Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Gần 300 cây kèn hồng đã trổ hoa đồng loạt trên đường vào khu hành chính huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Mỗi ngày có hàng trăm người từ khắp các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đến đây để chụp ảnh.
Gần 300 cây kèn hồng đã trổ hoa đồng loạt trên đường vào khu hành chính huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Mỗi ngày có hàng trăm người từ khắp các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đến đây để chụp ảnh.
Cung đường hoa kèn hồng ở miền Tây
Từ cuối tháng 2 đến nay, đoạn đường gần 1 km từ quốc lộ 1 vào khu hành chính huyện Châu Thành (tỉnh Sóc Trăng) tấp nập du khách check-in hoa kèn hồng.
Đây là cây thân gỗ, cao từ 3-15m, nguồn gốc xuất xứ từ châu Mỹ. Hoa kèn hồng hình dạng như chiếc chuông, 5 thùy phát triển đều ở đầu, có màu hồng phấn, mọc thành chùm, mỗi chùm 4-7 hoa.
Những năm trước, kèn hồng trổ hoa vào trung tuần tháng 3 nhưng năm nay nắng nóng từ sau Tết Nguyên đán Giáp Thìn nên 282 cây kèn hồng 2 bên đường Hùng Vương, thị trấn Châu Thành (Sóc Trăng) đã trổ hoa từ một tuần trước. Nhiều cánh hoa bị gió giật rơi rụng xuống đường tạo nên cảnh đẹp như trong phim.
Lãnh đạo UBND huyện Châu Thành cho biết kèn hồng được địa phương trồng 2 đợt với 282 gốc. Trong đó, đợt đầu 160 cây đã hơn 10 năm tuổi, đợt 2 trồng xen thêm cách đây 4 năm và đã ra hoa từ năm 2023.
Không chỉ người dân Sóc Trăng mà mỗi ngày có hàng nghìn lượt du khách từ nhiều tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đến "thị trấn kèn hồng" để chụp ảnh lưu niệm và đăng lên mạng xã hội.
Nhiều phụ nữ hưởng ứng "tuần lễ áo dài" (từ 1-8/3) đã đến cung đường hoa kèn hồng ở Sóc Trăng để tham quan, chụp ảnh.
Khách tham quan, chụp ảnh nhiều nhất tại đây là các bạn trẻ. Nhiều bạn trẻ ở miền Tây muốn lưu lại những khoảnh khắc đặc biệt tại cung đường hoa kèn hồng tuyệt đẹp mà không phải đi xa.
Hai cô gái xem lại ảnh vừa chụp tại cung đường hoa kèn hồng.
Chị Trịnh Thị Linca, chủ vườn nho tại phường 10, TP Sóc Trăng cho biết gia đình tranh thủ ngày cuối tuần, con gái không đi học để đưa nhau đi check-in hoa kèn hồng.
Sau khi chụp ảnh, các thành viên của nhiều gia đình đã tranh thủ nghỉ ngơi, ngắm cảnh dưới gốc cây kèn hồng. Từ cung đường hoa kèn hồng hiện hữu, huyện Châu Thành đã có kế hoạch phát triển địa phương thành huyện du lịch, cùng với Kế Sách, Cù Lao Dung… của tỉnh Sóc Trăng.
Một gia đình đã tranh thủ mở quán ẩm thực sân vườn với tên gọi Vườn Kèn Hồng tại cung đường hoa.
Cồn Mỹ Phước với khí hậu trong lành, mát mẻ cây cối xanh tươi, sum suê trĩu quả bốn mùa, phong cảnh nên thơ hữu tình, người dân chất phát, hiền hòa, mến khách… đã trở thành điểm du lịch Sóc Trăng xanh hấp dẫn thu hút đông đảo khách trong và ngoài nước đến tham quan, trải nghiệm và thư giãn. Cồn Mỹ Phước còn được gọi là cồn Công Điền hay cồn Bùn nằm gần cuối hạ lưu, xuôi theo dòng sông Hậu, theo hướng Tây – Bắc, Đông – Nam, ở giữa đôi bờ của 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, thuộc ấp Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Đầu cồn hướng về phía Hậu Giang, Cần Thơ, đuôi cồn hướng ra biển Đông, tiếp giáp với huyện Cù Lao Dung, cách đầu cù lao khoảng 1km, cách bờ biển Đông khoảng 40km, cách trung tâm thành phố Sóc Trăng khoảng 25km. Nếu nhìn từ trên cao xuống, cồn Mỹ Phước có hình bầu dục giống như hình dáng của một chiếc xuồng hay một trái cà na, hai đầu tóp lại, ở giữa phình to ra, chỗ rộng nhất là đoạn cắt ngang qua giữa thân cồn, đường kính khoảng 600m. Cồn Mỹ Phước có chiều dài khoảng 5km, với diện tích tự nhiên hơn 1020 hecta, trong đó diện tích cây ăn trái trên 300 hecta, hiện có 540 hộ gia đình với hơn 1280 cư dân sinh sống. Theo lời những người dân cố cựu nơi đây kể lại, cồn Mỹ Phước đã định hình cách đây khoảng 150 năm. Lúc đầu, mặt cồn rất thấp, trên cồn chỉ toàn bãi bùn, cỏ dại, dây leo, một số loài cây tạp, đa số là cây bần cùng một số loài thú hoang và chim muông sinh sống. Từ việc trồng rẫy lúc ban đầu, bà con bắt đầu trồng thêm các loại cây ăn trái thông thường như: chuối, dừa, cam quýt, bưởi, sabô… rồi sau đó phát triển thêm các vườn cây đặc sản khác như: xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, mặng cụt… Có lẻ do thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu nên các loại trái cây nơi đây phát triển rất tốt, có hương vị đậm đà, thơm ngon giàu dinh dưỡng hơn những vùng đất khác. Du lịch Sóc Trăng đến thăm Cồn Mỹ Phước với không gian bao la rộng lớn, sông nước thơ mộng chắc chắn bạn sẽ cảm nhận được từng ngọn gió mát lành trên những con đường quanh năm rợp bóng cây trái. Ngoài ra còn được tham gia vào hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn như tham quan nhà vườn, tự tay hái trái cây; thả lưới, đặt lờ bắt cá, hái rau; bơi xuồng hái lượm bần, thụt cá bống sao, lịch, mò chem chép; dỡ chà bắt cá, tắm sông…hay làm các loại bánh dân gian, nghe đờn ca tài tử Nam bộ với những làn điệu dân ca “cây nhà lá vườn” đậm chất mộc mạc, trữ tình, khám phá các món ăn dân dã mang hương vị xứ cồn như cá lóc luộc hèm, canh chua cá ngát nấu bần, ốc luộc nước dừa chấm cơm mẻ…từ đó hiểu hơn về cuộc sống của người dân miệt vườn.
Sóc Trăng 1805 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm trong hệ thống chùa Khmer Nam Bộ tại Sóc Trăng, chùa Chén Kiểu được biết đến là một trong số những ngôi chùa có phong cách kiến trúc “độc nhất vô nhị” để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng du khách. Nét nổi bậc đặc trưng của ngôi chùa này là ở những bức tường. Không phải được tô xi măng thẳng đều, hay lát gạch bông hay sơn màu như những ngôi chùa khác. Tường của ngôi chùa này được ốp bởi những mảnh chén, dĩa, sành sứ nhìn rất độc đáo nhưng vô cùng thẩm mỹ đẹp lạ. Chùa Chén Kiểu còn gọi là chùa Sà Lôn thuộc xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng nằm ngay quốc lộ 1A, cách thành phố Sóc Trăng khoảng 12 km, theo hướng từ thành phố Sóc Trăng đi Bạc Liêu. Chùa có tên Khmer là Wath Sro Loun, để dễ phát âm nên từ Sro Loun được đọc chại thành Sà Lôn. Sro Loun có nguồn gốc từ chữ Chro Luong – là tên của 1 con rạch chạy dọc theo đường làng trước đây ở gần chùa, và tên gọi ấy đồng thời cũng được dùng để đặt tên chùa. Năm 1815, chùa Chén Kiểu bắt đầu xây dựng bằng các vật liệu lá cây, gỗ, đất… như bao ngôi chùa Khmer khác . Trong thời gian chiến tranh, dưới sức tàn phá của bom đạn, ngôi chánh điện của chùa bị hư hại nặng. Đến năm 1969, chùa được xây dựng lại theo kiến trúc như ngày nay, gồm: Chánh điện, sala, tháp bảo, nơi để sách kinh,… Trong quá trình xây dựng, do thiếu vật liệu nên các vị sư đã nảy ra sáng kiến là quyên góp chén, dĩa từ bà con trong phum, sóc để ốp lên tường. Ý tưởng này vừa tiết kiệm kinh phí xây dựng, vừa tạo nên những họa tiết trang trí ấn tượng. Cũng từ đó, chùa còn được nhân dân biết đến với tên gọi thứ hai: “Chùa Chén Kiểu”. Các nghệ nhân Khmer đã khéo léo tận dụng số chén, đĩa này để trang trí các bức tường, cột tháp, tạo nên một công trình kiến trúc hài hòa, ấn tượng. Những đồ còn mới được ốp trực tiếp lên tường, hay làm thành những con tiện hàng rào bao quanh các dãy hành lang hay tay vịn cầu thang, còn những đồ đã vỡ hay sứt mẻ được sắp xếp và ghép thành các hoa văn trang trí lạ mắt. Ấn tượng đầu tiên khi vào chùa chính là cổng tam quan với 3 ngôi tòa tháp được chạm khắc hoa văn và màu sắc rực rỡ theo phong cách truyền thống Angkor Campuchia. Trong ba ngọn tháp, nổi bật với tháp giữa bên trong có lồng kính, tôn trí một pho tượng Phật ngồi uy nghi. Chung quanh chùa là tường rào trang trí hình tượng tiên nữ Apsara đang múa, tượng trưng cho hòa bình và thịnh vượng. Hai bên cổng vào có 2 tượng sư tử đá, mặt hướng ra đường như bảo vệ ngôi chùa. Trên thành cổng có dòng chữ Khmer và chữ quốc ngữ: “Chùa Sà Lôn (Chén Kiểu)”. Dọc lối vào chùa là 2 hàng tượng thần Kâyno (kerno), đây là những bức tượng có khuôn mặt tiên nữ Apsara – tượng trưng cho sắc đẹp vĩnh hằng và thân hình chim thần Garuda – tượng trưng cho sức mạnh. Khuôn viên chùa Chén Kiểu rất rộng với nhiều cây xanh thoáng mát, tạo cho du khách cảm giác thật thoải mái. Cũng như các ngôi chùa khác của người Khmer, nóc chùa Chén Kiểu gồm 3 mái so le, mái trên cùng nhỏ hơn hết. Ở gờ mỗi lớp mái đều có trang trí hoa văn, họa tiết, các tượng truyền thống của văn hóa Khmer, mang ước vọng an lành và siêu thoát. Mái trên hình tam giác được trang trí đẹp như tấm thảm nhiều màu sắc phơi mình giữa bầu trời. Hai đầu đao ở hai bên cong vút như có sự giao cảm tâm linh với đấng cứu rỗi cho linh hồn con người, phù hộ độ trì cho chúng sinh được an bình, lạc nghiệp. Kiến trúc nổi bật và gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở mặt đứng ngôi chánh điện chính là trên các đầu cột được trang trí hình tượng nữ thần có cánh Kâyno. Các tượng nữ thần Kâyno này ở tư thế vươn lên đỡ lấy diềm mái, tạo sự chuyển tiếp giữa phương đứng của các cột và phương ngang của mái. Chính điện chùa rộng rãi, thoáng mát, với 16 hàng cột to. Quanh các cây cột đều được chạm khắc, đắp nổi các hình ảnh trong truyền thuyết văn hóa Khmer. Hai bên bức tường có nhiều tranh vẽ kể câu chuyện đức Phật Thích Ca từ khi sinh ra cho đến khi đắc đạo. Các bức tường, tranh càng đặc biệt hơn khi được trang trí, tạo hình bằng mảnh vỡ chén, dĩa kiểu. Gian thờ là một quần thể gồm 20 tượng phật lớn nhỏ, với nhiều tư thế đứng, nằm, ngồi, được bố trí hợp lý, mỹ thuật. Khói hương nghi ngút, ánh sáng của các ngọn nến lắt lay theo từng cơn gió nhẹ làm cho ngôi chùa vốn đã tôn nghiêm lại càng tôn nghiêm hơn. Giữa sân Chùa Chén Kiểu là cột cờ, với hình tượng rắn thần Nagar xòe 5 đầu khá sinh động, nhằm nhắc đến điển tích rắn xòe đầu ra để che mưa cho Đức Phật khi người tọa thiền. Rắn thần Nagar là mô típ trang trí quan trọng trong nghệ thuật điêu khắc của Phật giáo Khmer. Người Khmer Sóc Trăng nói riêng và Nam bộ nói chung, chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Ấn Độ, vì thế Phật giáo Tiểu thừa là tôn giáo chính, chi phối đời sống tinh thần của họ. Chính vì vậy, họ chỉ thờ Phật Thích Ca, mà không thờ các vị Quan âm hay Bồ Tát khác. Hơn nữa, người Khmer tin rằng tổ tiên của họ là mẹ rắn, nên có tín ngưỡng thờ rắn và hình tượng rắn thường xuất hiện trong chùa. Phía sau chùa là Khu vườn Phật Thích Ca giảng đạo và nhập Niết bàn. Đây là quần thể kiến trúc gồm nhiều tượng Phật lớn nhỏ, mô phỏng khá sinh động quá trình ra đời, đi tìm chân lý, giác ngộ cho đến khi nhập cõi Niết bàn của đức Phật Thích Ca. Chùa Chén Kiểu là một ngôi chùa nổi tiếng tại Sóc Trăng, là địa điểm hành hương tâm linh không thể thiếu đối với đời sống của người dân và cộng đồng người Khmer. Là chốn linh thiêng để người dân tìm đến sự an lành thanh tịnh. Đến với chùa Chén Kiểu, ngoài việc ngắm nhìn kiến trúc độc đáo của chùa, du khách còn có dịp tìm hiểu văn hóa của người dân Khmer. Với những bạn yêu thích khám phá hay check-in với những công trình kiến trúc cổ kính thì đây là một địa điểm lý tưởng. Mọi góc trong ngôi chùa đều có thể trở thành back-ground đậm chất nghệ thuật để có những bức hình ngàn like, đảm bảo khi lên ảnh sẽ khiến nhiều người ngỡ ngàng.
Sóc Trăng 1796 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu có dịp ghé thăm Bửu Sơn Tự du khách sẽ có cơ hội tìm hiểu nét độc đáo về đời sống văn hóa, tinh thần, sinh hoạt tôn giáo của người dân Sóc Trăng. Bửu Sơn Tự còn gọi chùa Đất Sét tọa lạc tại số 286, đường Tôn Đức Thắng, khóm 1, phường 5, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Chùa Đất Sét không nổi tiếng về kiến trúc xây dựng bên ngoài cũng như không quy mô bề thế về diện tích nhưng lại là một ngôi chùa độc đáo ở Việt Nam bởi hàng ngàn hiện vật bên trong đều được tạo hình từ đất sét và sở hữu những cặp đèn cầy, những cây nhang khổng lồ. Theo như lời kể của các vị cao niên, trước đây Bửu Sơn tự chỉ là một am nhỏ được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX, do ông Ngô Kim Tây xây dựng với mục đích tu tại gia. Lúc đầu chùa được làm hoàn toàn bằng những vật liệu tự nhiên sẵn có như: Tre, nứa, tranh,… Mãi đến đời trụ trì thứ tư, ông Ngô Kim Tòng (1909 – 1970) am nhỏ được tôn tạo, mở rộng thêm để có ngôi Bửu Sơn tự như bây giờ. Bửu Sơn tự có diện tích khoảng 400m2 với kiến trúc chân phương cột gỗ mái tôn nhưng ngôi cổ tự này lại chứa đựng trong đó nhiều giá trị văn hóa, nghệ thuật rất độc đáo. Đó là gần 2.000 tượng phật lớn nhỏ, cùng với linh thú, vật thờ được nghệ nhân Ngô Kim Tòng nặn bằng đất sét trong suốt 42 năm (từ năm 1929 đến năm 1970). Du lịch Sóc Trăng, đến thăm chùa Đất Sét ai cũng trầm trồ thán phục và ngưỡng mộ bậc kỳ tài đã dùng tâm quyết cả đời và lòng mến mộ Phật pháp đã sáng tạo ra công trình đầy kỳ công này. Ông Ngô Kim Tòng là con của ông Ngô Kim Đính, khi còn nhỏ ông hay đau ốm bệnh tật. Đến năm 1929, lúc ấy Ông 20 tuổi thì lâm bệnh nặng tưởng không qua khỏi, gia đình chỉ còn cách đưa ông Tòng lên ngôi chùa trên núi thuộc tỉnh An Giang để chữa trị và cầu khấn trời Phật. Vừa uống thuốc vừa tập ngồi thiền, tĩnh tâm, dần dần ông đã khoẻ lại. Ông Ngô Kim Tòng đi tu và về chùa trụ trì đời thứ tư, một nghệ nhân không qua trường lớp điêu khắc, hội hoạ, không học ông thầy dạy chính qui mà chỉ qua chiêm nghiệm dân gian đã tạo nên những công trình kỳ vật điêu khắc bằng đất sét có giá trị lịch sử tôn giáo vô cùng quý hiếm. Nguyên liệu dùng cho việc nặn tượng chủ yếu bằng đất sét, do Ông Tòng đào từ những cánh đồng cách chùa vài cây số, đem về phơi khô, rồi bỏ vào cối dùng chày giã nhuyễn cho mịn ra, lọc hết tạp chất, rễ cây, rễ cỏ, lấy đất mịn trộn cùng mạc cưa làm nhang (bột hương) và keo ô dước tạo thành một hỗn hợp dẻo thơm. Lúc đó, Ông mới bắt đầu nắn tượng, những bức tượng mịn màng, không nứt nẻ. Ngoài ra, Ông còn nghiên cứu và ứng dụng cách đỡ cho việc nặn tượng đạt yêu cầu thẩm mỹ cao, Ông đã dùng lưới kẽm, cây gỗ dựng sườn, sau đó dùng vải mùng bao lại và đắp nguyên liệu hỗn hợp làm tượng lên, bề ngoài được phủ bằng một lớp sơn nước kim nhũ và dầu bóng. Không chỉ có đôi tay khéo léo, tài hoa mà với tư duy tưởng tượng vô cùng phong phú của ông hàng trăm bức tượng lớn, nhỏ được hình thành mà không trùng lắp. Mỗi tượng một vẻ, thể hiện rõ cái thần sắc trên từng khuôn mặt. Đó còn là kết quả từ cái tâm của người có lòng hướng Phật, sự miệt mài cần mẫn, lặng lẽ nhưng mang lại vị ngọt cho đời. Ông Ngô Kim Tòng còn tạo nên các tác phẩm khác, trông đó nổi bật nhất là tháp Đa Bảo được làm 1939 lúc ông mới 30 tuổi, cao khoảng 4m được thiết kế hết sức tinh vi. Tháp có 13 tầng, mỗi tầng có 16 cửa, mỗi cửa có một tượng Phật, tổng cộng tháp Đa Bảo có 208 cửa, 208 vị phật và xung quanh tháp có 156 con rồng uốn lượn chuyển mình đang trong tư thế bay vút lên trời cao, hộ pháp cho tháp. Bảo Tòa là công trình đặc sắc thứ 2 được xây dựng vào năm 1940, cao khoảng 2m. Trên có hoa sen với 1000 cánh theo hình bát giác, dưới có 16 tiên nữ đứng hầu. Chân tháp tạo hình 4 con vật trong tứ linh (lân, long, quy, phụng) và 12 con cá hóa long đặc sắc, sinh động và đầy ấn tượng. Nhìn tổng thể tòa tháp và đài sen này, du khách sẽ nghĩ ngay đến một nhà điêu khắc tài ba lỗi lạc đã tận dụng giáo lý Phật pháp để sáng tạo ra những pho tượng biết nói ý Phật. Trong gian thờ phía trên trần nhà, có treo một chùm đèn gọi là “Lục Long Đăng” cũng bằng chất liệu đất sét, gồm ba chóp đỉnh với 6 con rồng uốn cong như tượng trưng cho lục tỉnh miền Tây Nam bộ, đuôi chụm vào nhau, đầu trổ ra các phía. Thân rồng được làm hoàn toàn bằng đất sét với nhiều chi tiết tinh xảo, nên trọng lượng khá nặng. Đáy đèn là một tòa sen lặt úp tỏa cánh xuống điện thờ, cánh sen khá mỏng nhưng theo dấu thời gian Lục Long Đăng không hề rơi hay sứt mẽ tí nào. Đây là một kiệt tác nghệ thuật hiếm có và là tác phẩm cuối đời của Ông. Chung quanh chùa, góp phần canh giữ cho hệ thống các tượng Phật, còn nhiều tượng thú cũng bằng đất sét, nổi bật nhất và sắc sảo nhất là cặp Kim Lân đang ngẩng cao đầu trước bệ thờ giữa điện, ngậm trái trân châu, chân gác lên quả cầu trông thật oai phong lẫm liệt, thêm tượng Thanh Sư, Bạch Hổ, Long Mã,.. con thì hiền lành con thì hết sức oai phong. Chùa Đất Sét không chỉ nổi tiếng bởi hàng ngàn bức tượng làm bằng đất sét mà còn được du khách biết đến bởi 04 cặp đèn cầy (nến) khổng lồ khá đặc biệt. Những năm cuối đời ông tạm ngưng đắp tượng, tiến hành đúc đèn cầy dựng tại các toà chánh điện trong chùa. Ông mua sáp bạch lạp loại sáp nguyên chất, không lẫn tạp từ Sài Gòn về nhiều lần cùng các đệ tử thân tín chặt vụn sáp nguyên khối nấu chảy ra rồi mới “đúc” đèn. Do các đôi đèn này có kích thước quá to nên ông Ngô Kim Tòng không tìm được khuôn thích hợp nên ông đã dùng tôn lợp nhà làm khuôn, sáp đổ vào chảo lớn nấu liên tục nhiều ngày đổ liên tục đến khi đầy ống tới chiều cao 2 mét. Sau một tháng, các đôi đèn mới khô hẵn, khi dỡ bỏ khuôn, các đôi đèn này tự nhiên có hình dợn sóng của các tấm tôn, mấy tháng ròng liên tục làm như vậy ông đúc được sáu cây đèn cầy lớn (3 cặp), mỗi cây nặng 200 kg, ước tính mỗi cặp sẽ cháy liên tục hơn 70 năm và hai cây đèn cầy nhỏ mỗi cây nặng 100 kg cặp đèn cầy được thắp sáng vào ngày rằm tháng bảy năm 1970 kể từ ngày ông Ngô Kim Tòng viên tịch cháy liên tục hơn 40 năm nay còn gần 1/5 cây. Những tác phẩm được làm từ đất sét do ông Ngô Kim Tòng tạo dựng cách đây hơn 60 năm vẫn còn nguyên vẹn với thời gian. Tuy nhiên, điều mà tất cả du khách đến tham quan, chiêm ngưỡng và các nhà khoa học chưa thể lý giải nổi, tất cả những công trình nổi tiếng và kỳ lạ hàng đầu thế giới này lại được tạo nên bởi một người tu hành mới học hết lớp 3 trường làng và không hiểu biết gì về nghệ thuật hội hoạ.
Sóc Trăng 1707 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Ai đến Miền Tây Nam Bộ mà không đi chợ nổi thì quả là thiếu sót. Nơi đây không chỉ là nơi để buôn bán mà còn là một điểm đến lý tưởng để du khách tìm hiểu những nét văn hóa đặc trưng riêng của vùng sông nước miền Tây. Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có nhiều chợ nổi, nhưng chợ nổi Ngã Năm vẫn mang đậm nét đơn sơ bình dị và là một trong những chợ nổi lâu đời có bề dày lịch sử hơn trăm năm, quy mô lớn trong khu vực. Chợ nổi Ngã Năm thuộc thị xã Ngã Năm, cách TP Sóc Trăng khoảng 60 km là nơi thu hút du khách tham quan, trải nghiệm cuộc sống sông nước miền Tây. Muốn đến thăm chợ nổi Ngã Năm, bắt đầu từ trung tâm thành phố Sóc Trăng, du khách có thể di chuyển theo tuyến quốc lộ 1A, đến Phú Lộc, sau đó rẽ phải vào tỉnh lộ 42 là tới. Tên gọi Ngã Năm xuất hiện khi người Pháp đào kênh quản lộ Phụng Hiệp. Kênh này cùng kênh Xáng cắt ngang kênh Xẻo Chính tạo thành năm nhánh sông đổ về 5 ngã: Cà Mau, Vĩnh Quới, Long Mỹ, Thạnh Trị, Phụng Hiệp. Chợ nổi Ngã Năm thường họp chợ khá sớm từ và kéo dài đến 8 giờ thì tan dần. Đông đúc nhất thường từ 5h đến 6h với cảnh hàng trăm ghe thuyền tụ họp, huyên náo cả bến sông. Đây thời gian lý tưởng nhất để trải nghiệm chợ nổi. Vào dịp gần tết nguyên đán, chợ nổi Ngã Năm hầu như họp từ sáng đến tối khiến không khí càng tấp nập hơn. Chủng loại hàng hóa của chợ nổi Ngã Năm rất phong phú và đa đạng, từ các loại gạo ngon nổi tiếng của vựa lúa lớn trong khu vực cho đến các loại rau, củ quả miệt vườn; từ các mặt hàng nông sản, hải sản cho đến các vật dụng sinh hoạt, gia dụng hàng ngày,… Để giúp cho việc truyền tải thông tin dễ dàng giữa bên bán và bên mua, cây Bẹo chính là phương tiện quảng cáo hữu hiệu của loại hình chợ nổi. Dụng cụ này thường được làm từ loại tre tầm vong già, uốn thẳng, dài khoảng 4-5 m, góc vạt nhọn cho dễ cắm và kìm ghe khi đậu, ngọn thì đục lỗ có thể xiên dây qua để treo hàng hóa. Người mua chỉ cần đứng từ xa, nhìn vào những cây Bẹo để quan sát và tìm loại hàng muốn mua. Hiện nay, do hệ thống giao thông đường bộ ngày càng hoàn thiện, một số thương lái đã chuyển sang hình thức nhóm chợ trên bờ. Mặc dù vậy chợ nổi vẫn hoạt động khá nhộn nhịp vẫn giữ được cái hồn đặc trưng của chợ nổi miền Tây, là điểm du lịch Sóc Trăng không thể bỏ qua. Đến với chợ Ngã Năm, du khách sẽ thấy toàn cảnh khu chợ như một bức tranh tả thực sống động, nhiều màu sắc. Màu sắc từ các loại rau củ, hoa quả; màu của những chiếc áo bà bà phất phơ trong gió… Giữa một vùng sông nước bao la, tiếng mái chèo khua nước, lời mời gọi mua hàng trên những chiếc ghe xuồng, vỏ lãi, xuồng năm lá, ba lá xuôi ngược… tạo nên quang cảnh mua bán vui tươi. Đến thăm Chợ Nổi, du khách có thể thưởng thức bữa sáng ngay trên ghe với các món đặc sản Sóc Trăng như bún nước lèo, bún riêu, bánh tằm cùng đồ uống gồm cà phê đà, trà đường, nước trái cây… Tìm mua một ít nông sản, ăn một vài món ăn sáng trên sông thì còn gì bằng khi ghé thăm nơi này.
Sóc Trăng 1906 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Dơi còn gọi chùa Mã Tộc (hay chùa Mahatúp) nằm bên đường Văn Ngọc Chính (có bảng chỉ dẫn) thuộc Phường 3, thành phố Sóc Trăng. Sở dĩ có cái tên đặc biệt này là vì chùa là ngôi nhà của những bầy dơi đông đúc. Ngôi chùa là không gian văn hóa duy nhất thờ Phật Thích Ca của cộng đồng dân tộc Khmer Nam Bộ tại tỉnh Sóc Trăng. Theo thư tịch cổ còn lại có ghi chép: Chùa được khởi công xây dựng vào từ năm 1569, cách nay đã hơn 440 năm. Ban đầu, chính điện của chùa chỉ được xây dựng bằng tre lá, sau đó được xây lại bằng gạch, mái lợp ngói. Năm 1960, chùa được sửa chữa lớn ở chánh điện và cho đến khi có được vẻ khang trang đẹp đẽ như hiện nay, chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Năm 2008, một sự việc không may xảy ra khiến chùa bị cháy khu vực chánh điện. Nhưng liên tiếp những tín hiệu đáng mừng khi vào tháng 4/ 2009, chánh điện chùa đã được phục chế lại như cũ. Năm 2013, khu du lịch Chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng được đưa vào hoạt động. Tuy ngân sách không được dư dả nhưng khu du lịch nằm phía đối diện cổng chùa có bãi đậu xe rộng rãi, các dịch vụ tiện ích khác như nhà hàng, xe điện… rất được lòng du khách. Từ năm 1999, chùa Dơi đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Cho đến nay, chính quyền Sóc Trăng vẫn đang xem xét các chính sách bảo tồn và tôn tạo nơi đây để vừa giáo dục tín ngưỡng, vừa đưa chùa Dơi thành điểm du lịch quen thuộc của tỉnh. Chùa Dơi là một tổng thể kiến trúc gồm có: Ngôi chánh điện, Sala, nhà hội của sư sãi và tín đồ, phòng ở của sư sãi và trụ trì, các tháp để tro người chết, phòng khách… Toàn bộ các công trình toạ lạc trong một khuôn viên rộng có nhiều cây cổ thụ, diện tích khoảng 04 hecta. Tuy là không gian thờ Phật Thích Ca nhưng kiến trúc chùa Dơi Sóc Trăng vẫn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn hóa Khmer. Ngôi chùa nổi bật trong không gian xanh mát của cây cối nhờ sắc màu vàng cam Khmer đặc trưng. Chùa có mái được lợp ngói, bốn đầu mái cong vút chạm trổ hình rắn Naga, trên đỉnh mái có một ngọn tháp nhọn. Bao quanh chánh điện là các hàng cột đỡ, mỗi cột có một tượng tiên nữ Kemnar chắp hai tay trước ngực… Tiến sâu vào thánh điện, ta sẽ thấy pho tượng Phật Thích Ca bằng đá nguyên khối đặt trên một tòa sen cao khoảng 2m. Ấn tượng không kém ngay gần đó là một pho tượng miêu tả Đức Phật cưỡi trên rắn thần Muchalinda. Khách du lịch có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ về cuộc đời đức Phật qua những bức tranh miêu tả Đức Phật, từ lúc ra đời cho tới khi được khai minh rồi nhập Niết bàn.. Các bộ kinh ghi trên lá cây thốt nốt cùng những hiện vật quý hiếm mang giá trị đặc sắc về văn hóa tín ngưỡng của vùng đất Nam Bộ cũng được lưu giữ trong khuôn viên trang nghiêm của chùa. Hướng dẫn viên du lịch chắn chắn sẽ thuyết minh về chùa Dơi Sóc Trăng giúp bạn hiểu hơn nhiều điều. Thăm thú chùa Dơi một vòng, du khách có thể nghỉ chân ở hàng ghế dưới bóng cây cổ thụ dịu mát. Trong khuôn viên còn có xây nhiều bảo tháp chứa di hài các sư trụ trì chùa, và nhà hội Sa La với kiến trúc kiểu nhà rông, làm nơi nghỉ ngơi, tu học của các sư sãi…
Sóc Trăng 1834 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Peam Buôl Thmây là một trong những điểm đến bạn không thể bỏ lỡ khi có dịp du lịch Sóc Trăng. Ngôi chùa này được xây dựng với lối kiến trúc độc đáo, cực kỳ đồ sộ và dát nhũ vàng rực rỡ, không khác gì một tòa cung điện nguy nga. Chùa Peam Buôl Thmây hiện nay đang là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất của tỉnh Sóc Trăng. So với các công trình tâm linh khác của người Khmer thì chùa được xây khá muộn, khởi công vào năm 1964. Vì thế nên trong tên chùa mới có một chữ Thmay có nghĩa là mới. Ngoài tên Peam Buôl Thmây trong tiếng Khmer thì ngôi chùa này còn có nhiều tên khác như: Chùa Ngã Tư vì nằm cạnh ngã tư đường tỉnh lộ Sung Đinh. Chùa Cột Đèn vì bên cạnh chùa có nhiều cột viễn thông phục vụ ngành bưu chính. Chùa Sung Đinh vì nằm trên mảnh đất án ngữ trước đây là làng Sung Đinh (nay đã xác nhập vào thành phố Sóc Trăng). Còn cái tên chính thức Chùa Peam Buôl Thmây thì trong tiếng Khmer có nghĩa là ngã tư mới. Vì Chùa Peam Buôl Thmây là của người Khmer nên chắc chắn sẽ mang đậm nét văn hóa kiến trúc đặc trưng của tộc người này. Năm 2016, phần Sala tại đây được thi công sửa chữa để có một diện mạo hoàn thiện hơn. Đến năm 2018 thì chính thức hoàn thành với phong cách đền chùa đặc trưng của Thái Lan. Sự mới mẻ này đã bắt nguồn cho việc nhiều bạn trẻ đổ về đây để tham quan và chụp ảnh. Ngoài Sala, các phần còn lại của khuôn viên chùa như chánh điện, tăng xá của sư sãi vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu với vách tường gạch, mái tôn đơn giản. Chánh điện khá mộc mạc, nếu so với những chùa ở Sóc Trăng khác thì Peam Buol Thmay có phần đơn sơ hơn. Bên cạnh đó, vì nằm ngã tư đường lớn nên diện tích chùa cũng có nhiều hạn chế, khuôn viên xung quanh không quá rộng và trồng ít cây cối. Tất cả điểm nhấn của Chùa Peam Buôl Thmây chính là ở kiến trúc của Sala. Thiết kế sử dụng tông màu trắng làm chủ đạo, các đường nét và họa tiết trang trí dùng sơn nhũ vàng. Sala gồm 2 tầng, trên đỉnh là tháp lớn, tạo nên ấn tượng về sự uy nghi, tráng lệ và linh thiêng. Nếu đã từng đến đất nước Chùa vàng Thái Lan thì bạn sẽ nhận ra lối kiến trúc này cực kỳ quen thuộc. Khi đến với Chùa Peam Buôl Thmây, bạn không chỉ cảm nhận được sự thiêng liêng, trang trọng mà còn có vô số góc “sống ảo” ấn tượng để mang về những khung hình triệu like. So với lối kiến trúc truyền thống Phật giáo Khmer thì phong cách đền chùa Thái Lan có phần mềm mại, nhẹ nhàng, thanh thoát hơn. Màu sắc trang trí cũng khá đơn giản nhưng rất nổi bật và cực kỳ rực rỡ. Vì thế, trong quá trình tu sửa Sala, Chùa Peam Buôl Thmây đã chú ý đến từng chi tiết, đường nét để tạo nên một không gian giao thoa hài hòa giữa hai phong cách chùa chiền này. Nếu chú ý quan sát, bạn sẽ thấy họa tiết những con rồng được chạm khắc chạy dọc hành lang và trên mái nhà, chúng uốn lượn, sống động và mềm mại. Bên trong Sala cũng trang trí khá đơn giản, phần bàn thờ với tượng Phật Thích Ca cũng được tạc theo phong cách Phật giáo Thái Lan. Toàn bộ tường trong Sala sơn màu trắng, điểm xuyết là những họa tiết kỷ hà hình thoi, sơn lớp nhũ vàng lung linh. Có thể nói, đến với Sala của Chùa Peam Buôl Thmây thì góc nào bạn cũng chụp được ảnh đẹp. Không khí tại đây không mang lại cảm giác nặng nề của sự linh thiêng mà thiên về sang trọng, rực rỡ. Thế nên, bạn có thể tha hồ sáng tạo với những góc máy ấn tượng, chọn trang phục nổi bật một chút thì chỉ cần bấm máy là đảm bảo ảnh xinh. Đặc biệt, khoảnh khắc chiều tà và hoàng hôn ở đây cực đẹp do ánh nắng vàng hồng phản chiếu lên những họa tiết nhũ vàng tạo nên khung cảnh như bước ra từ tranh vẽ. Do đó, bạn có thể cân nhắc đến đây vào buổi chiều muộn để có nhiều bức hình ấn tượng hơn nhé. Ngoài ra, người Khmer còn có rất nhiều lễ hội truyền thống khác thường được tổ chức tại chùa Peam Buôl Thmây. Vì vậy khi đến đây, bạn sẽ có cơ hội hiểu hơn về những nét độc đáo trong văn hóa của cộng đồng dân tộc này.
Sóc Trăng 748 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Sóc Trăng với đặc thù có sự cộng cư của nhiều dân tộc, đã tạo nên một nền văn hóa đa sắc. Đi du lịch Sóc Trăng, bạn sẽ bắt gặp nhiều ngôi chùa, đền cổ kính, nguy nga và tất cả đều mang đặc trưng riêng độc đáo, trong đó phải kể đến chùa KhLeang. Chùa KhLeang là một trong những ngôi chùa Khmer cổ ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có lịch sử gần 500 năm. Chùa KhLeang mang đậm dấu ấn kiến trúc Khmer rất tinh tế, sắc sảo, nhưng vẫn pha trộn phong cách Việt – Hoa trong bài trí. Chùa KhLeang tọa lạc ở đường Tôn Đức Thắng, khóm 5, phường 6, Thành phố Sóc Trăng trong một khuôn viên rộng lớn, rợp bóng những cây cổ thụ, nhiều nhất là cây thốt nốt, loài cây gắn liền với đời sống, văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer. Đến đây du khách có thể tận hưởng không khí trong lành, tìm hiểu về thư tịch cổ Khmer, truyền thuyết về nguồn gốc Sóc Trăng và chiêm ngưỡng công trình kiến trúc độc đáo của chùa. Tên gọi của chùa KhLeang gắn liền với truyền thuyết địa danh Sóc Trăng, nếu dịch ra từ tiếng Khmer sẽ có nghĩa là “xứ có kho”, gợi về một vùng đất xưa trù phú. Theo các thư tịch, chùa được xây dựng từ năm 1533, lúc đầu chỉ là ngôi chùa lợp lá, sau nhiều lần trùng tu được xây cất bằng gạch ngói. Kiến trúc chùa hiện nay như ngôi chánh điện và Sala được xây dựng mới vào năm 1918. Chùa có kiến trúc gần giống như các chùa Phật giáo Nam Tông ở Thái Lan và Campuchia. Quần thể kiến trúc chùa Khleang bao gồm: ngôi chính điện, sa la, nhà tăng, hội trường,… được bố trí hài hòa trên nền đất cao. Điểm độc đáo không kém chính là các công trình này trong chùa Khleang đa số đều được xây dựng theo kiểu nhà sàn truyền thống của dân tộc Khmer Nam bộ xa xưa, mỗi công trình đều được điêu khắc, chạm trổ hoa văn, họa tiết tinh xảo mang đậm nét kiến trúc cổ của người Khmer. Tòa chính điện nằm ở trung tâm được chia làm ba bậc nền, mỗi bậc cao khoảng 1 mét có hàng rào bao xung quanh màu sắc rực rỡ. Vòng rào ngoài lớn rồi nhỏ dần vào trong, khoảng cách giữa các vòng rào rất rộng, nền chùa chiếm diện tích rất lớn. Bờ viền mái nóc có tượng rồng uốn lượn, đầu xòe hình rẽ quạt, đuôi cong. Bên trong chính điện có các cột bằng gỗ, rất to, đen mượt, được thếp bằng vàng các hình ảnh nói về cuộc đời đức Phật, về sinh hoạt Phật pháp. Trên trần và chung quanh đều được trang trí bằng rất nhiều nét vẽ về hình ảnh của đức Phật, thể hiện được sự hòa hợp giữa kiến trúc và hội họa. Chính điện có bức tượng Phật cao 6,8 m, phần thân tượng cao 2,7 m được đúc vào năm 1916. Tượng được đặt ngồi trên tòa sen lộng lẫy với vầng hào quang bằng điện lúc ẩn, lúc hiện, tạo nên sự uy nghiêm thanh thoát và huyền ảo. So với nhiều ngôi chùa Khmer khác trong tỉnh, chùa Khleang còn giữ lại những nét độc đáo của lối kiến trúc Khmer cổ, rất có giá trị về mặt nghệ thuật và tính thẩm mỹ. Không những vậy, ngoài đặc điểm chủ đạo theo kiến trúc hoa văn Khmer, trong chánh điện còn đan xen một số hình ảnh, hoa văn họa tiết trang trí của người Kinh ở bức cửa võng và của người Hoa trên các thân cột trụ, hình cá chép, rồng và các chữ Hán được vẽ trên các thân cột. Điều này phản ánh sự giao thoa văn hóa trên lĩnh vực trang trí, nghệ thuật giữa 3 dân tộc vốn có quá trình cộng cư lâu dài trên vùng đất Sóc Trăng. Điều lý thú là tủ sách trưng bày trong chánh điện nếu nhìn kỹ chúng ta sẽ thấy các lá buông có chữ Khmer cổ trên đó. Đây là những nội dung kinh Phật được viết trên lá buông, được nhà chùa cẩn thận gìn giữ. Với đường nét kiến trúc cân xứng, hài hòa, gắn liền với những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đa dạng, chính điện chùa KhLeang thực sự là công trình có giá trị đặc biệt về mặt nghệ thuật. Với những giá trị to lớn về lịch sử và kiến trúc, ngày 27/4/1990, chùa Khleang được Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao (nay là Bộ VHTT&DL) xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, thuộc loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật. Đây là một địa điểm du lịch Sóc Trăng thú vị mà bạn không nên bỏ qua nếu có dịp ghé thăm vùng đất này. Ngoài chức năng phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, chùa Khleang còn là nơi đáp ứng nhu cầu sinh hoạt truyền thống của đồng bào dân tộc khmer thông qua các ngày lễ hội hàng năm, cùng các hoạt động văn hóa khác. Nhiều nghi lễ truyền thống được tổ chức long trọng tại chùa, trong đó có Chôl Chnăm Thmây (Lễ vào năm mới), Sene Đôl Ta (Lễ cúng ông bà), Oóc – Om – Bóc (Lễ cúng trăng),…
Sóc Trăng 861 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Chùa Khmer ở Nam Bộ là một điều gì đó rất riêng của vùng đất đồng bằng sông Cửu Long. Cứ hễ một ngôi chùa được dựng nên thì đó là cả công sức của bao thế hệ và con người sinh sống trên vùng đất, bởi chùa là điểm tựa vững chắc cho con người nơi này, nơi thực hành tín ngưỡng thiêng liêng nhất mà họ không bao giờ quên được. Hiện tại, Sóc Trăng là vùng đất đông dân cư đồng bào Khmer sinh sống với những ngôi chùa Khmer đồ sộ, công phu, cùng các công trình Phật giáo mang dấu ấn thế kỷ. Trong hàng trăm ngôi chùa Khmer trên địa bàn thành phố thì chùa Som Rong là cái tên ấn tượng nhất, được nhiều du khách biết đến nhiều nhất vì đây là niềm tự hào to lớn nhất của người dân nơi này. Chùa Som Rong có tên gọi đầy đủ theo tiếng Khmer là Wat Pătum Wôngsa Som Rông. Nghe người dân kể chùa đã có từ lâu đời trước kia là chùa nhỏ, mái lá đơn sơ đã truyền qua nhiều đời khác nhau. Đến đời thượng tọa Lý Đức thì cho xây dựng lại chùa mới, khang trang hơn trên nền đất rộng lớn. Năm 2000 chùa bắt đầu xây dựng lại khu chánh điện mới, 2013 xây dựng nhà hội Sala, cùng với đó là bảo tháp và đại công trình tượng Phật nhập niết bàn lớn nhất Việt Nam.Với hơn 20 năm xây dựng ngôi chùa Som Rong thì giờ đây chùa trở thành một điểm tựa tâm linh tự hào nhất của con người nơi này. Với du lịch Sóc Trăng thì ngôi chùa này là một điểm tự hào để quảng bá hình ảnh chùa Khmer Nam Bộ, nét đẹp chùa Việt Nam ra thế giới bằng những công trình đỉnh cao. Công trình nằm ngay lối đi vào. Bảo tháp bốn mặt, bốn lối đi lên, ấn tượng với màu trắng xám. Tháp có bảy tầng cao thu dần từ lớn đến nhỏ và bệ tháp có ba tầng, trung tâm tháp là hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni tọa trên đài sen. Bảo tháp ấn tượng người du khách bởi sự kì trong điêu khắc, tạo hình mỗi một chi tiết đều rất sống động với hoa sen cách điệu, dây leo chạy theo từng cạnh viền, hoa văn lửa và thiên thần. Ngoài việc nổi bật trong điêu khắc bảo tháp còn điểm tô bằng cờ ngũ sắc vào các ngày lễ lớn. Ấn tượng bên ngoài chánh điện là mảng trang trí rực rỡ, lối đi uốn cong, trụ cột phủ đầy những hoa văn cổ điển, tranh tường về Đức Phật và cuộc sống. Trên đỉnh trước của chánh điện là hình ảnh Đức Phật Đản sanh bước đi trên tòa hoa sen.Hai bên chánh điện là hai lối hành lang, hành lang bên phải là để nhìn ra bảo tháp, nhìn về nhà Sala và tượng Phật nhập niết bàn; đây là một góc ảnh vô cùng đẹp mà nhiều bạn có thể bỏ qua. Sắp tới khu chánh điện và thư viện chùa cũng được trùng tu mới lại. Nhà hội Sala công trình ấn tượng mất hơn bốn năm xây dựng (2013-2017) vô cùng rộng rãi dùng để thực hành các nghi thức sinh hoạt truyền thống của chùa, làm giảng đường và tăng xá. Kiến trúc nhà hội Sala cũng vô cùng ấn tượng trong mắt du khách vì sự đồ sộ, quy mô và màu sắc. Nhưng ít ai biết rằng đây là công trình này là hoàn toàn dựa vào kiến trúc truyền thống, kết hợp tạo không gian bên trong có kết cấu hiện đại mang nhiều công năng sử dụng. Nhà hội Sala có hai tầng, nhiều lớp mái, kết hợp nhiều màu sắc nổi bật để tạo nên tính khác biệt. Tận dụng hết tất cả nghệ thuật trang trí truyền thống trông chùa Khmer để điểm tô cho nhà hội Sala. Từ lối cầu thang bước vào là trang trí thần rồng, áp mái tầng một là hình thần rắn Naga. Áp mái tầng hai là hình nổi Vũ nữ, trên mỗi phần áp mái chim thần Krud, chạy dọc theo phần viền mái ngói là thần rồng, thần chim. Mỗi diềm mái là hình nhọn hình ngọn núi Xôme. Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn tại chùa Som Rong là công trình đặc biệt nhất của chùa. Công trình tượng dài 63m, cao 18m được xem là tượng nằm lớn nhất Việt Nam. Nhờ vào công trình này mà chùa được nhiều du khách gần xa biết đến, thu hút du lịch và cũng như các tín đồ của nhiếp ảnh chuyên nghiệp đến đây săn đón những khoảnh khắc. Chùa Som Rong là một điểm dừng thú vị trên hành trình khám phá du lịch Sóc Trăng với những ngôi chùa cổ kính, thiêng liêng và kiến trúc độc đáo.
Sóc Trăng 819 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Bãi biển Hồ Bể tọa lạc tại xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, cách thị xã Vĩnh Châu 20km và cách thành phố Sóc Trăng khoảng 45km. Biển Hồ Bể có vị trí giao thông tương đối thuận lợi vì nằm cạnh tuyến Quốc lộ Nam sông Hậu (Quốc lộ 91B), giúp du khách có thể di chuyển dễ dàng từ thành phố Cần Thơ, tỉnh Bạc Liêu hoặc theo đường tỉnh 934, 935 nếu đi từ thành phố Sóc Trăng. Ngoài ra, trong tương lai, các công trình giao thông trọng điểm của tỉnh như cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cầu Đại Ngãi hoàn thành sẽ tạo điều kiện thu hút khách du lịch liên vùng đến với Hồ Bể. Biển Hồ Bể được thiên nhiên ban tặng vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc với bãi cát mịn màng hòa cùng những cơn sóng rì rào thơ mộng bên cạnh cánh rừng phòng hộ bạt ngàn, xanh thẳm. Hồ Bể được hình thành do quá trình xâm thực của nước biển qua rất nhiều năm. Tại đây có khu đất lõm trông giống như một cái hồ rộng lớn được bồi đắp từ từ theo con nước lên xuống theo thủy triều. Dọc theo 72km đường bờ biển của tỉnh Sóc Trăng hiếm có nơi nào có vẻ đẹp như Hồ Bể vì phần lớn đường bờ biển đều là cát đen, bãi bùn hoặc đất bùn phù sa do các cửa sông của sông Hậu đổ ra. Do chịu ảnh hưởng của phù sa sông Hậu nên nước biển Hồ Bể cũng có sự phân hóa tương đối rõ rệt. Vào mùa mưa, sông Hậu có lượng phù sa lớn từ thượng nguồn đổ về sẽ làm nước biển Hồ Bể hơi nhuốm màu ngà của phù sa, ngược lại vào mùa khô biển Hồ Bể sẽ trong và xanh hơn. Đến với Hồ Bể, du khách sẽ được hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, mộc mạc với bãi cát dài mịn màng, tận hưởng từng cơn gió biển mát rượi. Các hoạt động du khách có thể tham gia như đi dạo dọc bãi biển, tham gia các trò chơi thể thao, cắm trại…; đặc biệt, nơi đây rất thích hợp tổ chức các sự kiện dã ngoại ngoài trời, các hoạt động “Team Building” cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học. Ngoài ra, biển Hồ Bể còn có nhiều loài hải sản như cua biển, sò huyết, nghêu,… du khách có thể thưởng thức tại các quán ngay cạnh bãi biển với giá phải chăng. Hơn nữa, bãi biển Hồ Bể khá gần các điểm tham quan du lịch nổi tiếng khác tại thị xã Vĩnh Châu như chùa Quan Âm Đông Hải, Nhà cổ Họ Lai, Miếu Bà Thiên Hậu, Mộ Cá Ông, Chùa Salapôthi, nhà máy điện gió, khu rừng phòng hộ ven biển, các vùng nông nghiệp chuyên canh hành tím, tỏi với công nghệ sản xuất sạch… nên rất thuận lợi trong việc đẩy mạnh liên kết phát triển du lịch, phát triển tour, tuyến du lịch tại thị xã hoặc các tuyến liên huyện để đa dạng hóa sản phẩm du lịch, giữ chân du khách lâu hơn để thúc đẩy các dịch vụ lưu trú, ẩm thực, mua sắm. Ngoài ra, một yếu tố quan trọng trong việc khai thác, phát triển du lịch là thị xã Vĩnh Châu có sự cộng cư lâu đời và giao thoa văn hóa của 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer với các loại hình văn hóa, nghệ thuật đặc sắc. Sự thân thiện, mến khách của người dân địa phương cũng là một điểm nhấn trong phát triển du lịch tại Hồ Bể nói riêng và thị xã Vĩnh Châu nói chung.
Sóc Trăng 118 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Biển Mỏ Ó nằm gần cửa sông Mỹ Thanh, cách trung tâm thành phố Sóc Trăng khoảng 43km. Tên gọi Mỏ Ó xuất phát từ hình dáng của bãi biển giống như mỏ của con ó hướng ra biển Đông. Khu vực biển Mỏ Ó còn có hơn 260 ha rừng tự nhiên, là nơi sinh sống của nhiều loài chim, bò sát và hải sản. Biển Mỏ Ó thu hút du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc của miền Tây Nam Bộ, với rừng cây ngập mặn, bãi biển dài và nguồn thủy hải sản phong phú. Với vị trí gần trung tâm thành phố, biển Mỏ Ó là điểm đến lý tưởng cho chuyến tham quan Sóc Trăng một ngày cùng gia đình và bạn bè. Đặc biệt, vào mùa xuân (từ tháng 21 đến tháng 3 âm lịch), bạn còn có cơ hội tham gia Lễ hội Nghinh Ông nổi tiếng tại huyện Trần Đề.Đa số bãi biển ở miền Tây Nam Bộ được bồi đắp bởi phù sa nên không thích hợp để tắm biển, nhưng cũng chính vì điều này mà người dân địa phương đã phát minh ra một nghề độc đáo là trượt mong, hay còn gọi là trượt ván bắt cá. 'Mong' là một tấm ván mỏng rộng khoảng 0,3 mét được người dân chế tạo để dễ dàng di chuyển trên bãi lầy, bãi bồi để đánh bắt thủy sản. Nghề 'trượt mong' là một nghề độc đáo tồn tại từ hàng trăm năm qua ở các tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ. Người ta không biết nó đã tồn tại từ khi nào và cũng không thể giải thích tại sao gọi là nghề 'trượt mong', nhưng thường nói rằng tên gọi này có thể xuất phát từ cử động của người làm nghề khi trượt ván.Khi ghé thăm biển Mỏ Ó, bạn còn có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp tự nhiên đặc biệt cùng với hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng. Từ lối vào, bạn sẽ bước đi trên cây cầu bắc qua cánh rừng ngập mặn dẫn ra bãi bồi. Đây cũng là điểm check-in được yêu thích của nhiều người khi đến tham quan biển Mỏ Ó. Ngoài việc chụp ảnh, bạn có thể thuê xuồng để tham quan rừng ngập mặn và trải nghiệm đánh bắt hải sản cùng với người dân địa phương. Sau khi vui chơi thoả thích, bạn còn có cơ hội thưởng thức những món ăn dân dã được chế biến từ các loại hải sản nổi tiếng ở vùng biển Mỏ Ó như cá bớp, cá nâu, cá lù đù, mực tươi, cua, ghẹ… Ngoài ra, nếu có thời gian, bạn có thể kết hợp thăm Khu du lịch sinh thái Hồ Bể và chùa Quan Âm Đông Hải nằm trên đường Quốc lộ Nam sông Hậu, cách biển Mỏ Ó khoảng 20 phút lái xe.Mặc dù không lấp lánh như biển Hà Tiên hoặc Phú Quốc, biển Mỏ Ó vẫn thu hút du khách bởi vẻ đẹp thiên nhiên dịu dàng, nguồn hải sản phong phú và nét văn hóa độc đáo. Đây là điểm đến không thể bỏ qua trong cẩm nang du lịch Sóc Trăng của bạn.
Sóc Trăng 137 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông tọa lạc tại ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng). Nơi đây gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của một vùng đất cách mạng anh hùng. Ngược dòng lịch sử, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới xưa kia vốn là một vùng đất trống trải, rộng lớn, sông ngòi chằng chịt và rất vắng vẻ. Lúc bấy giờ, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được xây dựng trên một nền cao khoảng 40cm, có diện tích 2.400m2. Ngôi miếu được xây bằng gạch, lợp ngói, chia làm 2 gian, gian trước thờ Bà Chúa Xứ và các bậc tiền hiền, hậu hiền, gian sau làm nhà bếp để chuẩn bị các lễ thức cúng kiếng. Trước năm 1930, phong trào khởi nghĩa chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và tay sai của nhân dân Mỹ Quới liên tục diễn ra nhưng chưa mạnh mẽ. Đến đầu năm 1930, đồng chí Quản Trọng Hoàng là đảng viên đã về đến làng Mỹ Quới tổ chức tuyên truyền, bồi dưỡng lý luận cách mạng cho các thanh niên ưu tú. Từ nguồn nhân lực đó, vào tháng 6/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được thành lập tại chợ Mỹ Quới do đồng chí Châu Văn Phát làm bí thư. Trong một thời gian ngắn, đồng chí Châu Văn Phát phân hóa tư tưởng, cầu an, không kiên định lập trường, quên đi nhiệm vụ, bị kỷ luật. Sau đó, tổ chức đảng cấp trên đề cử đồng chí Trần Văn Bảy làm Bí thư Chi bộ và lấy Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông làm địa điểm sinh hoạt chi bộ. Dưới các hình thức hoạt động công khai như tổ chức các lớp dạy võ, dạy nhạc cổ, dạy chữ quốc ngữ… nhiều lớp huấn luyện bí mật được chi bộ mở liên tục, ngầm tuyên truyền đường lối cách mạng, kết nạp nhiều thanh niên ưu tú vào Đảng, từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương ngày càng phát triển. Sau cuộc khởi nghĩa ngày 23/11/1940 trên khắp các tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp điên cuồng mở những cuộc càn quét với quy mô lớn để trả thù những người cách mạng yêu nước. Ngôi Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông cũng bị bọn chúng đập phá, san bằng… Có thể nói, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới không chỉ là cái nôi cách mạng, nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng mà còn là căn cứ cách mạng của các cơ quan như: Huyện ủy và các ban ngành của huyện Thạnh Trị, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, cơ quan Binh vận, Giao liên, Kinh tài, Dân Quân y, đoàn Ca múa nhạc của tỉnh Sóc Trăng và một số ban ngành của Thị xã ủy Bạc Liêu. Trong kháng chiến, nhiều phen thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ trút bom đạn càn quét lực lượng cách mạng nhưng vẫn không lay chuyển nổi tinh thần sắt đá của quân dân vùng quê anh hùng này. Căn cứ địa cách mạng nơi đây vẫn được giữ vững cho đến ngày 30/4/1975. Theo các chú ở Hội Cựu chiến binh xã Mỹ Quới, qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều người con ưu tú của quê hương Mỹ Quới đã được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có hơn 100 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trải qua mưa bom lửa đạn của những năm tháng chiến tranh, sau khi đất nước hòa bình, bà con ở ấp Mỹ Đông đã cùng nhau dựng lại miếu thờ bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng, nguyện cầu cho mảnh đất quê hương được mưa thuận gió hòa, mọi người có cuộc sống an lành, no ấm. Đến năm 1997, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng tấm bia lưu niệm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Định kỳ hằng năm, người dân Mỹ Quới tổ chức lễ hội vía Bà vào ngày 16/2 âm lịch. Ngày 27/11/2003, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 2455 lượt xem
Chiến thắng Chi khu Ngã Năm có ý nghĩa to lớn, khẳng định sự trưởng thành của Đảng bộ, quân và dân Thạnh Trị - Ngã Năm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sa sút tinh thần và uy thế của địch, làm tăng nhuệ khí của quân và dân ta. Trong chiến tranh chống Mỹ, do Ngã Năm là nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng cả về quân sự và kinh tế nên Mỹ - ngụy đã thiết lập một chi khu quân sự tại đây. Chi khu Ngã Năm thuộc Tiểu khu Ba Xuyên, vùng 4 chiến thuật, nằm trên vùng đất thuộc đầu doi ở ngã ba sông có năm nhánh. Thời Ngô Đình Diệm, Ngã Năm có nhiều tên tề ngụy ác ôn tập trung nơi đây. Trong đó, nổi tiếng gian ác là tên Mười Hưng. Chúng từng chỉ huy bọn lính dân vệ, bảo an kéo vào các vùng chung quanh thị trấn, thọc sâu vào nông thôn càn bố, vây ráp, bắt bớ, bắn giết, tù đày… gây đau thương tang tóc cho biết bao thường dân vô tội. Đầu tháng 5-1962, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy Tỉnh đội chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh quyết tâm tiêu diệt Chi khu Ngã Năm. Với sự chuẩn bị chu đáo, ta đã tấn công tiêu diệt hoàn toàn chi khu, thu nhiều vũ khí, quân trang và quân dụng. Tuy nhiều lần Chi khu Ngã Năm bị ta tiêu diệt, nhưng Mỹ - ngụy tìm mọi cách trở lại tái chiếm, ra sức củng cố, xây dựng chi khu này thành một căn cứ quân sự vững chắc và bố trí lại hệ thống phòng thủ chặt chẽ. Trong những cuộc tấn công bao vây Chi khu Ngã Năm, thì cuộc chiến vào năm 1968 là cuộc bao vây kéo dài và ác liệt nhất. Trong những ngày đầu bao vây, ta chỉ pháo kích bắn tỉa, áp đảo tinh thần binh lính địch, tạo điều kiện cho lực lượng dân công tập trung xây dựng hai pháo đài, lập thành thế bao vây, tấn công hiệu quả hơn cho các bước tiếp theo. Trận chiến bao vây Chi khu Ngã Năm càng về sau càng dồn sức. Khi các pháo đài dựng lên đã hoàn thành, bọn địch hết sức hoảng sợ vẫn cố liều chết xông ra đánh phá, nhưng mỗi đợt phản kích đều bị bẻ gãy. Qua gần một tháng bao vây, ta đã đánh bật 21 lần bọn giặc liều chết xua lính ra phản kích. Quân ta đã diệt, làm bị thương hơn 60 tên địch, trong đó có nhiều tên chỉ huy thuộc sắc lính bảo an, an ninh quân đội, thám báo và bọn tề ngụy ác ôn. Kết quả, sau 52 ngày đêm của chiến dịch bao vây đánh lấn, quân dân Thạnh Trị được sự hỗ trợ mạnh của một bộ phận lực lượng tỉnh, ta đã hoàn toàn giải phóng Chi khu Ngã Năm. Chiến thắng Chi khu Ngã Năm mang một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, đó là lần đầu tiên ở chiến trường Tây Nam bộ, bằng chiến thuật bao vây đánh lấn của du kích và bộ đội địa phương cấp huyện (có kết hợp một bộ phận nhỏ của tỉnh) đã dứt điểm hoàn toàn một chi khu quân sự thuộc vào loại phòng thủ kiên cố nhất nhì tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chiến thắng Chi khu Ngã Năm là kết quả của sự chỉ đạo quyết tâm, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều thứ quân, trong xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân; kiên trì bám trụ bám dân, xây dựng cơ sở vững chắc, mưu trí sáng tạo, dũng cảm liên tục tấn công. Với gần 200 tên địch bị ta giết, làm bị thương, đồng thời làm rã ngũ gần một 100 tên khác trong chiến dịch đã nói lên lối đánh của chiến tranh nhân dân là đúng đắn mà địa phương biết áp dụng. Địa điểm chiến thắng Chi khu Ngã Năm tọa lạc tại phường 1, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia, ngày 23/8/2004. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 2125 lượt xem
Khu di tích lịch sử - Văn hóa Trường Taberd Sóc Trăng Ngày nay nằm trong khuôn viên trường Trung học phổ thông Ischool tọa lạc tại số 19, Tôn Đức Thắng, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Sở dĩ Khu di tích có tên gọi là Trường Taberd, vì xưa kia đây là trường Tiểu Học nội trú của tổ chức công giáo Pháp, được xây dựng vào năm 1912. Trường có khuôn viên rộng 11.128m2, có sức chứa vài ngàn người. Nơi đây đã ghi dấu một sự kiện cách mạng có ý nghĩa quan trọng, ghi nhận sự đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân Sóc Trăng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp . Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta nhanh chóng củng cố xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân. Đồng thời, đối phó với âm mưu trở lại xâm lược của Thực dân Pháp. Tại Miền Nam, Xứ Uỷ Nam Kỳ giao cho Tỉnh Ủy Sóc Trăng một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, đó là việc tổ chức đón rước các cán bộ chiến sĩ từ Côn Đảo trở về. 7 giờ tối ngày 23/9/1945, đoàn tàu ghe chở khoảng 2.300 người, trong đó có hơn 1.800 người là tù Chính Trị từ Côn Đảo đã về tới Sóc Trăng cập bến Cầu Nổi cũng là cảng Cầu Tàu lục tỉnh. Và Trường Taberd với khuôn viên rộng rãi và ở cạnh bên cầu Nổi đã được chọn làm nơi dừng chân, nghỉ dưỡng của các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo từ ngày 23/9 đến ngày 30/9/1945. Tại đây các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo đã được hàng ngàn đồng bào Sóc Trăng chào đón nhiệt tình giữa rừng đuốc, rừng cờ và biểu ngữ. Hàng chục tấn gạo, đường muối, hàng trăm con heo, gà, vịt và hàng ngàn bộ quần áo, chăn, chiếu, mùng, ván… được nhân dân quyên góp để chuẩn bị đón đoàn, một đội phục vụ gồm hàng trăm nam nữ thanh niên đã ở trong tư thế sẵn sàng phục vụ. Sau ngày 30/9/1945, đoàn chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo lên đường về Cần Thơ để nhận nhiệm vụ mới. Qua việc đón rước và chăm sóc Đoàn tù chính trị Côn Đảo, Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện, ngày 11/6/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định công nhận Trường Taberd Sóc Trăng là di tích Lịch sử cấp quốc gia, thuộc loại hình di tích lịch sử cách mạng. Trong phòng trưng bày được bố trí với 6 nội dung lớn : Nội dung thứ nhất là “Nhà tù Côn Đảo – Địa ngục trần gian” : gồm một số hình ảnh của nhà tù Côn Đảo và các tù nhân được chụp lại thể hiện một phần nào sự đày đọa, tra tấn dã man các tù chính trị trong nhà tù thực dân. Nội dung thứ hai là Sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công : Nội dung thứ ba là : Sự kiện đón rước đoàn tù Chính Trị từ Côn đảo về đất liền. Nội dung thứ tư là : Quá trình 7 ngày chăm sóc cán bộ, chiến sĩ tại Trường Taberd. Nội dung thứ 5 là : Các nhân vật tiêu biểu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng
Sóc Trăng 2020 lượt xem
Chùa Dơi có tên là Wathserâytêchô - Mahatup (phiên âm từ tiếng Khmer). Về sau đồng bào người Kinh và người Hoa đọc trại từ Mahatup thành “Mã Tộc”. Cho nên cũng có nhiều người gọi là: “Chùa Mã Tộc”. Ngoài ra dân gian còn gọi là chùa Dơi bởi vì trong chùa này có nhiều dơi. Từ “Mã Tộc” cũng chính là địa danh (từ ngã ba đường cho đến lối rẽ vào Chùa Dơi) như là một làng nhỏ. Dân cư ở đây có 3 dân tộc (Kinh, Hoa, Khmer) cùng sinh sống. Chùa Dơi là một tổng thể kiến trúc gồm có: Ngôi chánh điện, Sala (nhà hội của sư sãi và tín đồ) nhà tăng của sư sãi và trụ trì, các tháp để tro người chết, phòng khách… Toàn bộ các công trình toạ lạc trong một khuôn viên rộng có nhiều cây cổ thụ, diện tích khoảng 4 hecta. Chùa Dơi nằm trong địa bàn thành phố Sóc Trăng, thuộc khóm 9, phường 3, thành phố Sóc Trăng. Theo người Khmer, Mahatup là trận đánh lớn (Tup: trận đánh; Maha: lớn). Nơi đây đã diễn ra một trận đánh ác liệt của phong trào nông dân nổi dậy chống bọn phong kiến ngày xưa. Sau trận đánh đó, dân chúng tản cư trở về sinh sống, họ cho rằng vùng đất này có điềm lành (đất lành) nên xây chùa thờ Phật. Như để có một đấng tối cao che chở cho họ (vì các trận đánh của phong trào nông dân ở những nơi khác đều bị thất bại, nhưng ở nơi đây trận chiến diễn ra ác liệt và đã giành thắng lợi). Theo thư tịch cổ của Chùa còn để lại có ghi chép: Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1569 dương lịch. Kiến trúc Chùa Dơi cũng giống như bao kiến trúc Chùa Khmer khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Về họa tiết trang trí, điêu khắc, hội họa mang sắc thái văn hoá Khmer. Từ những hiện tượng gần như là huyền bí của đàn dơi ở “Chùa Dơi”, tiếng đồn vang xa, khách thập phương ai cũng muốn tới viếng thăm để tận mắt chứng kiến. Từ thời chiến tranh chống Mỹ “Chùa Dơi” đã vang tiếng với những điều huyền bí , cho nên khuôn viên Chùa lúc ấy rất xa lạ với xã hội bên ngoài. Vì vậy, cán bộ của ta thường lui tới hoạt động cách mạng. Cho đến ngày nay Chùa Dơi rất nổi tiếng, vì phong cảnh hữu tình, gần gũi với thiên nhiên, có quần thể kiến trúc tôn giáo chính thống của dân tộc Khmer và bầy dơi huyền bí (theo quan điểm tín ngưỡng của từng dân tộc) đã thôi thúc khách tham quan đến viếng Chùa ngày càng đông đúc. Hiện nay, các hiện vật trong chùa dơi còn chủ yếu là tượng các Phật như: tượng Phật Thích Ca ngồi thiền định cao 2 m bằng xi-măng và nhiều bức tượng nhỏ khác bằng xi-măng và vật liệu khác do phật tử cúng chùa. Ngoài ra còn có khung cửa võng (bao lam) bằng gỗ sơn son thiếp vàng chạm trổ hình chim muông, hoa lá, đặc biệt có hoạ tiết hình những chú dơi; một cái giường chạm hoa lá tinh sảo, sơn son thiếp vàng; hai tủ lớn có chạm hoa văn theo mô típ cổ truyền của người Khmer. Đặc biệt hơn cả là trong sảnh của đại đức trụ trì và phòng khách còn có bức tượng của một đại đức đã viên tịch, với kích thước giống y như người thật trong tư thế thiền định làm bằng xi-măng đã làm cho gian phòng khách ấm cúng và sinh động, hấp dẫn. Ngày 12 tháng 2 năm 1999, Bộ Văn hóa - Thông tin đã công nhận Chùa Dơi là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng 1889 lượt xem
Ngôi chùa Quan Âm nằm cạnh vàm Đại Ngãi gắn liền với sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh Sóc Trăng nói riêng và cả nước nói chung, là nơi đầu tiên đón tiếp và chăm sóc cho Đoàn tù chính trị Côn Đảo về đất liền. Chùa Quan Âm tọa lạc tại ấp Ngãi Hội 2, thị trấn Đại Ngãi, huyện Long Phú (Sóc Trăng) có lịch sử từ lâu đời. Theo các tài liệu còn lưu lại, trong khoảng thời gian từ năm 1860 - 1872, chùa được xây dựng và đặt tên là Quan Âm Cổ Tự. Chùa Quan Âm khởi đầu được cất bằng cây lá đơn sơ, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, nên mới hoàn thiện và khang trang như ngày nay. Đặc biệt, nơi đây vào ngày 23/9/1945 đã diễn ra một sự kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng, chùa Quan Âm và bà con phật tử cùng cấp ủy, chính quyền và nhân dân Sóc Trăng vinh dự đón tiếp và tận tình đóng góp công sức chăm sóc đoàn chiến sĩ cách mạng trung kiên hơn 1.800 người, vừa trở về đất liền sau những năm tháng bị địch giam cầm tại “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Trong đoàn chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ có sự hiện diện của các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, cùng nhiều cán bộ khác. Sự kiện đón rước, chăm sóc Đoàn tù chính trị Côn Đảo về đất liền đã tiếp thêm sức mạnh, giúp Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng vượt qua nhiều khó khăn trong buổi đầu xây dựng chính quyền và chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn ấy, chùa Quan Âm được tỉnh Sóc Trăng xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh vào năm 2004. Ngày nay, ngôi chùa là địa điểm sinh hoạt tôn giáo của bà con phật tử địa phương, nơi giáo dục truyền thống cách mạng, cũng như là địa điểm tham quan của du khách gần xa. Đại đức Thích Phước Thiện - Phó Trụ trì chùa Quan Âm cho biết: “Ngôi chùa không chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân mà còn là nơi phục vụ cho các tiện ích, sinh hoạt cộng đồng của người dân; nơi giáo dục truyền thống cách mạng địa phương. Ngoài ra, bổn tự tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, giúp đỡ nhiều người có hoàn cảnh khó khăn. Nhà chùa kết nối các nhà hảo tâm gần xa để đem đến sự ấm áp, ấm no đối với bà con nghèo trong lúc khó khăn, góp phần cùng địa phương thực hiện công tác từ thiện xã hội. Nhà chùa còn làm tốt công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến tín đồ phật tử”. Hàng ngày, ngôi chùa đều đón khách thập phương đến tham quan, cúng dường, nghiên cứu; những ngày lễ lớn có rất đông du khách tham quan. Khi bước qua cổng tam quan, du khách sẽ bắt gặp tượng Phật Quan Âm đứng trên tòa sen ngay sân chùa và đi về phía phải chừng vài bước là ngôi Địa Mẫu thánh miếu. Bên trong là tượng Phật Di Lặc bằng đá đặt ngay phía trước chánh điện. Kế đến là ngôi chánh điện đang được xây dựng, trùng tu 1 trệt 1 lầu, bêtông hóa, có kiến trúc hiện đại, gần gũi với người dân Nam Bộ. “Giống như chánh điện của các ngôi chùa Bắc Tông khác, phần chánh điện Phật Thích Ca là vị Phật được thờ chính. Bên cạnh chánh điện còn thờ Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn, Tiêu Diệm, Hộ Pháp, Tam Thế Phật, luôn thờ Tổ sư Đạt Ma. Phía trên chóp đỉnh của ngôi chánh điện là tòa bảo tháp với kiến trúc độc đáo” Ngôi chùa là nơi bà con phật tử và nhân dân địa phương gởi gắm niềm tin. Ngôi chùa chính là nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục, tâm linh tín ngưỡng của cộng đồng, chùa gắn liền với đời sống, sinh hoạt của người dân. Đặc biệt, đây còn là nơi có lịch sử, truyền thống cách mạng nên bà con ở đây rất tự hào. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 1792 lượt xem
Một trong số những ngôi chùa Khmer cổ xưa nhất ở vùng đất Sóc Trăng được xây dựng vào khoảng thế kỷ 15-16 có chùa Trà Tim. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Sóc Trăng có đến 3 ngôi chùa cùng tên Trà Tim mà người dân quen gọi là Trà Tim cũ, Trà Tim mới và Trà Tim giữa. Căn cứ vào lịch sử hình thành, chùa Trà Tim cũ có niên đại lâu đời và hoành tráng nhất. Đây không chỉ là ngôi chùa cổ mà còn là di tích cách mạng ghi dấu chiến công của sư sãi và đồng bào Khmer thị xã Sóc Trăng (nay là thành phố Sóc Trăng) trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Chùa Trà Tim đã được khởi công xây dựng cách đây gần 500 năm, trên một vùng đất giồng cao ráo, rộng 38.600m2 tọa lạc ấp Tâm Trung, xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng nay thuộc khóm Tâm Trung, phường 10, thành phố Sóc Trăng. Ngôi chùa có địa thế độc đáo do tiếp giáp cùng lúc với hai con đường to rộng của thành phố Sóc Trăng là đường Trần Hưng Đạo và Quốc lộ 1A. Ban đầu, chùa chỉ xây dựng một số ngôi nhà tăng cho sư cả và các sư tăng trong chùa nghỉ dưỡng tạm, tiếp theo sư cả chọn vị trí thích hợp làm lễ dựng ngôi chánh diện, rồi đến nhà hội (sala), tháp đựng tro cốt, nhà thiêu… tất cả các công trình đều làm bằng gỗ dầu hoặc sao, lợp lá. Xung quanh chùa có hàng trăm cây dầu, cây sao cổ thụ trên 100 năm tuổi vừa tạo không gian mát dịu pha lẫn huyền bí, linh thiêng vừa phục vụ lấy gỗ sửa chùa hoặc cất nhà, làm thuyền, làm ghe Ngo khi cây đã già. Kiến trúc ngôi chùa mang nét đặc trưng truyền thống của đồng bào Khmer gồm ngôi chánh điện, sala, trường học dạy tiếng pali cho con em trong vùng, nhà thiêu, nhà để ghe Ngo của chùa, tháp để tro cốt.... Hiện tại nhà chùa còn lưu giữ một số hiện vật như 40 pho tượng Phật Thích Ca bằng các chất liệu gỗ, đá, đồng, thuỷ tinh, xi măng, 2 tượng long sư (đầu rồng mình sư tử) bằng gỗ sơn son thếp vàng (còn gọi là con rệch - trà – xây), 1 tượng nai bằng gỗ sơn son thếp vàng, dùng để các nhà sư ngồi thuyết pháp; 9 phiến bia khánh thành chánh diện.... Chùa Trà Tim không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật của đồng bào khmer tỉnh Sóc Trăng, mà còn là nơi ghi dấu chiến công của sư sãi và đồng bào Khmer thị xã Sóc Trăng trong cuộc đấu tranh trực diện chống âm mưu dời chùa đi nơi khác để mở rộng sân bay Sóc Trăng của Mỹ - Diệm vào năm 1962. Từ khi sân bay cạnh chùa được thành lập đã làm ảnh hưởng và phá hủy không gian thanh tịnh, tôn nghiêm nơi tu hành của các sư bởi tiếng động cơ máy bay hoạt động ngày đêm. Vị trí sân bay này trước kia là một trường đua ngựa của sĩ quan, viên chức Pháp. Năm 1940 Nhật chiếm Đông Dương đến năm 1941 bắt các tù binh cùng các dân phu Sóc Trăng phá trường đua xây dựng sân bay Sóc Trăng để làm một hậu cứ yểm trợ cho không lực Nhật Hoàng trên mặt trận Thái Bình Dương. Có thể nói cuộc đấu tranh của đồng bào và sư sãi chùa Trà Tim tuy diễn ra trong phạm vi nhỏ hẹp của một thị xã và không làm thiệt hại người, nhưng sự kiện này đã trở thành một ngòi pháo mở màn cho các phong trào đấu tranh trực diện của sư sãi và đồng bào Khmer khắp các nơi trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, chống địch đàn áp sư sãi, chống địch bắt con em đang tu hành đi lính. Sau ngày giải phóng 1975 đến nay sân bay Sóc Trăng đã được sử dụng làm trường Quân sự Quân khu 9, ngôi chùa Trà Tim vẫn an nhiên, tự tại và ngày càng được tu sửa khang trang nổi bật hơn trước. Với những chiến công ấy, ngôi chùa đã được xếp hạng là di tích Lịch sử cách mạng từ ngày 12/5/2004, theo quyết định của UBND tỉnh Sóc Trăng. Nhà chùa còn tiên phong trong vận động và đóng góp nhiều tài vật để xây dựng giao thông nông thôn, nhà đại đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa mới, xóa mù chữ cho trẻ em nghèo… với ý nguyện tốt đời, đẹp đạo. Nguồn: Du lịch Sóc Trăng
Sóc Trăng 1756 lượt xem
Di tích Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng có diện tích 281 ha, nằm trong khu rừng tràm Mỹ Phước, thuộc địa phận xã Mỹ Phước, Huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Trung tâm của khu di tích là Hội trường, nơi diễn ra hàng ngàn cuộc họp của Đảng bộ và Ban Chấp Hành Tỉnh ủy Sóc Trăng trong thời kháng chiến. Trước đây, Hội trường được dựng tạm bằng vật liệu sẵn có trong rừng như: Tràm, lá dừa nước, ... Sau năm Mậu Thân 1968, để thích nghi với tình hình mới, đồng thời xây dựng căn cứ kiên cố để bám trụ kháng chiến lâu dài, Hội trường được xây dựng lại bằng gỗ dầu vuông, mái lợp lá chẻ, có chiều cao 4.7m, dài 20m, rộng 4m và chia làm 5 gian bằng nhau. Hai bên hông của Hội trường còn bố trí 4 căn hầm đúc bằng bêtông, dùng để ẩn nấp khi máy bay hay pháo của địch bắn phá. Trong đó có 2 hầm nổi, 1 cái có thể chứa 10 đến 15 người và 2 hầm chìm, 1 cái chứa 20 đến 25 người. Đặc biệt, nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng lãnh đạo nòng cốt, Khu căn cứ còn trang bị thêm 2 hầm bí mật cách Hội trường khoảng 300m, trong đó chuẩn bị sẵn lương thực dự trữ và các vật dụng cần thiết, mỗi hầm chứa khoảng 10 đến 13 người. Ngoài ra, Khu căn cứ còn có nhà làm việc của đồng chí Bí thư và nhiều lán trại của các cơ quan trực thuộc được xây dựng dưới hình thức dã chiến. Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng còn được nhân dân gọi tắt trong thời chiến là Căn cứ Mỹ Phước, bởi vì căn cứ này được hình thành và xây dựng trong khu rừng tràm thuộc xã Mỹ Phước. Trước đây, khu vực này chỉ là cánh đồng hoang vu đầy cỏ dại, rộng hàng chục ngàn hét ta, sau đó người dân đến đây khai phá, định cư và lập ấp. Đầu thế kỷ 20, sau khi chiếm 6 tỉnh Nam kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên - địa bàn Sóc Trăng thuộc tỉnh An Giang, Pháp đẩy mạnh khai thác tài nguyên, chiếm đất nông sản, bắt nhân dân đào kênh, rạch và trồng tràm. Lúc bấy giờ (1926), tỉnh Sóc Trăng có 4 quận là Châu Thành, Kế Sách, Long Phú và Phú Lộc, khi đó Mỹ Phước thuộc quận Châu Thành. Đến ngày 25/8/1945, sau khi nhân dân Sóc Trăng giành chính quyền thành công thì rừng tràm này là tài sản của nhân dân. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, cả nước khẩn trương xây dựng và củng cố lực lượng chuẩn bị kế hoạch kháng chiến, tiếp tục chống thực dân Pháp xâm lược, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã chủ trương mở rộng công bình xưởng, nhằm chế tạo vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, phục vụ kháng chiến, do đó tháng 4/1946 công binh xưởng Sóc Trăng ra đời tại khu rừng tràm. Để góp phần làm thất bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp và bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, tháng 9/1947 Tỉnh ủy Sóc Trăng quyết định dời Căn cứ từ Cù Lao Dung (lúc bấy giờ thuộc huyện Long Phú) về rừng tràm Mỹ Phước. Tại đây, Ban Chấp Hành Tỉnh ủy đã triển khai Nghị quyết của Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo chiến lược tác chiến cho quân và dân Sóc Trăng trên các mặt trận từ vũ trang đến chính trị. Có thể nói Căn cứ Mỹ Phước lúc bấy giờ là nơi đứng chân chỉ đạo của Tỉnh ủy Sóc Trăng, góp phần quan trọng trong công cuộc kháng chiến chung của cả nước đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp. Sau năm 1954, khi Mỹ hất chân Pháp vào chiếm Đông Dương, dưới chính quyền bù nhìn của Ngô Đình Diệm, ngày 20/10/1956 tỉnh Sóc Trăng được đổi tên thành tỉnh Ba Xuyên. Bằng chính sách “tố công, diệt cộng” bọn ngụy quyền ra tay sát hại dã man những người cộng sản. Trước tình hình đó, quán triệt tư tưởng trong nghị quyết 15 của Trung ương Đảng (1959), từ Căn cứ rừng tràm Mỹ Phước, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã phát động phong trào đồng khởi trong toàn tỉnh, bắt đầu con đường cách mạng bạo lực chống đế quốc Mỹ và tay sai. Cũng từ đây, Tỉnh ủy Sóc Trăng tiếp tục đưa phong trào đấu tranh của quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác cho đến ngày tỉnh Sóc Trăng hoàn toàn giải phóng (1/5/1975). Với những giá trị và ý nghĩa ấy, ngày 16/6/1992, Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Khu căn cứ Tỉnh ủy là Di tích Lịch sử Cách mạng cấp quốc gia. Nguồn: Trung tâm Xúc Tiến Du Lịch Sóc Trăng
Sóc Trăng 1747 lượt xem
Đình Hòa Tú ở xã Hòa Tú 1, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng). Đình Hòa Tú, là một công trình kiến trúc nghệ thuật mang những đặc trưng cổ truyền của văn hóa dân tộc Việt Nam gắn liền với nhiều giai đoạn lịch sử hào hùng, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của nhân dân vào ngày 23/11/1940. Theo lời kể của các cụ cao niên ở địa phương, ngày xưa, làng Hòa Tú rất sung túc, dân làng hòa thuận, làm ăn yên ổn. Vua Tự Đức đã khen ngợi và phê sắc phong thần cho làng vào ngày 29/11/1852. Cũng từ đó, dân làng góp sức xây dựng một ngôi đình đẹp, rộng rãi, khang trang để thỉnh sắc về thờ. Ngôi đình đầu tiên có diện tích rất rộng, hơn 360m2, gồm 3 gian song song, bố trí theo hướng Đông Bắc, Tây Nam, cổng nhìn hướng Đông Bắc, mái đình lợp ngói âm dương, cột đình bằng gỗ căm xe chắc chắn. Trong đình, từ cột kèo, bài vị, bệ thờ, liễn đối đều được chạm trổ khéo léo. Gian đầu là nhà võ ca, gian giữa nhà khách, gian sau là điện thờ thần và các vị công thần khai quốc… Năm 1938, đồng chí Phạm Hồng Thám và đồng chí Tư Bối về Hòa Tú xây dựng cơ sở Đảng, sau đó Chi bộ Hòa Tú được thành lập với 3 đảng viên. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Hòa Tú, các tổ chức phản đế của nông dân, thanh niên, phụ nữ… làng Hòa Tú ra đời và phát triển nhanh chóng. Ngày 23/11/1940, lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy được Chi bộ Hòa Tú tiếp nhận, đông đủ mọi người từ các ấp trong làng với vũ khí thô sơ cầm chặt trong tay: gậy gộc, giáo mác, kích, phảng, búa… tập trung trước sân đình chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Đến 2 giờ sáng ngày 24/11/1940, cuộc khởi nghĩa của làng Hòa Tú thắng lợi, lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện tung bay trong làng Hòa Tú… Theo chiều dài lịch sử, mặc dù bị ảnh hưởng, tàn phá bởi chiến tranh nhưng hồn cốt của đình Hòa Tú vẫn được nhân dân địa phương quan tâm gìn giữ. Trước năm 1945, đình được tu sửa lại, vách ván được thay bằng vách gạch trát vôi. Năm 1946, khi giặc Pháp trở lại, quyết không để địch có nơi đóng quân, người dân buộc phải tháo dỡ đình. Cho đến năm 1957, ngôi đình được xây dựng lại, tuy nhiên do cột kèo hư hỏng, đồ thờ thất lạc, ngôi đình đã không còn nguyên vẹn như xưa. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), đình nhiều lần được trùng tu, gần đây nhất là vào năm 2010. Hiện trạng của đình là nền rộng 112m2, có hai gian, gian trước là võ ca, gian sau là điện thờ. Trong điện thờ có bệ thờ thần giữa điện xây bằng gạch trát ximăng, trên vách giữa bệ treo một bằng nền đỏ gắn chữ Thần bằng gỗ sơn nhũ vàng, đồ thờ là một bộ tam sư gồm 1 bình gốm cắm hương ở giữa và 2 chân nến bằng gỗ hai bên hình tượng đôi hạc đứng trên lưng rùa được vẽ bằng sơn dầu. Bên trái của điện thờ là bệ thờ đồng chí Văn Ngọc Chính và các liệt sĩ hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Hòa Tú năm 1940; bệ bên góc phải thờ các liệt sĩ và nhân dân Hòa Tú đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cách cổng đình 14m có dựng tấm bia lưu niệm. Mặt trước bia tô đá rửa, trên đó trang trí lá cờ đỏ sao vàng hình tròn chạm nổi, dưới cờ là 1 ô vuông lõm tạm gắn một bảng thiếc kẻ dòng chữ “Truyền thống Hòa Tú 23/11/1940”. Hiện nay, trong đình còn lưu giữ nhiều vật phẩm quý như 2 chiếc mai rùa bằng gỗ, 2 cái lưng hạc bằng gỗ có khắc văn tự Hán Nôm, đôi chân bài vị bằng gỗ hình chữ nhật có chạm hoa văn quanh viền, 1 mảnh gỗ chạm hình rồng lượn trong mây và 1 mảnh gỗ chạm hình mặt rồng phun nước, Sắc phong thần làng Hòa Tú do vua Tự Đức phê, 1 khẩu súng 2 nòng là di vật của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ tại làng Hòa Tú năm 1940. Theo thông lệ, cứ đến ngày rằm tháng 2 âm lịch mỗi năm, đình Hòa Tú sẽ tổ chức lễ cúng linh thần, thu hút đông đảo người dân đến tham quan, chiêm bái. Đình Hòa Tú được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 16/6/1992. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 1647 lượt xem
Đền thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Đền Thờ, xã An Thạnh Đông, Cù Lao Dung, Sóc Trăng. Ngày 28-12-2001, Đền thờ Bác Hồ được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang hồi ác liệt, khó khăn nhất thì tin buồn ập tới: Bác Hồ kính yêu lâm bệnh và qua đời. Đây là nỗi đau to lớn không sao tả xiết của nhân dân cả nước nói chung và của quân dân vùng sông nước cù lao nói riêng. Huyện ủy, Mặt trận Giải phóng Dân tộc huyện Long Phú cùng quân dân cù lao (lúc này Cù Lao Dung được chia thành 4 xã trực thuộc huyện Long Phú) đã tổ chức lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh và chịu tang Người. Tại buổi lễ, lãnh đạo Huyện ủy Long Phú đã đọc bài điếu văn nói về công ơn to lớn của Bác Hồ đối với đất nước và nhân dân, đồng thời kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ nén đau thương, biến thành sức mạnh đoàn kết bằng những hành động cách mạng cụ thể để thực hiện di nguyện của Người là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Sau lời tuyên thệ và quyết tâm đó, đã có hàng trăm ý kiến của chiến sĩ và nhân dân yêu cầu được dựng một đền thờ trên vùng đất cù lao để ngày đêm tưởng nhớ và phụng thờ Bác. Với lòng quyết tâm cao độ, Đảng bộ huyện Long Phú và quân dân các xã cù lao đã tích cực vận động quyên góp nhân lực, vật lực để đến ngày 3-2-1970, nhân kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, công trình đền thờ Bác được khởi công. Trong quá trình xây dựng đền thờ Bác gặp không ít khó khăn bởi các cuộc càn quét, đánh phá của địch. Bất chấp khó khăn, nguy hiểm, các tay thợ khẩn trương làm vào buổi chiều tối và ban đêm. Công trình còn tận dụng gỗ, cột kèo từ căn nhà của một địa chủ bỏ lại và dùng đước, tràm, tre, lá được đốn đẽo, gọt, chằm sẵn ở nhà chở lại để vừa lắp ráp nhanh vừa không tập trung đông người. Khi việc xây dựng đền thờ cơ bản đã hoàn tất thì thêm một khó khăn là không có ảnh Bác Hồ để thờ. May thay, lúc đó bà con đã tìm được ảnh của Bác in trên tờ Báo Chiến đấu của tỉnh (tiền thân của Báo Sóc Trăng ngày nay), bà con cắt ra cho vào khung thấy vẫn đẹp, dù kích thước hơi nhỏ một chút. Sau gần 3 tháng, công trình hoàn thành. Đến ngày 19-5-1970, nhân kỷ niệm 80 năm Ngày sinh của Bác, cũng là ngày hoàn tất Đền thờ Bác Hồ, cán bộ cùng hàng ngàn người dân nô nức tập trung dự lễ, bất chấp nguy hiểm do bom đạn, pháo của địch. Ngôi đền hoàn thành với sự đóng góp của nhân dân các xã cù lao và cả phần tiền của nhân dân các xã, thị trấn vùng đất liền huyện Long Phú quyên góp gởi sang. Trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu, tôn tạo, đến năm 2010, Sóc Trăng khởi công xây dựng công trình “Tu bổ, tôn tạo Khu di tích lịch sử Đền thờ Bác Hồ” với các hạng mục như: nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, nhà hội, sân lễ, ao sen, tường rào, đường nội bộ, cây xanh... trên diện tích rộng 2,2ha. Sau gần 3 năm thi công, Đền thờ Bác Hồ đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, đáp ứng lòng mong đợi và là niềm tự hào của nhân dân Sóc Trăng. Đền thờ Bác Hồ là một địa chỉ đỏ, là nơi mà nhiều người dân địa phương, du khách trong và ngoài tỉnh, nhất là lực lượng đoàn viên, thanh niên thường đến đây để viếng và thắp hương tưởng niệm Bác Hồ kính yêu. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 1527 lượt xem
Chùa Khleang nằm ngay trung tâm thành phố, tọa lạc trên đường Tôn Đức Thắng, thuộc khóm 5, phường 6, Thành phố Sóc Trăng. Chùa được xây dựng cách đây gần 500 năm gắn liền với những truyền thuyết của địa danh Sóc Trăng. Chính điện chùa được xây trên nền đất cao rộng, không gian trong xanh, đặc biệt có nhiều cây thốt nốt là cây đặc trưng của người khmer. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, nhưng mãi đến 1918, Chính điện và Sala được xây dựng lại, đồng thời cũng được thay toàn bộ chất liệu. Vẫn là đặc trưng kiến trúc của người Khmer Nam bộ với hình tượng rồng trên mái. Trong tích Phật, đồng bào Khmer thường kể rằng: Rồng là con vật linh thiêng, tự nó biến mình thành thuyền để đưa Phật vượt bể tới các nơi giảng kinh cứu độ chúng sinh. Do đó, Rồng được đưa lên mái chùa với ý đồ mong muốn đức Phật dừng lại để cứu vớt họ thoát khỏi cảnh trầm luân. Tiếp giáp với mái chánh điện là hình tượng chim thần Krud đang nâng đỡ mái thật khỏe khoắn. Với truyền thuyết dân tộc Khmer, chim thần Krud là vua của các loài chim. Còn phía trước và phía sau chính điện chùa đều có hình tượng Chằn đứng bảo vệ chùa, trong các chuyện cổ tích khmer hay trong Dù-Kê, nhân vật Chằn là biểu tượng của cái ác, cái xấu, gây ra cảnh đau khổ cho mọi người. Tuy nhiên trong nghệ thuật tạo hình khmer, Chằn đã được thu phục bởi đức Phật. Việc đặt tượng Chằn bên ngoài chính điện hàm ý cái ác, cái xấu đã được biến cải để phục vụ, để bảo vệ cho cái đẹp cái thiện. Bên trong chính Điện là một gian phòng rộng dành riêng cho việc hành lễ. Ngoài 12 cột tròn, phần quan trọng nhất bên trong chính điện là bệ thờ tượng Phật Thích Ca, tượng cao 2,5m đặt ở giữa hai gian trong cùng, không những quý về chất liệu mà còn cả về nghệ thuật điêu khắc. Trên bệ thờ dày đặc những hoa văn họa tiết với các mảng điêu khắc tinh xảo, các hoa văn hình ngọn lửa rất đặc trưng nét văn hóa khmer. Nổi lên một cảm thức thẩm mỹ tinh tế vào cảm hứng. Vì theo hệ Phật giáo tiểu thừa, nên chùa của đồng bào Khmer Nam bộ chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca Mâu Ni với nhiều tư thế khác nhau: ngồi thiền định, mới khai sinh, đi khất thực, lúc niết bàn,. Phần nội thất của chánh điện chùa là sự giao thoa của 3 nền văn hoá: Kinh, Khmer, Hoa trong một không gian kiến trúc, thể hiện rõ trên những cây cột gỗ: nghệ thuật sơn mài Việt, cách phối hợp màu sắc truyền thống người Khmer và nét vẽ đặc trưng của người Hoa, tạo nên một tuyệt tác mà có lẽ chỉ riêng ở chùa Khleang mới có. Ngoài vai trò là cơ sở tín ngưỡng, ở chánh điện chùa còn lưu giữ, bảo tồn bộ sưu tập về tượng phật với nhiều tư thế, kích cỡ, chất liệu khác nhau được ví như một bảo tàng nghệ thuật cổ về hiện vật. Các hiện vật này do nhiều thế hệ cao tăng đã gìn giữ hàng trăm năm qua, từ sự đóng góp gửi gắm của nhiều phật tử. Từ khi bắt đầu xây dựng chùa cho đến nay, Chùa Khleang đã trải qua 21 vị đại đức trụ trì và vị trụ trì hiện nay là đại đức Tăng Nô (1943). Có vị không những chăm lo xây dựng chùa mà còn tham gia tích cực vào hoạt động cách mạng như chống bắt lính, nuôi chứa cán bộ cách mạng có tên tuổi... có vị phải hi sinh trước nòng súng của địch như Đại Đức Trần Kế An, vị sư cả trụ trì đã bị bọn địch sát hại ngay tại hậu viên chùa. Vì thế, vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa vừa là nơi tổ chức sinh hoạt tôn giáo vừa là nơi hoạt động cách mạng có hiệu quả nhất của Đảng. Trải qua năm tháng, với ý nghĩa lịch sử quan trọng cùng với lối kiến trúc giá trị nghệ thuật còn lưu giữ, chùa Khleang đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia vào ngày 27/04/1990. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng
Sóc Trăng 1487 lượt xem