Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đồi Móng Ngựa ở Yên Bái với ruộng bậc thang rộng bạt ngàn, uốn lượn tạo nên cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ và thanh bình của vùng Tây Bắc. Hãy theo chân mình khám phá địa điểm này nhé!
Đồi Móng Ngựa nằm tại xã Cao Phạ, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Đây là một trong những điểm đến thu hút khách du lịch bởi vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ và hùng vĩ. Đồi Móng Ngựa được biết đến với những ruộng bậc thang uốn lượn, nằm giữa không gian núi rừng bạt ngàn. Mỗi mùa, đồi lại khoác lên mình một vẻ đẹp riêng, từ những ngày đầu xuân xanh mướt đến mùa lúa chín vàng rực rỡ.
Ảnh chụp tại Đồi Móng Ngựa - Quách Thị Kim Cúc
Tuy nhiên thời điểm đẹp nhất để bạn ghé thăm Đồi Móng Ngựa là vào khoảng tháng 9 và tháng 10 hằng năm, khi mùa lúa chín rộ trên các thửa ruộng bậc thang tạo nên một bức tranh vô cùng ấn tượng. Lúc này, ruộng bậc thang vàng óng trải dài như một tấm thảm thiên nhiên tuyệt đẹp làm mê mẩn bao du khách và nhiếp ảnh gia. Đây cũng là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội văn hóa địa phương rất đặc sắc.
Ảnh chụp tại Đồi Móng Ngựa - Quách Thị Kim Cúc
Để đến Đồi Móng Ngựa, bạn có thể di chuyển từ Hà Nội theo quốc lộ 32 hướng về Nghĩa Lộ, sau đó tiếp tục đi đến Mù Cang Chải. Quãng đường từ Hà Nội đến Mù Cang Chải dài khoảng 300km, mất khoảng 7-8 tiếng đi ô tô. Nếu đi xe máy, bạn cần chuẩn bị kỹ lưỡng vì đường lên Mù Cang Chải có nhiều đoạn dốc, đèo cao và quanh co. Do đó xe khách sẽ là lựa chọn an toàn và tiện lợi hơn đáng để bạn cân nhắc.
Ảnh chụp tại Đồi Móng Ngựa - Quách Thị Kim Cúc
Hiện tại Đồi Móng Ngựa đang thu vé tham quan là 30.000 VNĐ/ người. Ngoài ra nếu bạn không tự chạy được xe máy lên đồi thì có thể thuê xe ôm là các chàng trai bản địa với giá 120.000 VNĐ/ người khứ hồi. Theo cá nhân mình thì các bạn lên thuê xe ôm để đảm bảo an toàn vì đường lên rất dốc, khá nguy hiểm đối với nhưng ai tay lái yếu, không quen đi đường đèo. Trong quá trình chở bạn có thể hỏi họ thêm về văn hóa Mù Căng Chải cũng rất thú vị.
Ảnh chụp tại Đồi Móng Ngựa - Quách Thị Kim Cúc
Bên cạnh đó Đồi Móng Ngựa còn là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số như H'Mông, Thái, nên đã góp phần làm phong phú thêm văn hóa địa phương. Do đó khi đến đây, bạn không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh đẹp mà còn có cơ hội trải nghiệm văn hóa, ẩm thực độc đáo của vùng cao Tây Bắc. Đặc biệt nếu tới vào cuối tuần thì bạn sẽ có cơ hội trải nghiệm phiên chợ Mù Cang Chải. Nơi bạn có thể mua sắm các sản phẩm thủ công, đặc sản địa phương của người dân nơi đây.
Ảnh chụp tại Đồi Móng Ngựa - Quách Thị Kim Cúc
Trên đây là kinh nghiệm khám phá địa điểm đồi Móng Ngựa ở Yên Bái mà mình muốn chia sẻ với các bạn. Mong rằng những thông tin mình cung cấp sẽ giúp bạn có một chuyến đi đáng nhớ!
Trong những năm gần đây, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng 10 hàng năm, du khách khắp mọi miền tổ quốc đều đổ về Mù Cang Chải để chiêm ngưỡng khung cảnh đẹp tuyệt vời của mảnh đất vùng cao này. Đến với nơi đây, du khách không chỉ được thưởng ngoạn vẻ đẹp của những thửa ruộng bậc thang, những biển mây trắng trên đỉnh đèo Cao Phạ mà còn được đắm mình vào những lễ hội văn hóa độc đáo của đồng bào Mông. Mù Cang Chải là huyện vùng cao phía Tây của tỉnh Yên Bái, cách trung tâm thành phố Yên Bái 180km, cách thủ đô Hà Nội hơn 300km về phía Tây Bắc. Vùng đất này nằm dưới chân của dãy núi Hoàng Liên Sơn, ở độ cao trên 2.000m so với mặt biển. Đến Mù Cang Chải, du khách có thể đi đường Quốc lộ 32 bằng hai hướng. Nếu từ Hà Nội, sẽ lên Yên Bái, từ Yên Bái đến Mường Lò 70km, ngủ tại đây để sáng sớm mai đi xe từ Mường Lò, xế trưa sẽ đến Mù Cang Chải. Đoạn này dài gần 100km, nhưng hơn 80km là đường đèo dốc tiến lên liên tục, chừng nào leo đến độ cao 1.750m, sương mây mù mịt là sắp đến thị trấn Mù Cang Chải. Chặng giữa đèo có một miền đất phẳng, hãy nghỉ chân ở đây để thưởng thức thứ cơm lam nếp Tú Lệ dẻo thơm nức tiếng khắp vùng. Hướng thứ hai, du khách đi hết đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, lên Sa Pa và qua đèo Ô Quy Hồ, sau đó qua Tân Uyên và Than Uyên của Lai Châu để tới Mù Cang Chải. Đến với Mù Cang Chải dù chỉ một lần, du khách cũng cảm nhận được sự trù phú của thiên nhiên, sự đặc sắc của văn hóa, sự ấm áp tình người. Đường lên Mù Cang Chải tuy xa và khó khăn song lại rất thú vị. Quang cảnh thay đổi liên tục trên đường, du khách chưa kịp ngắm hết những ngôi nhà sàn Thái trên cánh đồng Mường Lò rộng lớn với bạt ngàn hoa ban trắng đã được đến với những con đường quanh co, uốn khúc trên các sườn đồi dốc đứng. Các vận động địa chất đã tạo cho Mù Cang Chải những đỉnh núi cao như: Púng Luông (2.985m), Phu Ba (2.512m), Mồ Dề (2.100m)… Qua đèo Khau Phạ (cao 2.100m), đây là đỉnh núi cao nhất trong "tứ đại đỉnh đèo" Tây Bắc được bao phủ trong biển mây bồng bềnh, khí hậu mát mẻ quanh năm. Đỉnh đèo Cao Phạ còn là địa điểm đẹp đứng thứ 4 trên thế giới để cho các phi công bay dù lượn, cho những ai ưa thích cảm giác mạnh, trò chơi mạo hiểm để chinh phục bầu trời và cùng được thỏa sức chiêm ngưỡng, khám phá vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của đất trời từ trên không trung qua trò chơi dù lượn. Từ đây, cứ từ đèo này qua đèo khác, núi này qua núi khác, du khách sẽ cảm nhận rõ nét sự thay đổi của độ cao, hai bên đường là những triền ruộng bậc thang đẹp mê hồn khiến mỗi chúng ta đều thấy choáng ngợp. Thị trấn Mù Cang Chải nhỏ xinh nằm gọn giữa hai sườn núi với những bản làng thanh bình dưới thung lũng xanh hay trên đèo Khau Phạ. Chiếm 90% dân số toàn huyện, người Mông ở Mù Cang Chải có 4 nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng); Mông Đu (Mông Đen); Mông Lình (Mông Hoa); Mông Si (Mông Đỏ), họ cư trú ở những sườn núi cao từ 800 đến 1.700m với những nét văn hóa đậm đà truyền thống, đặc sắc luôn thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Đến nơi đây, du khách có thể vào thăm các bản làng dân tộc Mông, khám phá nét văn hóa cũng như những phong tục tập quán nơi vùng cao Tây Bắc với nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian đặc sắc và sản vật nổi tiếng. Xem múa khèn, cùng trai gái Mông đi hội Sải Sán, trải nghiệm một số nghề thủ công truyền thống như: nghề rèn đúc, dệt vải bằng sợi lanh, làm đồ trang sức và thưởng thức các món ăn truyền thống của đồng bào Mông. Đặc biệt du khách cũng không thể bỏ qua và nghé thăm bản Thái, chỉ cần đi qua cây cầu ở ngay trung tâm huyện (hướng về xã Chế Tạo nơi có khu bảo tồn loài sinh vật cảnh) rồi rẽ trái đi khoảng 1km sẽ tới bản Thái. Một bản nhỏ bình yên nằm giữa thung lũng, lưng tựa vào núi. Ở đây, du khách sẽ được thưởng thức các món ăn đặc sản của người Thái, tắm lá thuốc theo cách cổ truyền của người Thái, nghỉ ngơi tại nhà sàn và cùng tổ chức giao lưu, đốt lửa trại, múa xòe. Đến Mù Cang Chải, du khách được thưởng ngoạn vẻ đẹp của quần thể Danh thắng Quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải với tổng diện tích 330 ha phân bố chủ yếu trên 3 xã Chế Cu Nha, La Pán Tẩn và Dế Su Phình, nơi đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận Danh thắng Quốc gia từ năm 2007. Những thửa ruộng bậc thang nơi đây đẹp tựa vân tay của trời, một công trình kiến trúc nghệ thuật mang đầy tính sáng tạo từ đôi bàn tay khéo léo của đồng bào Mông. Không phải chỉ mới bây giờ mà đã từ lâu lắm, cái vùng đất khắc nghiệt Mù Cang Chải với ý nghĩa “làng cây khô” trong ngôn ngữ Mông đã trở thành biểu tượng sức cần cù, sáng tạo bền bỉ của con người. Từ một vùng đất khô cằn hoang hóa, những người Mông giỏi trèo đèo vượt núi đã khéo vận dụng biến từng luống đất, từng vạt đồi thành những thửa ruộng bậc thang tuyệt đẹp, không chỉ đem lại nguồn lương thực nuôi sống cộng đồng mà còn điểm thêm nét nhấn nhá vào thiên nhiên, biến núi đồi hoang vu thành những kiệt tác độc đáo in đậm giá trị văn hóa truyền thống cùng kỳ công sáng tạo của người Mông. Những thửa ruộng cứ từng cấp, từng cấp ôm theo triền núi đồi. Khắp 13 xã, thị trấn của Mù Cang Chải chỗ nào cũng có ruộng bậc thang. Ruộng bậc thang đẹp nhất vào tháng 5-6 khi những thửa ruộng vào mùa nước đổ và tháng 9-10 khi lúa nếp chín vàng óng ả trải dài khắp các triền đồi. Du khách đến Mù Cang Chải vào hai thời điểm này để được tận mắt chứng kiến những mâm xôi xanh, vàng hiện lên giữa bạt ngàn đồi núi. Dừng chân tại 3 xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Dế Su Phình, ở đâu du khách cũng nhìn thấy những thửa ruộng bậc thang tầng tầng lớp lớp trải rộng khắp các quả đồi. Du khách sẽ không khỏi ngưỡng mộ, trầm trồ, tán thưởng bức tranh thổ cẩm huy hoàng giữa đất trời do những người "nghệ sĩ nông dân" xứ Tây Bắc thêu dệt nên. Cả một vùng núi non trùng điệp này chính là bức tranh vùng cao Tây Bắc tuyệt đẹp được vẽ nên bởi trời xanh, mây trắng, những thửa ruộng cao và một cuộc sống đơn giản, bình dị mà chân thực đến từng ánh mắt, nụ cười.
Yên Bái 1973 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 6
La Pán Tẩn là một xã vùng cao thuộc huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Với vị trí nằm trên đỉnh Khau Phạ, cao gần 2000 mét so với mực nước biển, xã La Pán Tẩn sở hữu bức tranh thiên nhiên cực kỳ đẹp với ruộng bậc thang, với núi đồi cao chót vót và nét văn hóa bản địa của đồng bào người H’mông. Từ thị trấn Mù Cang Chải về xã La Pán Tẩn khoảng 15km, du khách đi theo hướng Đông Bắc là dễ dàng đến nơi. Sau hành trình băng qua những cung đường đèo sát sườn núi, bạn sẽ đến với một miền đất xinh đẹp có đến 2200 ha diện tích ruộng bậc thang xếp thành tầng tầng lớp lớp. Xưa kia, xã La Pán Tẩn từng là một xã nghèo, là “thủ phủ” thuốc phiện khi có đến 80% dân số nghiện ngập. Tuy nhiên giai đoạn “đen tối” ấy đã dần qua khi xã được đầu tư đúng mức để phát triển du lịch. Đời sống cư dân địa phương đã khấm khá hơn. Năm 2007, La Pán Tẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích danh thắng cấp Quốc gia. Với vị trí đắc địa trên miền núi cao, khí hậu mát mẻ cùng nhiệt độ trung bình khoảng 19 độ C, nơi này trở thành điểm đến ở Mù Cang Chải được nhiều du khách yêu thích. Hành trình khám phá xã La Pán Tẩn mang lại cho bạn vô vàn trải nghiệm đáng nhớ cả về cảnh đẹp lẫn văn hóa, con người nơi đây. Nếu lần đầu tiên khám phá xã La Pán Tẩn, có lẽ bạn sẽ ngay lập tức choáng ngợp trước cảnh đẹp nơi đây. Trên hành trình về thăm xã vùng cao Tây Bắc này, du khách sẽ được thưởng ngoạn cảnh đẹp của ruộng bậc thang điệp trùng bủa vây tứ phía. Là một trong những xã có ruộng bậc thang nhiều nhất Mù Cang Chải nên nhìn đâu bạn cũng thấy ruộng lúa điệp trùng. Thật khâm phục những người nông dân nơi đây, bằng sức người và nông cụ thô sơ có thể biến núi đồi trở thành những thửa ruộng xinh đẹp, uốn cong bên dưới những triền núi. Ruộng bậc thang nằm thoai thoải theo các sườn đồi, kéo dài ra tận bờ suối, len lỏi vào cả những bản làng. Đâu đâu cũng là ruộng lúa. Khám phá xã La Pán Tẩn, du khách có thể check in rất nhiều địa điểm đẹp của nơi đây. Trong đó đồi Mâm Xôi chính là tọa độ hot nhất mỗi mùa lúa chín. Ngọn đồi này được nâng đỡ bởi những thửa ruộng bậc thang bên dưới, bên trên có dáng tròn tựa một chiếc mâm dâng lên trờ. Mỗi mùa lúa chín vàng, đồi Mâm Xôi thu hút rất nhiều du khách đến check in, chụp ảnh. Theo kinh nghiệm đi Mù Cang Chải của nhiều du khách, đồi Mâm Xôi đẹp nhất vào sáng sớm bình minh khi nắng vàng vừa len nhẹ lên những thửa ruộng, chung quanh còn những làn sương trắng lờ mờ bao phủ, vẽ nên một bức tranh đẹp như tiên cảnh. Gần đồi Mâm Xôi có một lán gỗ nhỏ của người dân, là nơi mà du khách có thể ngồi ngắm cảnh và thỏa thích chụp ảnh. Vi vu La Pán Tẩn đúng mùa lúa chín vào tháng 9 – 10, du khách vừa được ngắm cảnh ruộng bậc thang tuyệt đẹp, vừa có cơ hội xem người dân thu hoạch lúa bằng phương pháp thủ công. Hình ảnh phụ nữ H’mông với chiếc lưỡi liềm nhỏ thoăn thoắt gặt từng khóm lúa trên đồng thật đẹp và bình dị làm sao. Về La Pán Tẩn huyện Mù Cang Chải, ngoài ruộng bậc thang, du khách còn có thể khám phá thác nước tuyệt đẹp ở đây. Đó là thác Pú Nhu có độ cao hơn 20 mét, đổ ầm ầm xuống hồ Rồng và tạo nên một khung cảnh hết sức hùng vĩ, bí ẩn. Quanh thác Pú Nhu là những tảng đá lớn nhỏ phủ đầy rêu phong, ra rừng cây cổ thụ xanh mướt êm đềm thật bình yên, thi vị. Đến thác Pú Nhu, bạn có thể dành thời gian ngắm cảnh đẹp, chụp ảnh hay cắm trại quanh bờ hồ. Người dân bản địa cho rằng hồ Rồng là nơi linh thiêng nên không ai xuống tắm. Tuy nhiên về sau khi các hoạt động du lịch ở địa phương được đẩy mạnh, du khách có thể trải nghiệm tắm thác để cảm nhận dòng nước mát lành nơi đây.
Yên Bái 1716 lượt xem
Tháng 9 đến tháng 10
Suối Giàng Yên Bái nằm ở độ cao khoảng 1.300 - 1.400 m so với mực nước biển, quanh năm được bao phủ bởi tầng tầng lớp lớp mây trời, cộng thêm không khí luôn cực kỳ trong lành và mát mẻ khiến nơi đây trở thành địa điểm rất được du khách yêu thích, chọn làm nơi dừng chân. Bên cạnh đó, nơi đây còn có một điểm đặc sắc mà MIA.vn tin rằng khi nghe thôi là bạn đã muốn gói ghém đồ đạc lên Suối Giàng ngay lập tức, chính là bạn có thể cảm nhận được đủ bốn mùa trong năm chỉ trong… một ngày ở Suối Giàng. Nhắc đến Yên Bái là không thể không nhắc Suối Giàng, và nhắc đến Suối Giàng là không thể không nhắc đến chè Shan. Dừng ở đây một chút để MIA.vn kể chuyện cổ tích cho bạn nghe về loại chè đã gắn liền với Suối Giàng này. Sự tích kể lại rằng, ngày xưa có một nàng tiên đã gieo hạt xuống Suối Giàng và hạt giống thần này đã nảy mầm thành một cây xanh tươi tốt. Khi cây lớn lên, xòe lá tán rộng với những búp cây trắng muốt như tuyết. Lúc này, nhóm người Mông sinh sống tại đây đang chịu cảnh đói rét, họ đã sử dụng loại lá cây này để ăn, sau khi ăn xong thấy cơ thể khỏe mạnh hơn. Chính điều thần kỳ đó mà họ tin rằng trời đã giúp họ, vì thế họ quyết định lập bản làng tại đây sinh sống và gọi nơi này là Suối Giàng. Phải nói rằng những cây chè cổ thụ tại Suối Giàng cũng rất thần kì, chúng sống ở độ cao 1.400 mét so với mặt biển, cây "trẻ" ít tuổi cũng trên trăm năm, cây nhiều tuổi tới hơn 300 năm. Ấy vậy mà búp non vẫn lên xanh trên những thân chè xù xì, trắng mốc, bám chắc rễ trên sườn núi cheo leo, làm nên cảnh sắc vườn chè cổ thụ độc đáo. Ngoài ra những búp chè mập mạp ấy còn được phủ bởi một lớp trắng mờ nên được gọi là chè tuyết. Chè được hái, được sao bằng kinh nghiệm và bàn tay khéo léo của người Mông. Chè Shan tuyết Suối Giàng rất độc đáo, tuy sinh sống ở vùng núi hoang sơ nhưng trong bát nước chè xanh lại hội tụ đủ vị ngon hàng đầu của các loại chè đẳng cấp trên thế giới. Khi đến nơi đây du lịch, có rất nhiều hoạt động dành cho bạn để tận hưởng không gian sống xanh- sạch- đẹp này, như nhắm mắt lại và phiêu diêu nghĩ về một bát nước chè thơm nồng, hoặc vô tư lự đánh một giấc ngủ say dưới tán cây chè to lớn, hay hòa mình cùng cuộc sống của người dân tại đây qua hoạt động hái chè, sao chè, cuối cùng thưởng thức nước chè là thành phẩm do chính tay mình cất công làm ra. Quả là một điểm đến lý tưởng để chúng ta “thải độc” những mệt mỏi, ưu phiền từ cuộc sống nơi phố thị phải không nào! Du lịch Suối Giàng ngoài thưởng thức chè Shan ra, nơi đây còn có rất nhiều món đặc sản của người dân tộc Mông đang chờ đón bạn thưởng thức như: mèn mén, Thịt trâu gác bếp Yên Bái, lợn cắp nách, rau rừng, rượu sắn, rượu ngô,... và những món ăn lạ vô cùng độc đáo, hòa quyện trong hương vị của chè cổ như thịt cuốn lá chè nướng, lá chè non ăn sống kèm các loại rau thơm. Ẩm thực giản dị mộc mạc nhưng lại có hương vị say lòng đến khó quên. Thử tưởng tượng yên vị ngồi bên chiếc bàn ăn bằng gỗ, giữa cái tiết trời se lạnh của ban đêm tĩnh mịch thưởng thức những xiên thịt nướng nóng hổi, kèm theo đó là vị thơm nồng của rau rừng, cay nóng của bát rượu và thỉnh thoảng “tráng” miệng bằng cái ngọt bùi của món mèn mén làm từ ngô xem, chắc chắn sẽ làm bạn rục rịch muốn làm ngay một chuyến đi đã đời quên lối về cùng hội bạn thân rồi.
Yên Bái 1715 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm ở phía Tây Bắc Tổ quốc, hồ Thác Bà của tỉnh Yên Bái, nơi được ví như "Hạ Long trên núi" là một trong 3 hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam hình thành khi xây dựng Nhà máy thủy điện Thác Bà. Hồ nằm trên địa phận hai huyện Yên Bình và Lục Yên. Hồ rộng gần 20 nghìn ha mặt nước gồm hơn 1.300 đảo xanh lớn nhỏ, cùng hệ thống hang động đẹp ẩn sâu trong lòng những dãy núi đá vôi. Đến với hồ Thác Bà, du khách có thể thỏa thích ngắm nhìn biển nước mênh mông, những đảo cây ngút ngàn soi bóng xuống mặt hồ xanh ngắt. Con người nơi đây cũng hết sức thân thiện và mến khách. Ai đã một lần ghé thăm hồ Thác Bà chắc hẳn sẽ không khỏi ngỡ ngàng và lưu luyến không quên một hồ Thác trong xanh, nên thơ và kỳ vĩ. Không chỉ cung cấp nguồn nước để phát điện lưới quốc gia, hồ Thác Bà còn là nơi điều hòa không khí trong lành và điểm dừng chân của các tour du lịch. Đến thăm hồ Thác Bà, khi di chuyển bằng tàu thủy, du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành giữa mặt nước mênh mông, lung linh soi bóng những hòn đảo điệp trùng tưởng như vô tận, để quên hết những mệt mỏi ưu phiền của cuộc sống. Điểm đầu tiên du khách có thể đến thăm là khu vực Nhà máy Thủy điện Thác Bà, nơi có đền Thác Bà, đây là công trình thủy điện đầu tiên của Việt Nam sừng sững hiên ngang trên biển hồ. Được tận mắt tham quan công trình lịch sử của đất nước, nghe kể câu chuyện về những con người ngày đêm tận tụy xây dựng lên Nhà máy, mỗi du khách sẽ không khỏi xúc động và thêm tự hào về truyền thống dân tộc vẻ vang, sự hy sinh của thế hệ cha anh. Kết thúc hành trình tham quan Nhà máy Thủy điện Thác Bà, du khách còn có thể kết hợp đến thăm đền Mẫu Thác Bà - một địa điểm du lịch tâm linh cách đó không xa. Đền tọa lạc trên núi Hoàng Thi, với thế tựa lưng vào núi, nhìn ra sông Chảy theo hướng Đông Đông Bắc, xa xa là núi Cao Biền. Từ lâu, đền Mẫu Thác Bà đã nổi tiếng là chốn linh thiêng, được công nhận là Di tích Văn hóa Lịch sử cấp tỉnh năm 2004. Du khách viếng thăm đền Mẫu thắp một nén nhang, trút bỏ những tính toan bộn bề cuộc sống, cầu cho cõi lòng thanh thản nơi cửa Phật từ bi để tiếp tục cuộc hành trình đưa du khách khám phá vẻ đẹp kỳ ảo của nhũ đá, của những tượng đá tự nhiên kỳ lạ ẩn chứa bao khát khao hoài bão của con người tại quần thể hang động đá vôi trên hồ như: động Thuỷ Tiên, động Xuân Long, hang Bạch Xà, Thác Bà, Thác Ông... Động Thủy Tiên, nằm trong lòng núi đá dài khoảng 100m với những nhũ đá lấp lánh, trong đó có hình chín nàng tiên mỗi người một vẻ gắn với truyền thuyết tình yêu ly kỳ, hấp dẫn. Thăm động Xuân Long nằm ẩn trong núi đá, với những tượng đá tự nhiên và các nhũ đã gắn với những truyền thuyết mang màu sắc liêu trai. Cùng hệ thống hang động, du khách có thể lên núi Cao Biền, dãy núi lớn và dài nhất thắng cảnh hồ Thác Bà, đứng trên đỉnh núi có thể phóng tầm mắt để ngắm cảnh hồ chìm trong sương với vẻ đẹp lung linh huyền ảo, cảm nhận vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, để tìm lại dấu ấn xưa của chợ Ngọc, chợ Ngà nổi tiếng Thác Bà một thời bán, buôn sầm uất... Ngồi ca nô ngược dòng sông Chảy không bao xa du khách sẽ được thăm thú vùng đất Ngọc Lục Yên với những danh thắng nổi tiếng như động Chùa São, đền Đại Cại… và chiêm ngưỡng sự kỳ ảo của những tác phẩm tranh đá quý tự nhiên dưới bàn tay tài hoa của người thợ. Phong cảnh hữu tình, phong phú về nguồn lợi thủy sản, ven hồ còn là nơi sinh sống của nhiều dân tộc như: Kinh, Tày, Nùng, Mông, Dao, Phù Lá, Cao Lan... Người dân nơi đây vẫn giữ được bản sắc văn hóa bản địa, trong đó, nhiều lễ hội đặc sắc thường diễn ra như Lễ hội mừng cơm mới của người Tày, Tết nhảy của dân tộc Dao... Đề với Làng Văn hóa Ngòi Tu - xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, nơi quần tụ của 5 dân tộc (chủ yếu là đồng bào Dao Quần trắng), du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống thư thái dưới những mái nhà sàn thấp thoáng giữa rừng cọ, tìm hiểu nghề đan rọ tôm truyền thống, ngắm những thiếu nữ Dao má đỏ hây hây trong trang phục dân tộc rực rỡ. Đặc biệt, mỗi khi màn đêm buông xuống, bên ánh lửa trại bập bùng, du khách sẽ được nghe những làn điệu dân ca say đắm lòng người và thưởng thức hương vị tinh tế của những món ăn như: cơm lam, nộm hoa chuối rừng, thịt gà nấu măng chua hay món gỏi cá, nộm tôm... Hầu hết, các bản làng ven hồ Thác giờ vẫn giữ được nét hoang sơ, cùng bản sắc văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan... với nhiều lễ hội đặc sắc. Hiện nay thôn Ngòi Tu đã có nhiều hộ được đầu tư hoàn chỉnh đủ điều kiện để đón khách nước ngoài. Mỗi năm, thôn đã đón tiếp hàng trăm đoàn khách thăm quan, chủ yếu đến từ các nước Đức, Pháp, Ý, Thuỵ Điển, Úc và Việt kiều. Ngoài ra, du khách cũng có thể tham dự lễ hội đua thuyền độc đáo với tên gọi “Âm vang hồ Thác Bà” hay thăm làng bưởi Khả Lĩnh nổi tiếng. Và trong hành trình khám phá ấy, du khách cũng có thể thêm chút thời gian để đến với mảnh đất Lục Yên liền kề là vùng đá quý nổi tiếng cả nước, thăm Di tích lịch sử đền Đại Cại, hang Ma Mút, chùa São, núi Vua Áo đen... nơi mà các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những dấu vết của người Việt cổ. Được ví như vịnh Hạ Long trên núi - hồ Thác Bà hứa hẹn mang đến cho khách du lịch những trải nghiệm tuyệt vời, khó quên.
Yên Bái 2053 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Tỉnh Yên Bái vốn được nhiều người biết đến nhờ vào vẻ đẹp ấn tượng của khung cảnh thiên nhiên đẹp hữu tình, nổi tiếng nhất có lẽ là Mù Cang Chải. Nhưng mấy ai biết được rằng, đây còn là nơi cất tiếng vọng âm vang không ngừng của thác Pú Nhu hùng vĩ, xinh đẹp. Thác Pú Nhu nằm trong bản Pú Nhu, thuộc xã La Pán Tẩn, Mù Cang Chải với dòng thác tạo nên những thanh âm du dương như lời kể tự hào về những con người chân chất, bình dị của vùng đồi núi cao hùng vĩ Tây Bắc. Con thác nằm cách trung tâm huyện Mù Cang Chải khoảng chừng 10km về phía Tây, được bắt nguồn từ những con suối ở trên những cánh rừng đầu nguồn thuộc Lào Cai, Sơn La đổ về. Với địa hình núi cao vô cùng ấn tượng tại đây đã biến dòng nước đấy trở thành dòng thác hùng vĩ, ấn tượng như bây giờ. Đặc biệt nhất phải kể đến là vào những mùa nước nổi, nước ở đây được bù đắp thêm lớp phù sa màu mỡ giúp cây cối tươi tốt, mang đến hương sắc tươi mới, tràn đầy sức sống. Thiên nhiên thật khéo léo khi bao bọc con thác xinh đẹp này một cách đầy tinh tế, chỉ để “lộ” âm vang hùng vĩ của dòng thác cho những bạn ở từ phía xa. Chính vì thế mà thác Pú Nhu lại trở nên bí ẩn hơn, khiến ai nấy cũng tò mò được khám phá khi chỉ vừa nghe những thanh âm đấy. Khi chưa kịp nhìn ngắm thác Pú Nhu thì bạn đã có thể ngây ngất trước vẻ đẹp thơ mộng của lối đi dẫn vào đấy rồi. Đoạn đường di chuyển khá dễ dàng, chỉ cần bằng qua con suối và cánh đồng ngô là bạn có thể tận hưởng cảm giác mát lạnh của dòng nước mát tại đây. Còn nếu bạn chọn di chuyển theo con đường lớn thì rất khó để chiêm ngưỡng dòng thác này. Bạn biết vì sao không? Bởi thiên nhiên đã ôm ấp con thác này bằng những cây rừng cao lớn, tạo nên sự ẩn nấp tinh tế cho con thác. Với độ cao khoảng chừng 200m, dòng thác được chia thành nhiều bậc chảy khác nhau. Đẹp nhất là vào những ngày nắng đẹp, dòng thác Pú Nhu chảy xuống tựa tấm vải lụa trắng phất phơ theo những giai điệu vui tươi của tiếng gió rì rào, tiếng chim hót trong khu rừng hoang sơ xung quanh. Nếu có dịp khám phá Mù Cang Chải vào những ngày thời tiết tuyệt đến thế, chắc hẳn bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tinh khôi, âm hưởng hùng vĩ và đáng nhớ nhất là khoảnh khắc được thả hồn mình vào bầu không khí trong lành mà đất trời ban tặng cho nơi đây. Nằm hiên ngang giữa hai vách núi cao thẳng đứng, dòng thác Pú Nhu hiện ra tựa bức tranh thủy mặc. Hình ảnh ngọn núi cao hùng vĩ chẳng khác gì một vị tráng sĩ đang bao bọc, che chở nàng thiếu nữ xinh đẹp mang tên thác Pú Nhu qua bao thăng trầm cuộc sống. Xung quanh dòng thác còn có những tảng đá lớn phủ đầy lớp rêu tuy có phần ghê sợ, nhưng đấy cũng chính là điểm nhấn đặc biệt khiến bạn không thể rời mắt sự kỳ lạ đấy. Nếu bạn đang loay hoay tìm kiếm một nơi để trút đi mọi muộn phiền, được thư giãn cùng thiên thiên trong lành thì đây đích thực là nơi lý tưởng dành cho bạn. Với những gì mà thác Pú Nhu sở hữu, chắc hẳn bạn sẽ có chuyến đi thật đáng nhớ với khung cảnh tuyệt vời, ấn tượng tại đây. Bên dưới dòng nước chảy liên hồi của con thác còn có một hồ nước bí ẩn mang tên hồ Rồng. Theo như người dân ở đây kể lại, hồ nước này vô cùng linh thiêng bởi có một con rồng đang ngủ dưới lòng hồ, và tương truyền rằng dòng thác Pú Nhu chính là kết quả tuyệt mỹ được phun ra từ con rồng đấy. Tuy chỉ là một câu chuyện được truyền miệng cho đến ngày nay nhưng nó đã khiến cho mọi người không dám đằm mình dưới dòng nước này, bởi không một ai dám đánh thức giấc ngủ của con rồng. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một câu chuyện truyền thuyết. Ngày nay, kh dịch vụ du lịch ở đây đã phát triển hơn nhiều, bạn hoàn toàn có thể được đảm bảo an toàn trong chuyến tham quan của mình. Vì thế, bạn vẫn có thể thỏa thích đằm mình tận hưởng dòng nước mát ở nơi đây mà không phải lo lắng quá nhé.
Yên Bái 1701 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Bản Lìm Mông nằm tại huyện Mù Cang Chải, Yên Bái khoác lên mình vẻ đẹp xao xuyến lòng biết bao người. Bản Lìm Mông nằm ở nơi tận cùng của Yên Bái, được thiên nhiên ban tặng cho cảnh sắc đẹp đến ngất ngây cùng những cánh đồng lúa trải dài, xen kẽ là những mái nhà thấp thoáng ẩn hiện giữa chốn mây mù đẹp tựa thiên đường. Không hề ngoa khi nói Bản Lìm Mông chính là một trong những điểm tham quan, khám phá vô cùng thách thức những ai đam mê phượt. Với cung đường đi vô cùng hiểm trở và đầy những gian nan, thử thách, Bản Lìm Mông đáp lại sự kiên nhẫn của mọi người bằng khung cảnh thiên nhiên đẹp đến mê hồn, không hề thua kém Thị trấn Tú Lệ ở Yên Bái. Giữa tháng 9 và tháng 10 chính là lúc thích hợp nhất để bạn đến khám phá Bản Lìm Mông. Lúc này cũng là lúc Ruộng bậc thang Mù Cang Chải vào mùa đẹp nhất. Đến đây vào thời điểm này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên Yên Bái khoác lên mình sắc áo vàng óng ánh, đẹp như bức tranh được vẽ nên từ chính đôi tay của Mẹ thiên nhiên. Nếu như đã bỏ lỡ mùa vàng Yên Bái, bạn cũng có thể đến khám phá Bản Lìm Mông vào khoảng tháng 5 đến tháng 6. Lúc này Yên Bái đang vào mùa nước đổ nên cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng cực kỳ. Vào thời điểm này tại Bản Lìm Mông cũng vui tươi, nhộn nhịp hơn hẳn vì người dân bắt đầu í ới rủ nhau lên đồng cày cấy cho một mùa vụ mới đầy bội thu. Đến với Yên Bái mà bỏ lỡ cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp của Bản Lìm Mông thì quả là một thiếu sót cực kỳ lớn. Nằm ở tận cùng xứ mây mù, đường đến Bản Lìm Mông cũng vô cùng hiểm trở khiến nhiều phượt thủ đứng ngồi không yên, mong muốn xách balo lên để đến đây khám phá một trong những cung đường hiểm trở nhất Việt Nam. Để đến được Bản Lìm Mông, từ Hà Nội bạn di chuyển theo hướng đi cầu Trung Hà. Đến Thanh Sơn (Phú Thọ) thì tiếp tục di chuyển thẳng qua Quốc lộ 32 hướng về tỉnh Yên Bái. Sau khi đến chân đèo Khau Phạ thì phải băng qua bản làng người Thái ở suối Nậm thì mới đặt chân đến được Bản Lìm Mông tọa lạc bên kia con suối. Ngay từ lúc còn trên cung đường đến với Bản Lìm Mông bạn đã có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp đầy ấn tượng của đèo Khau Phạ. Với độ cao lên đến 1200m so với mực nước biển, đèo Khau Phạ đẹp kỳ vĩ mang đến một thử thách không hề nhỏ cho những ai đang có ý định đến khám phá Bản Lìm Mông. Đứng từ trên đỉnh đèo, bạn sẽ dễ dàng chiêm ngưỡng được cảnh sắc thiên nhiên của Bản Lìm Mông. Vẻ đẹp của núi rừng Yên Bái cứ thế được thu trọn vào trong tầm mắt. Đặc biệt là lúc Bản Lìm Mông vào mùa lúa chín, những cánh đồng lúa trải dài một màu vàng ươm vô cùng rực rỡ, tô điểm thêm cho bức tranh phong cảnh đẹp đến mê hồn người. Giới trẻ thường chọn đỉnh đèo này làm nơi ngắm Bản Lìm Mông, sống ảo và đặc biệt là đón khoảnh khắc hoàng hôn hoặc bình minh. Nếu như có ý định đến khám phá Bản Lìm Mông, một trong những việc bạn cần làm đầu tiên chính là kiểm tra thật kỹ lưỡng phương tiện di chuyển và nên đem đi bảo dưỡng nếu có thể. Đường đi đến bản vô cùng khó khăn, hiểm trở với nhiều đèo dốc, khúc cua tay áo nên nếu không cẩn thận rất dễ gặp phải rủi ro giữa đường. Đảm bảo một sức khỏe thật tốt trước khi lên đường vì đoạn đường đến đây không những xa mà còn muôn vàn gian nan, thử thách. Nếu không đủ tự tin để cầm lái thì bạn nên đi cùng với người có tay lái vững, có kinh nghiệm chạy xe đường dài cũng như quen thuộc với đường đi tại Yên Bái càng tốt. Nên xem trước dự báo thời tiết trước khi lên đường. Nếu thời tiết xấu thì nên cân nhắc thay đổi lịch trình đi những điểm khác rồi mới đến Bản Lìm Mông. Đặc biệt là không nên đổ đèo dốc vào ban đêm vì đường đi rất tối, vắng vẻ và cực kỳ nguy hiểm đối với những ai không quen thuộc đường xá Bản Lìm Mông. Ưu tiên những bộ đồ thoải mái, giày thể thao để thuận tiện di chuyển vì hầu hết người đến Bản Lìm Mông đều với mong muốn được khám phá nhiều nhất có thể. Địa hình nơi đây không thích hợp để diện những bộ váy, đầm quá cầu kỳ sống ảo.
Yên Bái 1749 lượt xem
Từ tháng 9 đến tháng 10
Cánh đồng Mường Lò thuộc địa phận thị xã Nghĩa Lộ, nằm trên Quốc lộ 32, cách trung tâm thành phố Yên Bái khoảng 80km về phía Tây. Cánh đồng bao la rộng lớn, thẳng cánh cò bay chính là nguồn sống của đồng bào dân tộc Thái, cũng là cái nôi của văn hóa ẩm thực cùng những điệu múa xòe cổ truyền thống đặc trưng của miền đất này. Nếu Tú Lệ, Mù Cang Chải đã vô cùng nổi tiếng với du khách thì Mường Lộ hiện nay vẫn chưa được nhiều người biết đến. Tuy nhiên nơi đây sở hữu vẻ đẹp rất riêng mà MIA.vn muốn gợi ý bạn ghé đến chinh phục. Bạn có thể tiện đường đi Mù Cang Chải bằng Quốc lộ 32 thì sẽ đi qua Cánh đồng Mường Lò để khám phá. Đến với Mường Lò, du khách sẽ bất ngờ vì vẻ đẹp quá đỗi thanh bình và êm ả. Những nếp nhà nhỏ bình dị, những rặng cây cao lớn, những người dân ngày ngày làm việc cần cù, tất cả tạo nên một miền đất tuyệt đẹp. Mường Lò có địa hình như một lòng chảo khổng lồ, thuộc địa phận thị xã Nghĩa Lộ cùng một vài xã khác thuộc huyện Văn Chấn. Từ trên cao nhìn xuống, nơi đây được ôm trọn bởi dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, sắc vàng của lúa chín và sắc xanh của cây cối đồi núi đan xen vào nhau trải rộng đến tận chân trời. Vùng lòng chảo Mường Lò là nơi cư trú của hơn 10 dân tộc anh em bao gồm Thái, Mường, Kinh, Tày, Nùng, Mông… Chính vì thế tạo nên một vùng văn hoá đặc sắc với những nét đan xen độc đáo có một không hai. Từ lâu, người dân đã gọi cánh đồng Mường Lò là vùng đất của gạo trắng nước trong cùng hương vị thơm lừng của của món nếp Tú Lệ. Thung lũng lúa Mường Lò hiện nay đang là vựa lúa rộng lớn thứ 2 của vùng Tây Bắc, chỉ sau Mường Thanh thuộc tỉnh Điện Biên, cung cấp nguồn lương thực rất lớn cho người dân tại đây. Với kinh tế còn nhiều hạn chế, chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, Mường Lò có vai trò rất lớn đối với đời sống của người dân. Nổi tiếng là miền đất “gạo trắng, nước trong”, Mường Lò đã trở thành cảm hứng đi vào nhiều tác phẩm thơ ca. Với vẻ đẹp ngây ngất lòng người, mỗi mùa đều hiện lên trước mắt du khách với những màu sắc riêng, vẻ đẹp riêng. Do diện tích Cánh đồng Mường Lò rất rộng lớn, lại thuộc địa phận nhiều địa phương nên tạo nên khung cảnh vô cùng đặc biệt. Cùng một thời điểm nhưng mỗi xã sẽ có lịch canh tác khác nhau. Bên này là Nghĩa Lộ lúa đã ngả chín vàng thì ở Văn Chấn cánh đồng vẫn xanh rì. Vì thế tạo nên cảnh quan của những thửa ruộng đan xen vào nhau rất đặc sắc. Mỗi sáng khi bình minh lên, những tia sáng đầu tiên chiếu xuống cả cánh đồng rộng lớn. Hình ảnh những người nông dân vác cuốc vác liềm ra đồng làm cỏ, gặt lúa, tiếng cười đùa nói chuyện vang vọng cả một vùng trời. Khi trời ngả dần về chiều, những cô cậu bé lùa trâu về chuồng, những bông lúa lấp lánh dưới ánh hoàng hôn, một vẻ đẹp vừa thanh bình vừa kì diệu khiến lòng người nôn nao. Đến mùa thu hoạch, những xe trĩu nặng lúa gạo đang người dân trở về nhà. Bỏ lại phía sau là những thửa ruộng ngập trong rơm rạ. Mùi rơm ngai ngái, khô vàng dưới ánh nắng mặt trời. Đến đây mùa này, bạn còn có cơ hội tham gia những lễ hội mừng lúa mới của người dân địa phương, thưởng thức rất nhiều món ăn ngon cùng những ché rượu thơm lừng.
Yên Bái 1788 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khau Phạ là một trong bốn đỉnh đèo hiểm trở nhất Việt Nam. Nơi đây không chỉ quanh co khúc khuỷu với những vách núi dựng đứng mà còn chênh vênh giữa thiên nhiên hùng vĩ. Con đèo này có tổng chiều dài khoảng 30km, ở độ cao hơn 1.200 mét và đồng thời cũng là điểm phân chia ranh giới của huyện Văn Chấn và huyện Mù Cang Chải. Kinh nghiệm khám phá đèo Khau Phạ tự túc nếu bắt đầu xuất phát từ Hà Nội thì bạn nên đi theo tuyến quốc lộ 32. Đoạn đường đến Yên Bái bạn có thể đi theo google map, kết hợp hỏi đường người dân. Từ Hà Nội, bạn sẽ đi qua tỉnh Phú Thọ rồi đến huyện Văn Chấn, qua Nghĩa Lộ thì sẽ tới đèo Khau Phạ. Tổng thời gian di chuyển vào khoảng 5 đến 6 giờ đồng hồ, tùy thuộc điều kiện thời tiết và tay lái của bạn. Hai phương tiện phổ biến được nhiều người lựa chọn là xe khách và xe máy. Lời khuyên là đi xe khách sẽ giúp bạn di chuyển nhẹ nhàng, ít tốn sức hơn, còn xe máy sẽ cho bạn cảm giác tận hưởng những cung đường núi đúng nghĩa. Nếu đi xe khách, bạn nên liên hệ đặt vé của các hãng xe uy tín, không nên bắt xe dọc đường tránh những rủi ro ngoài ý muốn. Còn nếu đi xe máy bạn phải kiểm tra thật kỹ khả năng vận hành của xe, đoạn đường dài băng qua những cung đường đồi núi Tây Bắc đòi hỏi một chiếc xe chất lượng và động cơ thật khỏe. Theo kinh nghiệm của đa số những người đã có cơ hội khám phá vẻ đẹp Đèo Khau Phạ thì từ tháng 9 và tháng 10 là thời điểm lý tưởng nhất. Đầu mùa thu nên thời tiết tại đây rất mát mẻ, có chút se se lạnh, tạnh ráo nên rất thích hợp cho các hoạt động du lịch. Ở vị trí hơn 1000 mét, từ đỉnh Khau Phạ bạn sẽ tha hồ tận hưởng vẻ đẹp của Ruộng bậc thang Mù Cang Chải, thu gọn vào tầm mắt toàn cảnh đời sống của người dân địa phương, và hấp dẫn nhất chính là hành trình săn mây siêu thú vị. Để săn mây được thuận lợi, bạn còn cần một chút “duyên phận” với thiên nhiên nơi đây. Thông thường vào mùa thu và mùa đông, mây trên đỉnh núi sẽ rất dày và bồng bềnh, mềm mại. Thế nhưng cũng có những ngày nắng đẹp, mây tan sớm nên bạn sẽ không có cơ hội săn mây. Tuy nhiên view từ đỉnh đèo thì vô cùng hoàn mỹ, thế nên bạn có thể yên tâm là chuyến đi của mình dù không săn được mây cũng không hề uổng phí đâu nha. Ngoài ra bạn cũng có thể cân nhắc thời gian đến Khau Phạ tháng 5 tháng 6 để ngắm nhìn những cánh đồng mùa nước đổ. Tất cả những thửa ruộng như một tấm gương khổng lồ ánh lên dưới ánh nắng mặt trời, mặt nước loang loáng lấp lánh khiến bạn say lòng. Quá trình lên đỉnh đèo Khau Phạ sẽ cần vượt qua 30km đường trekking vô cùng gian nan, đường đi nhiều sỏi đá lởm chởm. Vì thế bạn cần có tay lái vững, chọn chiếc xe máy chất lượng vận hành tốt để đảm bảo an toàn cho bản thân. Ngoài ra hành trình khám phá đèo Khau Phạ tự túc cũng đừng quên mang theo chiếc máy ảnh, điện thoại xịn sò để ghi lại những hình ảnh siêu ấn tượng nhé. View từ đỉnh đèo siêu đẹp nên bạn chắc chắn sẽ thu được hàng trăm góc hình chất như nước cất đấy.
Yên Bái 1986 lượt xem
Tháng 9 đến tháng 10
Đầm sen xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, Yên Bái đang ngập tràn hương sắc của hàng triệu bông sen. Đầm sen này có diện tích rộng nhất tỉnh Yên Bái. Đến với đầm sen xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái vào thời điểm này, du khách không chỉ ghi lại những khuôn hình thơ mộng, lãng mạn bên cánh hoa sen một loài hoa mộc mạc, thuần khiết mà còn để cảm nhận được sự gần gũi, yên bình từ thiên nhiên. Nơi đây có mặt nước hồ rộng, cảnh quan làng quê thanh bình, yên ả. Nhờ những lợi thế đó mà đầm sen được mệnh danh là đầm sen đẹp và rộng nhất tỉnh Yên Bái. Cây sen nằm sâu trong bùn lầy, vươn mình tỏa hương khoe sắc, lúc rực rỡ kiêu sa, nhưng cũng có khi e ấp dịu dàng. Nhắc đến hoa sen, người ta sẽ liên tưởng ngay đến sự thanh cao, tinh khôi cũng như sự tinh khiết của hương vị đất trời. Mùi của hoa sen không nồng đượm như hoa sữa, không quyến luyến như hoa hồng nhưng lại dịu dàng, say đắm, càng ngửi càng yêu. Mỗi dịp tháng 6 đến giữa tháng 8, người dân sinh sống nơi đây lại được hít hà mùi hương vừa thanh cao lại mang đến giá trị về kinh tế. Sắc hồng của hoa hòa cùng màu xanh của lá làm cho khung cảnh miền quê xã Vân Hội, huyện Trấn Yên càng trở nên thơ mộng, cuốn hút. Trong làn gió mát lành, hương sen thoang thoảng, tạo nên một cảm giác thanh tao, nhẹ nhàng. Dạo bước giữa cánh đồng sen rực rỡ, hít hà không khí tinh khiết buổi sớm mai và hòa mình giữa thiên nhiên tươi đẹp là trải nghiệm mà bất cứ ai cũng đều sẽ mê đắm khi đến với đầm sen này. Những cây cầu gỗ được dựng cùng với những ô chòi vươn ra giữa mặt hồ phủ kín lá sen xanh xen kẽ những nụ, những hoa rung rinh khoe sắc, thả hương theo gió, quyến rũ biết bao người đã từng đến đây. Bắt kịp xu thế, người dân xã Vân Hội đã cải tạo những đầm sen thành những điểm checkin tuyệt đẹp. Những năm trở lại đây, đầm sen luôn nhộn nhịp khách đến chụp ảnh checkin. Khi những đóa sen bắt đầu khoe sắc thì những thiếu nữ và du khách ở trong và ngoài huyện đều tìm về cánh đồng sen xã Vân Hội để ngắm, thưởng thức hương thơm dịu nhẹ, thanh khiết của sen và không quên lưu lại những khoảnh khắc đẹp. Với mặt nước hồ rộng, cùng cảnh quan làng quê thanh bình, yên ả, đầm sen này được mệnh danh là đầm sen đẹp và rộng nhất tỉnh Yên Bái. Du khách hãy đến để tận hưởng những giây phút thư giãn và hòa mình với không gian ngào ngạt hương sen tại đầm sen Vân Hội nhé !
Yên Bái 841 lượt xem
Từ tháng 05 đến tháng 08.
Tà Chì Nhù là ngọn núi cao nhất thuộc huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái, nơi đây là địa điểm săn mây lý tưởng của những du khách đam mê trekking, đứng thứ 7 trong số các ngọn núi cao nhất Việt Nam và có điểm nhấn là biển mây bồng bềnh trên những dãy núi màu tím. Đỉnh núi thuộc bản Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, Tỉnh Yên Bái, có độ cao là 2979m và là ngọn núi cao xếp thứ 7 của Việt Nam. Dưới chân núi là các bản làng của dân tộc H’mong và Thái vậy nên ngọn núi cũng được gọi với các tên gọi khác nhau như Phu Song Sung của người Thái hay Chung Chua Nhà của đồng bào H’mong. Tại nơi đây cảnh vật còn rất hoang sơ và đường vào cũng không mấy dễ đi nên để tận hưởng cảnh biển mây xa vút tầm mắt thì chỉ có duy nhất một con đường là đi bộ từ dưới chân núi lên đỉnh với khoảng cách tầm 8km. Thời gian phù hợp để chinh phục Tà Chì Nhù là từ khoảng tháng 9 cho đến tháng 4 năm sau, đây là mùa lạnh dễ có biển mây xuất hiện và không khí cũng mát mẻ, ít gặp mưa bão nên rất phù hợp với hoạt động đi bộ đường dài. Khoảng tháng 9 cho đến đầu tháng 11 thì nơi đây có một loại hoa của các bụi cỏ mọc phủ kín cả vạt núi, khi hoa nở có màu tím nên nhìn từ phía xa lên đỉnh núi sẽ thấy núi có màu tím cực kỳ mơ mộng và cả khi lại gần đứng giữa các bụi hoa nở rộ cũng sẽ chụp được những bức ảnh vô cùng nghệ thuật. Loại hoa này được mọi người gọi là hoa Chi Pâu, bắt đầu từ câu chuyện của một du khách khi hỏi porter là người dân tộc H’mong bản địa về tên của loài hoa này, người porter có trả trời là “chi pâu” trong tiếng H’mong có nghĩa là “không biết”, do sự nhầm lẫn này mà cái tên hoa Chi Pâu càng trở nên phổ biến đối với cộng đồng trekking. Kinh nghiệm trekking Tà Chì Nhù chắc chắn là thứ bạn cần mang theo khi đến với Yên Bái. Được ví như thiên đường mây giữa lưng chừng núi, Tà Chì Nhù luôn mang đến cảm giác khác lạ, thích thú cho bất cứ ai đến đây dù là lần đầu tiên. Cung đường trekking Tà Chì Nhù được đánh giá là khá khó khăn, địa hình nhiều núi đá vô cùng hiểm trở. Sau chặng đường không quá dài nhưng đầy gian nan, thử thách, bạn sẽ đặt chân đến đỉnh núi đẹp ngỡ ngàng, tha hồ ngắm cảnh đất trời Yên Bái từ trên cao. Tại đây có một lán ngựa để bạn có thể dừng chân nghỉ ngơi tại chỗ. Lán ngựa nằm gần với nguồn nước tự nhiên nên rất thích hợp cho những ai mong muốn cắm trại qua đêm ngay tại Tà Chì Nhù vì có thể tắm rửa, nấu ăn được. Một trong những điểm thu hút phượt thủ chinh phục đỉnh Tà Chì Nhù là cánh đồng hoa tím thần tiên quyến rũ. Khung cảnh này chỉ xuất hiện từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 11. Trong ngôn ngữ H’mông, cánh đồng này được gọi là Chi Pâu. Màu tím của hoa không quá chói lóa, mà lại mang lại một cảm giác dịu dàng. Bạn có thể gặp những chú ngựa của người dân tuần tra, vô tư ăn cỏ trong khu vực này. Tất cả tạo ra một bức tranh thi vị, như bạn đang sống trong một câu chuyện cổ tích. Đặc sản khác của Tà Chì Nhù là biển mây mềm mại và gió núi lưu luyến. Những đám mây trải dài từ trên cao, che phủ toàn bộ không gian xung quanh. Bạn sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về khung cảnh này khi leo núi vào mùa khô. Gió trên đỉnh núi cũng rất mãnh liệt. Bất kỳ mệt mỏi nào bạn trải qua trong quá trình leo núi sẽ tan biến khi bạn ngắm nhìn khung cảnh với biển mây và làn gió lạnh dịu bao quanh. Chúng như thổi đi mọi căng thẳng và đau đớn. Tuy nhiên, hãy chuẩn bị áo ấm kỹ càng và không nên ở trên đỉnh quá lâu để tránh bị cảm lạnh. Tà Chì Nhù là ngọn núi tuyệt đẹp và hoang sơ, không tấp nập như các điểm du lịch khác. Nơi này rất lý tưởng cho một cuộc phiêu lưu vào cuối tuần để rèn luyện thể chất và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi rừng. Sau khi chinh phục được đỉnh núi thì các bạn xuống theo đường cũ và về lại thị trấn Trạm Tấu ở đây có dịch vụ tắm suối khoáng nóng rất phù hợp để thư giãn cơ bắp sau một hành trình dài. Các bạn tham khảo khu suối khoáng nóng Cường Hải ở đây không gian được bày trí rất đẹp và có dịch vụ lưu trú. Nếu bạn đang tìm kiếm một điểm du lịch thú vị ở miền Bắc, hãy đến ngay Tà Chì Nhù – một địa điểm hấp dẫn cho những người yêu thích leo núi.
Yên Bái 842 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 04.
Di tích khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, nằm trong khuôn viên công viên Yên Hòa (rộng 30 ha ), thuộc phường Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái được xây dựng từ năm 2001. Nguyễn Thái Học sinh ngày 1/12/1902 tại Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là người yêu nước ngay từ khi còn ngồi trên ghế của nhà trường thực dân, ông đã gửi thư cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne là đảng viên Đảng Xã hội Pháp, kêu gọi tiến hành cải cách xã hội ở Việt Nam. Vị Toàn quyền Đông Dương ấy không thèm quan tâm tới những điều mà Nguyễn Thái Học đề nghị. Ngày 25/12/1927, Nguyễn Thái Học và các đồng sự tổ chức thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng, ông được bầu làm Chủ tịch. Việt Nam Quốc dân Đảng bị nhà cầm quyền lùng sục, bắt bớ. Trước nguy cơ Việt Nam Quốc dân Đảng bị tan vỡ, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đã quyết định tiến hành cuộc "tổng khởi nghĩa vũ trang". Nếu thất bại cũng là tấm gương cho đời sau tiếp bước, "Không thành công cũng thành nhân". Lực lượng khởi nghĩa gồm Việt Nam Quốc dân Đảng, chủ yếu là lính khố đỏ thuộc đại đội 5, 6, 7 Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính khố đỏ số 4 Bắc Kỳ. Lính khố xanh không tham dự khởi nghĩa. Đêm 9 rạng ngày 10/2/1930, khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, nghĩa quân đã hạ sát được hầu hết bọn sĩ quan, hạ sĩ quan chỉ huy ở các nhà riêng, phối hợp với nghĩa quân hai cơ lính khố đỏ đồn 5 và 6 đồn Dưới nổi dậy. Trước sân trại lính, một đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng đọc bài "Hịch khởi nghĩa" với những khẩu hiệu: "Đuổi giặc Pháp về nước Pháp. Đem nước Nam trả người Nam. Cho trăm họ khỏi lầm than. Được thêm phần hạnh phúc". Cờ của Việt Nam Quốc dân Đảng tung bay trên trại lính và các công sở. Do không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh cơ số 7 và số 8 ở trên đồn cao, lực lượng mỏng nên nghĩa quân bị đánh bật khỏi các vị trí đã chiếm, cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu. Sau khởi nghĩa Yên Bái 5 ngày, Nguyễn Thái Học tổ chức khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo, Phụ Dực, chủ trương tiến tới chiếm toàn bộ Hải Phòng. Nghĩa quân đã đánh chiếm được huyện lỵ Vĩnh Bảo, giết chết tên tri huyện Hoàng Gia Mô, một tên quan lại tham tàn độc ác. Với sự phản công quyết liệt của quân Pháp với vũ khí hiện đại, quân khởi nghĩa bị tiêu diệt. Nguyễn Thái Học trốn thoát do được sự che chở của nhân dân. Cùng một số đảng viên tiêu biểu còn lại của Việt Nam Quốc dân Đảng, Nguyễn Thái Học bàn bạc và dự định cải tổ lại Đảng và thay đổi phương hướng chiến lược và hoạt động của Đảng. Chủ trương này vừa khởi động thì ngày 20/2/1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương). Ngày 23/3/1930, ông bị kết án tử hình. Ngày 17/6/1930, Pháp đưa Nguyễn Thái Học cùng 12 chiến sĩ khác của Việt Nam Quốc dân Đảng tại Yên Bái lên máy chém. Bước lên đoạn đầu đài, trước khi đưa đầu vào máy chém, Nguyễn Thái Học hô vang: "Việt Nam vạn tuế!". Pháp phải thừa nhận khởi nghĩa Yên Bái đã giáng một đòn chí mạng vào chính quyền thuộc địa. Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học ghi dấu cuộc “Khởi nghĩa Yên Bái” hiện nay gồm khu lăng mộ, khu tượng đài, khu nhà đón khách, bia tưởng niệm và khuân viên cây cảnh. Khu tượng đài Nguyễn Thái Học và các cộng sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 tại Công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái. Nổi bật nhất khu vực này là câu nói nổi tiếng của Nguyễn Thái Học trở thành phương châm hành động và tư tưởng chủ đạo của Việt Nam quốc dân Đảng, đó là “Không thành công cũng thành nhân”, được nghĩa quân coi như lời thề quyết tử. Khởi nghĩa Yên Bái tuy không thành công, nhưng lòng yêu nước là bất diệt. Chính vì thế, trên đất nước ta, rất nhiều nơi lấy tên Nguyễn Thái Học đặt tên cho các đại lộ và các trường học. Cụ Phan Bội Châu đã viết bài văn tế về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và các nhân vật trọng yếu của cuộc khởi nghĩa. Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 5/3/1990. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 2144 lượt xem
Bến Âu Lâu (nay nằm trên địa bàn xã Âu Lâu và phường Nguyễn Phúc, thành phố Yên Bái) là nơi góp phần quan trọng vận chuyển cán bộ, bộ đội, dân công, lương thực và vũ khí phục vụ các chiến dịch lớn thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, mở đường đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, lập lại hòa bình ở miền Bắc năm 1954. Năm 1953, bến đò mà người dân ven sông Hồng qua lại giao lưu, buôn bán được xây dựng thành bến phà Âu Lâu. Bến phà Âu Lâu là điểm nối thuận tiện giữa Việt Bắc và Tây Bắc của đất nước. Từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bến Âu Lâu là nơi tập kết, bí mật đưa đón các cán bộ cách mạng, chiến sỹ chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa và sau đó là thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời và tiếp quản thị xã Yên Bái. Cũng chính ở nơi đây, thực dân Pháp đã dẫn giải các tù chính trị từ Nghệ An (1943), Thái Nguyên (1945) qua bến sang giam ở Căng Nghĩa Lộ. Đêm 16 rạng ngày 17/8/1945, theo kế hoạch Ủy ban quân sự cách mạng du kích Âu Lâu và du kích Âu Cơ (Vân Hội) cùng bộ đội hữu ngạn sông Hồng qua sông đánh trại Bảo an cướp chính quyền từ tay Nhật. Năm 1951, trong chiến dịch Lý Thường Kiệt, một hướng của đại đoàn 312 qua bến sang đánh vào khu quân sự Nghĩa Lộ (3/10/1951). Chiến dịch Tây Bắc diễn ra, đêm 10-11/10/1952 bến Âu Lâu là một trong bốn bến mà trung đoàn 36, trung đoàn 174 của đại đoàn 316 và đại đoàn 308 vượt sông Hồng vào Ca Vịnh, Ba Khe, đèo Hồng đánh căn cứ Cửa Nhì. Cuối tháng 11/1952, theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh yêu cầu gấp rút mở rộng tuyến đường 13 từ Việt Bắc qua Yên Bái. Trong hoàn cảnh khó khăn và địch bắn phá ác liệt nhưng chúng ta vẫn thông đường 13 sớm 5 ngày qua bến Âu Lâu tiếp viện cho chiến trường Tây Bắc. Bến Âu Lâu có vị trí quan trọng là nối liền hệ thống giao thông Việt Bắc với Tây Bắc, là nơi duy nhất có thể cẩu các loại vũ khí hạng nặng như: pháo mặt đất, pháo cao xạ, xe ô tô chở đạn dược, khí tài quân sự qua sông tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Trong thời gian này, bến Âu Lâu được tăng cường cả về nhân lực và phương tiện để chuyên chở vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, dân công, bộ đội vượt sông Hồng, đồng thời gồng mình chống đỡ những trận bom ác liệt của thực dân Pháp. Ban đêm là lúc chủ yếu diễn ra các hoạt động ở bến Âu Lâu để tránh sự phát hiện của địch, những chuyến phà qua lại một cách nhanh nhất để thông đường cho xe tiếp viện. Để ngăn chặn sự phá hoại của máy bay địch, ban ngày ta phải kéo phà lên thượng lưu vào Ngòi Lâu nhấn chìm phà, ban đêm lại tát nước kéo phà ra. Từ 11/1953 - 5/1954, thực dân Pháp tập trung bắn phá ác liệt bến Âu Lâu hơn 200 ngày đêm với 2.700 tấn bom đạn nhưng chỉ tắc 8 ngày đêm và chúng ta vẫn vận chuyển được hàng nghìn tấn lương thực và hàng trăm tấn đạn dược, vũ khí cho mặt trận Điện Biên Phủ. Sau những ngày tháng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, từ năm 1955-1965, bến được nâng cấp từ phà gỗ sang phà thép có ca nô sắt. Năm 1965-1968, với tinh thần: “Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm” bến đã có 100 lần đưa 500 lượt xe pháo qua sông, chuyên chở gần 200.000 lượt ô tô, hàng ngàn tấn hàng hóa qua lại. Những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chúng đã dùng nhiều tốp máy bay đánh phá trong 4 tiếng gây thiệt hại nặng nề cho thị xã Yên Bái và bến phà Âu Lâu trong ngày 31/5/1966. Năm 1967, bến Âu Lâu vinh dự được Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua thăm nhân dịp lên chúc tết quân và dân hai tỉnh Yên Bái và Nghĩa Lộ. Ngày 18/12/1972, giặc Mỹ lại tiếp tục tập kích Yên Bái trong đó có bến Âu Lâu nhưng vẫn không cản được những chuyến phà chở người và lương thực, thực phẩm tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Sau khi đất nước thống nhất, bến phà Âu Lâu tiếp tục hoạt động và xây dựng thành đơn vị chủ chốt của ngành giao thông vận tải tỉnh Yên Bái. Ngày 07/8/2012 Bến Âu Lâu được Bộ Văn Hoá Thể Thao & Du Lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia . Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1996 lượt xem
Lễ đài sân vận động thành phố Yên Bái, thuộc phường Hồng Hà, thành phố Yên Bái là nơi Bác Hồ đứng nói chuyện với nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái ngày 25/9/1958. Đây là Di tích lịch sử cấp Quốc gia đã được Bộ văn hóa thông tin công nhận ngày 16/11/1988. Lễ đài nguyên là khán đài sân vận động thị xã xưa. Sân và Lễ đài nằm trong khu vực đông dân cư, trung tâm của tỉnh lỵ trước đây. Sân vận động thị xã có từ thời Pháp thuộc. Sau khi hoàn thành việc đánh chiếm và thành lập tỉnh Yên Bái (1900) đến năm 1905 Pháp thành lập trại lính lê dương bảo vệ chính quyền của chúng. Để phục vụ đời sống tinh thần của binh lính, nhất là các hoạt động văn hoá - thể thao. Năm 1927, Pháp cho xây dựng sân vận động này để tổ chức các hoạt động hội hè, đá bóng, nhưng xung quanh sân chỉ được đắp thành các mô đất cao chứ chưa có khán đài, đến năm 1930 mới hoàn thành. Từ đó, Pháp thường xuyên tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí tại đây, mời các đội bóng từ Hà Nội, Phú Thọ, Tuyên Quang đến thi đấu, đồng thời cũng tổ chức nhiều ngày "hội Tây" tại khán đài sân vận động thị xã này. Năm 1954, hòa bình lập lại, tỉnh Yên Bái chủ trương khôi phục lại sân bóng thành sân vận động thị xã. Tháng 1/1957, tỉnh cho xây dựng khán đài (lễ đài hiện nay) và tường bao quanh sân theo hình bầu dục. Sự kiện lịch sử quan trọng nhất là ngày 25/9/1958, phái đoàn của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu lên thăm tỉnh Yên Bái. Trong thời gian làm việc tại tỉnh, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban hành chính tỉnh đã chọn sân vận động thị xã làm nơi mít tinh để Bác Hồ nói chuyện với nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Khi đó tỉnh Yên Bái là một trong những tỉnh khó khăn nhất miền Bắc, vừa mới dành được độc lập, chiến tranh tàn phá nặng nề, phần lớn địa hình là đồi núi, dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp, nạn du canh du cư, mê tín dị đoan còn nhiều, cuộc sống còn vô cùng thiếu thốn. Trong lúc khó khăn nhất, Bác đã đến thăm Yên Bái. Sáng sớm ngày 25/9/1958, gần 5.000 cán bộ và nhân dân các dân tộc thị xã Yên Bái cùng đồng bào các vùng lân cận đã nô nức kéo đến dự mít tinh để được nhìn thấy Bác, nghe tiếng Bác. Từ tỉnh đội đi ra, Bác đến sân vận động và bước lên Lễ đài trong tiếng hò reo như sấm dậy của đồng bào. Sau khi mọi người im lặng, Bác bắt đầu nói chuyện, Người thân mật thăm hỏi cán bộ và nhân dân, chỉ ra những việc làm thiết thực. Người đề cập đến nhiều vấn đề từ đoàn kết dân tộc, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Nói chuyện xong Bác bắt nhịp cùng toàn thể đồng bào Yên Bái hát bài "kết đoàn". Từ lễ đài, Người rời về nơi làm việc trong tiếng vỗ tay và những bài ca hùng tráng của đồng bào tỉnh nhà. Ngày 31/5/1966, một trận ném bom của máy bay Mỹ đã làm sập một góc của sân vận động, năm 1977 sân vận động được sửa lại thay cửa hình vòm bằng cửa hình vuông, toàn bộ kiến trúc vẫn được giữ nguyên. Năm 2016, khu Di tích lễ đài đã được cải tạo nâng cấp. Di tích lễ đài và toàn bộ kiến trúc của khu vực tưởng niệm Bác được thiết kế theo lối kiến trúc truyền thống, mô phỏng theo kiến trúc tưởng niệm Bác Hồ tại Kim Liên - Nghệ An quê Bác. Với ý nghĩa văn hóa lịch sử đó, nơi đây đang là một điểm đến, một địa chỉ của nhân dân và du khách đến thăm quan và thắp hương tưởng niệm Bác, mãi là nơi lưu giữ những kỷ niệm thiêng liêng về vị Lãnh tụ vĩ đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái, là địa chỉ giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1974 lượt xem
Đội du kích Khau Phạ (xã Cao Phạ, huyện Mù Cang Chải) được thành lập vào tháng 10 năm 1946 tại bản Trống Tông Khúa trên đỉnh đèo Khau Phạ (trước đó vốn là một đội vũ trang được ra đời từ năm 1944 của đồng bào Hmông để chống lại sự đàn áp bóc lột của bọn thống trị, rồi sau trở thành đội vũ trang chống lại bọn Quốc dân đảng). Ban đầu lực lượng chỉ có 7 đội viên, vũ khí chỉ có 3 khẩu súng tự tạo là súng kíp, dao nhọn và cung nỏ. Trải qua một thời gian chiến đấu, đội du kích phát triển rất nhanh về quân số, lên 30 người, 50 người rồi khi đông nhất lên tới hơn 200 đội viên, lực lượng tham gia hầu hết là người dân địa phương (người Hmông). Đây là một di tích nằm trên vùng đồi núi hiểm trở, trải dài và rộng từ chân đèo Cao Phạ lên đỉnh đèo (dài trên 20km). Địa bàn hoạt động của đội du kích rộng, có nhiều địa điểm trong đó có ba địa điểm trọng yếu nhất, diễn ra những sự kiện quan trọng trong suốt gần 8 năm hoạt động của đội du kích Khau Phạ. Đó là: Bản Trống Tông Khúa - nơi thành lập đội du kích Khau Phạ;. nhà của ông Lý Nủ Chu - cơ sở cách mạng của Đội du kích Khau Phạ (bản Lìm Mông) và Hang Dơi - địa điểm phục kích Pháp dưới chân đèo Khau Phạ, năm 1948. Trong suốt những năm hoạt động (1946 - 1952), đội du kích đã chặn đánh nhiều trận, gây cho Pháp nhiều khó khăn, tổn thất. Được ra đời từ năm 1946, Đội vừa tổ chức huấn luyện vừa làm nhiệm vụ canh gác bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất tại đỉnh đèo vừa dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở, phối hợp với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương anh dũng đánh giặc, lập nhiều chiến công xuất sắc. Ngày 8-10-1947, địch càn quét đánh phá Khau Phạ. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Đội trưởng Lý Nủ Chu, đội du kích đã dùng lực lượng nhỏ đánh trả, làm chết một tên quan 2 và bị thương nhiều tên lính Pháp, buộc địch phải bỏ dở cuộc hành quân. Trong giai đoạn 1947-1949, đội du kích đã nhiều lần nhịn đói, nhịn khát, sống trên rừng, ăn củ nâu, củ mài, quyết chiến đấu với giặc. Chính trong những năm tháng gian khổ này, Đội đã lập được nhiều thành tích rất đáng ghi nhận. Tiêu biểu là trận Nậm Khắt, đội du kích đã phục kích, bắn chạy toán loạn 1 đại đội của địch, thu gọn 2 khẩu súng. Tiếp đó là hai trận liên tiếp ở Gia Hội và Tú Lệ, đội du kích đã phối hợp với bộ đội đuổi đánh địch, thu được 2 khẩu súng, nhiều mìn và lựu đạn. Tháng 3/1948, đội du kích đã phối hợp với Đội xung phong Quyết Tiến do đồng chí Hồng Quân và Lý Bạch Luân phụ trách, tổ chức phục kích chặn đánh địch trên đoạn đường Tú Lệ - Gia Hội, thu được 3 súng trường và một số đạn dược. Cuối tháng 3-1948, Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 10 quyết định mở chiến dịch Nghĩa Lộ, riêng đội du kích Khau Phạ đã phối hợp với đại đội 520 và đội xung phong Quyết Tiến đánh đồn Tú Lệ, bắt sống tên Bang tá Lò Văn Inh (chỉ huy đồn), đồng thời làm tan rã đơn vị lính dõng gồm 27 tên, thu 2 súng máy, gần 20 súng trường và một số vũ khí khác. Sau chiến thắng này, đội được trang bị thêm 50 khẩu súng. Từ năm 1949, nhận thấy sự lợi hại của Đội du kích Khau Phạ, địch ngày càng khủng bố hơn, chúng ra sức tập trung dân, kiểm soát chặt chẽ địa hình. Vì vậy, hoạt động của đội gặp nhiều khó khăn: thiếu lương thực, thực phẩm, đạn dược, mất hoàn toàn liên lạc với Đảng, với chính quyền, với quân đội nhưng vẫn tuyệt đối trung thành, kiên trì và chiến đấu liên tục. Sau năm 1951, Pháp đánh phá dữ dội các cơ sở của ta trong vùng hậu địch, hầu hết các cơ sở đều bị tan rã. Nhưng với lòng quả cảm, kiên cường bám trụ, Đội du kích Khau Phạ vẫn duy trì cuộc chiến đấu gây cho địch nhiều tổn thất. Đội đã trở thành một điểm nối quan trọng nằm ở cửa ngõ Mù Cang Chải, nối các cơ sở cách mạng trong vùng với hai đầu Nghĩa Lộ-Than Uyên. Tháng 10-1952, Bộ Tổng tư lệnh mở chiến dịch Tây Bắc nhằm giải phóng Phân khu Nghĩa Lộ và các tiểu khu Than Uyên, Phù Yên, Sơn La. Ngày 16 tháng 10 năm 1952, địch cho nhảy dù một tiểu đoàn xuống Tú Lệ, Cao Phạ nhưng đã bị đội du kích phối hợp với bộ đội chủ lực tiêu diệt, truy kích. Ngày 15 tháng 10 năm 1952, Than Uyên được giải phóng. Ngày 18 tháng 10 năm 1952, địch thất bại thảm hại ở Phân khu Nghĩa Lộ và tìm đường tháo chạy sang Sơn La, tàn quân địch đi qua Cao Phạ đã bị lực lượng du kích truy kích, tiêu diệt. Mù Cang Chải được hoàn toàn giải phóng khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp. Ngày 27/8/2012, nơi thành lập đội du kích Khau Phạ đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao & Du Lịch công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1959 lượt xem
Khu di tích Căng và Đồn Nghĩa Lộ nằm trên trục chính đường Điện Biên (Quốc lộ 32). Đây là điểm trung tâm của thị xã Nghĩa Lộ và vùng lòng chảo cánh đồng Mường Lò. Khi nhắc tới lịch sử của Căng và Đồn Nghĩa Lộ là nhắc tới địa danh Văn Chấn và nhắc tới lịch sử nơi này thời kỳ kháng chiến chống Pháp những năm 40 của thế kỷ XX. Với ý đồ dập tắt phong trào cách mạng của ta, thực dân Pháp đã lập các trại "lao động đặc biệt" để bắt nhốt những người yêu nước đưa vào trại tập trung. Sau khi Căng Bá Vân (Thái Nguyên) bị giải thể, thực dân Pháp đã đưa những người yêu nước bị giam về Nghĩa Lộ. Mùa hè năm 1944, tri phủ Văn Chấn đã huy động các tổng, xã bắt phu, nộp vật liệu để xây dựng Căng. Thực dân Pháp còn cử tên Đinh Văn Dung và tên Lăm - Be, sở mật thám huyện đến kiểm tra đôn đốc khẩn trương ngày đêm. Đến tháng 1/1945 thì việc xây dựng hoàn thành. Nhìn toàn cảnh lúc này, Căng Nghĩa Lộ như một cái tủ dựng đứng có ba dãy nhà dài "hai dãy là nơi giam giữ chính trị phạm nam giới, phía trong giam chính trị phạm nữ giới, phía ngoài là nơi thường trực và bên cạnh là trạm gác của lính khố xanh". Bao bọc toàn bộ khu Căng - Đồn là hàng rào dây thép gai, phía ngoài hàng rào là hầm sâu có cắm chông, bồn góc Căng có chòi cao sừng sững, ngày đêm canh giữ cẩn mật. Cuộc chiến đấu ác liệt của quân và dân ta với sự kiện phá Căng - Đồn Nghĩa Lộ, giải phóng Văn Chấn lần thứ nhất năm 1945, thực sự là những trang sử vô cùng oanh liệt. Văn Chấn là huyện lớn, nằm ở phía Tây của tỉnh Yên Bái, địa hình là một khu núi rừng trùng điệp, có nhiều núi cao, hang động, là vị trí quân sự có tầm chiến lược quan trọng "tiến có thế công, lùi có thế thủ". Vì thế, giặc Pháp đã đặt mục tiêu phải chinh phục cho bằng được Văn Chấn. Thực hiện ý đồ ấy, ngày mùng 2/10/1947, chúng đem quân đánh tái chiếm Văn Chấn, với âm mưu đánh nhanh và sử dụng lực lượng quân sự mạnh, vũ khí tối tân. Thực dân Pháp muốn khuất phục nhân dân các dân tộc Văn Chấn bằng cách bắn giết hết sức man rợ. Chiếm được Văn Chấn, địch dựa vào những tên tay sai lập nên bộ máy cai trị từ huyện đến xã; đồng thời đặt đồn Nghĩa Lộ thành Phân khu quân sự mạnh nhất trong bốn Phân khu ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Sau khi cắm các đồn bốt và dựng lên bộ máy cai trị, giặc Pháp thực hiện âm mưu chia để trị, dùng người dân tộc này giết người dân tộc khác, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; chúng biến hệ thống ngụy quân, ngụy quyền thành một công cụ đàn áp, bóc lột nhân dân các dân tộc. Chúng chặt đầu, mổ bụng, moi gan một số cán bộ, chiến sĩ của ta. Rồi chúng dùng mô đá trên Ngòi Lao làm pháp trường xử tử 76 cán bộ, chiến sĩ giữa dòng nước xiết. Trong gần 5 năm (1947 - 1952) chiếm đóng Văn Chấn, bọn Pháp đã giết hại và gây thương tích cho hơn 300 người, làm mất tích khoảng 56 người. Hàng nghìn con em các dân tộc bị cường ép đi làm lính đánh thuê cho chúng, cầm súng bắn lại đồng bào, đốt phá rừng núi quê hương. Ngoài việc bắn giết, chúng còn đốt nhà, phá lúa, cướp trâu bò và hàng nghìn tấn lương thực, hãm hiếp phụ nữ và trẻ em. Chúng bắt đồng bào vào ở ngay dưới chân đồn bốt để cắt đứt liên lạc với Việt Minh và bắt đồng bào quen với sự bắn giết man rợ. Độc ác hơn, chúng còn làm hàng rào bằng xương, bằng thịt của đồng bào để ngăn đòn tấn công của quân ta. Những cái nhỏ như củ khoai, củ sắn, bát gạo, lưng cơm và cái quý nhất của con người là tâm hồn, thể xác đều bị chúng giành giật và thuộc quyền sở hữu của quan đồn. Trước sự tàn sát của súng đạn, nhân dân các dân tộc Văn Chấn đã trỗi dậy sự căm phẫn giặc sâu sắc, khơi dậy niềm tin, tình cảm và lòng yêu nước, tin vào Việt Minh, tin theo kháng chiến. Nhân dân ta đã nổi dậy với tinh thần quyết chiến, quyết thắng và giành được thắng lợi vào lúc 5h30 phút ngày 18/10/1952. Chính sự ủng hộ của đồng bào và quyết tâm giành độc lập, tự do cho Tổ quốc đã thôi thúc quân và dân ta chiến đấu, lập nên chiến công vang dội vào mùa thu năm 1952, giải phóng Nghĩa Lộ. Để tưởng nhớ các trận chiến đấu oanh liệt, ngày 25/7/1992, Uỷ ban nhân dân huyện Văn Chấn đã xây dựng "Đài tưởng niệm Căng Nghĩa Lộ". Hiện nay, Khu di tích Căng - Đồn Nghĩa Lộ bao gồm: Đài tưởng niệm Căng Nghĩa Lộ, tượng đài chiến thắng Nghĩa Lộ mang hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ và nhân dân các dân tộc trong chiến dịch giải phóng Nghĩa Lộ tháng 10 năm 1952, cùng với nhà bia ghi tên các liệt sĩ. Ngày 27/9/1996, Bộ trưởng Bộ Văn hoá - thông tin công nhận di tích Căng và Đồn Nghĩa Lộ là Khu di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1904 lượt xem
Đền Đông Cuông là một trong hai đền lớn ở thượng lưu sông Hồng, đã tồn tại từ lâu đời, tọa lạc tại xã Đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Đền Đông Cuông là cụm Di tích gồm 4 điểm: Ngoài Đền chính còn có Miếu Cô, Miếu Cậu và Miếu Đức Ông. Đền có từ lâu đời, qua sử sách thư tịch được biết Đền có muộn nhất vào đời Lê, được phát triển từ một Miếu cổ (thuộc trung tâm trại Quy Hóa thời Trần); Các thư tịch cổ như Kiến văn tiểu lục, Đại Nam thống nhất chí đều có ghi chép về ngôi Đền Đông Cuông này. Đền và khu vực đền có liên quan đến Đền Ngọc Tháp và Đền Hùng (Phú Thọ). Đền Đông Cuông sơ khởi là Miếu thờ Đông Quang công chúa do các dòng họ Hà, Hoàng là người Tày Khao sáng lập và thay nhau đảm lãnh công vụ chính quyền, đồng thời là nơi làm việc của Thổ Tù, chức dịch, phiên quan và đảm chức năng “Đinh Trạm” chuyển tống đạt công văn hai chiều giữa triều đình trung ương và cơ sở. Thời Trần tổng dinh Quy Hóa - Hà Bổng và ông Từ (Ngọc Tháp - Quang Sơn) lên trấn giữ biên ải. Hiện nay, trước là Đình, nay là Đền dòng họ Hà quán xuyến bởi tổ phụ của dòng họ Hà là Hà Văn đã từng lãnh đạo địa phương đánh giặc Nguyên - Mông thời Trần. Sử chép tháng 2 năm Đinh Hợi (1287) vua Nguyên - Mông lấy 7 vạn quân, 500 chiến thuyền, 6.000 quân Vân Nam và 1 vạn 5.000 quân ở 4 châu ngoài bể và sai thái tử Thoát Hoan làm đại nguyên soái; A Bát Xích làm Tả Thừa; A Lỗ Xích làm bình trương chính sự; Ô Mã Nhi làm chính sự đem tất cả hơn 30 vạn quân sang tiến đánh nước Nam. Trước tình thế đó, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã sắc phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm quốc công tiết chế chỉ huy toàn bộ quân dân Đại Việt kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông. Đạo quân Nguyên - Mông do Nạt Tốc Lạt Đinh chỉ huy chạy ngược theo sông Lô về Vân Nam, khi chạy qua địa phận Phù Ninh (nay là huyện Phong Châu tỉnh Phú Thọ) chúng bị quân dân địa phương do anh em Hà Đặc, Hà Chương đã rút quân lên đánh tận căn cứ núi Chỉ (thuộc tỉnh Phú Thọ), từ trên núi đưa dân binh xông vào đồn quân tiên phong của giặc, tập kích bất ngờ bằng nhiều mưu lược quân sự. Quân của Hà Đặc, Hà Chương đuổi giặc tới tận A Lạp thì bị đạo quân đi sau của giặc chặn đánh, Hà Đặc anh dũng hy sinh, Hà Chương bị bắt . Quân Nguyên - Mông tan vỡ thiệt hại nặng, số sống sót rút chạy về Vân Nam. Theo gia phả của dòng họ Hà “vốn gốc người Tày Khao thuộc dòng Hà Đặc, Hà Chương thời Trần. Nay tụ cư tại An Bồi - Kiến Xương, Thái Bình: Hà Đặc và Hà Chương là hai anh em, khi đánh giặc Hà Chương hăng hái truy kích địch tới vùng Yên Bái đã hy sinh tại đó. Ông được phong hầu là “Bình Nguyên thượng tướng trung dũng hầu”". (Theo mục cổ tích Trấn Hưng Hóa) sau bị tử trận và được dân làng lập miếu thờ bên ghềnh ngai (thuộc thôn Ghềnh Ngai bên bờ trái thuộc xã Tân Hợp, huyện Văn Yên), vợ ông là Lê Thị và con trai ông là Hoàng Báo khi mất cũng được dân làng thờ bên Ghềnh Ngai và ít lâu sau, ban thờ mẹ và con được di chuyển sang đình cả Đông Cuông (nơi Đền Đông Cuông ngày nay). Chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 2 là một chiến thắng hiển hách, địa danh tiêu biểu Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Cự Đà sẽ mãi còn ghi trong sử sách. Kể từ khi di dời, đình được mở rộng và cải đổi trở thành Đền cụ Lê Quý Đôn thời Hậu Lê đã có ký lục. Sách Đại nam nhất thống chí có định danh là “Đền Thần Vệ Quốc” gọi theo sắc phong. Sự biến cuộc khởi nghĩa Giáp Dần (1913-1914), năm 1914 nghĩa quân Mán quần trắng, Mán đại bản và người Tày, người Nùng tỉnh Yên Bái tổ chức tập hợp lực lượng và nổi dậy năm Giáp Dần tấn công các đồn của Pháp trên địa bàn tỉnh Yên Bái và Lao Cai. Cùng thời gian này, công nhân hỏa xa và thương gia Việt Kiều tại tỉnh Vân Nam - Trung Quốc hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Bội Châu và những người Việt Nam quang phục hội, lập hội ái hữu và hội yêu nước ở hải ngoại, bí mật ủng hộ phong trào đấu tranh chống Pháp ở trong nước. Một số đồn binh của Pháp dọc biên giới Việt Trung, địa phận Lao Cai bị nghĩa quân tấn công. Cuộc nổi dậy thất bại. Do thiếu tổ chức đúng đắn. Chính quyền thống trị Pháp thiết lập, tòa án quân sự đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh… xét xử những chiến sỹ yêu nước, hầu hết bị kết tội tử hình, chung thân hoặc khổ sai lưu đày, một số bị hành quyết lén lút. Năm 2000, đền được UBND tỉnh Yên Bái công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Ngày 22/1/2009, đền được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia tại Quyết định số 296/QĐ-BVHTTDL. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1889 lượt xem
Chiến khu Vần là một vùng đất khá rộng, nằm ở phía Nam huyện Trấn Yên và Đông Nam huyện Văn Chấn. Trước năm 1945, Chiến khu Vần nằm ở địa bàn của 3 tổng là: Lương Ca, Giới Phiên (thuộc Trấn Yên) và Đại Lịch thuộc Văn Chấn có cự ly dài từ Bắc xuống Nam là 23km và từ Đông sang Tây 18km. Lịch sử vùng chiến khu trải qua thời gian, địa danh, địa giới có nhiều thay đổi, trước đây vùng đất này thuộc huyện Văn Chấn, nay thuộc huyện Trấn Yên. Năm 1945, xã Vân Hội ngày nay có tên gọi là xã Minh Phú; Ngày 6/1/1946, liên xã Minh Phú - Đồng Phú - Phú Thịnh - Phú Lương gọi là xã Việt Cường; Ngày 23/3/1949, chia xã Việt Cường thành 2 xã Hồng Đức và Việt Cường; Ngày 1/1/1951, sáp nhập 3 xã Việt Cường, Hồng Đức, Minh Quân gọi là xã Việt Hồng; Ngày 4/1/1954, tách xã Việt Cường thành 3 xã: Việt Hồng, Việt Cường và Minh Quân; Ngày 6/6/1988, Hội đồng bộ trưởng chia xã Việt Hồng thành 2 xã: Xã Việt Hồng và xã Vân Hội. Địa giới có thể thay đổi song trung tâm của Chiến khu là xã Minh Phú (tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên) nay gồm 3 xã Việt Hồng, Việt Cường, Vân Hội trong đó tiêu biểu là 2 điểm Làng Vần xã Việt Hồng (là trung tâm chỉ huy của Chiến khu) và Làng Đồng Yếng (thuộc xã Vân Hội) là trung tâm huấn luyện quân sự của căn cứ cách mạng Chiến khu. Làng Vần: Là thung lũng được bao bọc bởi các dãy núi có độ cao trung bình từ 200 đến 500m, thung lũng có chiều dài 4,5 km, đường đi lại khó khăn, ngày nay được kết cấu bằng những chân ruộng bậc thang, sau cách mạng được đồng bào khai phá (có độ chênh lệch thấp) nay gọi là Đồng Trò, Đồng Cây Gạo… có ngòi Vần chạy dọc theo làng. Đây cũng là hợp lưu của 3 con ngòi nhỏ để tạo nên ngòi Vần. Địa thế hiểm trở, xưa chỉ có một con đường duy nhất vào làng và phải qua đèo. Vừa kín đáo lại vừa gần các trung tâm chính trị (tỉnh lỵ hai tỉnh Yên Bái - Phú Thọ) nên khu vực này đã được Xứ ủy Bắc Kỳ chọn làm nơi thuận lợi cho việc lập căn cứ cách mạng dần phát triển hình thành mô hình kiểu Chiến khu. Làng Đồng Yếng: Cách làng Vần khoảng 4 km về phía Đông và cách Hiền Lương hơn 3 km về phía Tây, là làng nằm giữa Vần và Hiền Lương. Có vị trí thuận lợi, đồi hình mâm xôi, nên Đồng Yếng được đội du kích Âu Cơ chọn làm trung tâm huấn luyện quân sự để phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở Yên Bái và Phú Thọ. Sau khi nhận định tình hình vị trí địa lý và tinh thần của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ, khi thành lập đội du kích Âu Cơ đã chuyển lên Đồng Yếng rồi vào làng Vần. Lấy Vần làm trung tâm chỉ huy, lấy Đồng Yếng làm trung tâm huấn luyện quân sự cho hình thành Chiến khu. Một sự kiện trọng đại đã diễn ra tại đây, ngày 30/6/1945, Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) được thành lập - một mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự hình thành Chiến khu. Di tích chiến khu Vần là một mốc son của sự kiện lịch sử Yên Bái nói riêng và của vùng Tây Bắc rộng lớn nói chung. Chiến khu Vần đã có vai trò quyết định trong việc chuẩn bị lực lượng để đấu tranh giành chính quyền cách mạng ở hai tỉnh Phú Thọ - Yên Bái và huyện Phù Yên (Sơn La) đồng thời là căn cứ đảm bảo cho địa phương trong công cuộc chuẩn bị đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp quyết liệt (1946 - 1954), là nơi thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái - Phú Thọ và là tiền thân ra đời của Đảng bộ 2 tỉnh. Ngày 4/9/1995, Bộ Văn hoá - Thông tin (Nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) đã công nhận Chiến khu Vần là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1821 lượt xem
Nằm bên bờ sông Hồng, cách thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên (Yên Bái) chừng 41 km theo đường tỉnh lộ 151 là tới Khu di tích Lịch sử - Văn hóa Đền Nhược Sơn. Khu di tích này thuộc thôn Ngọc Châu, xã Châu Quế Hạ, là đền thờ võ tướng Hà Chương - một nhân vật có thật trong lịch sử, một võ tướng tài ba thời nhà Trần - đã có những đóng góp to lớn trong việc trấn giữ vùng biên cương phía Bắc, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta trước quân xâm lược Nguyên Mông. Khu di tích đã được xếp vào loại hình di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 16/11/2005. Hàng năm, cứ vào ngày 20 - 1 và 20 - 9 (âm lịch), nhân dân địa phương lại náo nức chuẩn bị cho công tác đón du khách thập phương. Thời gian gần đây, không chỉ người dân địa phương, trong huyện, trong tỉnh mà còn có rất nhiều du khách từ Hà Nội và các tỉnh khác tìm đến với đền. Hai năm trở lại đây, đền Nhược Sơn khôi phục hoạt động lễ hội và thu hút du khách thập phương ngày một đông. Người dân địa phương gọi đền Nhược Sơn bằng tên gọi khác là: Loòng Mẹac, Tại Mẹac. Theo "Hồ sơ di tích đền Nhược Sơn" (Hoàng Tiến Long, Bảo tàng tỉnh Yên Bái) thì vào tháng Hai năm Đinh Hợi 1287, hơn 30 vạn quân Nguyên Mông tiến đánh nước ta, đạo quân Nguyên Mông do Nạt Tốc Lạt Đinh chỉ huy khi tháo chạy qua địa phận Phù Ninh đã bị quân dân địa phương do anh em Hà Đặc, Hà Chương chỉ huy chặn đánh. Khi đuổi giặc tới A Lạp thì anh em Hà Đặc, Hà Chương bị đạo quân đi sau của giặc chặn đánh, Hà Đặc anh dũng hy sinh, Hà Chương bị bắt. Lợi dụng đêm tối và sơ hở của giặc, Hà Chương đã lấy cờ xí và y phục quân giặc trốn về, xin triều đình cho dùng cờ và y phục giả làm quân giặc tới quân doanh của chúng. Giặc bị tập kích bất ngờ không kịp đề phòng bị quân của Hà Chương đánh từ trong ra, quân Nguyên Mông tan vỡ, rút tàn binh về Vân Nam. Theo gia phả của dòng họ Hà vốn gốc người Tày Khao, thuộc dòng Hà Đặc, Hà Chương thời Trần, nay tụ cư tại An Bồi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, khi đánh quân Nguyên, Hà Chương hăng hái truy kích địch tới vùng Yên Bái và hy sinh. Theo lời các cụ cao niên tại xã Châu Quế Hạ, Hà Chương trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần hai đã đuổi quân Nguyên theo đường sông Hồng lên Yên Bái, tới Châu Quế Hạ ngày nay chiêu mộ thêm binh sĩ tiếp tục truy kích và phá tan quân địch. Trong lúc quyết chiến, Hà Chương bị thương nặng rồi hy sinh và được đưa sang sông chôn cất tại cửa thác Nhược Sơn.... Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1792 lượt xem
Địa điểm Khu ủy Tây Bắc thuộc bản Chanh, xã Phù Nham, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái cách huyện lỵ Văn Chấn 12km về phía Đông, cách thành phố Yên Bái 80km về phía Đông Bắc. Nơi đặt trụ sở của Khu ủy Tây Bắc từ tháng 11/1953 đến cuối năm 1954 là bản Chanh, xã Phù Nham, huyện Văn Chấn. Trước đây bản Chanh được gọi là bản Chanh Quân, song do mật độ dân cư ngày càng đông nên bản Chanh Quân được tách thành hai bản là bản Quân và bản Chanh. Vào thế kỷ XIX, khoảng năm 1873 khi giặc cờ Vàng (tàn quân của phong trào khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc - Trung Quốc) do Dịp Tài (theo cách đọc của người Thái, còn tên chính thức được ghi trong sử sách là Diệp Tài) cầm đầu kéo quân vào xâm chiếm đất Mường Lò, dân Phù Nham đã anh dũng đứng lên theo lời kêu gọi của vị thủ lĩnh người Thái là Cầm Ngọc Hánh chống lại giặc cờ Vàng. Năm 1875 - 1896 hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, phong trào chống Thực dân Pháp do Nguyễn Quang Bích chỉ huy đã phát triển nhanh chóng. Ở Yên Bái đã hình thành các trung tâm hoạt động của nghĩa quân tại các vùng Đại Lịch, lòng chảo Mường Lò... trong thời gian đó, nhân dân các dân tộc tại các địa điểm trên đã đoàn kết một lòng cùng nghĩa quân chống lại bọn xâm lược và nhân dân xã Phù Nham cũng nhiệt tình tham gia những hoạt động đó. Để chuẩn bị giải phóng khu Tây Bắc khỏi sự chiếm đóng của thực dân Pháp, tháng 5/1952 Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch quyết định 4 tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu và Sơn La tách khỏi Liên khu Việt Bắc và dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của khu XX (tiền thân của Khu ủy Tây Bắc). Giữa năm 1953, Trung ương điều động đồng chí Trần Quyết - Bí thư Tỉnh ủy Sơn La bổ sung vào Khu ủy, giám đốc công an khu Tây Bắc, ông Lò Văn Mười - Ủy viên ban hành chính kháng chiến tỉnh Sơn La về nhận công tác ở Khu. Tháng 5/1952, trụ sở khu XX đóng tại làng Đồng Lý huyện Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang (nay thuộc tỉnh Yên Bái). Ngày 14/10/1952, chiến dịch Tây Bắc bắt đầu, chỉ trong vòng mười ngày ta đã giải phóng được một vùng rộng lớn bên tả ngạn sông Đà gồm các huyện Văn Chấn, Than Uyên (Yên Bái), Phù Yên và một phần huyện Quỳnh Nhai (Sơn La); sau đó bộ đội ta mở đợt hai chiến dịch Tây Bắc, đến cuối tháng 12/1952 giải phóng phần lớn Tây Bắc (trừ cứ điểm Nà Sản và thị xã Lai Châu). Để việc lãnh đạo được sâu sát hơn, tháng 11/1952 khu XX đã chuyển trụ sở về đóng tại xã Hưng Khánh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (Thác Thiến - km 28, đường 13A). Đầu năm 1953, ta mở đường 13A từ Ba Khe sang nối với đường 41 (Hà Nội đi Sơn La - Lai Châu) ở Cò Nòi để chuẩn bị lực lượng tấn công tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Thấy nguy cơ bị tấn công nên giặc Pháp bí mật rút bỏ cứ điểm Nà Sản (tháng 5 năm 1953) để bảo toàn lực lượng. Tháng 11/1953, Khu ủy Tây Bắc đã chuyển toàn bộ các cơ quan của Khu ủy vào đóng rải rác tại các bản làng của xã Phù Nham, huyện Văn Chấn. Đến nay, do yêu cầu mới của cách mạng và đất nước, mặc dù Khu ủy Tây Bắc không còn tồn tại nữa, song địa danh bản Chanh, xã Phù Nham - nơi Khu ủy chọn đặt trụ sở làm việc, lãnh đạo phong trào cách mạng của bốn tỉnh Tây Bắc đã trở thành một địa danh khắc sâu vào tâm trí và tình cảm của những thế hệ cán bộ, nhân dân đã trực tiếp tham gia hoạt động, phục vụ kháng chiến. Ngày 27/8/2012, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã công nhận địa danh Khu ủy Tây Bắc, xã Phù Nham, huyện Văn Chấn là di tích cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1730 lượt xem
Đèo Lũng Lô thuộc bản Dạ, xã Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, đèo còn có tên gọi khác là Đèo Đao. Lũng Lô - một địa danh đã đi vào sử sách trong cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng của dân tộc như một huyền thoại. Nơi đây quân và dân cả nước, đã dốc sức tiếp tế cho chiến trường Điện Biên Phủ qua đèo Lũng Lô. Đèo Lũng Lô nằm trên Quốc lộ 37 (đường 379 cũ, nối Quốc lộ 32 với Quốc lộ 32B) tại ranh giới hai huyện Văn Chấn (Yên Bái) và Phù Yên (Sơn La), nằm về phía Đông Bắc và cách thị trấn Phù Yên33 km. Đèo dài 15 km, từ km 349 đến km 364, độ dốc 10%. Trong kháng chiến chống Thực dân Pháp, Trung ương Đảng quyết định mở con đường 13A bắt đầu từ Bến Hiên, thuộc tỉnh Tuyên Quang, vượt qua Bến Âu Lâu, đi qua đèo Lũng Lô tới ngã ba Cò Nòi, nối với đường 41 phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Tuyến đường mà công binh và dân công phải mở dài trên 120km, địa hình chủ yếu là núi cao, vực sâu, phải đi qua 3 con sông lớn là sông Chảy, sông Hồng và sông Đà. Xác định rõ nhiệm vụ chính trị là đảm bảo thông suốt mạch máu giao thông ra chiến trường, ngay từ tháng 4/1953, theo yêu cầu của Bộ Tổng tham mưu, tỉnh Yên Bái đã quyết định thành lập cung đường 13, huy động 124.458 lượt dân công tham gia mở đường với 173.197 công đào, đắp và san lấp hố bom chống lún sạt. Nhân dân địa phương đã tự nguyện quyên góp hàng nghìn cây gỗ, hàng vạn cây tre, bương, vầu, cột nhà lót đường, bắc cầu thông xe, vận tải quân lương vào chiến dịch. Sau hơn 200 ngày đêm, quân và dân ta vừa mở đường vừa bảo vệ và vận chuyển được hàng nghìn tấn lương thực, quân trang, vũ khí đạn dược đến nơi an toàn. Tuyến đường qua đèo Lũng Lô được thông suốt nối với chiến khu Việt Bắc và các tỉnh Tây Bắc, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, nhờ đó mà hàng vạn ô tô, xe thồ chở hàng vũ khí tiếp ứng đầy đủ kịp thời cho chiến trường. Trước tình hình đó, tháng 2/1954, thực dân Pháp tập trung lực lượng không quân đánh phá ác liệt các tuyến đường lên Tây Bắc, hòng ngăn cản sự tiếp viện của hậu phương ra chiến trường. Cùng với Âu Lâu, Hưng Khánh, Vực Tuần, Cò Nòi, thì địa điểm đèo Lũng Lô là nơi địch đã ném xuống đây gần 12.000 tấn bom, có những ngày địch ném xuống 200 quả bom. Trong suốt chiến dịch, mỗi ngày có từ 16 đến 18 chiếc máy bay địch oanh tạc từ 5 đến 6 lần. Vượt qua nguy hiểm, bất chấp bom rơi đạn nổ, với tinh thần tất cả cho tiền tuyến đã có hàng vạn lượt người, dân công ngày đêm bám đường. Địch phá, ta lại sửa ta đi, địch phá đoạn này, ta mở đoạn khác, địch phá ban ngày, ta mở đường ban đêm. Hàng vạn tấn quân lương, quân trang vũ khí đạn dược, hàng chục nghìn tấn lương thực, thực phẩm tập kết ở khu vực Thượng Bằng La đã vượt đèo vào chiến trường và được bảo vệ an toàn. Với nhiệm vụ nặng nề và thời gian cấp bách, con đường tiếp tế cho Điện Biên Phủ qua đèo Lũng Lô đã hoàn thành trước thời hạn 10 ngày và trở thành một kỳ tích lịch sử, khiến thực dân Pháp bất ngờ, khiếp sợ tinh thần quả cảm của quân và dân ta. Từ sự đoàn kết, thống nhất trong lao động, chiến đấu của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái, con đường 13A - con đường lịch sử, văn hóa đã được hình thành đóng góp tích cực cho chiến thắng Điện Biên Phủ và quá trình phát triển kinh tế - xã hội hai tỉnh Yên Bái, Sơn La, Sau này con đường được mang tên “Quốc lộ 13A” - con đường lịch sử. Đèo Lũng Lô - cung đường huyền thoại, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2011, vào đúng dịp kỷ niệm 57 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7.5.1954-7.5.2011). Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Yên Bái 1667 lượt xem