Tràng An nằm trên địa bàn nhiều huyện của tỉnh Ninh Bình. Đây là di sản “kép” duy nhất của nước ta được UNESCO công nhận. Quần thể di sản này gồm liên khu danh thắng Tràng An - Tam Cốc - Bích Động - cố đô Hoa Lư - rừng đặc dụng Hoa Lư. Trong quần thể ấy, cố đô Hoa Lư tọa lạc ở phía Bắc; Tam Cốc - Bích Động nằm ở phía Nam; còn khu du lịch Tràng An nằm ở vị trí trung tâm. Từ trung tâm thành phố Ninh Bình, du khách chỉ cần đi thêm khoảng 8km là có thể tới đây. Mỗi mùa xuân - hạ - thu - đông, Tràng An lại khoác lên mình một tấm áo mới. Và mỗi thời điểm trong năm, du khách đều tìm thấy những điều đáng khám phá nơi đây: Mùa xuân, du khách được hòa mình vào những lệ hội đặc sắc như: Lễ hội Tràng An (giữa tháng 3 âm lịch); hội Cờ Lau (mồng 8 - 10 tháng 3 âm lịch). Mùa hè nơi đây đẹp mê hồn với đồng lúa chín vàng hay đầm sen ngát hương thơm. Mùa thu, thời tiết mát mẻ, dễ chịu, rất lý tưởng cho những hoạt động tham quan, khám phá ngoài trời. Mùa đông, Tràng An ẩn hiện trong làn sương mờ ảo tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Đến khu du lịch Tràng An, du khách có thể viếng thăm các địa điểm văn hóa tâm linh nổi tiếng như: Đền Trình - nơi thờ phụng 4 vị công thần nhà Đinh. Đền Trần Ninh Bình: Ngôi đến được lập bởi vua Đinh Tiên Hoàng để thờ thần Quý Minh - vị thần trấn cửa ải phía nam tứ trấn Hoa Lư. Đền Tứ Trụ - nơi thơf 4 vị đại thần dưới triều Đinh có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân để dựng nên nhà nước Đại Cồ Việt. Phủ Khống - nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh. Hành cung Vũ Lâm - địa điểm check-in không ai muốn bỏ lỡ. Những hang động huyền bí: Hang Địa Linh với chiều dài gần 1500m và hệ thống nhũ đá hóa thạch. Hang Nấu Rượu với mạch nước ngầm sâu hơn 10m và hàng trăm vò rượu được chưng cất từ chính mạch nước ngầm này. Hang Bói - nơi phát lộ dấu tích của người tiền sử cách đây khoảng một vạn năm. Hang Sáng – hang Tối, hang Ba Giọt cũng là những hang động đáng để du khách tham quan. Với địa hình sông nước, thuyền là phương tiện đi lại chủ yếu ở khu du lịch Tràng An. Du khách có thể chọn đi thuyền truyền thống với 3 tuyến xuất phát từ bến thuyền gồm: Tuyến 1: Bến thuyền – Đền Trình – Hang Tối – Hang Sáng – Hang Nấu Rượu – Đền Trần – Hang Ba Giọt – Hang Seo – Hang Sơn Dương – Phủ Khống – Chùa Báo Hiếu – Hang Khống – Hang Trần – Hang Quy Hậu – trở lại bến thuyền. Tuyến 2: Bến thuyền – Hang Lấm – Hang Vạng – Hang Thánh Trượt – Đền Suối Tiên – Hang Đại – Hành Cung Vũ Lâm – trở lại bến thuyền. Tuyến 3: Bến thuyền – Đền Trình – Hang Mây – Suối Tiên – Hang Địa Linh – Hang Đại – Hành Cung Vũ Lâm – trở lại bến thuyền. Ngoài ra, khu du lịch cũng cung cấp dịch vụ chèo thuyền Kayak với 2 tuyến chính: Tuyến 1: Bến thuyền - Đền Trình - Cổng Tam Quan - Cửa hang Tối - Cửa hang Quy Hậu - Núi Ngọc. Tuyến 2: Bến thuyền - Bến Đảo Kong - Thủy Đỉnh - Hành Cung Vũ Lâm.
Ninh Bình 2191 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
1. Du lịch chùa Bái Đính thời điểm nào đẹp nhất? Từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch vào mùa xuân thời tiết nơi đây vô cùng ấm áp cũng là thời điểm đẹp nhất để đi Bái Đính Tràng An. Bạn có thể kết hợp du xuân vãn cảnh, lễ chùa cầu may và tham gia các lễ hội lớn ở cả Tràng An và Bái Đính. 2. Di chuyển đến chùa Bái Đính như thế nào? Bạn có thể tham khảo một số cách phổ biến để di chuyển đến chùa Bái Đính sau đây: - Đi bằng xe máy: Để hạn chế chi phí bạn có thể chủ động di chuyển bằng xe máy đến Ninh Bình. Với cách này, bạn di chuyển theo Quốc lộ 1A đến trung tâm thành phố sau đó đi theo biển chỉ dẫn để đến Bái Đính. - Đi bằng xe khách: Từ Hà Nội có thể bắt các chuyến xe khách đi Ninh Bình từ các bến xe Giáp Bát, Mỹ Đình. Giá vé khoảng tầm khoảng 70.000 – 80.000 VNĐ/ người. Dừng chân tại bến xe Ninh Bình, bạn tiếp tục bắt xe bus hoặc taxi khoảng 130.000 VNĐ/lượt để tới khu chùa Bái Đính. - Đi bằng tàu hỏa: Với cách này, bạn lên tàu từ Hà Nội và xuống ở ga Ninh Bình. Từ đây bạn có thể đi xe bus hoặc bắt taxi để đến Bái Đính. Giá vé tàu dao động khoảng 70.000 – 120.000 VNĐ/người tùy theo hạng chỗ ngồi. 3. Di chuyển tại chùa Bái Đính như thế nào? Những du khách lựa chọn đi xe điện sẽ đợi xe tại khu vực nhà chờ, sau đó di chuyển 3.5km đường nhựa để đến thẳng cổng Tam Quan Chùa Bái Đính. Giá vé xe điện từ bãi xe đến cổng Tam Quan cấp nhật mới nhất 2022 là: Giá vé xe điện chùa Bái Đính dành cho người lớn: khoảng 30.000đ/vé/lượt ⇔ khoảng 60.000đ/vé khứ hồi. Giá vé xe điện dành cho trẻ em: Dưới 1m miễn phí vé, trên 1m tính như người lớn. 4. Giá vé tham quan chùa Bái Đính. Bạn sẽ cần phải thuê dịch vụ thuê hướng dẫn viên cho chùa Bái Đính là khoảng 300.000 đồng cả chùa mới và chùa cổ là khoảng 500.000 đồng. Vé lên Bảo tháp Chùa Bái Đính là khoảng 50.000 đồng. 6. Du lịch chùa Bái Đính ăn gì? Bạn có thể tham khảo một số địa điểm ăn ngon khi du lịch chùa Bái Đính được nhiều người ghé tới dưới đây: Miến lươn bà Phấn: 999 Trần Hưng Đạo, Thanh Bình, Ninh Bình. Nhà hàng Luận Nhàn: Xóm 4, Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Nhà hàng Thăng Long: Tràng An, xã Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Nhà hàng Nhà Sàn Vân Long: Xã Gia Vân, Huyện Gia Viễn, Gia Vân, Gia Viễn, Ninh Bình. 7. Lưu ý khi du lịch chùa Bái Đính Tuy chùa Bái Đính là một địa điểm du lịch hấp dẫn nhưng bạn cũng cần phải lưu ý một số vấn đề sau để có thể có một chuyến đi du lịch trọn vẹn nhất nhé: Vì trong suốt hành trình tham quan chùa các bạn sẽ đi bộ khá nhiều đấy, vì vậy bạn nên đi những đôi giày thể thao thay vì bạn đi những đôi cao gót sẽ giúp bạn di chuyển dễ dàng hơn. Nếu như muốn mua đồ lưu niệm thì hãy đợi khi xuống núi hãy mua. Vì nếu bạn mua trong khuôn viên chùa sẽ có giá "cắt cổ" đấy. Hãy mang theo vài đồng lẻ để quyên góp, cầu may mắn cho bản thân, gia đình. Nếu bạn đi dịp đầu xuân thì nên mang theo ô để đề phòng có những cơn mưa phùn nặng hạt nhé. Nguồn: https://63stravel.com/
Ninh Bình 2078 lượt xem
Vườn quốc gia Cúc Phương có diện tích là 25.000ha và cũng là rừng quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Đặc trưng của Cúc Phương là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm cùng quần hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng. Có không ít loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao đã được phát hiện và bảo tồn tại đây, trong đó nổi bật là loài voọc mông đen trắng được xem là biểu tượng của rừng Cúc Phương. Thời điểm thích hợp nhất để đến vườn quốc gia Cúc Phương là vào mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 5), lúc này thời tiết trong rừng rất mát mẻ. Tránh đi vào mùa mưa bởi lúc này đường trơn cũng như có rất nhiều muỗi và vắt, sẽ làm ảnh hưởng tới những trải nghiệm khi du lịch. Đặc biệt đến với vườn quốc gia Cúc Phương vào tháng 5 là thời điểm bướm ở rừng Cúc Phương nở rộ nhất. Với số lượng cá thể có thể lên tới hàng triệu con cùng đua nhau khoe sắp ngợp trời, khiến cho nơi đây giống như một “rừng bươm bướm” tuyệt đẹp như trong chốn thần tiên. Động người xưa: Hay còn có tên là hang Đắng. Đây là nơi lưu giữ những dấu tích cư trú và mộ táng của người tiền sử, là một di sản quý của vườn Cúc Phương. Hang Con Moong: Bởi bên ngoài cửa hang có một khối đá lớn nhô ra trông giống hình con thú nên được đặt tên là hang Con Moong (hang con thú theo tiếng Mường). Đây cũng là nơi cư trú của người tối cổ, đồng thời cũng là di chỉ khảo cổ quan trọng được xếp dạng di tích quốc gia. Động Trăng Khuyết: nhìn từ xa nhìn cửa động có hình trăng khuyết, động nằm ở sâu phía trong rừng. Đỉnh Mây Bạc: Đỉnh mây bạc có độ cao 648m, từ đỉnh ta có thể ngắm nhìn bao quát toàn cảnh khu vườn quốc gia cùng với cố đô Hoa Lư và chùa Bái Đính. Tuy nhiên đường lên đỉnh Mây Bạc có nhiều dốc đá khá khó đi, thế nên nơi đây chỉ thích hợp với những người có sức khỏe tốt. Hồ Yên Quang – động Phò Mã: đi ngược ra đường Nho Quan khoảng 7km, đến cầu Tri Phương rẽ về phía Tây là đến hồ Yên Quang. Đi tiếp qua Thung lá tới chân dãy núi đá vôi là động Phò Mã. Động Phò Mã là công trình kiến trúc ảo diệu của thiên nhiên tạo hóa với vô số nhũ đá có hình thù thú vị. Những cây cổ thụ ngàn năm: rừng Cúc Phương có rất nhiều cây cổ thụ như: Cây Đăng cao 45m với đường kính 5m, cây Chò xanh ngàn năm có chu vi hơn 20 người ôm, cây sấu cổ thụ … Bản Mường: Cúc Phương cũng là nơi sinh sống của cộng đồng người Mường với nhiều nét văn hóa đặc trưng độc đáo như nhà sàn, ruộng bậc thang, khung dệt thổ cẩm… Trung tâm cứu hộ linh trưởng: Là nơi bảo tồn và nuôi dưỡng nhiều loài linh trưởng quý hiếm. Đến đây du khách sẽ không chỉ được quan sát vẻ đẹp của các loài linh trưởng mà còn được tìm hiểu nhiều hơn kiến thức về loài động vật này. Những điều cần lưu ý khi du lịch Vườn Quốc Gia Cúc Phương bao gồm: Cần chuẩn bị đầy đủ các vật dụng cần thiết như: mũ, giày đi rừng, thuốc men, băng gạc, đồ ăn thức uống…. trước khi tham Cúc Phương. Có thể mang theo ống nhòm để ngắm cảnh. Trong rừng có rất nhiều các loại muỗi vắt, vì thế có một mẹo để các bạn phòng tránh những con vật đáng ghét này là mua thuốc DEP (thuốc trị ghẻ ngứa) dạng kem bôi vào các khu vực nhạy cảm như đầu, gáy, cổ tay, cổ chân… Mùi khét của loại thuốc này chính là khắc tinh của các loài động vật trên.
Ninh Bình 2042 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Chùa Bích Động nguyên có tên “Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng”, nghĩa là ngôi chùa bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn thâm sơn cùng cốc. Năm 1774 chúa Trịnh Sâm trong một lần đến thăm nơi này mới đổi tên thành cái tên như ngày nay. Chùa Bích Động là kiểu chùa trong hang động rất phổ biến ở Ninh Bình. Một số chùa trong hang khác ở Ninh Bình như chùa Bái Đính, chùa Địch Lộng, chùa Kỳ Lân, chùa Hoa Sơn, chùa Cánh Diều, chùa Hang… Chùa vốn được hình thành từ năm 1428 và chỉ là ngôi chùa nhỏ ở trên đỉnh núi. Năm 1705, hai vị hoà thượng Trí Kiên và Trí Thể gặp nhau kết nghĩa làm anh em. Hai nhà sư đều mong muốn đi nhiều nơi để truyền bá đạo Phật và xây dựng các ngôi chùa. Đến đây, thấy hang Bích Động địa thế đẹp và đã có sẵn một ngôi chùa, nên hai nhà sư quyết định dừng chân sửa sang chùa cũ, đi quyên giáo xây dựng lại thành 3 ngôi chùa: Hạ, Trung và Thượng để tu hành. Năm 1707, hai nhà sư Trí Kiên và Trí Thể đã đúc một quả chuông lớn, hiện còn treo ở Động Tối. Năm Giáp Ngọ 1774, chúa Trịnh Sâm đến thăm chùa, nhìn toàn cảnh quanh chùa đều xanh tươi nên đã đặt tên cho chùa là Bích Động. Chùa Bích Động được dựng bằng gỗ lim, mái lợp bằng ngói ta không có mấu, mũi lượn tròn, các góc của mái đều có đầu đao cong vút hoặc như hình cái đuôi con chim phượng, làm cho mái uốn lượn, uyển chuyển như sóng nước thủy triều. Chùa Bích Động được dựng theo kiểu chữ “Tam”, ba toà không liền nhau, tam cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành 3 ngôi chùa riêng biệt: Hạ, Trung và Thượng. Điều độc đáo của chùa là núi, động và chùa bổ sung cho nhau ẩn hiện giữa những đại thụ, làm cho chùa hoà nhập với cảnh trí thiên nhiên. Chùa Hạ có 5 gian xây trên một nền cao. Trong chùa thờ Phật, kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh”. Vì kèo, xà ngang, xà dọc cũng bằng gỗ lim. Mái chùa là hai tầng mái uốn cong, gồm 8 mái. Các cột đá ở chùa Hạ đều bằng đá liền khối, không chắp nối, cao hơn 4m. Từ chùa Hạ bước lên 120 bậc theo đường hình chữ S là chùa Trung. Phía trước chùa là hai chữ “Bích Động” tạc vào vách núi. Đây là ngôi chùa độc đáo, một nửa gắn vào hang động, một nửa lộ thiên. Chùa có 3 gian thờ Phật. Lễ Phật xong ở thượng điện, bước lên 21 bậc đá là đến động tối. Phía trên của mái chùa có mười chữ Hán màu vàng: “Già Lam Thần Đại Hùng Bảo Điện Nam Thiên Tổ” – “tất cả các vị sư tổ ở trời Nam này đều xuất phát từ chùa Bích Động ra đi”. Phật Thích Ca Mâu Ni ở chùa Trung có cửu long phù giá. Hai tượng phía ngoài là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Phổ Hiền Bồ Tát, bên trong chính cung là tượng thờ A-nan-đà tôn giả. Lên chùa Thượng, du khách phải đi thêm 40 bậc đá theo sườn núi. Chùa Thượng còn gọi là chùa Đông, chùa thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Chùa Thượng nằm ở vị trí cao nhất, gần đỉnh núi Bích Động. Từ chùa nhìn ra xa có 5 ngọn núi trông giống như 5 cánh sen, là Ngũ Nhạc Sơn, gồm núi Tầm Sặng, Gia Định, Con Lợn, Đầu Cầu và núi Hang Dựa. Chùa Bích Động là ngôi chùa trong hang độc nhất vô nhị ở Việt Nam, không nơi nào có thế đất, thế núi giống như vậy. Đứng ở chùa Thượng có thể phóng tầm mắt bao quát được toàn bộ cảnh đẹp của Bích Động, cũng như của non nước Ninh Bình.
Ninh Bình 2385 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long cách trung tâm thành phố Ninh Bình 17 km về phía Đông Bắc, được UBND tỉnh Quyết định thành lập tháng 12 năm 2001, là một trong ba khu rừng đặc dụng của tỉnh Ninh Bình và nằm trong hệ thống hơn 100 khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Diện tích tự nhiên hơn 3.500 ha, trong đó diện tích thuộc khu bảo tồn quản lý là 2743 ha, trong đó phần đất ngập nước thường xuyên có diện tích khoảng hơn 400 ha. Đây được coi là khu đất ngập nước nội đồng lớn nhất đồng bằng Bắc Bộ. Vân Long là nơi tập trung nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn, có vị trí thuận lợi cho việc thăm quan du lịch, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Với ý nghĩa “Vân” là mây, “Long” là rồng, Vân Long là nơi rồng mây hội tụ, cũng có nghĩa là nơi tụ thuỷ (vì mây và rồng đều là biểu hiện của nguồn nước). Cái tên “Vân Long” mang trong mình một ước mơ, một khát vọng của con người nơi đây về cuộc sống yên bình, mưa thuận, gió hoà “như rồng gặp mây”. "Vân Long" còn có nghĩa là rồng bay trong mây. Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình là các xã: Gia Hưng, Liên Sơn, Gia Hòa, Gia Vân, Gia Lập, Gia Tân, Gia Thanh ở phía Đông Bắc tỉnh Ninh Bình. Địa hình Vân Long bằng phẳng, độ chênh không quá 0,5m. Là khu vực có đa dạng sinh học cao, có hệ sinh thái núi đá vôi là nơi sinh sống của quần thể “Voọc quần đùi” lớn nhất Việt Nam. Rừng Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 327 chi, 127 họ. Đặc biệt có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam (1996) là kiêng, lát hoa, tuế lá rộng, cốt toái bổi, sắng, bách bộ, mã tiền hoa tán… Về động vật có 39 loài, 19 họ, 7 bộ thú; có 12 loài động vật quý hiếm như Voọc quần đùi (với số lượng lớn nhất ở Việt Nam), gấu ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt đỏ, cày vằn,… Trong các loài bò sát có 9 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam là rắn hổ chúa, kỳ đà, trăn đất, rắn ráo trâu, rắn ráo thường, rắn sọc đầu đỏ, rắn cạp nong, rắn hổ mang, tắc kè. Điều đáng chú ý là tại khu vực ngập nước Vân Long có loài cà cuống thuộc họ chân bơi, một loài côn trùng quý hiếm, hiện còn rất ít ở Việt Nam. Cà cuống sống được thể hiện sự trong lành của môi trường nước, của không gian cảnh quan xung quanh. Khu du lịch sinh thái Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang rộng có giá trị như hang Cá, hang Bóng, hang Rùa, hang Chanh. Ở đây còn có Kẽm Chăm và đền thờ Mẫu, nơi thờ mẹ của bốn tướng Hồng Nương. Non nước Vân Long là một nơi du lịch sinh thái rất tốt, là hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn nghiên cứu về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.
Ninh Bình 1804 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là khu du lịch sinh thái tuyệt đẹp trong quần thể Tràng An, vườn chim Thung Nham hay khu du lịch Thung Nham là nơi bạn nên đến ít nhất một lần trong đời. Khu du lịch vườn chim Thung Nham (hay còn gọi là Thung Chim) thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Nơi đây nằm trong lõi quần thể danh thắng Tràng An nổi tiếng và rất gần với Tam Cốc Bích Động. Là một khu du lịch sinh thái trải rộng trên 334 ha, vườn chim Thung Nham có rất nhiều danh thắng đẹp nên thơ mà bạn không thể bỏ qua. Nếu không có nhiều thời gian, bạn nên tới ít nhất 3 địa điểm sau đây. Đầu tiên là hang Bụt. Hang Bụt là hang đá tự nhiên dài 500m thuộc khu du lịch vườn chim Thung Nham. Trong hang có thạch đá hình ông Bụt đang ngồi bên dòng sông ngầm rất đẹp. Hang tối và không có hệ thống đèn điện chiếu sáng, bạn sẽ cầm theo đèn pin để tham quan. Như đã nói ở đường đi Thung Nham Ninh Bình, bạn nên mua vé ở đò ở ngay cổng soát vé đầu tiên để tham quan hang Bụt. Tiếp theo là Động Vái Giời. Động Vái Giời là động nằm trên núi cao, rộng khoảng 5000 m2 với 3 tầng động chứa rất nhiều măng nhũ đá chia thành “Trần gian, Địa ngục và Thiên đường”. Có tích rằng đây là nơi lập đàn tế Trời của người xưa, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Các du khách tới vườn chim Thung Nham hầu như đều đi thăm động để cầu chúc chuyến tham quan bình an tốt đẹp. Để tham quan Động Vái Giời, sau khi đi qua cổng soát vé 500m, bạn rẽ phải để hướng lên động. Sau khi vượt qua thử thách 439 bậc thang đá, bạn sẽ tới được cửa động. Cuối cùng là Khu vường chim. Đây chắc chắn là điểm đến quan trọng nhất của khu du lịch vườn chim Thung Nham Ninh Bình. Khu vườn chim là không gian sinh sống của rất nhiều loài chim như cò, vạc, le le, chích chòe,… đặc biệt là hai loài quý hiếm trong sách đỏ là hằng hạc và phượng hoàng. Dãy núi đá vôi sừng sững in bóng trên làn nước xanh cùng những đàn chim chuyền cành tạo nên khung cảnh bình yên thơ mộng hiếm nơi nào có được. Thời gian tốt nhất để tham quan khu vườn chim là mùa thu, tiết trời se lạnh, khoảng 17h khi chim đi kiếm ăn về. Tuy nhiên nếu không sắp xếp được thời gian, bạn có thể tới vào 5h – 7h sáng hoặc 16h – 18h để ngắm chim bay, hoặc 14h – 15h để kịp về Hà Nội trong ngày. Nếu có nhiều thời gian hơn, bạn nên tham quan đầy đủ các địa danh khác tại Vườn chim Thung Nham, ví dụ như: Động Tiên Cá, Khu miệt vườn, Động Thủy Cung, Cây đa di chuyển, Thung lũng tình yêu,…
Ninh Bình 1905 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hang Múa nằm dưới chân núi Múa trong quần thể khu du lịch sinh thái thuộc địa phận thôn Khê Đầu Hạ, xã Ninh Xuân, Hoa Lư, Ninh Bình. Điểm nhấn của địa điểm du lịch này ngoài phong cảnh tuyệt đẹp chính là con đường dẫn lên đỉnh núi Múa, khung cảnh xung quanh trước khi bạn lên đến đỉnh núi Múa phủ một màu xanh bạt ngàn với cánh đồng lúa, những căn nhà mái ngói đỏ bên mặt hồ, hay ở xa xăm kia là những rặng núi đá, vách đá khổng lồ đang tựa vào nhau… Đứng từ nơi đó, bạn sẽ thấy ngay một dải đá trắng dẫn lối lên đỉnh núi, con đường này được lấy cảm hứng từ Vạn Lý Tường Thành với gần 486 bậc. Hai bên của các bậc thang được trang trí tinh xảo với các hình vẽ rồng và phượng, thể hiện nghệ thuật điêu khắc thời Trần, rất sắc nét và đẹp mắt. Từ đỉnh núi Múa, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn bộ cảnh đẹp của khu Tam Cốc, danh thắng nổi tiếng ở Ninh Bình. Theo truyền thuyết, vua Trần khi về vùng Hoa Lư lập Am Thái Vi thường tới đây để nghe các mỹ nữ, cung tần múa hát. Vì vậy, nơi đây được đặt tên là Hang Múa.Du khách khi tham quan Hang Múa đều cố gắng thử sức chinh phục ngọn núi này với 486 bậc thang trên vách núi đá dựng đứng sừng sững. Đỉnh núi Múa là nơi duy nhất tại Ninh Bình cho bạn có thể chiêm ngưỡng toàn bộ cảnh đẹp của khu Tam Cốc. Một trong những trải nghiệm đáng nhớ mà du khách có thể thử là ngắm bình minh và hoàng hôn tại Hang Múa. Thời gian lý tưởng để ngắm bình minh là từ 5h00 đến 6h00 sáng, hoặc từ 17h00 đến 18h00 để ngắm hoàng hôn. Du khách có thể tham khảo giờ mặt trời mọc hoặc lặn dự kiến trên các ứng dụng thời tiết để có thể “canh” được khoảng thời gian chính xác để ngắm bình minh/ hoàng hôn nhé.Vào thời điểm 6 hàng năm, vùng đồng quê tại Tam Cốc sẽ trở nên lung linh với sắc vàng của những cánh đồng lúa chín và màu xanh của núi non thiên nhiên. Sau khi vượt qua hơn 500 bậc thang để đạt tới đỉnh núi Ngọa Long, du khách có thể phóng tầm mắt ra xa, chiêm ngưỡng toàn bộ khung cảnh mùa lúa chín. Những cánh đồng lúa chín vàng như một tấm thảm khổng lồ, trải dài tít tắp đến tận chân trời. Màu vàng mùa lúa chín Ninh Bình hòa quyện với màu xanh của núi rừng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Cứ mỗi độ hè về là mùa sen lại đến khiến cho Hang Múa trở nên lung linh và rực rỡ, với sắc hoa sen trắng, hồng bung tỏa. Đầm sen Hang Múa rộng khoảng 1ha và nằm ngay dưới chân núi Ngọa Long, được cánh đồng lúa chín vàng cùng núi non hùng vĩ bao quanh nên khung cảnh cũng mang đậm nét thơ mộng như trong những thước phim cổ trang. Thế nên chỉ cần lựa chọn được trang phục phù hợp là bạn có thể check-in và cho ra lò những tấm hình để đời ngay tại đây. Sen ở Hang Múa nở đến tận cuối năm, nhưng thời điểm hoa khoe sắc rực rỡ nhất chính là vào tháng 6 – 7. Với đủ các loại sen trắng, sen hồng, có thể nói đầm sen Hang Múa là chốn sống ảo lý tưởng cho du khách bởi sen ở đây nở rộ cùng lúc, tạo nên cảnh quan đẹp mắt.Hang Múa, Ninh Bình đã trở thành một điểm đến vô cùng ấn tượng, đặc biệt dành cho giới trẻ có sở thích chụp hình mong muốn sở hữu những bức ảnh check-in ấn tượng nhất.
Ninh Bình 1358 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08
Lăng vua Lê Đại Hành nằm dưới chân núi Mã Yên về phía Nam, hai bên có hai quả núi mà nhân dân gọi là “Long chầu, Hổ phục”, là tay ngai, nên núi còn có tên chữ là Hoàn Ỷ Sơn. Trong khu vực thành ngoại của Kinh thành Hoa Lư ngày nay thuộc Thôn Yên Thượng, Xã Trường Yên Huyện Hoa Lư, Tỉnh Ninh Bình. Lăng vua Lê còn có tên gọi khác nữa theo nhân dân địa phương là Mả Quan. Cách gọi này có thể xuất phát từ quan niệm của dân gian về vai trò, vị trí (bề tôi) của Lê Hoàn dưới triều đại vua Đinh Tiên Hoàng, tuy nhiên tên gọi này cổ xưa và không phổ biến lắm. Lăng vua Lê thuộc loại hình di tích mộ táng, theo truyền thống cổ truyền của dân tộc. Theo quan niệm của người xưa, lăng vua Đinh - vua Lê đều đặt vào nơi được gọi là “huyệt Đế Vương”. Vua Lê Đại Hành tức Lê Hoàn trước đây là người tài giỏi võ nghệ, phóng khoáng, có chí lớn. Lê Hoàn gia nhập nghĩa quân Hoa Lư, theo Nam Việt Vương Đinh Liễn tham dự các trận mạc, đánh dẹp các sứ quân cát cứ, lập nhiều chiến công. Được vua Đinh Tiên Hoàng trọng là bậc trí dũng và trở thành Thập Đạo tướng quân dưới triều nhà Đinh. Lê Hoàn cầm quân đuổi giặc Tống, đánh thắng Chiêm Thành, củng cố bộ máy Nhà nước phong kiến độc lập, thống nhất. Chính quyền cũng chăm lo thi hành một số biện pháp tích cực cho sự phát triển kinh tế. Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc. Có thể nói, dưới triều vua Lê Đại Hành, Kinh đô Hoa Lư và đất nước Đại Cồ Việt đã có sự phồn thịnh, ổn định. Về chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao có xu thế phát triển, đánh dấu những mốc quan trọng. Ông xứng đáng là người đã dẹp yên thù trong, giặc ngoài, tạo thế mạnh nước nhà và tỏ rõ quyền uy với nhà Tống phương bắc. Năm Ất tỵ 1005, vào tháng ba Vua Lê Đại Hành băng hà ở điện Trường Xuân. Khi vua Lê mất, quần thần an táng và xây dựng lăng mộ ở phía tây nam chân núi Mã Yên. Kích thước của lăng nhỏ hơn lăng của vua Đinh Tiên Hoàng nhưng vẫn chứng tỏ được thế uy nghi của vị đế vương. Phía sau là bia đá, mặt chính của bia có dòng chữ: "Lê Đại Hành Hoàng Đế lăng" và dòng niên đại của bia: Minh Mệnh năm thứ 21 (1840). Theo truyền lại trong dân gian, vùng đất Trường Yên khi xây dựng Kinh đô Hoa Lư, vua Đinh và vua Lê đều lấy Mã Yên Sơn làm tiền án, lấy dãy Đại Vân làm hậu chẩm cho kinh thành. Núi Mã Yên cũng là nơi Vua thường ngự trong mỗi lần duyệt thủy quân. Lăng vua Lê Đại Hành đã được trùng tu vào năm 2020, uy nghi xứng đáng với tầm vóc của vị Hoàng đế. Vị thế lăng vua Đinh và lăng vua Lê nằm trong khu di tích Cố đô Hoa Lư, gắn liền với các di tích trung tâm như: Đền thờ vua Đinh - vua Lê và các di tích phụ cận khác. Ngoài giá trị lớn về mặt lịch sử - văn hóa, nơi ghi dấu ấn vẻ vang của dân tộc, đây còn là nơi được thiên nhiên ban tặng cảnh quan sơn thủy hữu tình, thu hút du khách gần xa về thăm quan, chiêm bái, tri ân bậc vĩ nhân có công lớn với đất nước. Nguồn: Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 1967 lượt xem
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng, còn có tên là đền Đinh Bộ Lĩnh, đền Văn Bòng hoặc đền Đại Hữu (lấy tên địa danh nơi ngôi đền tọa lạc), hiện thuộc thôn Văn Bòng, xã Gia Phương huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Tương truyền, đây chính là nơi gắn với tích sinh ra Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng dân tộc có công trong việc dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt vào năm 968. Tại đây, cũng có bài vị thờ các quan trung thần là tứ trụ triều đình nhà Đinh gồm Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Tương truyền, vua Đinh Tiên Hoàng cùng với con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại vào năm 979, theo nghi lễ triều đình đã tấn phong thuỵ hiệu, mỹ tự, lập đền thờ cúng tại quê nhà. Như vậy, đền đã được khởi lập từ xa xưa. Hiện nay phần còn lại của di tích mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Những nguồn tư liệu về vua Đinh Tiên Hoàng rất nhiều, chính sử và truyền thuyết dân gian đã ghi lại và âm hưởng chung là ca ngợi sự tài giỏi, công lao to lớn của ông đối với sự nghiệp thống nhất đất nước, mở nền chính thống của nước ta sau hàng nghìn năm nô lệ. Trên mảnh đất quê hương ông hiện nay vẫn còn rất nhiều truyền thuyết, địa danh liên quan tới thời ấu thơ của Đinh Tiên Hoàng cũng như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, những vị danh tướng cùng quê Đại Hữu với vua Đinh. Núi Kỳ Lân nằm ở đầu xã Gia Phương, cách đền gần 3km, với lăng phát tích vua Đinh, động Đại Hữu, lăng phát tích Nguyễn Bặc. Về phía tây nam của núi có một khoảng uốn lượn trông giống hình tay ngai, lưng chừng có một khu rộng tương đối bằng phẳng. Tương truyền, ông Đinh Công Trứ, thân phụ của Đinh Tiên Hoàng thấy cảnh đẹp đã mang mộ của ông nội nhà vua an táng tại ngai này, xây dựng lăng mộ, gọi là Lăng phát tích, hiện đã được tôn tạo. Cạnh Lăng phát tích có động Đại Hữu ở lưng chừng núi, trong hang có nhiều hình thù đẹp do nhũ đá tạo thành, có chỗ có hình giáng như con Kỳ Lân, nên còn gọi là động Kỳ Lân. Trước đây, theo truyền lại thì hang có đền thờ Sơn Thần, là nơi nương tựa của bà Đàm Thị và Đinh Bộ Lĩnh khi ông Đinh Công Trứ qua đời, như nhiều sách đã viết. Phía đông nam lăng phát tích vua Đinh còn có lăng phát tích Nguyễn Bặc. Lăng nằm cạnh chân núi. Ngay phía trước đền, cách khoảng hơn 200m là gò Bồ Đề, một khu đất cổ cao ráo, hình vuông, rộng gần 200m2 ở đầu xóm Văn Bòng, tương truyền đây là nền nhà cũ của Đinh Bộ Lĩnh. Ở giữa khu ruộng của thôn Văn Bòng, gần đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng có một khoảng đất tương đối cao, rộng hàng nghìn mét vuông, có tên cổ là Đào Áo (còn gọi là xứ Đào Áo). Tương truyền nơi đây là chỗ tụ quân của Đinh Bộ Lĩnh để tập trận. Nhìn chung vùng xung quanh di tích hiện nay còn lưu lại rất nhiều địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đây là những nguồn sử liệu quý để làm sáng tỏ thân thế và sự nghiệp của ông. Đặc biệt từ quê hương ông ở xã Gia Phương hiện nay, ngược lên Gia Hưng (Gia Viễn), sang Trường Yên (Hoa Lư), cả một chiều dài, rộng hàng chục km, vùng đất nào cũng có những địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đền thờ được tu bổ quy mô trong những năm gần đây, nhưng vẫn bảo tồn được nét kiến trúc thời Nguyễn cổ kính, quay hướng tây có ba toà, kiến trúc theo kiểu “tiền nhất, hậu đinh”. Phía trước đền là hồ bán nguyệt. Phía trong hồ, khoảng giữa của sân được xây 2 cột đồng trụ tạo thành lối ra, vào di tích. Khu đền thờ gồm 3 toà: Tiền bái, Trung đường và Chính tẩm. Tiền bái gồm 5 gian, kiến trúc theo lối chồng rường bằng gỗ lim, tường hồi bít đốc. Toàn bộ các đầu bẩy chạm khắc hoa văn lá lật, riêng gian giữa mặt đầu bẩy chặm khắc rồng. Các con chồng ở hệ thống các vì kèo đều được chạm hoa văn lá lật. Bờ nóc Tiền bái hình lưỡng long chầu nguyệt. Trung đường tiếp giáp với Tiền bái, gồm 3 gian, kiến trúc theo kiểu mê toàn (toàn bộ hệ thống hoành nằm trên các mê kèo), phía trước có hệ thống cửa ra vào, các đều bẩy chạm hoa văn lá lật. Đặc biệt mê kèo phía đầu đốc hai bên cửa hiên có mảng chạm bong đề tài tứ linh khá tinh vi. Tòa Chính tẩm gồm 2 gian chính và 1 gian dĩ. Kiến trúc theo kiểu thượng rường hạ mê. Di tích hiện còn giữ được một số hiện vật quý như tượng thờ, ngai, khám thờ, sắc phong của các triều đại… Hàng năm, vào dịp lễ hội cố đô Hoa Lư, người thôn Văn Bòng và xã Gia Phương, cũng mở hội đền và tham gia lễ rước kiệu lửa từ quê hương vua về cố đô Hoa Lư. Với những giá trị lịch sử và văn hóa nổi bật, đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 1944 lượt xem
Chùa và đền Khả Lương ở làng Khả Lương, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Chùa còn có tên chữ là Thắng Lâm Tự (chùa Thắng Lâm). Đền Khả Lương có địa thế đẹp nằm trên mảnh đất hình con rùa, phía trước sân là miệng con rùa, nên dân làng không san lấp, như một kiểu “thuỷ trì” là nơi tụ thuỷ, tụ phúc. Tương truyền chùa được khởi dựng từ thời Lý, đến thời Nguyễn dân làng di chuyển đền từ địa danh Mả La về phí trước chùa, tạo thành một kiểu kiến trúc “Tiền Thần, Hậu Phật”. Đền có cấu trúc kiểu chữ Đinh hậu cung nối thêm một hàng cột và một mảnh giường tạo thành Tiền Đường ba gian. Hậu Cung ba gian, bốn hàng chân cột bằng gỗ lim, lợp ngói vẩy, vì kèo ngoài, kiểu kèo mê, vì trong kiểu giá chiêng, được chạm khắc rồng hổ phù tứ linh: long, ly, quy, phượng, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đền là nơi thờ cúng Hộ Sinh Đại Vương, người có công cứu giúp dân làng khỏi đại nạn, được Nhà phong là Hộ Quốc Đại Vương, trở thành Thành Hoàng của làng Khả Lương. Chùa Khả Lương có kiến trúc kiểu chữ Nhị (=) Tiền Đường năm gian vì kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, trốn một hàng cột giữa , hàng cột trước được làm bằng đá xanh. Hậu Cung hay Chùa Thượng ba gian, những kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, hàng cột trước và hàng cột sau bằng đá xanh, phía trước có hai con rồng chầu bằng đá (tương truyền từ đời Lý). Chùa thờ Tam Thế, A Di Đà tam tôn, Thích ca sơ sinh, Thánh Tăng, Thổ Địa râu trắng, một tín ngưỡng dân gian với mong ước phù hộ che trở cho nhân dân và ngôi làng của mình. Ngoài ra chùa còn thờ Hàn Lâm, đó là nơi thờ các cô hồn, đây cũng là một việc thờ tự cổ xưa mang tính chất lương thiện tốt đẹp của người dân. Hàng năm chùa và đền Khả Lương diễn ra nhiều các hình thức sinh hoạt văn hóa như ngày hội kỷ niệm vua Trần Thái Tông, ngày xá tội vong nhân, ngày lễ Thích Ca thánh Phật, ngoài ra còn những ngày Tư, Rằm, mùng Một nhân dân trong làng đều thắp hương, cúng bái. Di tích trải qua các thời kỳ cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng của địa phương. Trong kháng chiến chống Pháp chùa là cơ sở chữa trị cho thương binh, chùa còn là nơi sơ tán của trường Phổ thông cấp I, xã Ninh Thắng. Nhiều người đã trưởng thành trong mái trường này. Chùa và đền Khả Lương còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: bia đá, chuông, rồng đá, sắc phong, long ngai, bài vị… đây là những hiện vật có giá trị đang được nhân dân trong làng bảo quản rất cẩn trọng để ghi nhớ công lao của các bậc tiền nhân. Đền và chùa Khả Lương xã Ninh Thắng là một ngôi đền, chùa cổ, có cảnh quan đẹp, cây cối toả bóng xanh mát quanh năm, đây còn là một kiến trúc thời Nguyễn mang phong cách truyền thống của dân tộc. Xuất phát từ những giá trị của di tích, UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng di tích Đền và chùa Khả Lương là Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Nguồn: Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 1906 lượt xem
Chùa và động Am Tiên nằm trong dãy núi Ngũ Phong Sơn, phía Đông Nam khu di tích Cố đô Hoa Lư, thuộc địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là cụm di tích chứa đựng nhiều giá trị về không gian cảnh quan kiến trúc, lịch sử, văn hoá, tín ngưỡng đặc sắc. Năm 1998 di tích được Bộ Văn hoá – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Chùa và động Am Tiên ngoài thờ Phật còn thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không, người có công tu sửa động và dựng chùa. Không chỉ tinh thông đạo pháp, Ngài còn tinh thông y thuật, vì có công lớn chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông nên được phong là Quốc sư - vị cao tăng đứng đầu Phật giáo dưới triều đại nhà Lý. Theo truyền thuyết địa phương và các thư tịch còn lưu giữ tại di tích, vào thế kỷ X, động này vốn là ngục đá, nơi vua Đinh Tiên Hoàng nhốt hổ báo để trừng trị những kẻ phạm tội nặng. Về sau động không dùng làm ngục tù nữa, nhưng tương truyền những oan hồn tử khí vẫn còn trong động. Người dân địa phương đi qua đây thường nghe thấy tiếng ma kêu quỷ khóc, hổ thét, beo gầm, không ai dám đến gần động. Đến thời Lý, Quốc sư Nguyễn Minh Không vào đây đã lấy động làm chùa, ngày ngày tụng kinh thuyết pháp làm cho ma quỷ không kêu rú, hãm hại dân lành nữa. Theo văn bia “Đại Chu Ma Sơn Áng Đại Quang Thánh nham bi”. niên đại Chính Long Bảo Ứng thứ 4 (năm 1166) khắc trên vách cửa động cho biết: Động này có tên gọi là động Đại Quang Thánh, nằm trên ngọn núi lớn Chu Ma Sơn Áng. Theo văn bia “Tiên Am tự bi Tiên Am thạch lộ chí”. do Tuần phủ Phan Đình Hòa soạn vào niên hiệu Bảo Đại thứ 7 (năm 1932) hiện lưu giữ tại di tích cho biết: “Từ khi có Đại Quang Thánh quy ẩn ở động này, sau lấy động làm chùa. Dựa vào Phật Thánh mà biến nhà ngục thành kỳ viên, động biến thành chùa từ đó. Niên hiệu Tự Đức thứ 32 (năm 1879) mới hưng công sửa lại. Các hội chủ quanh vùng luôn chú ý việc sửa sang chùa ngày thêm đẹp đẽ và hội Tập phúc đặt tên cho chùa là Am Tiên”. Chùa và động Am Tiên toạ lạc ở lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam, phía trước có hồ lớn uốn khúc, bao bọc xung quanh là những dãy núi đá vôi trùng điệp. Văn bia “Tiên Am tự bi ký”. niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 (năm 1887) cho biết, khi muốn vào động phải trèo qua một “quèn núi cao khoảng 8,9 trượng… trong quèn có ruộng ước hơn 10 mẫu có thể cấy lúa, hai bên núi có cảnh sắc hoang dã, cầm thú, chim muông đối họa, vì vậy gọi là Cổ Am. Núi làm thành bao bọc lấy am, trong núi đá có động. Từ phía dưới men theo cạnh mà lên động”. Văn bia này cũng cho biết thêm. “cảnh chùa không biết tạo dựng từ khi nào. Năm thứ 32 đời vua Tự Đức (1879) thấy cảnh chùa hoang vu, cảnh u thảm, vì vậy bản hội đồng lòng tu sửa. Những thứ mục nát thì cẩn thận niêm phong, sơn lại tượng Đại Quang Thánh, sơn lại tượng quốc pháp thiền sư Nguyễn Minh Không ở phủ bên phải, riêng tượng Phật chưa sơn lại được. Đến đời vua Hàm Nghi thì trang hoàng xong hết”. Chùa và Động Am Tiên còn lưu giữ được những di vật có giá trị. Ở vách đá bên phải động có tấm bia ma nhai “Đại Chu Ma Sơn Áng Đại Quang Thánh nham bi”. (Nghĩa là: bia khắc ở vách hang động Đại Quang Thánh trên ngọn núi lớn Chu Ma Sơn Áng). Bia đề niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 4 (1166). Bên trái động dựng ba tấm bia, trong đó có hai bia đá thời Nguyễn niên đại Đồng Khánh thứ 2 (năm 1887), Bảo Đại thứ 7 (năm 1932) và một bia không có chữ. Nội dung hai tấm bia đều nói về lịch sử tên gọi của chùa và quá trình tu sửa chùa. Vách đá bên trái cửa động có treo một quả chuông nhỏ. Ngoài vẻ đẹp về không gian cảnh quan kiến trúc, chùa và động Am Tiên còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị. Đây là nguồn sử liệu có giá trị trong việc tìm hiểu nghiên cứu về vùng đất cố đô Hoa Lư, về nhà nước Đại Cồ Việt, về các sự kiện, nhân vật lịch sử. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 1835 lượt xem
Khu di tích phòng tuyến Tam Điệp là gọi theo tên gọi phòng tuyến Tam Điệp của nghĩa quân Tây Sơn, được xây dựng vào cuối năm Mậu Thân (1788) để chuẩn bị lực lượng cho chiến dịch thần tốc, đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789). Vào cuối năm Mậu Thân (1788), bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống rước 29 vạn quân Thanh vào xâm lược nước ta. Trước sức mạnh ban đầu của giặc, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm cùng các tướng lĩnh Bắc Hà rút lui chiến lược về xây dựng phòng tuyến Tam Điệp và Biện Sơn, hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu. Phòng tuyến Tam Điệp là giới hạn rút quân cuối cùng của nghĩa quân Tây Sơn, nhằm đề phòng, ngăn chặn cuộc tiến công của địch, bảo đảm bí mật và an toàn cho hậu phương ở phía Nam. Khi Quang Trung tiến quân ra Bắc, phòng tuyến Tam Điệp lại là nơi tập kết của nghĩa quân Tây Sơn (từ 20 tháng 12 năm Mậu Thân tức 15 tháng 1 năm 1789 đến 30 tháng 12 năm Mậu Thân tức ngày 25 tháng 1 năm 1789). Khu di tích phòng tuyến Tạm Điệp, gồm có 3 đỉnh đèo của Tam Điệp và một cụm đồn lũy, Kẽm Đó, lũy ông Ninh, đồn Tam Điệp, chặn ngang đường Thiên lý từ Bắc vào Thanh Hóa. Đường Thiên lý ra Bắc vào Nam chạy trên 3 đỉnh đèo Tam Điệp, đỉnh cao nhất khoảng 110m. Thế kỷ 16, lợi dụng địa thế hiểm trở của dãy núi của Tam Điệp, chính quyền phong kiến Lê – Trịnh đã đắp một số thành luỹ ở cả hai mặt Bắc Nam đèo Tam Điệp và lấy Tam Điệp làm ranh giới giữa Nam triều và Bắc triều. Tại Kẽm Đó ở hai bên đường Thiên lý được đắp hai đoạn lũy nối liền với vách núi thành một cửa ải kiên cố. Cách Kẽm Đó khoảng 400m về phía Bắc là “lũy ông Ninh”, nối giữa 2 dãy núi gọi là núi Thành, ở giữa chiến lũy có một lối đi, hai bên có kè đá như “cửa lũy”. Phía Tây chiến lũy có một con hào rộng khoảng 8m, phòng sự tấn công của đối phương từ đường thiên lý vào. Cách chiến lũy này khoảng 100m là “đồn Tam Điệp”, rộng khoảng 1 mẫu bắc bộ, kiểm soát con đường thiên lý ở phía Bắc cửa ải. Khi rút lui chiến lược xây dựng phòng tuyến Tam Điệp vào cuối năm Mậu Thân (1789), nghĩa quân Tây Sơn đã sử dụng những đồn lũy này cho nên có nhiều truyền thuyết về Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn ở đây. Nhân dân địa phương quan niệm “lũy ông Ninh” là cửa tiền và “lũy Quận Kế” là cửa hậu của nghĩa quân Tây Sơn. Riêng đồn Tam Điệp được sử dụng từ đời Lê đến đời Tây Sơn đời Nguyễn và thuộc chính quyền Nguyễn Quang Toản khi đã suy yếu, nhưng đã đóng đồn ở Tam Điệp để chống lại chính quyền Nguyễn Ánh. Khi triều Nguyễn được thiết lập cũng sử dụng đồn Tam Điệp để kiểm soát con đường thiên lý ra Bắc vào Nam. Tại Kẽm Đó, hai con đường thiên lý còn vết, hai đoạn lũy ngắn nối liền với vách núi đã bị phá hủy gần hết. Lũy ông Ninh còn khá rõ, dài 135m, chiều rộng 15m, đường cái, đồn Tam Điệp còn hai dấu vết mờ nhạt ở bờ thành phía Đông. Hiện nay trên đỉnh đèo Tam Điệp, đèo cao nhất (thuộc phần đất tỉnh Thanh Hóa) còn một tấm bia ghi bài thơ “Qua Tam Điệp Sơn” (qua núi Tam Điệp) tạc năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ghi lại một bài thơ của Thiệu Trị làm khi đi tuần du qua đây. Ngày 8/10/1985, phòng tuyến Tam Điệp được công nhận là di tích lịch sử quốc gia Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 1820 lượt xem
Đền thờ Quý Minh Đại Vương và hang Đền nằm ở chân núi Hàm Rồng, phía Đông Bắc thôn Bình Khê, xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Đền còn có tên gọi khác là đền Thánh Quý hay đền Thượng. Hang Đền hay còn gọi tên là hang Nhà Kho ở ngay phía sau đền. Đây là di tích đã được UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2006. Đền là nơi thờ cúng Thánh Quý Minh Đại vương, một vị tướng của vua Hùng thứ 18. Theo truyền thuyết từ dân gian, Ngài là một trong ba anh em - ba vị tướng đã được phong Thánh (Đức thánh Tản Viên, Đức thánh Cao Sơn và Đức thánh Quý Minh), là người có công trấn ải Sơn Nam, bảo vệ đất nước thời vua Hùng Duệ Vương (tức Hùng Vương thứ 18). Ngài là một "Thượng đẳng Thần”, được các triều vua qua nhiều triều đại ban chiếu sắc phong, được nhân dân khắp nơi thờ phụng, trở thành Thành hoàng làng ở nhiều nơi. Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc hình chữ Đinh gồm Tiền đường và Hậu cung. Tòa Tiền đường gồm 3 gian nhà ngang dùng làm nơi tế lễ, mới được trùng tu năm 2015. Tòa Hậu cung gồm 3 gian dọc, hiện vẫn được gìn giữ hầu như nguyên vẹn, vì kèo ngoài là kiểu kèo mê phía trên trạm mặt hổ phù, phía dưới có 3 chữ “Cao Sơn Từ”. Bức mê bên trái trạm rồng, bức mê bên phải trạm “Phượng Vũ” (phượng múa), các vì kèo bên trong là kèo moi. Đền tựa vách núi đá xanh vững chãi, thâm nghiêm. Phía ngoài đền về bên trái có ban thờ các quan. Trong ngôi đền, ban thờ Thánh Quý Minh đại vương được đặt trang nghiêm ở chính giữa, phía bên phải là ban thờ Quan Sát, bên trái là ban thờ Sắc Nga công chúa. Trước cửa đền có hồ bán nguyệt, là nơi tụ thủy, tụ phúc. Hang Đền nằm ngay sau đền Thánh Quý. Bên trái hang là mộ ngựa, có ban thờ. Tương truyền có một con ngựa chiến quý đã chết ở đây. Hang Đền là một mái đá lớn, cửa hang rộng 10m, sâu khoảng 50m. Chỗ cao nhất khoảng 5m, giữa hang có một giếng nhỏ sâu hút vào thân núi gọi là đường xuống âm phủ và một đường leo ngược lên cao gọi là đường lên trời. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trước đây, đền là trụ sở của nhiều cơ quan (trong đó lâu dài nhất Xí nghiệp in Ninh Bình), là nơi cất giữ vũ khí, đạn dược, quân lương. Ngoài ra còn là nơi in ấn tài liệu, sách báo, nơi sơ tán của nhân dân các vùng lân cận… Hiện nay, ở đền còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như: 6 sắc phong của các vị Vua triều Nguyễn; Trùy đồng; Phủ việt; Quản tẩy; long ngai; đồ thờ tự… Hàng năm dân làng tổ chức tế Thánh tại di tích vào ngày 14 và 15 tháng 10 âm lịch. Ngoài ra, còn dâng lễ vào các ngày tuần, ngày rằm trong năm. Đền Quý Minh Đại vương và hang Đền nằm trong khu vực núi Hàm Rồng, là một thắng cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, lại ở gần Cố Đô Hoa Lư lịch sử. Trong tương lai, đây sẽ là một điểm tham quan hấp dẫn ở vùng ngoại vi Cố Đô Hoa Lư. Nguồn: Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 1819 lượt xem
Đền Dâu thuộc địa phận phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh Bình, đền có tên chữ là Tang Dã Linh Từ (nghĩa là: Đền Thiêng nương Dâu) thờ Liễu Hạnh Công chúa – một trong tứ bất tử của điện thần Việt Nam đã hoá thân vào người con gái địa phương giúp dân và quân lính Tây Sơn trồng dâu nuôi tằm. Đền Dâu toạ lạc trên một thế phong thuỷ đẹp, đền nằm trên một khu đất cao quay hướng đông nam, phía trước đền có núi Hồng Ngọc làm án, phía sau có núi Chong Đèn làm hậu chẩm, bên trái có núi Ngang(Hoành Sơn) làm Thanh Long, bên phải đền có núi Béo làm Bạch Hổ. Lễ hội đền Dâu hàng năm mở vào 15 tháng riêng, tương truyền đó là ngày hội đặt hom dâu và cũng là ngày mừng vua Quang Trung chiến thắng khải hoàn, kéo dài cho đến hết ngày 3-3 Âm lịch (Ngày kỵ của mẫu Liễu), ở địa phương còn lưu truyền câu ca dao: “Dù ai đi đâu về đâu. Nguyên tiêu lễ hội đền Dâu thì về. Dù ai bận rộn trăm bề. Nguyên Tiêu lễ hội thì về đền Dâu”. Trước đây lễ hội có tục rước tượng và kéo chữ “Mẫu Nghi thiên hạ”, “Thiên hạ thái bình” và “Lý Nhân vi mỹ” nhưng hiện nay tục rước tượng và kéo chữ chưa khôi phục được, chỉ còn lễ và tế nữ quan còn duy trì. Cũng như nhiều phủ, điện Mẫu khác, nơi đây có những nghi thức thờ cúng cơ bản như: hầu bóng, tôn lô nhang và trình đồng để cầu mong đức Thánh Mẫu và các vị thần thánh ban phúc, lộc, thọ và an khang cho trăm họ. Di tích đền Dâu là một trong những di tích có liên quan chặt chẽ tới Mẫu Liễu Hạnh như ở đền Sòng, Phố Cát (Thanh Hoá), Phủ đồi Ngang, đền Quán Cháo(Ninh Bình) liên quan tới con đường Thiên Lý cổ ra bắc vào Nam, gắn với không gian ảnh hưởng của Mẫu Liễu từ Phủ Tây Hồ (Hà Nội) qua Vân Cát (Nam Định), qua đèo Tam Điệp (Ninh Bình – Thanh Hoá) tới tận đèo Ngang (Hà Tĩnh – Quảng Bình). Di tích nằm trong không gian của phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn gắn với các địa danh như luỹ Ông Ninh, thung Đong Quân, đèo Tam Điệp, luỹ Quèn Thờ đây là một phòng tuyến có ý nghĩa lịch sử quan trọng của dân tộc trong chiến thắng 20 vạn quân Thanh năm 1789. Nguồn: Trung tâm Xúc tiến du lịch Ninh Bình
Ninh Bình 1727 lượt xem
Đình Lược nằm ở thôn Lược, xã Sơn Lai, huyện Nho Quan, trong không gian văn hóa mang đậm nét đặc trưng của làng quê Bắc Bộ với khung cảnh yên bình xanh mướt của hàng cây, ao nước, sân đình. Đình là điểm sinh hoạt văn hóa của cả cộng đồng dân cư thôn Lược, tên gọi của di tích được đặt theo tên địa danh của thôn từ xa xưa. Đình lược quay hướng Tây, được xây dựng trên một khu đất cao nằm ở rìa phía tây của thôn. Trước mặt là không gian thoáng đãng của khu đồi Dâu, xa xa phía Bắc là dãy núi thoai thoải ngăn cách với xã Gia Sinh và Trường Yên. Bao quanh đình là các cây thị cổ thụ với tuổi đời hàng trăm năm với dáng vẻ cổ kính, chứng kiến bao biến cố thăng trầm của di tích. Phía trước đình là ao sen rộng làm minh đường, nơi được xem là tụ phúc, tụ thủy của ngôi làng. Đình được xây dựng theo kiến trúc chữ Nhất, gồm 3 gian, theo lối cổ tường hồi bít đốc, bốn hàng chân cột. Mái đình lợp ngói, hệ thống vì kèo, cấu kiện hoành, xà, rui mè đều được làm bằng gỗ tứ thiết với kích thước vừa phải, còn chắc chắn. Các họa tiết, hoa văn trong đình mang đặc trưng phong cách thời Nguyễn như trang trí dạng hoa lá, hình kỷ hà. Tại di tích thờ vị thần Nam Quốc Đô Đài Trấn Bắc Đại vương, là một nhân vật thời nhà Đinh, có công phò trợ cho đất nước và nhân dân. Đình Lược thờ Chăn Vương công chúa, nguyên là con gái một vị hào trưởng trong vùng, một phụ nữ xinh đẹp có tài đức vẹn toàn, được vua Lê Hiển Tông tuyển chọn làm cung nữ. Bà có công lớn với dân làng Lược, đã cùng cha xuất tiền bạc xây dựng đình, chùa, mời thầy về dạy chữ cho con em trong vùng, giúp cho cả một vùng quê trở nên trù phú. Khi bà mất, nhân dân thành kính thờ phụng để tưởng nhớ công lao của bà. Triều đình ban sắc phong cho bà là Trinh Uyển Huyền Chân Linh Chúa. Di tích đến nay vẫn giữ được những tư liệu, hiện vật quý giá như: các bản sao sắc phong của các triều vua Nguyễn, ngai thờ, bát hương có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa. Đình Lược trong thời kỳ kháng chiến là cơ sở hoạt động bí mật của cán bộ cách mạng vùng Quỳnh Lưu, là điểm tập kết dân quân du kích và bộ đội địa phương. Thời kỳ hòa bình cho đến nay, đình trở thành nơi sinh hoạt cộng đồng và là điểm văn hóa tâm linh của nhân dân thôn Lược. Đình Lược luôn được nhân dân và chính quyền địa phương quan tâm, bảo tồn, tu bổ khang trang và uy nghiêm. Hàng năm, tại di tích diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, nghi thức lễ tiết đặc sắc như: lễ mừng năm mới (tết Nguyên Đán), lễ khai hạ (mùng 7 tháng Giêng), lễ thượng điền (ngày 24 tháng 6). Đây là dịp để nhân dân trong làng cùng những người xa quê hương gặp mặt, cùng tưởng nhớ đến công lao của cha ông, những người đã có công xây đắp và gìn giữ làng xóm, trao truyền lại những nét văn hóa độc đáo của quê hương cho các thế hệ con cháu mai sau cùng gìn giữ và phát huy. Cùng với truyền thống hào hùng của vùng đất căn cứ cách mạng, di tích đình Lược trở thành niềm tự hào của cộng đồng dân cư thôn Lược, một điểm tựa cho con cháu xa quê trở về với quê cha đất tổ. Nguồn: Ban quản lý Quần thể Danh thắng Tràng An
Ninh Bình 1709 lượt xem
Đền thờ Thục tiết Công chúa còn có tên gọi khác gọi là phủ Bà chúa, đền thờ Công chúa Phất Kim, nằm trong khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư thuộc thôn Tam Kỳ, xã Trường Yên, huyện Hoa lư. Di tích nằm trên một mảnh đất rộng khoảng 500m2, được ngăn cách với đường liên thôn bởi bức tường bao có trang trí chữ “Thọ” cách điệu kiểu thông phong. Phía trên có bốn chữ Hán “Các Trung Đế Tử” (Lầu thờ con gái Vua) hai bên có hai cột động trụ xây liền tường. Di tích có giếng Ngọc hình bát giác gồm 8 cạnh, xây liền kề gần tường bao. Công chúa Phất Kim là con gái thứ ba của Vua Đinh Tiên Hoàng. Vì nghĩa lớn, Công chúa Phất Kim đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, chấp nhận kết duyên cùng Ngô Nhật Khánh. Ngô Nhật Khánh xưng là An Vương, thủ lĩnh sứ quân ở Đường Lâm, một trong 12 sứ quân. Là phò mã, nhưng Ngô Nhật Khánh vẫn không nguôi oán hận và tìm cách cầu viện Chiêm Thành chống lại Nhà Đinh. Trước sự phản bội của chồng, lại thêm việc vua cha Đinh Tiên Hoàng và anh trai Đinh Liễn bị sát hại, Công chúa Phất Kim vì đau đớn và quá thất vọng đã gieo mình xuống giếng nước ở Lầu vọng nguyệt tự vẫn. Theo truyền lại trong nhân dân địa phương, vị trí ngôi đền thờ hiện nay chính là nền của cung điện Vọng Nguyệt - nơi ở của công chúa Phất Kim. Ngay sau khi công chúa tuẫn tiết để bảo toàn đức hạnh, nhân dân đã lập đền thờ công chúa. Trải qua các thời kỳ lịch sử di tích được tu sửa nhiều lần, dấu vết gần đây nhất là vào thời nguyễn. Kiến trúc đền theo kiểu chữ Đinh gồm hai tòa Tiền bái và Hậu cung. Tòa Tiền bái chiều dài 8,2m, chiều rộng 4,44m gồm 3 gian 2 dĩ, mái lợp ngói nam, hiên trước tòa Tiền bái làm theo kiểu chồng diêm, hai tầng. Bờ nóc của tòa Tiền bái ở chính giữa trang trí hình mặt nguyệt, hai đầu của bờ nóc trang trí hình hai đầu rồng chầu vào. Hàng cột thứ nhất gồm bốn cột gỗ đơn giản, hàng cột thứ hai gồm bốn cột bằng đá hình hộp chữ nhật, hàng cột thứ ba liền với tòa Hậu cung, hai cột giữa hình tròn, trang trí rồng mây bằng sơn ta. Kiến trúc vì kèo kiểu giá chiêng. Tòa Tiền bái có nhang án thờ các quan, dưới nhang án có thờ thần Bạch Hổ. Tất cả các họa tiết trang trí đều tinh xảo và mang đậm nét mỹ thuật thời Nguyễn. Tòa Hậu cung gồm 1 gian 2 dĩ, chạy dài ra phía sau là hai gian. Kiến trúc vì kèo đơn giản, chỉ có một hàng cột gồm hai cột gỗ còn phía trước liền với tòa Tiền bái. Đây là nơi thờ tự chính, tượng Công chúa Phất Kim trong long đình, đặt trên hậu bành, được tạc ở tư thế ngồi, chân chữ ngũ, đầu cài hoa, mắt nhìn thẳng, nét đẹp nhân hậu mặt hoa da phấn. Hậu bành trang trí hoa văn lá lật, phượng, vân xoắn, hoa lá cách điệu, hai tay hậu bành gần giống tay ngai, được trang trí thành hình hai con rồng chầu hai bên. Hai bên tượng có hai nàng hầu tạc ở tư thế đứng trên một bệ gỗ. Hai bên bệ thờ tượng Công chúa Phất Kim có nhiều bát hương thờ bản mệnh của nhân dân trong xóm theo tín ngưỡng cổ xưa. Đền thờ Công chúa Phất Kim nằm trong khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư, vì vậy các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, lễ hội truyền thống diễn ra tại di tích cũng nằm trong những chương trình của Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư (diễn ra ngày mùng 8 tháng 3 đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, ngày mùng 10 tháng 3 cũng là ngày kỵ của công chúa Phất Kim, lễ chính của đền). Trong những ngày hội sau khi làm lễ rước nước, lễ rước lửa, lễ khai mã và lễ dâng hương tại hai Đền thờ vua Đinh và vua Lê các vị đại biểu, các đoàn tế lễ và du khách thập phương đến các di tích phụ cận khác để dâng hương và tế lễ. Ngoài ra trong những ngày đầu và giữa tháng âm lịch, nhân dân địa phương đều đến đền thắp hương dâng lễ vật để cầu bình an. Đền thờ Thục tiết Công chúa hay Phủ Bà Chúa, được xây dựng dưới triều đại nhà Đinh để thờ phụng Công chúa Phất Kim, suy tôn người phụ nữ có tấm lòng trung hiếu, đức sáng trong, tiết hạnh. Đây là một ngôi đền cổ với nhiều ý nghĩa tâm linh và giá trị của cội nguồn văn hóa mãi đi cùng năm tháng. Nguồn: Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 1704 lượt xem
Nhà bia Lý Thái Tổ nằm ở xã Gia Mỹ, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Vua Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn, sinh năm Giáp Tuất (974), người châu Cổ Pháp (nay là huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Lúc nhỏ, vua rất thông minh, tuấn tú khác thường. Vua đi học ở chùa Lục Tổ (Tiên Sơn, Bắc Ninh) được nhà sư Vạn Hạnh khen là người thông minh, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ. Trưởng thành, vua là người có chí khí. Lê Long Đĩnh lên ngôi, đã thăng ông đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Vua Lê Long Đĩnh băng hà, Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên ngôi Hoàng đế vào năm Kỷ Dậu (1009). Thế kỷ X, trong hoàn cảnh nền thống nhất quốc gia mới được thiết lập, vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành định đô ở vùng núi hiểm trở Hoa Lư là để phòng thủ. Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ nhận thấy đóng đô ở kinh thành Hoa Lư với tính chất một quân thành phòng thủ chỉ phù hợp với tình hình của đất nước trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng sang đến thời Lý thì yêu cầu giữ nước không phải là yêu cầu độc tôn, mà vấn đề đặt ra là phải đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự hưng thịnh của quốc gia phong kiến độc lập, với yêu cầu phát triển về mọi mặt. Do đó, không thể tiếp tục đóng đô ở vùng núi non hiểm trở, Lý Thái Tổ đã có một quyết định đặc biệt quan trọng mang tính lịch sử đó là dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Vua ban tác phẩm “Chiếu dời đô”. Vua khẳng định “.... thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế Rồng cuốn Hổ ngồi, ở giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời...”. Chép về việc này, sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết “Mùa thu tháng 7, vua dời đô từ thành Hoa Lư sang kinh đô lớn ở Đại La của kinh phủ”. Năm 1997, trong khi thi công san lấp khu vực sân lễ hội đã tìm thấy rất nhiều gạch đất nung, trang trí họa tiết Hoa sen, Chim phượng; gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên”, “Giang Tây quân”. Những viên gạch này được xác định có cùng niên đại với gạch phát hiện trong đợt khai quật tại khu vực phía nam đền thờ vua Lê. Các nhà nghiên cứu cho rằng Bến Đền ở phía trước đền vua Đinh và đền vua Lê là bến sông mà vua Lý Thái Tổ xuất phát dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Để ghi lại dấu ấn lịch sử trọng đại, một hành trình lịch sử của đất nước từ khôi phục độc lập tự chủ đến thời kỳ phục hưng và phát triển mạnh mẽ. Năm 2000, nhân dịp kỷ niệm 990 năm Hoa Lư - Thăng Long - Hà Nội, đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình đã dựng nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ. Văn bia do Giáo sư, anh hùng lao động Vũ Khiêu soạn, đây là một áng văn hay theo thể biền ngẫu. Văn bia gồm 4 khổ. Nội dung khổ 1: Thái tổ ta xưa - Viết về thân thế, sự nghiệp của vua Lý Thái Tổ. Nội dung khổ 2: Sự nghiệp Hoa Lư thuở ấy - Ca ngợi sự nghiệp dựng nước, giữ nước của triều Đinh - Tiền Lê và công cuộc thiên đô của vua Lý Thái Tổ. Nội dung khổ 3 và khổ 4: Truyền thống Hoa Lư bất diệt - Đất nước hôm nay - Kế thừa và phát huy truyền thống Hoa Lư bất diệt, hơn 10 thế kỷ qua, các thế hệ con cháu của vùng đất địa linh nhân kiệt Hoa Lư - Ninh Bình đã đoàn kết, dũng cảm, kiên trung cùng với quân dân cả nước lập nên những chiến công hiển hách, làm rạng danh cho quê hương đất nước, làm cho truyền thống Hoa Lư mãi trường tồn cùng lịch sử dân tộc. Nguồn: Sở văn hóa và thể thao Ninh Bình
Ninh Bình 1690 lượt xem