Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Chùa Khánh Long xưa kia cũng là một ngôi chùa làng, có tuổi đời cả ngàn năm. Khi lập làng, người dân đã dựng chùa để thờ Phật, gọi là chùa làng Ngò. Hãy nghe Thanh Thuỷ (Thái Nguyên) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Chùa Khánh Long nằm trên trục đường vào Đình – Đền – Chùa Cầu Muối, do đó đây sẽ là một chuỗi những điểm đến hấp dẫn du khách khi du lịch tâm linh ở Thái Nguyên.
Chùa tọa lạc trên quả đồi cao với diện tích 2,5ha thuộc xóm Ngò, xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Chùa được xây dựng chủ đạo bằng đá trong một khuôn viên khép kín theo lối kiến trúc cổ kiểu “nội công, ngoại quốc”, dưới có các cột đá, trên có các vì gỗ, chạm khắc tinh xảo tứ quý “Long, Ly, Quy, Phượng”.
Cổng tam quan được xây dựng khá bề thế, chạm nổi hai câu đối: “Vào cửa Phật miệng cầu Tam Bảo niệm tâm linh” và “Tới cửa chùa lòng sạch trần duyên tiêu tục lụy”. Trước cổng tam quan là 4 bức tượng Tứ Thiên Vương, (còn được gọi dưới tên khác là “Tứ đại Kim Cương”). Bốn vị mang bốn đại bào, phong thái đầy vẻ uy vũ, có vai trò giữ gìn Phật pháp, duy trì sự ổn định xã hội, trông nom bốn phương tám hướng để mưa thuận gió hòa, được coi như vị trí ban cảnh vệ giúp bảo vệ chùa.
Qua cổng tam quan là khoảng sân rộng, hai bên có 18 bức tượng La Hán được chạm khắc từ đá trắng nguyên khối, thể hiện sống động, chân thật về hình dáng và hạnh nguyện, có tính nghệ thuật cao. Bậc thềm lên chùa là bốn con rồng uốn lượn mềm mại đỡ bốn trụ đá theo lối lên. Các trụ đá đều được chạm khắc với nhiều nét hoa văn tinh xảo. Hai cột đá giữa khắc hai câu đối: “Chúc nước nhà giàu mạnh với núi sông bền vững nghìn thu” và “Nguyện Phật pháp sáng lâu cùng nhật nguyệt rạng soi muôn thuở”. Chính giữa là bức tượng Di Lặc hoan hỉ chào đón phật tử, cùng muôn chúng sinh đến lễ Phật và vãn cảnh chùa.
Bên trái ngôi Tam Bảo là lầu trống, cạnh đó là bức tranh đá khắc họa đức phật Thích ca Mâu Ni nhập niết bàn, hai đầu bức tranh là những tấm bia ghi lại lời dạy cuối cùng của đức Phật và đạo Phật trước khi nhập niết bàn.
Bên phải ngôi Tam bảo là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát tay cầm bình nước cam lồ, tiếp đó là lầu chuông và tấm bia lưu danh công đức xây dựng chùa Khánh Long, kế bên là bức tranh nhân quả ba đời mang tính ước lệ được làm bằng đá màu hồng ngọc nhắc nhở chúng sinh bằng những câu chuyện, hướng con người đến lối sống tốt đẹp để thiên hạ có được sự yên vui, an lạc, thái bình. Mọi người cùng nhau chung sống hòa thuận, yêu thương nhau, học và biết những điều hay lẽ phải và tôn trọng lẫn nhau.
Các nhà thờ tổ, nhà thờ mẫu, thư viện, giảng đường với lối kiến trúc mang đậm bản sắc dân tộc Việt khiêm nhường, gần gũi, nép mình dưới bóng cây cổ thụ ẩn chứa sự diệu huyền tâm linh của một nơi thờ tự và ngưỡng vọng. Trong khuôn viên của chùa có ao Di Đà được bao quanh là hàng rào làm bằng đá, bên cạnh là hồ nước nhỏ An Yên, cây cầu cũng bằng đá nối ra giữa hồ đặt viên đá lớn ghi những lời thiền định. Đặc biệt khu vườn Lộc Uyển đẹp như bức họa, một không gian khiến mỗi người đặt chân tới đều cảm thấy nhẹ lòng, cảm xúc thăng hoa.
Vườn Lộc Uyển trong phật giáo là khu vườn đẹp, ngày xưa đức Phật bắt đầu giác ngộ thành Phật, ngài thuyết pháp đầu tiên ở đó. Theo truyền thuyết khu vườn này được vua xứ Ba La Nại thiết lập. Nơi đây rất yên tịnh, thanh vắng và trở thành nơi cư trú lý tưởng của các vị ẩn sĩ tiến tu đạo nghiệp. Dần về sau, các thầy chọn nơi này tu tập, ngồi thiền định. Thái tử Tất Đạt Đa đi tìm con đường giác ngộ, khi thành Phật ngài đã thuyết pháp tại đó.
Toà Bảo tháp ở chùa Khánh Long cao 15 tầng. Bảo tháp chùa Khánh Long được đặt tên là tháp Quan Âm, mục đích cất giữ và thờ 12 lời nguyện của đức bồ tát Quan Âm. Theo 12 lời nguyện chùa tạc 12 pho tượng mỗi tầng sẽ đặt một pho. Tầng trên cùng đặt quả chuông lớn nặng 6 tấn, các tầng còn lại thờ Tàng Kinh Các, lưu giữ các quyển kinh.
Trong hành trình đi lễ cầu an đầu xuân mới, bạn nên ghé thăm chùa Khánh Long. Ngôi Chùa có vị trí địa hình cực đẹp ngự trên một ngọn đồi có Thuỷ, Sơn, Cư, Lộ. Du khách đến đây dù là vãn cảnh hay cầu may đều nói rằng chùa rất linh thiêng.
Nằm tại tỉnh Thái Nguyên, khu du lịch Hồ Núi Cốc là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của khu vực phía Bắc. Khu du lịch sinh thái rộng lớn này cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 16 kilomet, và các trung tâm Hà Nội khoảng 70 kilomet. Hồ Núi Cốc là một hồ nhân tạo, có diện tích đến 25 hecta, với 89 đảo lớn nhỏ trong hồ, tạo nên một cảnh quan thiên nhiên thơ mộng. Cùng với chuyện tình hồ Núi Cốc của chàng Cốc và nàng Công đầy cảm động, khiến nơi đây càng trở nên thu hút hơn bao giờ hết. Không chỉ vậy, khu du lịch còn có nhiều điểm tham quan độc đáo cho bạn khám phá. Thái Nguyên là một tỉnh phía Bắc Việt Nam, vậy nên thời tiết ở đây cũng thay đổi theo 4 mùa trong năm. Theo kinh nghiệm của Klook, du lịch Hồ Núi Cốc đẹp nhất là vào tháng 3 đến tháng 9. Vào khoảng thời gian này, thời tiết Thái Nguyên nhiều nắng, ít mưa, rất thích hợp để tham gia các hoạt động ngoài trời. Bên cạnh đó, đây cũng là khoảng thời gian khu du lịch Hồ Núi Cốc tổ chức nhiều hoạt động nghệ thuật, giải trí, tạo ra một không khí sôi động cho nơi đây. Các tháng còn lại rơi vào mùa đông, là mùa lạnh ở Thái Nguyên, không thích hợp cho các hoạt động giải trí, khám phá ngoài trời. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ muốn tìm một nơi nghỉ dưỡng có thiên nhiên trong lành thì Hồ Núi Cốc vẫn là một lựa chọn phù hợp. Đến Hồ Núi Cốc, bạn có thể tham gia các trải nghiệm như: Vui Chơi tại Công Viên Nước, thưởng thức biểu diễn nhạc nước, thăm vườn động vật hoang dã, thăm quan các hang động,... và còn nhiều trải nghiệm hấp dẫn khác.
Thái Nguyên 2018 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 9
Định Hóa (Thái Nguyên) - nơi cách đây 76 năm (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng lãnh đạo Trung ương Đảng và Chính phủ lựa chọn là nơi lập an toàn khu (ATK), nơi ra đời những quyết sách quan trọng, mang tính bước ngoặt của Đảng ta trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hành trình về những địa danh lịch sử trong quần thể khu di tích vào những ngày mùa Thu lịch sử, mỗi người dân Việt Nam sẽ cảm nhận được những dấu ấn lịch sử và những lời Bác Hồ dạy còn vang vọng đâu đây. Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến ATK Định Hóa, đó là một vùng đất bán sơn địa với địa hình rừng núi xen lẫn cánh đồng, con suối, bản làng của đồng bào dân tộc Tày. Thung lũng Chợ Chu được bao bọc bởi những triền núi đá trập trùng tựa như chiến hào vững chãi, kiên cố. Ở nơi đây, khi dừng chân vào rạng sáng ngày 20/5/1947, Bác Hồ đã nhận thấy những thuận lợi của địa hình để lựa chọn những địa điểm hoạt động bí mật. Bác Hồ khẳng định: “Có nhân dân tốt, có cơ sở chính trị tốt là ở nơi đó “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” (tiến có thể đánh, lui có thể giữ). Đặc biệt, khi chọn đồi Tỉn Keo ở thôn Nà Lọm, xã Phú Đình (Định Hoá) để làm nơi lập căn cứ, Bác khẳng định: “Trên có núi, dưới có sông/Có đất ta trồng, có bãi ta chơi/Tiện đường sang Bộ Tổng/Thuận lối tới Trung ương/Nhà thoáng, ráo, kín mái/Gần dân, không gần đường”. Vì vậy, trong tổng thể hàng trăm di tích thuộc Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, địa điểm nào cũng gắn với hình ảnh Bác Hồ, các đồng chí trong Trung ương Đảng và Chính Phủ cùng những sự kiện lịch sử trong những năm tháng kháng chiến gian khổ. Những địa danh lịch sử đã để lại dấu ấn trong khu di tích ATK Định Hóa như: Chợ Chu, Chùa Hang, đồi Khau Tý, thác Khuôn Tát, đèo De, núi Hồng, Điềm Mặc, suối Đình, Định Biên, Bảo Biên, đồi Pụ Đồn, Tỉn Keo, những ngôi nhà sàn Bác ở và làm việc, nhà trưng bày AKT… Trong những hoạt động cách mạng tại ATK Định Hoá, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã vạch ra đường lối chiến lược cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đặc biệt, Bác đã soạn thảo “Sửa đổi lối làm việc”, chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị để thông qua kế hoạch chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954, quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, gian khổ của dân tộc. Trong những ngày tháng gian khổ của cuộc kháng chiến, bài thơ “Cảnh khuya” của Bác đã ra đời nơi núi rừng Định Hoá: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa/Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ/Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Ngày nay, tại Chùa Hang (Thị trấn Chợ Chu), bàn thờ Bác được đặt ở vị trí trang trọng với niềm kính yêu vô hạn. Chính tại đây, Bác Hồ đã từng ở vào năm 1950 để chỉ đạo chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954.
Thái Nguyên 1860 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thái Nguyên được xem là vùng đất “thủ đô gió ngàn” trong thời kỳ kháng chiến. Đến với nơi đây, chúng ta có cơ hội tìm về cội nguồn của loài người với Mái đá Ngườm Thần Sa, với núi Đuổm hoang sơ kỳ vĩ, đắm mình trong câu chuyện tình lãng mạn của nàng Công, chàng Cốc… Và một trong những địa chỉ không thể bỏ qua chính là Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam - nơi lưu giữ bản sắc cộng đồng dân tộc Việt. Cách Thủ đô Hà Nội khoảng 80km, Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam nằm ở số 1 Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên. Bảo tàng được thành lập năm 1960 với tên gọi ban đầu là Bảo tàng Việt Bắc. Năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 7 Bảo tàng quốc gia Việt Nam. Được xây dựng trên một khuôn viên rộng đến 40.000m² cạnh dòng sông Cầu thơ mộng, tại điểm giao nhau của các đường Đội Cấn, Hoàng Văn Thụ, Bắc Kạn và Cách mạng tháng Tám, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một công trình kiến trúc quy mô, tầm cỡ mang nhiều tính nghệ thuật, đã đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt 1 năm 2006. Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển với hàng trăm cuộc nghiên cứu, sưu tầm, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đang quản lý gần 30.000 tài liệu, hiện vật có giá trị, là cơ sở để hoàn thiện hệ thống trưng bày trong nhà cũng như ngoài trời, phục vụ tốt nhu cầu tham quan của công chúng. Bước vào khuôn viên Bảo tàng, chúng ta sẽ dừng chân tại Gian long trọng. Nơi đây giới thiệu những nét khái quát về văn hoá Việt Nam. Ở tiền sảnh lớn, chúng ta được ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu cuả dân tộc Việt Nam. Người ôm ba em bé, đại diện cho ba miền Bắc - Trung - Nam. Bức tượng thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của Bác với các cháu thiếu nhi ba miền, đồng thời thể hiện chính sách thống nhất, đa dạng và đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Sau tượng Bác Hồ là bức phù điêu lớn được tạc bằng gỗ mô phỏng các lễ hội tiêu biểu truyền thống các tộc người từ Bắc vào Nam: Múa khèn trong phiên chợ vùng cao, múa sư tử trong hội xuân vùng thung lũng, lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội đâm trâu của đồng bào Tây Nguyên và hội đua ghe ngo của đồng bào Nam Bộ. Tiếp đó, du khách sẽ lần lượt tham quan hệ thống 5 phòng trưng bày gồm: Trưng bày và giới thiệu về văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (Kinh, Mường, Thổ, Chứt). Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao; Trưng bày và giới thiệu các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y). Đồng bào sống chủ yếu ở nhà sàn, trồng lúa trên các thung lũng, ven sông suối, với hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước. Các nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với các sản phẩm đẹp và tinh tế. Đặc biệt họ có đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xoè và bài hát then độc đáo; Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La). Đồng bào giỏi canh tác trên nương rẫy và ruộng bậc thang. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn... Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me (Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H'rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng). Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, Miền -Tây Nguyên và Nam Bộ. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy, những nương rẫy có độ cao tương đối lớn, đồng canh tác theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn - Khơ Me; Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu). Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển Miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hán cư trú trên cả ba vùng Bắc, Trung, Nam; Văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ. Mỗi phòng trưng bày với hệ thống tài liệu và hiện vật phong phú, đa đạng đã tái hiện một cách chân thực cảnh quan cư trú và đời sống văn hoá 54 dân tộc anh em, từ cực bắc Hà Giang đến vùng đất mũi Cà Mau với những hình ảnh gần gũi như: các phiên chợ vùng cao, cảnh săn bắt voi rừng, hình ảnh chọc lỗ bỏ hạt của người dân tộc phía bắc, lễ hội cồng chiêng của người Ê đê, Ba na ở Tây nguyên; sông nước của đồng bào Nam bộ; các nghề thủ công truyền thống, các hình thức sinh hoạt văn hóa trong trang phục, âm nhạc, ẩm thực, lễ hội trong sản xuất lao động…. Điểm nhấn đặc biệt của Bảo tàng là hệ thống trưng bày ngoài trời với không gian 6 vùng văn hoá: Núi cao phía Bắc, Thung lũng, Trung du - Bắc Bộ, Miền Trung - Ven biển, Trường Sơn - Tây Nguyên, và Đồng Bằng Nam Bộ sẽ mang lại những trải nghiệm hết sức thú vị cho du khách. Mỗi vùng văn hoá đều có không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc cảnh quan mang tính đặc trưng vùng miền và một ngôi nhà cụ thể, mang tính nguyên gốc làm điểm nhấn giới thiệu các giá trị văn hoá Việt Nam tới du khách. Tại đây, du khách cũng dễ dàng tận mắt nhìn thấy nhiều dụng cụ vốn rất quen thuộc từ xưa của dân tộc như cái cối xay lúa đan bằng nan tre, cái cày bằng cây thô sơ, những mái nhà lợp tranh, vách đất… Có thể nói Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Thái Nguyên như “mái nhà chung” của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S. Khách đến tham quan sẽ có dịp chiêm ngưỡng một bức tranh toàn cảnh, tìm hiểu về cội nguồn, truyền thống, văn hóa các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước. Cùng với Khu du lịch sinh thái Hồ Núi Cốc, Căn cứ cách mạng an toàn khu ATK, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã, đang và sẽ là điểm đến hấp dẫn cho mọi du khách trong và ngoài nước.
Thái Nguyên 2062 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thác Nặm Rứt - nơi được ví như một nàng công chúa ngủ trong rừng đang là một trong số những địa danh du lịch ở Thái Nguyên được giới trẻ "đổ xô" khám phá dịp hè này. Điểm "hút khách" của thác là không gian thiên nhiên xanh, trong lành và vẻ xinh đẹp mơ màng của thác nước tự nhiên ở vùng đất huyền thoại xứ trà. Con thác Nặm Rứt thuộc địa phận xã Thần Sa, huyện Võ Nhai (Thái Nguyên), do đó nếu lựa chọn địa điểm này để tránh nóng thì hành trình khám phá nơi đây sẽ không quá vất vả. Du khách có thể đi bằng xe máy hay ôtô tùy từng nhu cầu, sở thích riêng để thực hiện hành trình khám phá và đi phượt Nặm Rứt theo hướng quốc lộ 3 hoặc theo quốc lộ 1 để dịch chuyển từ Hà Nội về Thái Nguyên. Ngoài ra, nếu xuất phát từ Hà Nội, không muốn di chuyển bằng các phương tiện khác, du khách cũng có thể lựa chọn tàu hỏa - một sự lựa chọn thú vị để khám phá cung đường Hà Nội - Thái Nguyên. Nếu đi theo tuyến đường tỉnh lộ 242, du khách sẽ được nhìn ngắm rất nhiều cảnh sắc thiên nhiên nơi đây. Điển hình là những ngọn đồi thanh vắng hay con sông Rong/Nghinh Tường xinh đẹp uốn lượn. Nổi bật nhất là những đồi chè mướt mắt tạo cho du khách cảm giác được lạc vào thế giới xanh mát mà chỉ có ở vùng đất Thái Nguyên huyền thoại. Trên cung đường tới thác Nặm Rứt, du khách sẽ nhìn thấy dòng sông Rong/ Nghinh Tường nổi tiếng với làn nước trong xanh. Dọc theo con sông này là hình ảnh những chiếc thuyền đánh cá nhỏ đang miệt mài thả lưới. Tất cả tạo nên cảnh sắc thiên nhiên rất cuốn hút mà ai nhìn cũng thấy mê. Xúc cảm được ngắm nhìn bức tranh sơn thủy nơi đây sẽ khiến cho tâm hồn bạn trở nên rộng mở, vui vẻ và yêu đời hơn. Sau khi đi theo cung đường này, du khách sẽ tới thác Nặm Rứt Thái Nguyên - nơi được ví như một nàng công chúa ngủ trong rừng. Ẩn sâu trong vách núi nên thác Nặm Rứt Thái Nguyên sở hữu vẻ đẹp rất đặc biệt, nguyên sơ và cuốn hút. Vào mùa mưa, giữa vùng núi non hùng vĩ, trên đỉnh núi đá vôi có nhiều cây rừng, những dòng nước trắng xóa ào ào đổ xuống dòng sông Nghinh Tường tạo nên thác lớn. Bốn bề xung quanh con thác này là rừng núi bao bọc, tiếng nước đổ nghe thật vui tai. Nếu tới đây vào mùa thu, du khách sẽ được ngắm nhìn hình ảnh dòng nước đổ từ trên cao trắng xóa cả một vùng trời. Tất cả hòa vào nhau tạo nên một bản nhạc hòa tấu vô cùng thú vị của vùng rừng núi Thái Nguyên này. “Hình ảnh những dòng nước trắng xóa đổ xuống cho ta cảm thấy thư giãn, thảnh thơi. Nơi đây không chỉ mang lại cảm xúc bình yên và tĩnh lặng mà còn tạo cho tôi cảm giác chỉ có thiên nhiên và con người bao bọc lấy nhau mà không hề có tiếng ồn ào, xô bồ, tấp nập của cuộc sống mỗi ngày. Vẻ đẹp mơ màng của Nặm Rứt sẽ khiến tôi bị cuốn hút và chỉ muốn ở mãi không rời” - chị Trần Tuyết Nhung (Trần Nhân Tông, Hà Nội) bày tỏ. "Nặm Rứt chắc chắn sẽ là điểm đến lý tưởng cho kỳ nghỉ cuối tuần của những đôi chân ham đi" - anh Nguyễn Thắng, du khách đến từ Đống Đa (Hà Nội) chia sẻ. Đồng thời anh Thắng cho hay, so với những ai yêu thích được tham gia những chuyến đi du ngoạn và khám phá vẻ xinh đẹp của thiên nhiên kỳ thú thì thác Nặm Rứt sẽ là sự lựa chọn tuyệt vời. Chúng ta sẽ được khám phá rất nhiều điều thú vị ở nơi đây, bởi con thác này rất kỳ ảo và có hình thù đặc sắc, đó là sự đan xen của rất nhiều dòng thác khác nhau nước phun xuống bọt tung trắng xóa mờ mờ ảo ảo xinh như tiên cảnh. Tất cả tạo nên những dòng phun nước nhỏ chảy xuống phía dưới trông càng trở nên quyến rũ và thú vị. Dọc theo bờ sông là những tảng đá to nhấp nhô để khách tham quan có thể ngồi câu cá, ngắm cảnh. Tới đây bạn sẽ thấy cuộc sống tách biệt tuyệt đối với thế giới bên ngoài. Cũng theo chị Nhung, nếu vào mùa khô, ở Nặm Rứt nước chỉ đủ để ngấm qua những mảng rêu trên vách đá, rơi xuống dòng sông xanh tạo sự lấp lánh khắp mặt sông dưới ánh nắng vàng tạo cho khung cảnh của Nặm Rứt trở nên đẹp, lạ hiếm thấy. Nếu khám phá thác Nặm Rứt Thái Nguyên vào mùa khô, nước tại thác chỉ có một dòng nước nhỏ duy nhất. Tuy nhiên, vào mùa này, du khách cũng có thể tham gia trải nghiệm câu cá hay ngồi trên những tảng đá có kích thước to tại con thác Nặm Rứt Thái Nguyên này để ngắm cảnh. Được ngồi ngắm cảnh và hít thở bầu không khí xanh trong nơi đây cũng khiến du khách cảm thấy thư thái tâm hồn hơn. Đặc biệt, khung cảnh nơi đây sẽ mang lại cảm giác thoải mái và khoan khoái hơn. Bạn sẽ cảm thấy tới đây là một quyết định đúng đắn cho kỳ nghỉ của mình và những người thân.
Thái Nguyên 1694 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Nhắc đến du lịch Thái Nguyên thì hang Phượng Hoàng chắc chắn là điểm đến bạn không thể nào bỏ lỡ. Nơi đây đã được đầu tư xây dựng Khu du lịch Hang Phượng Hoàng với đầy đủ cơ sở vật chất, chỗ để khách tham quan gửi xe, ăn uống, nghỉ ngơi. Bên cạnh đó, vị trí nằm bên cạnh Quốc lộ 1B cũng rất đắc địa, bạn có thể dễ dàng kết hợp lịch trình tham quan hang Phượng hoàng vài giờ đồng hồ rồi di chuyển đến điểm du lịch tiếp theo. Hang Phượng Hoàng nằm trên đỉnh núi cùng tên, nổi tiếng với những khối thạch nhũ đẹp mắt, hình thù độc đáo. Bên cạnh hang còn có dòng suối Mỏ Gò trong veo, mát lành. Vì vậy mà nơi đây thu hút rất nhiều du khách đến khám phá, trải nghiệm. Hang Phượng Hoàng cách thành phố Hà Nội khoảng hơn 130km. Với các đoàn bạn trẻ chuyên đi phượt thì khoảng cách này rất thích hợp cho chuyến đi cuối tuần. Chạy xe máy bạn sẽ mất khoảng hơn 3 tiếng di chuyển, có thể khởi hành vào chiều thứ 7, vui chơi một ngày rồi về vào chiều chủ nhật. Nếu không, bạn cũng có thể đi xe khách từ Hà Nội lên Thái Nguyên rồi thuê xe máy đi chơi vi vu, khám phá mảnh đất thanh bình này. Là địa phương còn khá mới trên bản đồ du lịch Việt Nam nên những điểm đến tại Thái Nguyên có điểm chung ở sự hoang sơ, dân dã, chi phí cho ăn ở, đi lại cũng sẽ rẻ hơn những nơi khác. Còn với những bạn từ các tỉnh xa của miền Nam và miền Trung thì cách di chuyển nhanh chóng nhất là mua vé máy bay ra Nội Bài, Hà Nội. Sau đó từ Hà Nội đi lên Thái Nguyên. Chuyến đi này bạn có thể kết hợp ghé thăm thêm các điểm đến ở cả Phú Thọ, Yên Bái, Bắc Giang, Bắc Ninh, khám phá trọn vẹn vẻ đẹp và thiên nhiên của vùng núi Đông Bắc. Theo một số người dân địa phương, tên gọi hang Phượng Hoàng bắt nguồn từ việc bên trong hang có rất nhiều khối đá và nhũ thạch với các hình thù kỳ ảo. Điều này khiến họ liên tưởng đến hình ảnh chim phượng hoàng tung cánh uy nghi và đầy sức mạnh. Vì thế mà cái tên hang Phượng Hoàng ra đời. Tuy nhiên, còn có một truyền thuyết khác gắn liền với tên gọi của hang động này nữa. Tương truyền rằng ngày xưa có một cặp chim phượng hoàng chọn ngọn núi này để sinh sống. Chúng ở trong hang sinh được hai quả trứng, chim bố đi tìm thức ăn còn chim mẹ thì phụ trách ở nhà ấp trứng. Rồi một ngày tai họa ập đến, đôi chim này bị trời trừng phạt. Chim bố đi kiếm ăn trở về thấy vợ mình đã hóa đá. Chim bố đau buồn nhưng vẫn hi vọng vợ mình sẽ sống lại, cứ như thế chờ đợi cho đến khi kiệt quệ mà ra đi theo. Thế nên trong hang núi này mới xuất hiện những khối thạch nhũ hình chim phượng hoàng, chính là minh chứng cho chuyện tình bất hạnh của đôi chim. Hang Phượng Hoàng được tạo hóa ban tặng cho vẻ đẹp rất độc đáo với ba tầng riêng biệt. Tầng thứ nhất gọi là tầng thượng, mọi người vẫn quen gọi là hang Dơi. Tầng này nằm trên cùng, dễ vào nhất và cũng được nhiều du khách khen ngợi nhất. Ở đây có rất nhiều khối thạch nhũ lạ mắt, ánh đèn chiều vào càng trở nên lung linh, huyền ảo. Tầng thứ hai là tầng giữa, có tên gọi là hang Sáng. Cấu trúc của tầng giữa khá độc đáo với ba cửa từ các phía cùng nhiều lỗ thông ra bên ngoài. Vì vậy là ánh sáng mặt trời có thể lọt qua, rọi xuống lòng hàng lung linh. Đến đây vào khoảng buổi trưa, những tia nắng chiếu xuống cực xinh để bạn tha hồ chụp ảnh. Tầng thứ ba cũng là tầng sâu nhất, được gọi là hang Tối. Có tên gọi này là vì ánh sáng mặt trời không thể nào lọt xuống tới đây. Không gian hang Tối khá âm u, tịch mịch nên cũng ít khách tham quan xuống tới. Hang Phượng Hoàng mát mẻ quanh năm, dù ngoài trời có nắng gắt thế nào thì nhiệt độ bên trong hang cũng chỉ ở mức 15°C mà thôi. Vì thế nên bước vào hang bạn sẽ thấy cực kỳ khoan khoái và thoải mái, giống như bước vào một căn phòng máy lạnh mà lại không bị tù túng, bí bách.
Thái Nguyên 1887 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là một ngôi đền có lịch sử lâu đời, đền Đuổm được xây dựng từ thế kỷ XII, năm 1180 vài thời vua Lý Cao Tông. Đền nằm dưới chân núi Đuổm, là một dải núi đá uy nghiêm sừng sững, thành núi dựng đứng nhấp nhô gồm 6 ngọn, hội tụ đủ 4 yếu tố: Tiền Chu tước, hậu Huyền Vũ, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, được coi là ngọn núi lạ nổi lên giữa dải đất bằng phẳng đồng lúa Động Đạt. Với lịch sử cũng như yếu tố tâm linh độc đáo, đền Đuổm là một danh thắng nổi tiếng của vùng đất Thái Nguyên. Nơi đây thu hút nhiều khách tham quan không chỉ trong những dịp lễ hội mà còn có cả ngày thường. Năm 1993, di tích đền Đuổm đã được xếp hạng Di tích Quốc gia, đồng thời vào năm 2017 lễ hội đền Đuổm cũng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đền Đuổm thờ một thủ lính người Tày tên Dương Tự Minh. Theo sử sách ghi chép, ông Dương Tự Minh làm quan dưới thời nhà Lý, ông cai quản vùng đất Phú Lương (ngày nay là các tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn). Ông là một danh tướng với nhiều công lao trong việc giành lại ruộng đất từ giặc Tống và bảo vệ tổ quốc. Tương truyền, ông đã góp công lớn trong việc giữ mối đoàn kết của dân tộc, khai khẩn đất hoang. Nhờ đó, nhà Lý đã phong sắc ông làm “Uy viễn đôn Cao Sơn quảng độ chi thần”. Về sau, ông còn được vua Lý Nhân Tông đích thân gả công chúa Diên Bình. Đến năm 1144, vua Lý Anh Tông lại gả công chúa Thiều Dung cho ông. Theo ước tính, ông sống vào cuối thế kỷ 11 và đầu thế kỷ 12. Với những công lao to lớn mà ông đã đóng góp, nhân dân địa phương lập đền thờ ông ở chân núi Đuổm. Và đó là sự ra đời của đền Đuổm ngày nay. Dù được xây dựng từ thế kỷ XII, trải qua trăm năm tồn tại và nhiều lần trùng tu, nhưng đền Đuỗm vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, cổ kính và uy nghiêm. Đền Đuổm được xây dựng theo kiểu tam cấp truyền thống bao gồm đền Hạ, đền Trung và đền Thượng theo thứ tự từ thấp đến cao dọc sườn núi. Mỗi ngôi đền trong quần thể đền Đuổm sẽ thờ một người. Khu vực đền Hạ thờ 2 vị công chúa Diên Bình và Thiều Dung, đền Trung thờ ông Dương Tự Minh và đền Thượng là nơi thờ thân mẫu của ông. Tổng thể công trình đền Đuổm không quá lớn song lại gây ấn tượng mạnh mẽ với kiến trúc độc đáo, trang nghiêm. Một số lễ hội của đền Đuổm bao gồm: mùng 6 tháng Giêng âm lịch - ngày sinh đản của Thánh; ngày 24 tháng 4 âm lịch - lễ hạ điền; mùng 7 tháng Bảy âm lịch - lễ thượng điền; 14 tháng Chạp - lễ tất niên. Trong đó, lớn nhất là lễ hội được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm, bởi tương truyền đây là ngày sinh của đức thánh Dương Tự Minh. Nếu có dịp du lịch Thái Nguyên, đặc biệt là vào tháng Giêng, bạn có thể tham gia lễ hội đền Đuổm vào ngày mùng 6 âm lịch hàng năm. Đây là thời điểm người dân trong vùng tổ chức lễ hội với nhiều nghi lễ long trọng như: rước đuốc, rước nước, dựng cây Nêu của người Tày,... Ngoài ra còn có một số lễ như Mộc Dục, Gia Quan, Rước lễ vật vào Đền, Đại Tế lễ. Trước một ngày, tức mùng 5 âm lịch, người dân đã tập hợp trước sân đền Đuổm để chuẩn bị cho các nghi thức quan trọng. Mục đích của lễ hội đó là cầu bình an, may mắn và mưa thuận gió hòa, đồng thời cũng bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với danh tiếng Dương Tự Minh. Cẩm nang du lịch mách bạn nên đến đây vào mùng 5 sẽ có nhiều hoạt động thú vị hơn.
Thái Nguyên 2031 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Di tích lịch sử Quốc gia Núi Văn – Núi Võ nằm dưới chân dãy núi Tam Đảo, thuộc địa phận hai xã Văn Yên và Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nơi đây gắn liền với tên tuổi và quê hương vị danh tướng Lưu Nhân Chú nổi danh về tài hoa và tinh thần dũng cảm dưới cờ đại nghĩa trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh do Lê Lợi lãnh đạo thế kỷ XV. Đây cũng chính là nơi Lưu Nhân Chú cùng cha là Lưu Trung và em rể Phạm Cuống đã chiêu mộ người tài, tập hợp những người yêu nước, xây dựng quân đội ra sức luyện tập binh mã chuẩn bị đánh giặc cứu nước. Lưu Nhân Chú đã lập được nhiều chiến công hiển hách và được nhà vua trọng thưởng. Tương truyền các hang sâu thẳm trong lòng Núi Văn – Núi Võ là nơi các Tướng lĩnh trọng Bộ tham mưu quân khởi nghĩa tụ họp để bàn việc lớn, từ đó đưa ra những quyết định thắng lợi trong mọi trận đánh chống lại quân xâm lược phương Bắc. Di tích lịch sử Núi Văn – Núi Võ là nơi thờ Tướng quốc Tể tướng Lưu Nhân Chú với tổng diện tích khuôn viên khoảng 2,5ha, gồm hai điểm chính và nhiều địa điểm phụ: Núi Văn thuộc địa phận xã Ký Phú, Núi Võ thuộc địa phẫn xã Văn Yên. Các điểm khác gồm: Núi Quần Ngựa, hồ Tắm Ngựa, núi Cắm Cờ, núi Đá Mài và đồi Xem. Để xứng tầm với vị thế của người hùng Lưu Nhân Chú, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng đền thờ ông dưới chân núi Võ với diện tích 57,622m2 với các hạng mục chính: Đền thờ chính, sân lễ hội, nhà tả vu, hữu vu, nhà khách, vườn hoa, cổng, đường vào ... Cuối năm 2009 công trình được khánh thành. Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng Giêng tại di tích vẫn diễn ra lễ hội tưởng nhớ, tôn vinh vị anh hùng Lưu Nhân Chú. Pho tượng Lưu Nhân Chú cao 1,85m, nặng 1500kg đã được hoàn thành đúc đồng ngày 20 tháng chạp năm Giáp Ngọ (2/8/2015) Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích Quốc gia năm 1981 tại Quyết định số 10-VHTT/QĐ ngày 09/02/1981. Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 2703 lượt xem
Chùa Hang nằm ở trung tâm thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, cách thành phố Thái Nguyên 3 km về phía bắc, bên trái quốc lộ 1B, hướng Thái Nguyên đi Lạng Sơn. Chùa có nhiều đặc thù của miền sơn cước, nên đã được chọn đưa vào tuyển tập 100 ngôi chùa Việt Nam tiêu biểu xuất bản lần đầu năm 2011. Theo tương truyền, đây là ngôi chùa cổ có từ thế kỷ XI và đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, thắng cảnh cấp Quốc gia năm 1999. Chùa Hang, có tên chữ “Kim Sơn Tự”, còn được gọi là “Tiên Lữ Phật Động”. Di tích thắng cảnh Chùa Hang có ba ngọn núi đá lớn, độc lập trên vùng đất bằng phẳng…Ngọn núi đứng giữa có tên là “Huyền Vũ” cao to vững trãi, hai bên là hai ngọn “Thanh Long – Bạch Hổ” vươn cao uy nghi, ba ngọn kết nối nhau bởi dải yên ngựa chừng 1000m có diện tích chân núi chừng 2,7ha. Tương truyền "Chùa Hang " có từ thời nhà Lý (thế kỷ XI), được coi là thời kỳ rất hưng thịnh của Phật giáo. Chuyện rằng: vào một buổi sáng mùa xuân năm Nhâm Tuất, vua Lý Thánh Tông thức dậy đã kể lại giấc mơ của mình cho Nguyên Phi Ỷ Lan chuyện đêm qua nằm mộng, được Phật dắt lên vùng đất địa linh ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Bà Nguyên Phi lập tức thực hiện chuyến kinh lí tham quan, thấy phong cảnh hữu tình, núi non kỳ vĩ, hang động rộng lớn, bèn cho lấy hang dựng chùa thờ Phật. Có lẽ "Kim Sơn Tự" ra đời từ đây, nhưng nhân dân thường gọi nôm là Chùa Hang vì chùa ở trong hang. Qua Tam quan, vào chùa, hai bên trái phải có hai tượng Hộ pháp Khuyến thiện - Trừng ác, cưỡi voi cưỡi hổ uy nghi. Càng vào sâu, hang rộng dần, trên vòm hang nhũ đá tưởng như "Mây già quyện đá quái chơi vơi", nhiều cột đá lớn sừng sững chống lên vòm hang như những trụ chống trời. Quanh vách hang nhiều nhũ đá nhô ra thành các bệ thờ và nhiều hình thù kỳ lạ hấp dẫn. Hang có nhiều ngóc ngách, có đường lên trời, đường xuống âm phủ, có cửa thông trước sau, nên không khí trong chùa rất trong lành, mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp, khói hương luôn toả mờ làm cho chùa càng trở nên thâm u kì bí. Chùa Hang- Kim sơn tự với huyền thoại “Động tiên lữ” một bức trang thủy mạc đã say đắm bao tâm hồn của nhiểu danh dân, sĩ phu thuộc hàng “tao nhân mặc khách” từ đời Lê sơ đến Hậu nguyễn, hiện còn nhiều văn bia thơ phú bằng chữ hán khắc trên vách hang, ca ngợi cảnh đẹp thiên tạo vô song khi đến vãng cảnh nơi đây. Theo qui hoạch, chùa Hang sẽ được xây dựng và trùng tu chia làm 5 khu, đó là khu bảo tồn gồm toàn bộ hang động, núi đá với tổng diện tích 2,7ha; khu trục chính đạo tâm linh, bao gồm 8 công trình là Chính điện Tam Bảo, nhà thờ tổ, giảng đường Hoằng pháp, Bảo tháp, lầu chuông, lầu trống, tam quan nội, tam quan ngoại; phía bên phải của chùa là khu thiền viện chuyên tu; trung tâm từ thiện xã hội; khu sân bãi để phục vụ lễ hội. Tổng kinh phí đầu tư khoảng 500 tỷ đồng bằng nguồn xã hội hoá. Với tất cả những giá trị lịch sử vốn có ở nơi đây cùng tâm nguyện của sư trụ trì và toàn thể nhân dân, trong 3 năm qua đã có nhiều tăng ni phật tử, đơn vị, doanh nghiệp góp công, góp của để xây dựng chùa. Cả một quần thể kiến trúc chùa được sơn bao thuỷ bọc. Toàn bộ phía sau chùa là những dãy núi, phía trước chùa là dòng sông Cầu uốn lượn bao quanh. Các công trình chính điện tam bảo, cửa tam quan, lầu chuông, lầu trống đã và đang xây dựng hoàn thành sẽ sớm viên thành sở nguyện, góp phần gìn giữ một di sản văn hoá tâm linh, nâng tầm giá trị di tích tạo nên một danh lam thắng cảnh đẹp như bức tranh sơn thuỷ, thơ mộng chốn bồng lai. Với những giá trị to lớn của di tích thắng cảnh đẹp từ ngàn xưa, sau khi được trùng tu và mở rộng “Chùa Hang- Kim Sơn Tự” sẽ trở thành một trung tâm phật giáo lớn của tỉnh Thái Nguyên và là một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa Và Truyền Thông Thành Phố Thái Nguyên
Thái Nguyên 2604 lượt xem
Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, là nơi ở, làm việc và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Tại đây cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc. Đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa được đánh giá “Là một quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20”. Là địa chỉ đỏ nơi giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng cho thế hệ trẻ người Việt Nam hành hương về nguồn, xứng đáng là điểm du lịch sinh thái ý nghĩa trong chiến lược thu hút hàng triệu lượt khách trong nước và quốc tế đến dâng hương tại Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và tham quan các điểm di tích. Đó là minh chứng sinh động cho những nỗ lực nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị riêng có của mảnh đất cách mạng. Di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Định Hóa thuộc địa phận các xã Phú Đình, Điềm Mặc, Thanh Định, Định Biên, Bảo Linh, Đồng Thịnh, Quy Kỳ, Kim Phượng, Bình Thành và thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, với tổng diện tích quy hoạch bảo tồn trên 5.200km2. Đây cũng là địa bàn giáp danh giữa các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Bắc Kạn. Năm 1981, Khu di tích đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia, gồm 13 di tích thành phần: 1. Nhà tù Chợ Chu (thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa) 2. Địa điểm thành lập Việt Nam Giải phóng quân (xã Định Biên, huyện Định Hóa) 3. Địa điểm Bác ở và làm việc tại đồi Khau Tý năm 1947 (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 4. Địa điểm Bác ở và làm việc tại đồi Tỉn Keo (1948 - 1954), xã Phú Đình, huyện Định Hóa 5. Cụm di tích Bác ở Khuôn Tát: Cây đa, Đoạn suối Khuôn Tát - nơi Bác tắm, giặt và câu cá, Nhà sàn và hầm Bác ở đồi Nà Đình (xã Phú Đình, huyện Định Hóa) 6. Địa điểm Tổng Bí thư Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng làm việc tại Phụng Hiển (1947 - 1949), xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa 7. Địa điểm Cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1949 - 1954) tại xã Bảo Linh, huyện Định Hóa 8. Thắng cảnh thác 7 tầng Khuôn Tát (xã Phú Bình, huyện Định Hóa) 9. Địa điểm thành lập Hội Nhà báo Việt Nam (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 10. Địa điểm thành lập Ủy ban hòa bình Việt Nam (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 11. Địa điểm thành lập Ủy ban Kiểm tra Trung ương (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 12. Địa điểm Báo Quân đội nhân dân ra số đầu (20/10/1950) xã Định Biên, huyện Định Hóa 13. Địa điểm đồi Pụ Đồn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp (1948) (xã Phú Đình, huyện Định Hóa) An Toàn Khu (ATK) Định Hóa thực sự là một quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX, một Thủ đô kháng chiến với các vùng di tích trọng điểm: Pác Bó (Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên Quang), ATK Định Hóa, Chợ Đồn, Chiêm Hóa, Sơn Dương, Yên Sơn (Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang) có ý nghĩa và giá trị trên nhiều mặt. Đặc biệt, ATK Định Hóa là nơi khởi phát, tổ chức chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương… Nguồn: Cục di sản văn hoá
Thái Nguyên 2513 lượt xem
Khu di tích lịch sử Quốc gia - nơi tưởng niệm sự hy sinh anh dũng của 60 TNXP Đại đội 915, Đội 91 Bắc Thái trong trận bom dải thảm của đế quốc Mỹ đêm Noel năm 1972 thuộc địa bàn phường Gia Sàng (TP Thái Nguyên) có khuôn viên rộng 4,75 ha, bao gồm các hạng mục: Nhà tưởng niệm; không gian trưng bày tài liệu hiện vật; khu nhà đón tiếp; hệ thống cây xanh, thảm hoa trang trí, trụ đá huyền thoại, cổng tam quan, nghi môn - tứ trụ, hồ nước soi bóng các công trình phụ trợ. Nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của di tích trong việc giáo dục lịch sử truyền thống cách mạng, lịch sử địa phương, Ban Quản lý Khu di tích đã triển khai nhiều hoạt động giới thiệu, quảng bá; tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng cho cán bộ, giáo viên, học sinh thông qua các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm thực tế; phối hợp tổ chức các hoạt động như: Tọa đàm, kết nạp đoàn viên, đảng viên; hoạt động tri ân, tặng quà cho cựu TNXP và thân nhân gia đình các liệt sĩ… Theo đánh giá, lượng du khách đến tham quan và tri ân tại Khu di tích lịch sử Quốc gia 60 liệt sĩ TNXP Đại đội 915, Đội 91 Bắc Thái ngày càng đông. Nơi đây dần trở thành “địa chỉ đỏ” quan trọng của tỉnh Thái Nguyên cũng như của cả nước để giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Nguồn: thainguyen.gov.vn
Thái Nguyên 2195 lượt xem
Chùa Đán nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 5km về phía Tây, thuộc địa phận xóm Chùa, phường Thịnh Đán, ẩn mình dưới những tán cây xanh mát, trước mặt là dòng kênh dẫn nước từ Hồ Núi Cốc về phía nam của thành phố. Trụ trì chùa cho hay: Chùa Đán trước đây là một ngôi chùa cổ kính, ẩn mình dưới tán rừng thông, được nhân dân trong vùng cùng hỉ xả tâm đức, quyên góp gỗ, gạch, ngói để xây dựng. Công trình lớn nhất là nhà Tam Bảo, gồm 5 gian rộng rãi. Bên trong nhà được bày thờ nhiều tượng Phật phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân trong vùng. Vì đất nước có chiến tranh, các vị sư trụ trì và nhân dân trong vùng đã tham gia chấp hành thực hiện tiêu thổ kháng chiến, dỡ bỏ chùa. Đến năm 1993, nhân dân trong vùng đã cùng nhau phát tâm công đức, đóng góp dựng lại một ngôi chùa tạm ngay trên nền đất của chùa cũ, gồm 3 gian nhà cột tre, mái lợp ngói làm nơi sinh hoạt tâm linh. Đến năm 2002, các tăng ni, phật tử và người dân trong vùng tự nguyện góp của, góp công để xây dựng lại chùa theo lối kiến trúc cổ phương Đông. Đến nay ngôi chùa đã được xây dựng bề thế, song luôn toát lên vẻ thâm nghiêm, che chở đức tin cho tăng ni, phật tử tu tập nghe giảng giáo lý và tu học đạo pháp. Chùa gồm một số hạng mục công trình: Nhà Tam Bảo với từng cột đá, mái vút cong cổ kính. Trước sân có Đức Phật tổ ngồi thiền; sau nhà Tam bảo là nhà thờ Tổ, bên trái là cung mẫu, liền kề sân chùa phía bên phải là ngôi nhà sàn tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà mang kiến trúc của đồng bào Tày, Nùng Việt Bắc. Không chỉ là một địa chỉ tâm linh mà chùa Đán còn là một di tích gắn liền với sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước cũng như của tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Lịch sử ghi lại: Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngôi chùa được cán bộ Việt Minh làm chốn đi về, gặp gỡ, bàn chuyện đánh Pháp, đuổi Nhật, giành lại độc lập, tự do. Ngày 16-8-1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa quân chủ lực từ Cây đa Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) sang giải phóng thị xã Thái Nguyên. Khi đến Thái Nguyên, Đại tướng đã lựa chọn chùa Đán làm “đại bản doanh”, tập kết quân, dân, và làm “trụ sở” chỉ huy tiến đánh Nhật đang co cụm trong trung tâm thị xã. Tại đây, ngày 19/8/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc cùng đồng chí Trần Đăng Ninh và cán bộ chỉ huy bàn và thông qua kế hoạch tác chiến đánh Nhật trong tỉnh lị Thái Nguyên. Tối 19/8/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã triệu tập cuộc họp, gồm những cán bộ của Trung ương và Xứ ủy Bắc kỳ hoạt động trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên để thành lập Ban Tỉnh ủy lâm thời gồm 5 đồng chí, do đồng chí Ngô Nhị Quý làm Bí thư. 24 giờ cùng ngày, dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chi đội Quân Giải phóng xuất phát từ chùa Đán tiến vào tỉnh lị Thái Nguyên, cùng quân dân trong tỉnh lị bao vây quân Nhật, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Được biết, tháng 8-1998, Trong một lần về thăm Thái Nguyên Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trở lại Chùa Đán. Đại tướng trò chuyện với người dân trong vùng thân thiện. Đại tướng nói: “Lúc trước, khi bộ đội ta đến đây, dân làng Đán đã đùm bọc và giữ bí mật rất tốt cho quân cách mạng. Ngày nay dân làng Đán cần phấn đấu gương mẫu, đoàn kết, làm ăn giỏi như mong muốn của Bác Hồ”. Hôm ấy, Đại tướng đã trồng bên góc trái sân chùa một cây đa tri ân. Với những ý nghĩa lịch sử đó, Chùa Đán đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2011. Hiện nay, chùa không chỉ là nơi để tăng ni, phật tử và người dân thực hành tín ngưỡng mà còn là nơi giáo dục truyền thống cho các hệ hôm nay và mai sau. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 2141 lượt xem
Đền Đuổm tọa lạc dưới chân núi Đuổm thuộc xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 25km về phía Tây - Bắc. Đền Đuổm thờ Dương Tự Minh - một thủ lĩnh người Tày và là vị quan dưới triều Lý được giao cai quản phủ Phú Lương xưa (gồm các châu nay là đất thuộc các tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn). Ông cũng là một danh tướng có công lớn trong việc giành lại phần đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống, bảo vệ vững chắc vùng biên cương phía bắc Đại Việt. Ông còn có công khai khẩn điền địa, phát triển kinh tế, giữ vững mối đoàn kết dân tộc, được nhà Lý phong sắc “Uy viễn đôn Cao Sơn quảng độ chi thần”. Các triều đại về sau đều có sắc phong ông là “Cao Sơn quý minh thượng đẳng thần”. Với những công lao đóng góp cho đất nước dưới triều nhà Lý, ông được vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) gả con gái là công chúa Diên Bình vào năm 1127 và được vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) gả cho con gái là công chúa Thiều Dung vào năm 1144. Như vậy, ông là phò mã của hai đời vua nhà Lý. Sử sách không ghi rõ năm sinh, năm mất của Dương Tự Minh, chỉ biết ông sống vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII. Sau khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông ở núi Đuổm - tương truyền là nơi ông thác, và suy tôn ông là Thánh Đuổm. Đền Đuổm được xây dựng từ thế kỷ XII, đến nay đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính của kiến trúc truyền thống. Ngôi đền tọa lạc dưới chân núi Đuổm, có tam quan hướng ra quốc lộ. Các hạng mục chính gồm lầu chuông, đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, được bố trí dựa vào sườn núi theo thứ tự từ thấp lên cao. Đền Hạ là nơi thờ hai công chúa Diên Bình và Thiều Dung; đền Trung là nơi thờ danh nhân Dương Tự Minh, và đền Thượng là nơi thờ thân mẫu của ông. Phía trước đền là một không gian rộng lớn với cánh đồng, đồi cọ, đồi chè và con sông Cầu uốn khúc chảy qua. Tuy quy mô không lớn nhưng đền Đuổm là một quần thể kiến trúc đẹp, uy nghiêm, là danh thắng hàng đầu của vùng đất trung du Thái Nguyên. Đền Đuổm đã được xếp hạng Di tích quốc gia từ năm 1993. Hằng năm, từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Giêng, huyện Phú Lương lại tổ chức Lễ hội đền Đuổm để tưởng nhớ công lao của Dương Tự Minh. Hiện nay, đền Đuổm là điểm sáng về du lịch của huyện Phú Lương và tỉnh Thái Nguyên. Nguồn: Trang thông tin điện tử Thái Nguyên
Thái Nguyên 2088 lượt xem
668 , Phan Đình Phùng, Thành Phố Thái Nguyên, Thái Nguyên, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thái Nguyên
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ