Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Các danh thắng chùa Ông Mẹt, Phước Minh cung, Lầu bà cố hỷ, chùa Giác Linh… là những di tích lịch sử tại Trà Vinh cấp quốc gia mà du khách có thể ghé thăm. Khám phá rõ hơn các di tích này nhé!
Trà Vinh sở hữu vẻ đẹp sông nước hữu tình, kết hợp nét văn hóa ngày xưa và phát triển ngày nay. Nơi đây sở hữu nhiều di tích lịch sử văn hóa như đền thờ Bác Hồ, Chùa Giác Linh, Chùa Ông Mẹt… Hãy cùng 63Stravel khám phá 14 điểm di tích lịch sử tại Trà Vinh để có chuyến du lịch miền Tây thú vị nhất nhé!
Cùng theo dõi list 12 điểm di tích lịch sử tại Trà Vinh nổi tiếng để có một cuộc hành trình đến miền Tây sông nước đầy khám phá nhé!
Chùa Bodhiculàmani (hay còn gọi là chùa Ấp Sóc) được xây dựng từ khoảng năm 1541. Chùa Ấp Sóc là một trong những ngôi chùa Khmer tiêu biểu với kiến trúc đặc trưng của Nam Bộ và hơn 400 năm lịch sử. Đây không chỉ là trung tâm tôn giáo và văn hóa của cộng đồng Khmer mà còn là điểm tựa vững chắc trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Di tích Chùa BODHICULÀMANI (Chùa Ấp Sóc)
Trong thời kỳ kháng chiến, chùa đã là nơi bảo vệ nhiều cán bộ cách mạng và tích cực vận động bà con đóng góp tài chính, lúa gạo và thậm chí hiến cây dầu và dụng cụ chế tạo vũ khí. Các sư sãi và Phật tử của chùa cũng tham gia nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền tự do và dân chủ.
Với những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và công tác xã hội, chùa Ấp Sóc đã được Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Trà Vinh tặng Giấy khen và sư cả Thạch Yên được Chủ tịch nước trao Huân chương Kháng chiến hạng II. Ngày 03/03/2009, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận chùa Bodhiculàmani là Di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 834/QĐ-BVHTTDL. Đây là minh chứng cho vai trò quan trọng của chùa trong lịch sử và văn hóa địa phương.
Chùa Ông Mẹt, hay còn gọi là Bodhisàlaraja, nằm tại phường 1, thành phố Trà Vinh. Trước đây, chùa được biết đến với tên gọi Wat Kompong, nghĩa là "Chùa Bến", do vị trí gần bến đò và các con rạch. Tên gọi mới, Bodhisàlaraja, kết hợp từ "Bodhi" (Phật), "Sàla" (cây sala thiêng của người Khmer) và "Raja" (Vua), biểu thị sự giác ngộ và sự sống trường tồn của cộng đồng nơi đây.
Nằm ở trung tâm thành phố, chùa Ông Mẹt không chỉ là một ngôi chùa lớn mà còn là trung tâm Phật giáo Khmer của tỉnh Trà Vinh. Chùa kết nối với các ngôi chùa Khmer trong tỉnh và khu vực miền Tây Nam Bộ, đồng thời là trụ sở Văn phòng Trị sự Phật giáo Khmer thuộc hệ phái Mahanikay. Với diện tích gần 1,3 ha, chùa không chỉ nổi bật với kiến trúc độc đáo mà còn đóng vai trò quan trọng trong giáo dục và phát triển văn hóa dân tộc Khmer.
Vãn cảnh Chùa Ông Mẹt ở Trà Vinh
Cổng chùa Ông Mẹt là một kiệt tác nghệ thuật với 8 trụ cột nâng đỡ mái, được chạm khắc hình chim thần Kâyno và cặp rắn bảy đầu. Bước vào chánh điện, du khách sẽ thấy 32 trụ cột gỗ quý trang trí tinh xảo và bức tượng Đức Phật Thích Ca lớn, nổi bật với thiết kế mái chánh điện giống như đàn rồng uốn lượn. Thư viện chùa được xây dựng theo lối kiến trúc nhà sàn gỗ truyền thống và lưu giữ nhiều tài liệu cổ quý giá.
Chùa Ông Mẹt đã đóng góp đáng kể vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa Khmer, góp phần đấu tranh chống lại chính sách "ngu dân" của thực dân Pháp và thúc đẩy quyền học tập cho cộng đồng. Ngôi chùa cũng là trung tâm văn hóa cộng đồng, ứng dụng khoa học kỹ thuật và nghệ thuật vào đời sống. Năm 2009, chùa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia và là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo.
Chùa Phnô Om Pung (còn gọi là chùa Long Trường) được xây dựng vào năm 1868 trên khuôn viên rộng 25.000 m². Đây là một trong những ngôi chùa Khmer nổi bật với kiến trúc đặc trưng và được xem là biểu tượng của xã Tân Hiệp.
Ban đầu, chùa được xây dựng trên một diện tích nhỏ. Vào năm 1928, nhờ sự dâng đất của gia đình ông Thạch Saray và bà Thạch Thị Em cùng sự đóng góp của cộng đồng Khmer, chùa đã được mở rộng thành Trung tâm Văn hóa của người Khmer trong vùng. Trải qua 48 đời trụ trì và nhiều lần trùng tu, lần đại trùng tu gần đây nhất vào năm 2005, hiện nay chùa do Đại đức Thạch Sa Vane trụ trì.
Di tích lịch sử chùa PHNÔ OM PUNG (SIRIVANSARÀMA) xếp hạng Di tích cấp tỉnh
Không chỉ là trung tâm tôn giáo, văn hóa, giáo dục, chùa Phnô Om Pung còn nổi bật với vai trò trong cuộc đấu tranh chống sự đàn áp của Đế quốc Mỹ và chính quyền VNCH trong thời kỳ chiến tranh. Chùa đã nuôi dưỡng nhiều chiến sĩ cách mạng kiên cường, bao gồm Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Thạch Ngọc Biên. Được báo Đảng tôn vinh là "Ngôi chùa Khmer giàu truyền thống cách mạng", chùa hiện đang được tiếp tục tu bổ nhờ sự đóng góp của Phật tử và kiều bào.
Chùa Phnô Om Pung nổi bật với bức tượng Phật nằm dài và cao, thu hút nhiều du khách. Đồng thời, chùa còn là nơi tổ chức các lễ hội truyền thống như Chol Chnam Thmay, Bun Pchum Ben, Ok Om Bok và Kathina, góp phần duy trì và phát huy giá trị văn hóa và tinh thần của người Khmer. Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Trà Vinh đang tiến hành sưu tầm tư liệu để đề nghị UBND tỉnh xếp hạng chùa là di tích cấp tỉnh trong thời gian tới.
Chùa Bào Môn (hay còn gọi là chùa Đom Bon Bak) nằm ở khu vực chiến lược giáp ranh ba huyện Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đây là vùng chiến sự ác liệt, nơi địch lợi dụng tôn giáo để chia rẽ đồng bào và chống phá cách mạng.
Ngay từ khi Chi bộ xã Đôn Châu được thành lập, chùa Bào Môn đã trở thành cơ sở hoạt động cách mạng quan trọng. Bí thư Chi bộ Trần Văn Khôi và sư cả Kim Nhiêu Kem đã chọn chùa làm nơi nuôi chứa cán bộ và tổ chức hoạt động chống địch, vận động các nhà sư thành lập Ban Tăng sự yêu nước tỉnh.
Di tích Chùa Bào Môn
Trong giai đoạn 1946-1950, các lớp học tại chùa do ông Tăng Khê và ông Ngà tổ chức đã tuyên truyền đường lối cách mạng và giáo dục thanh niên. Năm 1951, sư cả Kim Nhiêu Kem đã cứu chữa và mai táng các cán bộ bị địch bắn chết, đồng thời che giấu tài liệu và cán bộ cách mạng.
Trong kháng chiến chống Mỹ, chùa tiếp tục là cơ sở cách mạng với nhiều hầm bí mật. Sự kiện biểu tình ngày Đôn-ta năm 1960 tại chùa Bào Môn đã gây tiếng vang lớn, yêu cầu thả người yêu nước và đòi tự do. Địch đã phản ứng mạnh mẽ nhưng không ngăn cản được phong trào.
Cuối năm 1968, chùa Bào Môn bị bao vây, nhưng sư cả Kim Nhiêu Kem đã khéo léo thuyết phục địch không tấn công. Tháng 9/1974, chùa còn đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập tình báo và chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng.
Chùa Bào Môn đã đóng góp nhiều cho cuộc kháng chiến, với hàng chục lượng vàng, ngàn giạ lúa và nhiều vật dụng. 25 vị sư và phật tử đã anh dũng hy sinh. Sư cả Kim Nhiêu Kem được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Chùa được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh theo quyết định số 1022/QĐ-UBND ngày 10/6/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Chùa Âng còn gọi là Chùa Angkorajaborey nằm gần danh thắng Ao Bà Om và Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer. Đây là một trong những di tích lịch sử quốc gia, nổi bật với vẻ đẹp cổ kính và kiến trúc đặc sắc của người Khmer Nam Bộ.
Ngôi chùa được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 và trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Dù vậy, chánh điện của chùa vẫn giữ nguyên được vẻ đẹp nguyên sơ từ những ngày đầu. Kiến trúc của chùa gây ấn tượng với các tòa tháp vươn cao, tạo nên vẻ trang nghiêm và lôi cuốn. Khuôn viên chùa rộng khoảng 3,5 ha, bao quanh bởi cây cổ thụ như sao, dầu, tre và trúc, cùng với hào nước rộng 4m và dài hơn 400m, tạo nên không gian xanh mát và thanh bình.
Chùa Âng - Ngôi chùa Khmer cổ tuyệt đẹp ở Trà Vinh
Chánh điện của chùa, hay Preah Vihear, dài 36m và rộng 24m, xây dựng bằng đá xanh với nền cao 2m, bao quanh bởi dãy hành lang rộng. Mái chánh điện lợp ngói và hệ thống cột bằng gỗ quý. Trong chánh điện, các bức tranh và tượng Phật phản ánh tư tưởng Phật giáo và cuộc đời của Đức Phật Thích Ca.
Chùa Âng không chỉ là điểm du lịch nổi bật ở Trà Vinh mà còn là nơi lưu giữ nghệ thuật điêu khắc tinh xảo với nhiều tượng thần, tiên nữ và chim thần, mang đậm bản sắc văn hóa và tôn giáo của đồng bào Khmer. Đến thăm chùa, bạn sẽ cảm nhận được không khí linh thiêng và hòa mình vào không gian tâm linh đặc biệt của chùa, đồng thời trải nghiệm vẻ đẹp truyền thống và hiện đại của thành phố Trà Vinh.
>> Tìm hiểu thêm: Top 9 điểm du lịch tại Trà Vinh đẹp “hút hồn” mọi du khách
Khu di tích lịch sử Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu là một trong những điểm di tích quốc gia quan trọng của tỉnh Trà Vinh. Nơi đây không chỉ là một địa chỉ giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ mà còn là điểm du lịch tiềm năng kết hợp với Khu du lịch Ba Động và điện gió, tạo nên một cụm văn hóa – du lịch liên hoàn của vùng biển Duyên Hải.
Khu Di tích lịch sử Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được công nhận là điểm du lịch cấp tỉnh
Bến Cồn Tàu với diện tích 5.843m², từng là căn cứ quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhờ vào địa thế thuận lợi và sự ủng hộ của nhân dân. Ngày 19/01/2004, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng di tích này là di tích quốc gia. Vào năm 2008, tỉnh Trà Vinh đầu tư hơn 1,7 tỷ đồng xây dựng bia lưu niệm và nhà trưng bày. Đến ngày 23/12/2015, Đình miếu Cồn Trứng và Lăng ông Cồn Tàu cũng được công nhận là di tích quốc gia thuộc hệ thống Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu.
Khu di tích hiện được quy hoạch trên diện tích 20.539m². Hàng năm, vào ngày 23/10, nơi đây tổ chức lễ kỷ niệm ngày đồng chí Hoàng Văn Thái ký quyết định thành lập Đội vận tải thủy 759, đánh dấu ngày truyền thống của Đoàn tàu không số. Bến Cồn Tàu không chỉ là minh chứng cho chiến thắng của nhân dân Việt Nam mà còn thể hiện lòng quả cảm, sự sáng tạo của các chiến sĩ trong điều kiện khó khăn. Chính sự ủng hộ của nhân dân đã giúp bảo vệ và xây dựng nên một bến cảng không có tiền lệ trong lịch sử, thể hiện tinh thần đoàn kết và yêu nước sâu sắc.
Chùa Phước Mỹ còn được biết đến với tên gọi chùa Cây Quăn hoặc chùa Bà Sở, là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời tại tỉnh Trà Vinh. Tên gọi "chùa Cây Quăn" xuất phát từ một cây quăn lớn trước đây bên bờ sông phía trước chùa, trong khi tên "chùa Bà Sở" vinh danh bà Phạm Thị Đồ hay còn gọi là Bà Sở - một lưu dân từ Gò Công đã thành lập chùa vào năm 1886.
Di tích Phước Mỹ (Chùa Bà Sở)
Ngôi chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng hơn 1 hecta, nằm cạnh sông Thâu Râu. Đối diện bên sông là Khu Căn cứ Tỉnh ủy (Khu Căn cứ Ấp 5, Mỹ Long) và cách chùa khoảng 500 mét về phía Nam là Khu Căn cứ Huyện ủy (Khu Căn cứ Rẫy Tiều). Ngôi chùa không chỉ có giá trị lịch sử và văn hóa, mà còn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kháng chiến trước đây.
Chùa Giác Linh còn được gọi là chùa Dơi hoặc chùa Bà Sở, nổi bật với tên gọi "chùa Dơi" do sự xuất hiện của nhiều loài chim, đặc biệt là loài dơi quạ, trong khuôn viên chùa trước đây. Được thành lập vào năm 1886 bởi bà Phạm Thị Đồ, còn gọi là Bà Sở - một lưu dân từ Gò Công.
Tọa lạc trên một khoảnh đất cao, bao quanh bởi cây cổ thụ như mã tiền, mù u, nhọc và tre, tạo nên một không gian u tịch và linh thiêng. Khi bước vào chùa, bên phải là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát lớn, biểu trưng cho lòng từ bi và cứu độ. Ngôi chùa không chỉ thờ Phật và các vị liên quan như Bồ Tát, La Hán, mà còn kết hợp thờ Khổng Tử, Lão Tử và các vị thần trong tín ngưỡng dân gian như Bà Chúa Xứ, Táo Quân, Cậu Tài, Cậu Quý, phản ánh sự hòa quyện giữa đạo và đời.
Chùa Dơi – Nơi linh thiêng mang cảm giác “rùng rợn”
Mặc dù, chùa không nổi bật về quy mô hay kiến trúc so với nhiều ngôi chùa khác, với bộ bao lam bằng gỗ sơn son thếp vàng là điểm đáng chú ý, chùa Giác Linh lại có một lịch sử cách mạng phong phú. Từ những năm đầu thế kỷ XX, đây đã là trung tâm hoạt động của các nghĩa sĩ yêu nước và tổ chức Thanh Niên Đỏ.
Trong giai đoạn kháng chiến, chùa là nơi hoạt động bí mật, vận chuyển vũ khí và tổ chức hội họp quan trọng. Năm 1998, chùa Giác Linh được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, mở cửa đón khách tham quan và là nơi để suy ngẫm về đạo lý và lịch sử.
Lầu Bà Cố Hỷ Ba Động, còn gọi là lầu Bà Ba Động hoặc lầu Bà Cố Hỷ Thượng Động Nương Nương, là một di tích văn hóa quan trọng của ngư dân Việt, đặc biệt phát triển ở Bình Thuận và Nam Trung Bộ. Tín ngưỡng thờ Bà Cố Hỷ được mang theo vào Nam từ nhiều thế kỷ trước cùng với các ngư dân.
Tọa lạc tại Trường Long Hòa và đã trải qua nhiều giai đoạn xây dựng. Ban đầu, cơ sở tín ngưỡng này chỉ là một cấu trúc đơn sơ bằng gỗ và lá dừa. Đến đầu thế kỷ XX, dân làng đã xây dựng lại bằng gỗ căm xe và mái ngói. Trong kháng chiến chống Mỹ, lầu Bà bị hư hại nặng nề và đã được xây dựng lại vào năm 2008 với kiến trúc khang trang.
Di tích Lầu bà Cố Hỷ Thượng Động nương nương
Lầu Bà có cấu trúc một trệt, một lầu. Tầng trệt thờ bà Chúa Xứ, cùng với án thờ các vị thần khác như cậu Tài, cậu Quý và Nam Hải Quốc gia (linh vị cá voi). Tầng lầu trên là gian thờ kín, với án thờ cốt tượng bà Cố Hỷ và các thần linh khác. Đặc biệt, bà Cố Hỷ tại đây được đồng nhất với Triệu Thị Trinh, nữ tướng lừng danh, phản ánh tinh thần yêu nước và cội nguồn dân tộc của cư dân Trường Long Hòa.
Ngoài giá trị tâm linh, lầu Bà còn có vai trò quan trọng trong lịch sử cách mạng, từng là nơi hội họp của Chi bộ Đảng và tổ chức Thanh niên Tiền phong trước khi khởi nghĩa tháng 8/1945. Trong cuộc kháng chiến, lầu Bà cũng là điểm trú quân của lực lượng Cộng hòa vệ binh. Lầu Bà Cố Hỷ Ba Động được công nhận là di tích Lịch sử – Văn hóa cấp tỉnh vào năm 2015.
>> Nên xem: Tổng hợp ảnh đẹp về những địa điểm du lịch Trà Vinh
Chùa Teakhinasakor Ta Lôn (còn gọi là chùa Cái Cối) được xây dựng vào năm 1816 và là một trong những ngôi chùa Khmer tiêu biểu ở Trà Vinh. Trong thời kỳ kháng chiến, chùa đã chịu nhiều thiệt hại do bom đạn, nhưng được sư sãi và phật tử sửa chữa nhiều lần, vẫn giữ được nét kiến trúc đặc trưng của chùa Khmer Nam Bộ.
Không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Khmer trong vùng mà còn là cơ sở hoạt động bí mật bảo vệ cán bộ cách mạng. Trong các cuộc kháng chiến, chùa đã đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi chứa và bảo vệ cán bộ cách mạng, đồng thời tổ chức lớp học cho sư sãi và trẻ em địa phương, tuyên truyền chính sách của Đảng. Nhiều cán bộ cách mạng đã được chùa nuôi dưỡng và bảo vệ, sau này đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong cơ quan Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh giá trị lịch sử, chùa Teakhinasakor Ta Lôn còn nổi bật với kiến trúc nghệ thuật chùa Khmer, đặc biệt là ngôi chính điện với nhiều tác phẩm mỹ thuật độc đáo. Quần thể kiến trúc của chùa bao gồm cổng chính, cổng phụ, chính điện, tăng xá, sala, trường học, cột cờ, tháp hỏa táng, tháp hài cốt và nhà Néak Tà.
Miếu Tiền Vãng (còn gọi là Miếu Tiên Sư) được xây dựng vào năm 1943 trên diện tích 16m² với cột và vách bằng gỗ quý, mái ngói cong và nền lát gạch. Được xây dựng nhờ sự quyên góp của ông Phạm Văn Lược và ông Vương Hảo Thuận, ngôi miếu thờ các giáo chức có công với sự nghiệp giáo dục tỉnh Trà Vinh. Bức hoành gỗ phía trước ghi “Ký ức bất vong” và bức bên trong ghi “Bách tiễn xuyên dương”, trong khi tấm bia cẩm thạch phía sau lưu danh 139 vị giáo chức người Việt, Khmer, Hoa và Pháp.
Di tích Miếu Tiền Vãng Xếp hạng Di tích cấp tỉnh
Được xếp hạng Di tích Văn hóa cấp tỉnh vào năm 2004 và là nơi tôn vinh và tưởng niệm các nhà giáo đã mất. Hàng năm, vào các dịp lễ lớn như ngày giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch), ngày 23 tháng Chạp, ngày khai giảng, tổng kết năm học và đặc biệt là Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), nhiều học sinh và giáo viên đến viếng và thắp hương tại miếu. Đây là nơi họp mặt của các thế hệ nhà giáo để bày tỏ lòng tri ân với các thầy cô đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và bảo vệ quê hương.
Đình Long Đức, còn gọi là Thành Hoàng Miếu, tọa lạc tại số 8 đường Phạm Hồng Thái, phường 2, thành phố Trà Vinh. Được xây dựng vào khoảng thập niên 1920-1930, đình Long Đức nổi bật với kiểu dáng kiến trúc truyền thống của đình làng Nam Bộ. Ngôi đình vẫn giữ nguyên vẻ đẹp kiến trúc cổ xưa với nhiều tác phẩm điêu khắc và hội họa đặc sắc, phản ánh đậm nét văn hóa dân tộc.
Di tích Đình Long Đức (Thành Hoàng Miếu)
Vào năm 2021, Đình Long Đức được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia với loại hình kiến trúc nghệ thuật. Đây là điểm đến hấp dẫn cho du khách và các nhà nghiên cứu muốn khám phá giá trị văn hóa và lịch sử của vùng đất Trà Vinh.
Phước Minh Cung, còn được gọi là Chùa Ông, là một di tích văn hóa nổi bật của cộng đồng người Hoa tại thành phố Trà Vinh. Xây dựng từ năm 1556, ngôi chùa được cải tạo và trùng tu nhiều lần, gần đây nhất vào các năm 1991 và 2000. Vào năm 2005, Phước Minh Cung được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia với loại hình kiến trúc nghệ thuật.
Thăm Chùa Ông Phước Minh Cung ở Trà Vinh
Khuôn viên chùa rộng hơn 800m², mang kiểu kiến trúc “nội công ngoại quốc” truyền thống Trung Hoa. Công trình chính gồm ba tòa nhà: tiền điện, trung điện và chính điện, cùng với hai dãy nhà tả điện và hữu điện, tạo thành hình chữ “Khẩu”. Toàn bộ các tòa nhà được lợp ngói âm dương nhiều tầng, diềm mái tráng men xanh ngọc, và cột kèo bằng gỗ quý.
Phước Minh Cung nổi bật với các chi tiết điêu khắc tinh xảo như hình tượng rồng, phượng và các biểu tượng văn hóa Trung Hoa trên cột và trụ. Tiền điện có ba cửa ra vào, với cửa chính được thiết kế kiểu ô hộc, trang trí với hình tượng các vị thần và phù điêu thể hiện các tích cổ Trung Quốc. Trung điện và chính điện tiếp tục giữ gìn phong cách mỹ thuật truyền thống, với đồ án Bát tiên kỵ thú và các bức hoành phi tinh xảo.
Đền thờ Bác Trà Vinh tọa lạc tại ấp Vĩnh Hội, xã Long Đức, cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 4 km về phía Bắc, là một khu di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia từ năm 1989. Với diện tích 5,4 ha, khu di tích bao gồm đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà trưng bày về Bác Hồ, khuôn viên cây xanh, ao cá và khu vui chơi cắm trại. Đặc biệt, nơi đây có mô hình nhà sàn Bác Hồ được thiết kế gần giống với nhà sàn tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, tạo điểm nhấn nổi bật cho di tích.
Đền thờ Bác Hồ Trà Vinh - Địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng
Tổng hợp 14 điểm di tích lịch sử tại Trà Vinh giúp mọi người có một kế hoạch khám phá miền Tây. Mong rằng, các thông tin sẽ có ích với bạn đọc giúp mọi người có một chuyến đi du lịch ở miền Trà Vinh thật thú vị!
Nằm cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 5 km, Ao Bà Om hiện là một trong những địa điểm nổi tiếng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, khám phá. Mang trong mình nét đẹp thiên nhiên hoang sơ, mộc mạc - Ao Bà Om đem đến cho bạn cảm giác gần gũi, thân quen vô cùng. Với chiều dài 500m, chiều rộng 300m, ngạc nhiên và bất ngờ là những ấn tượng đầu tiên mà Ao Bà Om mang lại cho du khách khi đến thăm nơi này. Nghe đến ao, hầu hết các bạn sẽ nghĩ nó nhỏ bé, nhưng thật sự Ao Bà Om rộng như một cái hồ. Bốn bề xung quanh là những rặng cây cổ thụ lâu năm như cây dầu, cây sao. Mặt hồ yên ả, nước trong veo kết hợp với màu xanh mướt của cỏ cây tạo nên một bức tranh phong cảnh quê hương bình lặng, hữu tình. Những cây sao, dầu sống lâu năm có một phần rễ đã bén sâu trong lòng đất, một phần rễ nổi lên trên tạo thành nhiều hình thù khác nhau. Rất nhiều rễ to lớn trở thành ghế ngồi của khách dừng chân, hay những cái hang để trẻ con vui đùa. Chiều về, khi hoàng hôn dần buôn xuống, Ao Bà Om thực sự là nơi dạo chơi lý tưởng ở Trà Vinh. Những cây cổ thụ cao vút che mát cả một vùng trời, tựa lưng vào thân cây hay nằm dưới bãi cỏ ngắm nhìn cảnh quan, đất trời. Nhìn bọn trẻ con tung tăng nô đùa, đạp xe vòng quanh lòng bỗng yên bình đến lạ. Vào các dịp lễ, khi màn đêm bao trùm, những chiếc đèn được thả đầy mặt nước, biến Ao Bà Om lung linh, huyền ảo mà đẹp đến nao lòng. Nhiều loại đèn với đủ đầy các kích cỡ được thả tung lên trời mang theo ước mong vạn vật yên bình, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Ngoài thăm thú cảnh vật, dạo mát thì đến với Ao Bà Om du khách còn được thưởng thức những món ăn ngon như bánh thốt nốt, bánh canh, bún mắm, … ở khu chợ nhộn nhịp hai bên đường dẫn vào ao, hoặc những món ăn, thức uống mang đầy hương vị tuổi thơ như đá bào, cá viên chiên, … qua những gánh hàng rong, xe bán đồ ăn vặt quanh đó. Những món ăn bình dị với giá cả phải chăng là điều mà nhiều khách tham quan thích thú khi đến đây. Để lại sự ồn ào, tấp nập của phố thị, để lại tiếng người, tiếng còi xe chen chúc nhau trên đường, cùng tìm về với Ao Bà Om để cảm nhận sự thanh bình nơi làng quê, hít thở không khí trong lành, hòa mình với thiên nhiên. Đây sẽ là một trải nghiệm đáng nhớ với mỗi du khách.
Trà Vinh 1941 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm riêng một góc bên bờ Đông của tỉnh Trà Vinh, giữa hai cửa biển Cung Hầu và Định An, cầu nối giữa đất liền và biển Đông rộng lớn, biển Ba Động được xem là một trong những bãi biển đẹp nhất Đồng bằng sông Cửu Long. Bãi biển là khu vực trực thuộc xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Sở dĩ vùng biển này được gọi là Ba Động vì khi thủy triều lên xuống, trên bãi biển hình thành ba cồn cát, người dân ở đây gọi cái tên thân thương là Ba Động, tức động cát. Ba Động có bờ biển trải dài hơn 10km cùng bầu không khí trong lành, mát mẻ đặc trưng của miền biển Nam Bộ. Là một trong những bãi biển hiếm hoi của vùng Tây Nam Bộ vẫn giữ được màu nước trong vắt dù thượng nguồn sông Mê Kông hằng năm đổ về lượng phù sa rất lớn, du lịch biển Ba Động hiện đang là lựa chọn số 1 của bà con miền Tây khi có nhu cầu đi chơi biển trong phạm vi gần. Đặc biệt, nơi đây ngày càng thu hút được nhiều du khách phương xa trong hành trình tìm hiểu và khám phá xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh. Với những vẻ đẹp khác biệt mà thiên nhiên ưu ái ban tặng, không có gì ngạc nhiên khi biển Ba Động được khai thác du lịch và nghỉ dưỡng ngay từ thời thuộc địa. Người Pháp sau khi sang Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động du lịch phục vụ người bản xứ như xây dựng khu nghỉ mát ven biển (nay là địa danh Nhà Mát), mở sân golf (nay là địa danh Cồn Cù). Sau giai đoạn chiến tranh ác liệt, người Pháp rút khỏi Việt Nam, tỉnh Trà Vinh được thành lập, các quan chức của tỉnh tiếp tục cho triển khai và đẩy mạnh du lịch tại đây, đưa Ba Động trở thành điểm nghỉ dưỡng lý tưởng bậc nhất miền Tây. Vốn có bãi biển kéo dài cùng bờ cát nhấp nhô sóng gợn, hai bên là hàng phi lao xanh mát, đi dạo dọc bờ biển vào các thời điểm bình minh hay hoàng hôn sẽ là một trải nghiệm thật chill. Khác với màu trong xanh khi trời đứng bóng, hoàng hôn và bình minh tại biển Ba Động lại khoác lên mình bộ áo đỏ rực, quyến rũ và ấm áp. Xa xa ngoài khơi tô điểm thêm một vài tàu thuyền đánh cá giữa mênh mông sóng nước sẽ khơi gợi lên cảm giác bình yên trong lòng người lữ khách. Du lịch biển Ba Động mà không hòa mình vào dòng nước trong vắt nơi đây thì xem như chưa đặt chân đến. Bãi biển này có ưu điểm là bờ cát nông, những con sóng rất nhỏ, lăn tăn, không có sóng lớn và hiệu ứng chảy ngược ra ngoài khơi nên rất an toàn. Du khách có thể thỏa sức đắm mình vào thiên nhiên tươi mát mà không cần lo lắng về sự cố. Do đặc tính bãi biển bình yên nên các môn thể thao dưới nước khá được ưa chuộng tại đây. Du khách có thể dễ dàng tìm các dịch vụ cho thuê mô tô nước và trải nghiệm cảm giác thú vị mà bộ môn này mang lại. Dù là mô hình mới xuất hiện khoảng thời gian gần đây nhưng chất lượng dịch vụ thì hoàn toàn không thua kém các bãi biển xinh đẹp khác. Sẽ thật thiếu sót khi du khách bỏ qua việc ghé thăm cánh đồng Điện gió Hàn Quốc. Đây được xem là biểu tượng hot nhất của biển Ba Động và của cả tỉnh Trà Vinh. Du khách có thể diện những bộ cánh thật đẹp, mang theo máy ảnh, đi dọc theo cầu vàng nối liền các nhịp tua-bin gió và mang về bộ hình sống ảo siêu xịn. Vẻ đẹp hòa hợp giữa tự nhiên và nhân tạo nơi đây tạo nên khung cảnh siêu ấn tượng mà du khách nhất định không thể bỏ lỡ. Loại hình du lịch mạo hiểm này đang được giới trẻ cực kỳ yêu thích. Với hoạt động này, du khách sẽ theo tàu đánh bắt ra biển, nơi đóng các đáy hàng khơi, trải nghiệm cuộc sống của một ngư dân thực thụ. Ngoài việc giúp du khách có được cái nhìn mới mẻ hơn về cuộc sống khơi xa, giải tỏa mọi căng thẳng, lo âu ở thành phố, hoạt động này còn giúp mọi người hiểu thêm về hiện thực cuộc sống gian khổ của ngư dân, biết trân quý thêm những thành quả lao động có được từ việc đối mặt với đầu sóng ngọn gió.
Trà Vinh 2079 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cù lao Tân Quy có một phần diện tích thuộc huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh và một phần thuộc huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long nổi tiếng là cù lao xanh, cây trái trĩu cành tạo nên nét đẹp rất đặc trưng của miệt vườn sông nước Miền Tây. Cù lao Tân Quy nằm ở xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, cách thành phố Trà Vinh khoảng hơn 45 km về phía Tây Bắc. Để đến với cù lao Tân Quy bạn chỉ mất khoảng 10 phút để đi đò ngang từ vàm Bến Đình. Tuy nhiên, nếu bạn muốn được nhìn ngắm toàn cảnh thiên nhiên và chiêm ngưỡng cảnh đẹp hai bên bờ cù lao Tây Quy, có thể chọn xuất phát từ vàm Bến Cát. Ngoài ra, du khách đến thăm Cù lao có thể ngồi trên những chiếc canô lướt trên dòng sông Hậu để tận hưởng không khí mát lành, sảng khoái. Cù lao Tân Quy được hình từ nửa đầu thế kỷ 19 khi những cư dân đầu tiên vượt sông đến đây để dựng làng, lập ấp. Sau đó, đã đặt tên cho nơi này là làng Tân Vinh. Đến đầu thế kỷ 20, khoảng sau năm 1920 thì nơi đây lại được đổi tên mới là cù lao Tân Quy cho đến tận ngày nay. Cù lao Tân Quy nằm trong vùng đầu nguồn nên quanh năm có nước ngọt, màu mỡ phù sa… trở thành một vùng chuyên canh cây ăn trái với đủ loại trái cây đặc trưng của Nam Bộ như: măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, dâu, nhãn tiêu da bò… Đặc biệt măng cụt Tân Quy đang được ưa chuộng trên thị trường trong và ngoài nước bởi chất lượng cao và sản lượng ổn định. Măng cụt Tân Quy chứa đầy đủ vị chua, ngọt thanh, như cân bằng được tất cả các vị giác trên lưỡi người thưởng thức. Bất cứ ai ăn trái măng cụt này rồi sẽ hiểu vì sao nó được mệnh danh là “nữ hoàng trái cây”. Mùa trái cây chín từ tháng 4 – 6 âm lịch, cả dải đất cù lao trở thành khu trưng bày các loại trái cây đặc sản khổng lồ, du khách dễ dàng tìm gặp bên đường hay vào tận vườn tham quan những loại trái cây đặc sản xứ này. Người dân cù lao nổi tiếng hiếu khách. Đến nhà nào, khách cũng được mời những đặc sản có trong vườn nhà. Đi dạo dưới những tán lá vườn cây trĩu quả thơm lừng trái chín, du khách sẽ vô cùng thích thú khi thấy những trái sầu riêng đang đong đưa trên cành, những hàng chôm chôm, nhãn thẳng tắp với tán xòe rộng đang trĩu quả, cùng những hàng măng cụt nghiêng mình soi bóng. Đến đây sự mệt mỏi dường như tan biến bởi không khí mát mẻ, gió sông nhè nhẹ, bóng cây râm mát tạo cảm giác thư thái dễ chịu. Không chỉ biết tạo thu nhập từ vườn cây ăn trái, những năm gần đây, khi nhận thấy khách du lịch Trà Vinh đến tham quan, tìm hiểu về xứ Cù lao ngày càng đông, một số hộ dân đã cải tạo lại khu vườn để mở thêm dịch vụ du lịch miệt vườn, trở thành điểm đến ghé thăm, vui chơi của nhiều du khách gần xa. Các khu du lịch sinh thái cù lao Tân Quy đã dựng sẵn những căn chòi lá hay những chiếc võng được thiết kế độc đáo tại một góc vườn để du khách ngồi nghỉ ngơi sau khi đi dạo và thưởng thức trái chín. Sau đó, du khách còn được biết đến nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng ở Cù lao như: lẩu cá bông súng, lẩu gà nấu lá giang, mực xào cải, tôm sú nướng… Ngoài được tận hưởng một không khí trong lành, thơ mộng, thưởng thức hương vị thơm ngon của trái cây miệt vườn. Du lịch Trà Vinh, đến đây bạn còn sẽ thích thú hơn khi được tận hưởng với cảm giác đi xe đạp, tắm sông, chèo thuyền ngắm sông nước, vườn cây trái nối tiếp nhau xanh ngút ngàn hay xuống thuyền phiêu lưu một chuyến “săn cá Bông lau” cùng với người dân xứ vườn nhiệt tình, hiếu khách.
Trà Vinh 1911 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu du lịch sinh thái Rừng Đước thuộc địa phận xã Long Khánh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Địa điểm du lịch miền Tây này nằm trong hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển Tây Nam Bộ. Đây là nơi bảo tồn, sinh sống của nhiều loài động, thực vật hoang dã cùng các loài thủy sản đang có nguy cơ tiệt chủng cao. Người dân địa phương gọi là rừng đước vì loài cây này bao quanh toàn bộ khu sinh thái với hơn 20 năm tuổi đời và trải rộng trên diện tích khủng lên đến hơn 200 hecta. Rừng đước nằm không quá xa trung tâm tỉnh Trà Vinh, chỉ cách khu du lịch Ba Động nổi tiếng chỉ khoảng 7 km nên khá thuận tiện cho việc đi lại của du khách. Khu rừng này có nhiều loại cây đặc trưng của hệ sinh thái ngập mặn như đước, mắm, chà là gai, vẹt... trong đó chiếm số lượng nhiều nhất là cây đước. Đây là loại cây vừa có tác dụng ngăn chặn sự xâm nhập của nước biển vào đất liền vừa là nơi sinh sống của nhiều loại động vật đặc trưng của rừng ngập mặn. Vì vậy mà khu du lịch kiêm khu bảo tồn này có giá trị sinh thái cao. Hơn thế nữa, cánh rừng đước rộng khoảng hơn 200 ha còn nằm trong hệ thống rừng ngập mặn ven biển Tây Nam Bộ nên được nhà nước chăm sóc và bảo tồn khá cẩn thận. Trà Vinh chỉ nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 170k nên du khách có thể đi đến khu du lịch Rừng Đước thuộc địa phận tỉnh này bằng xe máy hoặc xe khách. Cách di chuyển cụ thể như sau: Đi bằng xe máy: Xuất phát từ Sài Gòn, bạn đi tới Bình Chánh rồi rẽ vào Quốc lộ 1 và tiếp tục đi theo hướng đi qua cầu Bến Lức đến thành phố Tân An của tỉnh Long An. Từ đây, du khách đi tiếp đến thành phố Mỹ Tho, dọc theo quốc lộ 60 qua cầu Hàm Luông là sẽ đến với huyện Mỏ Cày. Tiếp tục rẽ vào Quốc lộ 53 và đi thẳng là sẽ tới thành phố Trà Vinh rồi đấy. Từ trung tâm thành phố, bạn chỉ cần đi khoảng 51km nữa là tới được khu du lịch Rừng Đước. Đi bằng xe khách: Hành trình khá đơn giản vì bạn chỉ cần ra bến xe miền Đông, chọn mua vé xe đi Trà Vinh với giá vé trên dưới 100.000đ/người. Khi đến bến xe thì bạn chọn cách di chuyển bằng taxi hoặc xe ôm là sẽ đến được địa điểm du lịch Trà Vinh hấp dẫn mang tên Rừng Đước rồi đấy. Trà Vinh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên cũng có khí hậu nhiệt đới ôn hòa đặc trưng của vùng này. Cũng như các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Trà Vinh quanh năm mát mẻ nên du khách có thể đến với khu sinh thái Rừng Đước, ao Bà Om, cù lao Long Trị, khu du lịch cồn Hô vào bất kỳ khoảng thời gian nào trong năm cũng được. Tuy nhiên, lời khuyên mà người bản địa thường dành cho du khách là nên lựa chọn đi vào mùa mưa vì đây là khoảng thời gian cây cối phát triển, khí hậu dễ chịu, các loài động vật cũng đa dạng hơn mùa khô. Cụ thể là từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, với lượng mưa lớn cùng mùa nước nổi kéo về thì thảm thực vật ở Rừng Đước phát triển mạnh mẽ thu hút rất nhiều loài động vật về đây sinh sống, kiếm ăn và sinh sản. Khi check in Rừng Đước Trà Vinh, du khách tha hồ trải nghiệm vui chơi, tham quan, khám phá mà nổi bật nhất là các hoạt động sau: Du ngoạn rừng Đước bằng đường bộ hoặc đường thủy: tùy vào sở thích và lịch trình mà bạn có thể chọn một trong hai cách tham quan nhưng khám phá sông nước và khu rừng bằng đường thủy thường được khách du lịch lựa chọn nhiều hơn vì nếu đi theo cách này bạn sẽ được len lỏi vào các bụi đước lớn, nhỏ, có cây đã hàng chục năm tuổi, mọc đan xen nhau phía dưới nhưng phía trên vẫn chừa lại khoảng không tạo thành một khoảng trời xanh ngát. Du khách tha hồ tận hưởng cảm giác thú vị và mới lạ khi từng chiếc xuồng máy lướt bồng bềnh giữa không gian trong lành của bạt ngàn cây cối, chim chóc và nhiều loài sinh vật đặc trưng khác của rừng cây - sông nước. Rừng Đước Trà Vinh cũng có sự đa dạng các loài động, thực vật như rừng ngập mặn Cần Giờ hay Năm Căn Cà Mau vì có nhiều nét tương đồng về khí hậu, thổ nhưỡng. Hệ động vật nơi đây thật sự phong phú với nào là kỳ đà, sóc,... rồi chồn, rắn hổ mang, vọp,... cùng nhiều loại tôm cá, thủy sản và nhiều loài chim đặc trưng của rừng ngập mặn. Đến với khu sinh thái, bạn sẽ cảm thấy như đang sống chậm lại, trải nghiệm cảm giác hòa mình hoàn toàn vào thiên nhiên, đất trời, tha hồ hít thở bầu không khí trong lành, mát mẻ của miền quê. Ngoài những hoạt động trên thì khi đến với khu du lịch Rừng Đước Trà Vinh, bạn còn có cơ hội nghe những câu hò đậm chất sông nước, thấm đẫm dư vị thôn quê của người dân địa phương. Khi ngồi trên những chiếc xuồng nhỏ lướt đi, đừng quên dành chút thời gian, trò chuyện và tìm hiểu về cuộc sống của người dân địa phương nữa nhé. Cảm giác được nghe những giai điệu mộc mạc, những lời nói chân quê, câu chuyện sinh hoạt đời thường của người dân vùng đất này giữa thiên nhiên mát mẻ và trong lành quả thật rất thú vị đấy. Có rất nhiều món ăn ngon, các đặc sản trứ danh đã làm nên tên tuổi của ẩm thực Trà Vinh. Vì vậy khi ghé thăm khu du lịch Rừng Đước nói riêng và Trà vinh nói chung bạn đừng bỏ lỡ trải nghiệm ăn bún nước lèo, bún suông, cháo ám, bánh canh Bến Có, các món làm từ con chù ụ, cá nướng mọi trên lửa đốt bằng đước khô, tép bạc tái chanh, cá nâu nấu lẩu chua với trái giác, nước mắm rươi,... Các món ăn được bán ở rất nhiều nơi nhưng du khách hãy ghé các quán ăn ngon ở Trà Vinh để thoải mái lựa chọn thưởng thức nhé.
Trà Vinh 2100 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh tọa lạc tại Phường 8, thành phố Trà Vinh, cách trung tâm tỉnh lỵ hơn 5 km về hướng tây nam, nằm trong quần thể khu văn hóa – du lịch, liên hoàn với di tích danh thắng Ao Bà Om, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Âng và Trung tâm Văn hóa – Thể thao tỉnh, rất thuận tiện cho học sinh sinh viên, người nghiên cứu văn hóa dân tộc và khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu. Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh là một khối nhà hai tầng, có diện tích sử dụng hơn 1.700 m2, được thiết kế xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hòa phong cách kiến trúc truyền thống dân tộc Khmer và hiện đại trong khuôn viên rộng 01 ha, có nhiều cây xanh rợp mát quanh năm. Bảo tàng hiện đang lưu giữ, trưng bày, giới thiệu hơn 800 hiện vật, hình ảnh, tài liệu phản ánh đời sống văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc Khmer Trà Vinh, từ truyền thống đến đương đại. Từ cổng bước vào là một khoảng sân rộng nhiều cây xanh, tạo cho khuôn viên Bảo tàng luôn có không khí yên tĩnh, tách biệt hẳn với sự ồn ã, huyên náo bên ngoài. Đây là sự chuẩn bị cần thiết cho khách tham quan, nhất là các nhà nghiên cứu sự tĩnh tâm cần thiết, trước khi tập trung tìm hiểu một cách toàn diện, sâu sắc về bản sắc văn hóa Khmer, thông qua các hiện vật, hình ảnh, tư liệu được trưng bày và giới thiệu. Trong khuôn viên, ở góc phía bắc là ngôi tháp an vị di cốt của một nhân sĩ, trí thức, nhà hoạt động cách mạng tiêu biểu của dân tộc Khmer Trà Vinh nói riêng, Khmer Nam bộ nói chung là Maha Sơn Thông (1910 – 1997). Sau khi du học và nhận bằng Maha (tương đương Cử nhân Phật học), ông tham gia cách mạng giai đoạn tiền khởi nghĩa, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Maha Sơn Thông trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Phó Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh; Khu ủy viên, Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng kiêm Trưởng Ban Khmer vận Khu Tây Nam bộ; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Phần lớn diện tích tầng trệt của tòa nhà Bảo tàng là sảnh trống dưới các chân cột có nhiều ghế đá để khách tham quan có thể ngồi nghỉ chân hoặc đi lại trao đổi những vấn đề văn hóa cần quan tâm. Cầu thang lên lầu được đặt ở vị trí chính giữa sảnh và bên dưới cầu thang là một hồ nước hình bán nguyệt xinh xắn, có nhiều cá cảnh tung tăng bơi lội, tạo cảnh quan vui tươi nhẹ nhàng. Một phần diện tích tầng trệt được chia thành các phòng làm việc của cán bộ, nhân viên Bảo tàng. Ở các vị trí này, người có trách nhiệm dễ dàng quan sát mọi hoạt động cũng như sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu hướng dẫn, giới thiệu đối với khách tham quan. Phần còn lại là Phòng Trưng bày truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Khmer Trà Vinh giai đoạn tiền khởi nghĩa, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trà Vinh 1837 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đến Trà Vinh không thể không nhắc đến những ngôi chùa Khmer độc đáo của đồng bào nơi đây. Trong đó nổi bật nhất là chùa Vàm Ray được xây dựng lại từ nền ngôi chùa cũ hơn 600 năm tuổi bị tàn phá trong chiến tranh. Dù xây mới nhưng vẫn mang nét cổ kính truyền thống của Phật giáo Nam tông Khmer. Chùa Vàm Ray tọa lạc tại ấp Vàm Ray, xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh cách thành phố Trà Vinh khoảng 35km. Du lịch Trà Vinh, để đến chùa Vàm Ray từ thành phố Trà Vinh đi theo quốc lộ 54 đến Tập Sơn rẽ trái vào quốc lộ 53 đi Trà Cú. Đi quá Trà Cú chừng 3km, qua cầu Hàm Giang, lập tức rẽ phải, vào đường nhỏ là vào đến chùa Vàm Ray. Ngay từ ngoài nhìn vào, sự kỳ vĩ của ngôi chùa này khiến cho bất kỳ ai cũng có cảm giác choáng ngợp, như lạc vào một cung điện vàng nguy nga, rực rỡ. Màu vàng lấp lánh tỏa ra mọt nơi trong chùa từ vòm mái, tường, các cột trụ chống, đến cả những bức phù điêu, các bức tượng. Chùa Vàm Ray mang phong cách kiến trúc Angkor, một kiến trúc đặc trưng của người Campuchia. Chùa có bốn cổng và theo truyền thống của chùa Khmer, cổng chính và tòa chính điện quay về hướng Đông, tượng trưng cho con đường tu hành của Phật tử từ Tây sang Đông. Lối vào chùa Vàm Ray là chiếc cổng hoành tráng sơn màu mạ vàng, đỉnh cổng tạo hình những ngọn tháp nhọn chất chồng nhiều tầng, ẩn mình không gian cây xanh bao quanh khiến cổng chùa càng nổi bật. Giữa sân chùa Vàm Ray có một cột hình trụ cao vút được nâng đỡ bởi những cái cột cách điệu hình rắn thần Naga có 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ hội, tượng trưng cho việc Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn đã được đức Phật thuần hóa theo quan niệm của người Khmer. Giữa sân chùa Vàm Ray có một cột hình trụ cao vút được nâng đỡ bởi những cái cột cách điệu hình rắn thần Naga có 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ hội, tượng trưng cho việc Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn đã được đức Phật thuần hóa theo quan niệm của người Khmer. Bên trong chính điện được trang hoàng lộng lẫy với những bức tranh tường nhiều màu sắc, đậm chất văn hóa Khmer. Chủ để xuyên suốt của các tác phẩm là cuộc đời Đức Phật và giáo lý của nhà Phật. Không gian chính điện rộng cao thanh thoát và mát mẻ tạo sự thoải mái cho du khách khi đến tham quan cũng như các tín đồ đến hành lễ. Nhìn chếch về hướng Đông Nam của chính điện là tượng đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn có chiều dài 54m được đặt trên bệ tương đương một ngôi nhà 2 tầng. Toàn bộ tượng và bệ cũng được sơn phủ sơn son thiếp vàng. Đỉnh cao nghệ thuật của chùa Vàm Ray thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, như tượng đầu vị thánh bốn mặt Maraprum, nữ thần Kayno nửa người nửa chim, chim thần Marakrit… Không chỉ riêng chùa Vàm Ray, mà tất cả những ngôi chùa Khmer nói chung từ ngàn đời nay vẫn luôn là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư trong khu vực. Từ những ngày lễ thuần túy của Phật giáo đến những ngày Lễ, hội đặc biệt của người Khmer như: ChôlChnămThmây, Sêndôlta, Okombok, Lễ dâng y…đều được diễn ra tại chùa và gắn liền với các hình thức văn hoá truyền thống của dân tộc và các trò chơi dân gian, thu hút đông đảo du khách tới tham quan.
Trà Vinh 1838 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Trà Vinh là một trong những tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều người dân tộc Khmer sinh sống. Người Khmer rất sùng đạo Phật với các lễ hội phong phú, đa dạng, tạo nên một bản sắc đặc trưng cho văn hóa Khme. Khắp các làng xã, phum, sóc ở Trà Vinh đều có chùa chiền; mỗi ngôi chùa Khmer đều là một công trình nghệ thuật, trong đó không thể không nhắc đến Chùa Cò. Chùa Nodol – chùa Cò là một trong những địa điểm du lịch Trà Vinh nổi bật mà du khách không nên bỏ qua. Chùa Cò có tên thật là chùa Nodol, hay chùa Giồng nhưng người Khmer gọi là Wat Phnô Đôn vì chung quanh có nhiều dừa (tiếng Khmer Wat là chùa, Phnô là giồng cát, Đôn là cây dừa). Người dân quen gọi là chùa Cò vì hơn một trăm năm nay nơi này đã trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con chim cò các loại như: cò, cồng cộc, bồ câu… trong đó đông nhất là họ nhà cò với rất nhiều loại: cò trắng, cò quắm, cò đầu đỏ, cò đầu vàng, cò mỏ vàng, cò mỏ đen… Chùa Cò tọa lạc tại ấp Cây Da – xã Đại An – huyện Tà Cú, nằm cách Tp.Trà Vinh khoảng 40km về hướng Nam. Để đến với chùa Cò, từ trung tâm Tp.Trà Vinh, bạn chạy theo đường QL.54 đến với huyện Trà Cú, di chuyển tiếp về phía cảng Định An (một nhánh của sông Hậu) đến cổng chào xã Đại An, rẽ phía bên trái bạn sẽ bắt gặp cổng Chùa Cò bề thế với hoa văn, họa tiết sặc sở. Lịch sử chùa Cò ghi lại, chùa được xây dựng từ năm 1677. Trải qua hơn 300 năm tồn tại và phát triển, chùa Cò đã được trùng tu vô số lần lớn nhỏ. Cổng chùa được trùng tu vào năm 1968 và chánh điện được trùng tu năm 1944. Sau lần trùng tu gần nhất năm 2009 và 2012, chùa được hoàn thiện đưa vào sử dụng cho tới ngày nay Giống như những ngôi chùa Phật giáo khác trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, Chùa Cò có quần thể kiến trúc mang đặc trưng của chùa Khmer Nam Bộ. Bao gồm những công trình như cổng chùa, chánh điện, tháp đựng cốt, nhà tăng, nhà hội… được bài trí hài hòa trên một khuôn viên rộng lớn. Cổng chùa được trang trí với nhiều nét hoa văn trang trí khá độc đáo và nổi bật, thu hút ánh mắt ngay từ lần đầu tham quan. Khu chánh điện của chùa có lối thiết kế khá độc đáo với những mái uốn cong theo mô hình đuôi rồng, bên trên có những đỉnh tháp nhọn hình ngọn núi Xôme và những hình tượng quen thuộc với người Khmer như thần: thần bốn mặt Mohabrom, chim thần Kâyno, Riehu (Reahu), Mahaknốt… Không gian bên trong chính điện được bài trí rất trang nghiêm, vị trí cao nhất đặt bức tượng đức Phật Thích Ca có kích thước lớn, phía dưới là các tượng nhỏ hơn. Các vách tường trong điện được trang trí bằng nhiều bức tranh rất lộng lẫy, nhiều màu sắc, thể hiện các chủ đề Phật giáo khác nhau. Khuôn viên chùa Cò đều được bao bọc bởi những rặng tre xanh, những hàng cây sao, sầu đâu, cây dầu, rợp bóng, xa hơn nữa là những cánh đồng lúa xanh trải dài bất tận,… Ghé thăm chùa Cò vào lúc sáng sớm hay xế chiều, du khách được tận mắt chiêm ngưỡng cảnh từng đôi, từng đàn cò sải cánh bay đi kiếm ăn và về tổ sau một ngày vất vả kiếm ăn tạo ra một khung cảnh tuyệt đẹp trên bầu trời. Đến thăm chùa Cò bạn sẽ cảm thấy tâm hồn mình thư thái, tĩnh lặng, nhẹ nhàng hơn mọi vất vả, khó khăn, áp lực của cuộc sống đều tan biến hết. Khi tham quan chùa, bạn nên ăn mặc lịch sự, có thể thuê trang phục Khmer để vào chùa – đúng nghi thức của người Khmer và cũng là để có những bức hình sống ảo độc đáo.
Trà Vinh 1691 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc tới Trà Vinh, người ta nghĩ đến miền đất của những ngôi chùa Khmer cổ kính cùng những di tích lịch sử mang nhiều huyền thoại, gắn liền với hành trình khai phá phương Nam. Toàn tỉnh Trà Vinh có rất nhiều ngôi chùa Khmer, trong đó chùa Âng được xem là một trong những ngôi chùa lớn, tiêu biểu cho các ngôi chùa Khmer trong tỉnh. Chùa Âng, gọi theo ngôn ngữ Paly là Wat Angkor Raig Borei, tọa lạc tại Phường 8, thành phố Trà Vinh. Ngôi chùa nằm trong cụm danh thắng Ao Bà Om và bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer, là điểm nhấn nổi bật không thể bỏ qua trong bản đồ du lịch Trà Vinh. Từ xa nhìn vào, bạn sẽ thấy những tòa nhà trong chùa với lối kiến trúc hình tháp vươn thẳng lên trời, mang nét đẹp nguy nga, tráng lệ nhưng cũng không kém phần trang nghiêm. Theo sử sách thì chùa Âng được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 (năm 990) và được xây dựng qui mô như hiện nay vào năm Thiệu Trị thứ 3, tức năm 1842 theo dương lịch. Từ đó đến nay, ngôi chùa được trùng tu, sửa chữa nhiều lần, trong đó xây dựng mới các công trình phụ như nhà tăng xá, trai đường… nhưng ngôi chánh điện cơ bản vẫn giữ được nguyên trạng như buổi đầu mới hình thành. Như bao ngôi chùa Khmer khác trên địa bàn Trà Vinh, chùa Âng là một quần thể các công trình kiến trúc bao gồm tăng xá, giảng đường dạy chữ Paly và chữ Khmer… bao quanh ngôi chánh điện uy nghi. Ngôi chùa quay mặt về hướng đông, thể hiện tư tưởng Phật giáo là Phật Thích ca ở tây phương nhìn về hướng đông để độ trì chúng sinh. Cổng chùa Âng được trang trí bằng nghệ thuật điêu khắc rất kỳ công, tinh xảo với những tượng chằn, tiên nữ, chim thần theo mô típ truyền thống Khmer. Từ cổng chính vào là một lối đi rộng giữa hai hàng sao cổ thụ thân to, cao vút tạo ra thế uy nghiêm cho ngôi chùa. Lối đi ngang qua hào nước rộng bao quanh làm cho bầu không khí trong lành, dịu mát. Khuôn viên chùa rộng 4 ha với nhiều chủng loài thực vật đặc hữu trên đất giồng cát như sao, dầu, tre, trúc… trong đó có hàng trăm gốc sao, dầu cổ thụ quanh năm che mát ngôi chùa cổ kính. Trung tâm của ngôi chùa Khmer là ngôi chánh điện (Preah Vihea) thờ Phật, nơi hội tụ và phản ánh trình độ của các nghệ nhân đương thời về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc… Toàn bộ chánh điện được trụ đỡ bởi hệ thống 18 chiếc cột bằng gỗ quý. Bên trong chánh điện là một không gian rộng với 12 trụ cột được trang trí hình rồng, sơn son thếp vàng. Mái chánh điện chùa Âng được cấu tạo độc đáo, bao gồm ba cấp mái có màu sắc đẹp và hài hòa, trong đó hai mái trên cùng rất cao và dốc, tạo ra cảm giác linh thiêng mà người phật tử phải hết sức khiêm cung khi ngước nhìn. Hai đầu hồi được đóng kín bằng hai tấm gỗ hình tam giác chạm khắc rất công phu. Các gò mái có thần rắn Naga với mào cong vút, tượng trưng cho cầu nối giữa trần gian và cõi Niết bàn. Bốn bức tường chánh điện là những bức bích họa đặc sắc thể hiện tư tưởng Phật giáo, thông qua con đường tu hành của Phật Thích Ca. Trên trần là bốn bức bích họa hoành tráng thể hiện bốn giai đoạn trong cuộc đời Phật Thích Ca là Phật đản sanh, Phật xuất gia, Phật thành đạo và Phật nhập niết bàn. Bệ thờ Phật trong chánh điện chùa Âng cũng được các nghệ nhân thời ấy tập trung công sức thể hiện. Toàn bộ bệ là là một tòa sen với nhiều cánh đặt sau một lớp võng bằng gỗ chạm khắc rất tinh xảo với nhiều hình hoa lá, muông thú được sơn son thếp vàng. Cũng như các ngôi chùa Nam tông Khmer khác, chánh điện chùa Âng chỉ thờ duy nhất Đức Phật Thích Ca ở tư thế ngồi thiền định. Phía trước ngôi chánh điện là ngôi tháp chứa di cốt các vị sư cả trụ trì chùa qua các thời kỳ. Điều đặc biệt, đây là ngôi tháp năm ngọn duy nhất trong các ngôi chùa Khmer Trà Vinh. Tháp năm ngọn là sự ảnh hưởng tư tưởng Ấn Độ giáo về vũ trụ, thiên nhiên và con người. Trải qua gần hai thế kỷ vững vàng, uy nghi tồn tại trước tác động của thời tiết, mưa gió và thời gian, chùa Âng là niềm tự hào của đồng bào Khmer nói riêng, của cộng đồng các dân tộc Trà Vinh nói chung bởi các giá trị độc đáo mang tính đỉnh cao về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc đậm đà bản sắc văn hóa Khmer, có sự giao lưu nhất định với văn hóa Việt, Hoa, Ấn Độ, Thái Lan… Trong đời sống tinh thần của người Khmer, ngôi chùa không chỉ là nơi tu hành, thực hiện các lễ thức Phật giáo mà còn là nơi bảo tồn, truyền thừa các giá trị văn hóa truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với những giá trị vật chất, tinh thần lớn lao đó, Chùa Âng được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1994.
Trà Vinh 1834 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Trà Vinh nằm ở cuối cù lao, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là đất bằng phẳng với độ cao dưới 1m so với mực nước biển. Vì nằm ở vùng đồng bằng ven biển, có nhiều giồng cát chạy dọc theo bờ biển, tạo thành các đường cong song song. Các giồng càng gần biển càng cao và rộng hơn. Với sự chia cắt bởi các giồng và mạng lưới đường lộ, kinh rạch, địa hình Trà Vinh khá phức tạp. Có các vùng trũng xen kẹp giữa các giồng cao, và độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng. Đặc biệt, phần nam tỉnh có đất thấp, bị chia cắt bởi các giồng cát hình cánh cung thành nhiều vùng trũng nhỏ, với độ cao chỉ từ 0,5-0,8m. Do đó, hàng năm, vùng này thường bị ngập mặn trong khoảng thời gian từ 3-5 tháng. Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển, tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình từ 20 - 27 °C, độ ẩm trung bình 80 - 8000%/năm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. Mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, mùa khô từ tháng 12 - tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600mm, có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư sản xuất, kinh doanh và du lịch[4]. Hàng năm, hạn hán thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục từ 10 đến 18 ngày, trong đó các huyện như Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ khoảng tháng 6 và tháng 7 là quan trọng, trong khi các huyện còn lại như Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ nhưng tháng 7 và 8 thường nghiêm trọng hơn. Trà Vinh cũng gặp một khó khăn hiện nay đó chính là bị ngập mặn vào một số mùa khô trong năm.
Trà Vinh 3247 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cồn Chim là điểm du lịch Trà Vinh đề cao tinh thần bảo vệ môi trường và thu hút du lịch với nét đẹp văn hóa đậm chất miền Tây. Với khẩu hiệu “Về Cồn Chim, người quê chỉ có tấm lòng”, cách tiếp đón và đãi khách nơi đây khiến ai đã từng trải nghiệm qua đều không khỏi ấm lòng, trân quý.Cồn Chim là một trong những điểm du lịch Trà Vinh nổi tiếng, được ví như ốc đảo xanh yên bình. Nơi đây sở hữu mô hình thuận thiên góp phần bảo vệ môi trường, song song đó gìn giữ văn hóa mộc mạc, chân chất. Với khẩu hiệu “Về Cồn Chim, người quê chỉ có tấm lòng”, ốc đảo sinh thái mang lại trải nghiệm khám phá sông nước, miệt vườn đầy thú vị, thu hút khách du lịch gần xa. Tên gọi của cồn đất này khá đặc biệt, khi nhắc đến khiến người ta tưởng tượng ra một dải đất nằm giữa con sông lớn với đủ các loài chim. Trên thực tế, người dân thường đặt tên cho địa danh bằng vị trí địa lý và đặc điểm nổi bật. Và đúng như tên gọi, cù lao này là vùng đất mà các đàn chim bay về trú ngụ vào lúc chiều tối sau một ngày đi kiếm ăn. Vào ngày 9/1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh chính thức ra mắt điểm du lịch cộng đồng Cồn Chim, giúp cuộc sống kinh tế của người địa phương có sự cải thiện rõ rệt. Cồn đất ôm ấp hương vị thiên nhiên và giữ gìn nền văn hóa “sạch”, do đó thỏa mãn những đôi chân mỏi mệt muốn tìm về cuộc sống bình dị, an yên.Dù có kinh nghiệm du lịch Cồn Chim hay chưa, cách tiếp đón nồng hậu mà thân thiện, gần gũi của người dân địa phương vẫn khiến bạn cảm thấy ấm lòng như lần đầu ghé đến. Điều này đúng như câu khẩu hiệu tại Trung tâm sinh hoạt cộng đồng của ấp, đó là “Về Cồn Chim, người quê chỉ có tấm lòng”. Sau khi di chuyển qua cổng, khách du lịch sẽ được nhận một chiếc xe đạp để thuận tiện cho việc tham quan, ngắm cảnh. Đây là phương tiện giúp dễ dàng di chuyển trên con đường nhỏ, với hai bên là luống hoa mười giờ đua nhau khoe sắc. Dọc theo đó là cánh đồng lúa đang thì mạ non xanh rì, thoang thoảng hương thơm. Cho đến khi nhìn thấy những nếp nhà làm bằng lá dừa nước, hàng lu khạp da bò, sàn rửa chén cạnh bờ ao, chiếc xuồng ba lá neo đậu dưới gốc dừa… bạn biết ngay mình đã có mặt tại một làng quê Nam Bộ nào. Vì tất cả sự mộc mạc, chân phương và bình yên đến lạ này chỉ có thể tìm thấy tại nơi đó.Ngoài tham quan ngắm cảnh, hành trình du lịch Cồn Chim còn mang bạn trở về tuổi thơ với những trò chơi dân gian thú vị như u, ô ăn quan, chọi lon, nhảy dây… Tuy những trò này đều không mấy xa lạ đối với thế hệ 9X trở về trước, nhưng việc thỏa sức trải nghiệm chúng trong cuộc sống hiện đại là rất hiếm hoi. Bên cạnh đó, tại Cồn Chim còn có các hoạt động như câu cua, đua cua có thưởng giúp bạn hóa thân thành người nông dân của làng quê miền Tây. Cồn Chim là điểm du lịch Trà Vinh giúp tìm hiểu thêm về con người và nét đẹp văn hóa của vùng đất này.Hành trình khám phá miền Tây sông nước sẽ không thể trọn vẹn nếu bỏ qua cơ hội tham quan và vui chơi tại ốc đảo sinh thái Cồn Chim.
Trà Vinh 686 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Chùa Giác Linh tọa lạc trên một động cát cao thuộc ấp Nhứt A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Chùa Giác Linh còn gọi là chùa Dơi vì trước đây trong khuôn viên chùa có rất nhiều loài chim trú ngụ trên các cây cổ thụ trong đó có loài dơi quạ, cho nên bà con lấy đặc điểm này để gọi tên chùa. Bước vào cổng chùa, bên phải là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát khá lớn, đang mở lòng từ bi bát ái đem phép mầu nhiệm cứu độ chúng sinh. Đi thêm vài chục mét, ta sẽ gặp ngôi chùa. Chùa dựng trên một khoảnh đất cao, được bao quanh um tùm bởi nhiều loại cây: mã tiền, mù u, nhọc, tre tạo nên nét u tịch, linh thiêng. Vào trong chùa, ta sẽ nhận thấy được nét khác biệt của chùa Giác Linh với những chùa Phật khác. Bàn thờ Phật không bố trí tượng thờ theo thứ tự: Tam Thế Phật, Di Đà, Tam Tôn như ở những chùa Phật Đại thừa (Mahayana) thường có. Chùa không chỉ thờ Đức Phật cùng những vị liên quan đến Phật giáo: Bồ Tát, La Hán mà còn thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, và dung hợp cả tín ngưỡng dân gian: Bà Chúa Xứ, Táo Quân, Cậu Tài, Cậu Quí. Chính từ cách nghĩ của những nhà tu, cho nên phật tử không chỉ chú trọng việc đạo mà cả việc đời. So với những ngôi chùa khác về qui mô xây dựng, giá trị kiến trúc, điêu khắc thì chùa Giác Linh quả khiêm tốn. Chùa chỉ có bộ bao lam bằng gỗ sơn son thiếp vàng với đề tài tứ linh là đáng nói. Tuy nhiên, ngôi chùa thật giàu thành tích cách mạng. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, Linh Sơn Điện đã là tụ điểm hội họp, sinh hoạt của những nghĩa sĩ yêu nước chống Pháp trong tổ chức Thiên Địa Hội. Năm 1922, tổ chức Thanh Niên Đỏ của tỉnh được thành lập nơi đây, trong đó có đồng chí Dương Quang Đông. Rồi một trong ba Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Trà Vinh – Chi bộ Mỹ Long cũng chọn địa điểm này hội họp thường xuyên trong những năm đầu thành lập. Và trong cuộc biểu tình của 300 nông dân năm 1931 đòi dân sinh, dân chủ băng rôn, cờ búa liềm bay trên rào chùa. Đến năm 1934 – 1935, chùa lại được chọn làm trụ sở của cơ quan Liên Tỉnh uỷ Vĩnh – Trà – Bến. Giai đoạn cận Cách mạng Tháng 8 năm 1945, để nắm bắt thời cơ khởi nghĩa giành thắng lợi, ngôi chùa lại chứng kiến một cuộc họp trù bị nhằm củng cố lại Xứ uỷ, do đồng chí Dương Quang Đông triệu tập. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ni cô Phụng – một bậc chân tu của chùa đã dùng tiếng mõ làm tín hiệu triệu tập hoặc giải tán cán bộ cách mạng khi hội họp hay lẩn tránh lúc có động. Sang giai đoạn chống Mỹ cứu nước, ni cô Phụng trở thành ni sư trụ trì chùa, dưới sắc áo nhà tu đã che mắt bọn địch bằng những chuyến hành hương, để vận chuyển vũ khí cho tổ chức cách mạng. Những năm 1966 – 1967 chiến tranh ác liệt, mặt phía tây nam trong khuôn viên chùa có một hệ thống chiến hào dài hơn 300m được đào nhằm chống lại các cuộc hành quân, càn quét của địch. Cũng trong giai đoạn này, dựa vào sự tĩnh mịch của chốn tu hành, sự um tùm của cây cối, hàng chục hầm bí mật được đào trong khuôn viên chùa để cán bộ ẩn tránh. Đặc biệt, cả đại hồng chung cũng được nhà chùa hiến cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc. Năm 1970, địch đến đóng đồn sát rào chùa, nhằm khống chế cách mạng vùng Mỹ Long và cũng để theo dõi các nhà tu hành. Dù vậy, ni sư Phụng vẫn một lòng một dạ bám trụ chùa, để một năm sau ta đã công kích bọn chúng phải bỏ đồn rút chạy. Chùa Giác linh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 24/01/1998. Chốn Thiền môn bất cấm vô duyên khách này giờ đây luôn rộng cửa đón chúng ta đến suy ngẫm về đạo về đời. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh
Trà Vinh 1566 lượt xem
Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu thuộc ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Tháng 7/1959, để chi viện nguồn lực cho cách mạng miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập đơn vị vận tải quân sự trên biển – Đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125). Đến đầu năm 1961, Trung ương ra chỉ thị cho các tỉnh gồm Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau chuẩn bị bến bãi và tổ chức tàu thuyền ra Bắc để thăm dò đường vận chuyển vũ khí vào Nam. Tháng 9 năm 1962, đồng chí Phạm Thái Bường, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Cục miền Nam ra quyết định thành lập Đoàn 962 quản lý các bến tiếp nhận vũ khí các tỉnh. Bến Trà Vinh do đồng chí Lê Văn Sến (Năm Sến) – Phó chính ủy Đoàn 162 trực tiếp phụ trách. Thời gian này, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định chọn 2 xã ven biển là Trường Long Hòa và Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải (nay là các xã: Trường Long Hòa, Dân Thành thuộc thị xã Duyên Hải; xã Đông Hải, Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải) để mở bến tiếp nhận vũ khí. Cụm Bến 1 thuộc khu vực vàm Rạch Cỏ – La Ghi, cụm Bến 2 thuộc khu vực Phước Thiện, Hồ Tàu, Khâu Lầu, Láng Nước. Những khu vực này là vùng căn cứ cách mạng, luôn là mục tiêu tấn công của địch vì vậy việc che giấu, vận chuyển vũ khí vô cùng gian nan vất vả. Ngày 17 tháng 3 năm 1963, Bến Trà Vinh tiếp nhận chuyến tàu đầu tiên vào vàm Phước Thiện. Với địa thế sông ngòi chằng chịt, rừng ngập mặn nhiều cây thấp có thể cho tàu có trọng tải lớn ép vào để ngụy trang, con tàu đã được cất giấu an toàn. Tiếp đó là chuyến thứ hai vào vàm Láng Nước chở theo 70 tấn vũ khí. Từ năm 1963 đến 1966, Bến Trà Vinh đã đón 16 chuyến với 689 tấn hàng. Riêng Bến Cồn Tàu đón 10 chuyến, trong đó năm 1963 đón 4 chuyến, năm 1964 đón 6 chuyến. Tuy hoạt động chỉ trong thời gian ngắn, nhưng Bến Trà Vinh là một mắc xích quan trọng của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển và Bến Cồn Tàu là trọng tâm của mắc xích quan trọng ấy. Năm 2004, Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Đến năm 2010, Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được đầu tư xây dựng, đưa vào hoạt động với diện tích 1,2 ha gồm Bia tưởng niệm và Nhà trưng bày hình ảnh, hiện vật gắn liền với chiến công của quân dân Trà Vinh đối với tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến tham quan khu di tích, du khách có thể thắp nén hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh khi làm nhiệm vụ trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, tham quan Nhà trưng bày, nhìn Bia tưởng niệm vươn cao trong nắng mới như nhắc nhớ chiến công năm xưa và truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh
Trà Vinh 1509 lượt xem
Chùa Teakhinasakor Ta Lôn (Cái Cối) tọa lạc ở ấp Cái Cối, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Trong những năm kháng chiến, ngôi chùa không chỉ là cơ sở hoạt động bí mật, địa điểm nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng, mà còn là nơi xuất phát nhiều phong trào đấu tranh chính trị. Ngay từ khi Chi bộ xã Long Vĩnh được thành lập (04/9/1933), Chi bộ bàn với sư cả Triệu Minh Tên chọn chùa làm cơ sở hoạt động hợp pháp của cách mạng, tổ chức nuôi chứa, bảo vệ cán bộ và mở các lớp học cho sư sãi, con em trong vùng. Thông qua các lớp học này, ngoài việc học chữ, giáo lý các thầy còn tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Nghi ngờ chùa Ta Lôn là cơ sở của cách mạng, năm 1943, tiến hành lục soát ngôi chùa nhưng không phát hiện được gì, chúng tức giận cho đốt cháy ngôi chánh điện và một tăng xá. Hành động của địch càng làm tăng thêm nỗi căm hờn trong sư sãi, phật tử và quần chúng nhân dân nơi đây. Năm 1948, ngôi chùa một lần nữa bị địch đến lục soát. Cũng như lần trước, không tìm thấy chứng cứ tên Prụm Yên cầm đầu lại cho lính đốt ngôi chính điện. Sang thời kỳ chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Long Vĩnh, cơ sở cách mạng chùa Ta Lôn không ngừng phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất. Đầu năm 1955, địch ráo riết khủng bố quần chúng, trả thù những người kháng chiến gây cho ta một số thiệt hại. Để đối phó với tình hình, các vị sư chùa Ta Lôn bất chấp khó khăn, nguy hiểm và cả tính mạng của mình đã tổ chức nuôi chứa cán bộ ngay tại phòng riêng của mình. Năm 1959, địch mở cuộc hành quân ruồng bố thẳng tay bắn phá, giết người cướp của và bắt những người dân mà chúng tình nghi là “cộng sản nằm vùng”. Trong chiến dịch này, bọn chúng đã bắt sư cả Sơn Hiến và 4 vị sư cùng 3 phật tử chùa Ta Lôn. Cuối năm 1960, tại sân chùa Tà Lôn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng xã Long Vĩnh được thành lập và ra mắt trước hơn 500 đại biểu quần chúng. Trong buổi lễ có hơn 20 vị sư do sư cả nhì Sơn Thượng lãnh đạo khi hoàn tục đã tình nguyện tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc. Tháng 02/1962, không thực hiện được ý đồ gom dân vào ấp chiến lược, địch bỏ thuốc độc vào nguồn nước ngọt làm chết 2 trẻ em và 1 vị sư chùa Ta Lôn. Tháng 5/1964, địch cho máy bay ném bom và tàu thủy quân lục chiến đậu ở cửa biển Định An nã đạn pháo vào chùa Tà Lôn làm hàng chục ngôi nhà, chủ chùa là ông Sơn Rượng chết cùng 8 phật tử bị thương. Ngôi tha la bị cháy rụi và chánh điện bị sụp đổ một phần. Những năm 1965-1968, địch mở nhiều cuộc hành quân càn quét và sử dụng máy bay phun thuốc khai hoang, rải chất độc màu da cam. Ngày 22/02/1966, 18 vị sư và hơn 100 phật tử của chùa kéo ra khu trù mật Cái Đôi đấu tranh với địch. Cuộc đấu tranh của sư sãi và đồng bào Khmer Long Vĩnh được sư sãi và đồng bào Khmer cả tỉnh hỗ trợ nên đã giành thắng lợi. Với những thành tích đóng góp cho sự nghiệp giải phóng đất nước, các vị sư và phật tử chùa Ta Lôn được Nhà nước tặng nhiều bằng khen, huân, huy chương. Ngày 18/4/2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận chùa Ta Lôn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh 1465 lượt xem
Chùa Ông Mẹt tọa lạc tại Phường 1, thành phố Trà Vinh. Tên gọi theo Phạn ngữ của ngôi chùa này là Bodhisàlaraja, người Khmer vẫn quen gọi là Wat Kompong, dịch nghĩa là Chùa Bến. Chùa Ông Mẹt là trung tâm Phật giáo Khmer tỉnh và được chọn đặt Văn phòng Trị sự Phật giáo Khmer hệ phái Mahanikay. Đầu thế kỷ 20, khi Thánh đường Công giáo được nhà cầm quyền thực dân đầu tư xây dựng thì cộng đồng phum sóc Khmer cũng chung sức xây dựng ngôi chùa Ông Mẹt trang nghiêm, bề thế như một hình thức tôn vinh các giá trị văn hóa dân tộc. Ngôi chùa gồm nhiều kiến trúc hài hòa nhau bao quanh ngôi chánh điện, trong khuôn viên rộng gần 1,3 ha có vòng tường kín bao bọc chung quanh. Cổng chùa Ông Mẹt là một kiến trúc đẹp với 8 trụ cột nâng đỡ mái cổng và chia cổng thành lối đi chính ở giữa rộng và hai lối đi nhỏ hơn ở hai bên. Trên đầu mỗi cột đều trang trí Chim thần Keyno hai mặt luôn tươi cười đón khách. Hai bên cổng là hai bờ tường vừa thấp dần vửa mở rộng, trang trí bởi cặp rắn bảy đầu theo phong cách nghệ thuật Khmer truyền thống. Chánh điện chùa Ông Mẹt quay mặt về hướng đông và được xây dựng trên nền tam cấp. Nền cấp một bằng đá xanh cao 1,35 m được bao bọc bởi hàng rào sắt cao gần 2 m và trên mỗi đầu cột rào đều có hình Bhrama bốn mặt. Trên bệ thờ bên trong ngôi chánh điện là cốt tượng Đức Phật Thích Ca uy nghi trên tòa sen cao 4,4 m; dài 5 m và rộng 4,3 m. Chung quanh tượng lớn này còn có nhiều tượng Phật nhỏ hơn bằng nhiều chất liệu như đá, xi măng, đồng, gỗ… với nhiều kích thước và tư thế khác nhau. Phía sau chánh điện là Thư viện với lối kiến trúc độc đáo nhà sàn gỗ truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ xưa. Toàn bộ 24 đầu cột, xiên tâm, xiên dọc… đều được chạm khắc công phu, sơn son thếp vàng. Thư viện có ba gian, gian giữa là nơi chứa sách, trong đó có nhiều thư tịch cổ; hai gian hai bên là nơi đọc sách, học tập của các vị sư sãi và bà con trong phum sóc. Trong khuôn viên chùa Ông Mẹt còn có một số kiến trúc như tăng xá, Văn phòng Trị sự Phật giáo hệ phái Mahanikay, giảng đường, sala thờ Neakta, tháp tưởng niệm… Xuất phát từ chùa Ông Mẹt, phong trào đấu tranh đòi dạy và học chữ Phạn, chữ Khmer lan rộng khắp các nhà chùa, các phum sóc trong tỉnh, chống lại chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp. Sau đó, không chỉ dạy và học chữ Khmer mà chữ quốc ngữ cũng được đưa vào giảng dạy, tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc thuận lợi hơn trong việc học tập, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Vừa học chữ, học kiến thức, các thế hệ sư sãi Khmer tại chùa Ông Mẹt còn được chú trọng nâng cao lòng yêu nước, ý chí căm thù kẻ xâm lược. Do đó, ngôi chùa này là nơi xuất phát phong trào đấu tranh chính trị của sư sãi, đồng bào Khmer trong tỉnh và là nơi che chở cho rất nhiều thanh niên các dân tộc trong tỉnh không phải đi lính cho địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chính vì vậy, khi trận tiến công Xuân Mậu Thân đang diễn ra, kẻ thù cho máy bay ném bom gây hư hại nặng. Chùa Ông Mẹt đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 2009. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh 1460 lượt xem
Chùa Bào Môn cò gọi là chùa Đom Bon Bak tọa lạc ở ấp Bào Môn, xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ngay từ những ngày đầu khi Chi bộ xã Đôn Châu thành lập, Chi bộ đã đến chùa Bào Môn để xây dựng cơ sở hoạt động hợp pháp, làm nơi nuôi chứa cán bộ đồng thời vận động các nhà sư lập ra Ban Tăng sự yêu nước tỉnh, tổ chức biểu tình chống bắt lính, đòi giảm tô giảm thuế. Năm 1946 – 1950, thông qua các lớp học, chi bộ đã tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, giải thích âm mưu thâm độc của kẻ thù, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cách mạng cho thanh niên. Từ những lớp học này nhiều người sau đó trở thành những cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Năm 1951, trong trận càn vào ấp Bào Môn và ấp Mồ Côi, xã Đôn Châu địch bắn chết một số cán bộ, sư cả chùa Bào Môn đã vận động phật tử đưa xác các cán bộ về chùa tổ chức mai táng. Sau đó trong một trận càn của lính Commendo thì nhà chùa đã đưa một số cán bộ vào các tháp, và trần chính điện ẩn náu. Nhiều cán bộ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp đã được nhà chùa nuôi chứa, đùm bọc, chở che. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chùa Bào Môn tiếp tục là cơ sở vững chắc của cách mạng. Nhiều hầm bí mật được làm trong khuôn viên chùa, dưới bệ thờ Phật, trên trần chính điện và ngay trong phòng của sư cả. Cuối năm 1968, địch phát hiện lực lượng du kích đóng tại chùa, chúng đưa quân đến bao vây và kêu gọi đầu hàng. Trước tình thế khó khăn đó, với sự nhạy bén, sư cả cho tiểu đội du kích xuống xi-tẹt nước trước chính điện, rồi bằng những lời lẽ khéo léo, kiên quyết, sư cả giải thích cho bọn địch hiểu đây là nơi tu hành, mình là người Khmer phải tôn trọng người tu hành và chùa chiền. Trước những lý lẽ thuyết phục của sư cả, bọn địch cũng không tìm được chứng cớ đành phải rút đi trong sự tức giận. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Trà Vinh, hòa thượng Kim Tốc Chơn – Trưởng Ban Sãi vận tỉnh đã phân công sư Lâm Rường Sơn (chùa Bào Môn) cùng các vị sư Sơn Song, Thạch Sương, Sơn Sa Ra vào dinh tỉnh trưởng thuyết phục tên Nguyễn Văn Sơn tỉnh trưởng Vĩnh Bình kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền đầu hàng góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho kháng chiến” bà con phật tử, sư sãi chùa Bào Môn đã đóng góp hàng chục lượng vàng, hàng ngàn giạ lúa và nhiều vật dụng khác. Có 25 vị sư và phật tử đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Riêng sư cả được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, Huy chương vì sư nghiệp phát triển dân tộc. Chùa Bào Môn được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 10/6/2005. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh
Trà Vinh 1456 lượt xem
Miếu Tiền Vãng còn gọi là miếu Tiên Sư, tọa lạc trong khuôn viên trường Tiểu học Lê Văn Tám thuộc khóm 1, phường 1, thành phố Trà Vinh. Ngược dòng lịch sử khi thực dân Pháp vào Đông Dương rồi đặt chân lên đất Trà Vinh vấn đề đặt ra là họ cần có một số người biết tiếng Pháp, tiếng Việt phục vụ trong bộ máy chính quyền. Ban đầu họ tuyển chọn những người biết tiếng Pháp, tiếng Việt ở các nhà thờ công giáo, nhưng nhu cầu ngày càng nhiều, vì vậy nền giáo dục Pháp – Việt ra đời vào những năm cuối thế kỷ 19. Ngôi trường để đào tạo ở Trà Vinh là Ecole primaire Complementaire de Tra Vinh. Theo thời gian học sinh ngày một đông, ngôi trường cũng được mở rộng, nhiều thế hệ thầy cô giáo cũng đã ra đi vì bom đạn, khói lửa của chiến tranh. Năm 1943, với lòng tôn sư trọng đạo bằng sự tâm huyết của các vị giáo chức trong đó có công lao rất lớn của thầy Phạm Văn Lược, thầy Vương Hảo Thuận và thầy Võ Văn Hợi đề xuất và tiến hành xây dựng ngôi miếu thờ phụng các thầy cô giáo. Để có kinh phí xây dựng ngôi miếu, thầy Phạm Văn Lược và thầy Vương Hảo Thuận đã xin quan đầu tỉnh lúc bấy giờ cho tổ chức “Hội chợ phiên” trong khuôn viên của trường và xin giữ lại một phần kinh phí. Sau một thời gian gom góp, hai thầy đã cho khởi công xây dựng ngôi miếu theo bản thiết kế của thầy Võ Văn Hợi. Sau gần nửa năm thi công đến cuối năm 1943 ngôi miếu được hoàn thành. Tọa lạc giữa sân trường là ngôi miếu nhỏ quay mặt về hướng Nam. Kết cấu ngôi miếu theo kiểu tứ trụ đâm chái, khung sườn chịu lực, cửa vách đều bằng gỗ. Mái lợp ngói âm dương tiểu đại, bịt đầu mái là loại ngói có tráng men màu xanh ngọc dạng cánh sen. Nền miếu lát gạch. Đặc biệt, hai bên tả hữu ngôi miếu còn có hai giàn trống chiêng. Bên tả là giá trống, bên hữu là giá chiêng. Giá trống chiêng thiết kế theo kiểu nhị long cửu đao. Cửa miếu treo tấm biển đại tự ký ức bất vong viết bằng chữ Hán. Trong miếu, ngay giữa là bàn thờ, phía sau là tấm bia đá. Tấm bia đá này trước kia có đính tên 139 thầy cô giáo, có cả giáo viên người Pháp, người Việt, người Hoa, người Khmer đã có công trong sự nghiệp giáo dục và đã qua đời, nhưng hiện nay những bảng đồng đính vào bia không còn, chỉ sưu tầm được một số danh tính thầy cô. Cũng như nhiều công trình khác, thời gian đồng hành với hư hỏng. Từ ngày xây dựng đến nay, ngôi miếu đã qua ba lần trùng tu, sửa chữa nhưng vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Miếu Tiền Vãng biểu trưng độc nhất vô nhị trên đất Trà Vinh – biểu trưng của lòng tôn sư trọng đạo, nơi ghi công, tôn vinh các thế hệ thầy cô giáo có công trong sự nghiệp giáo dục, được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 10/12/2004. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh 1450 lượt xem
Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Long Đức (Trà Vinh) tọa lạc ở ấp Vĩnh Hội, xã Long Đức, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 5 km về hướng Bắc. Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tỉnh Trà Vinh đã được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1989. Khu di tích đền thờ Bác Hồ rộng 5,4 ha với các hạng mục chính như: Đền thờ Bác Hồ, nhà trưng bày thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, khuôn viên cây xanh, ao cá, khu vui chơi cắm trại và đặc biệt là mô hình Nhà sàn Bác Hồ được thiết kế, in sao và lắp khoa học với tỉ lệ 97 phần trăm theo nguyên bản nhà sàn Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch ở thủ đô Hà Nội. Khuôn viên đền thờ rất rộng với những hàng cây rợp bóng quanh bờ hồ gợn sóng lăn tăn. Nơi được chia làm nhiều khu khác nhau, nhưng toàn bộ nơi đây đều nhắc nhớ tới công ơn đời đời của Bác – vị cha già kính yêu của toàn dân tộc Việt. Những hiện vật nơi đây vẫn nguyên vẹn như ngày đầu: chiếc máy bay B52 mà quân đội ta đã bắn rơi, chiếc xe tăng của cuộc chiến năm ấy, ngôi nhà sàn gỗ mà bác Hồ từng sống. Nhà Trưng bày được xây dựng theo kiến trúc truyền thống dân tộc. Trong đó, nhiều hiện vật, hình ảnh, tài liệu giúp người tham quan hiểu được một cách khái quát về cuộc đời hoạt động của Bác; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất trong kháng chiến và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Trà Vinh; quá trình xây dựng và chiến đấu bảo vệ ngôi Đền. Nơi đây còn trưng bày những bức ảnh trắng đen thắm đượm tình quân dân, khung cảnh chiến tranh tàn khốc mà người dân nơi đây trải qua. Công viên với hồ sen lớn hài hòa cùng hệ thống cây xanh, hoa kiểng quanh năm khoe sắc tạo ra khu vui chơi, giải trí đa dạng, hấp dẫn. Trong đó, những tán cây cổ thụ và lũy tre bao quanh cùng hệ thống hầm hào, công sự là chứng nhân của quá trình xây dựng, chiến đấu bảo vệ ngôi Đền được phục hồi và bảo quản một cách nghiêm túc, chu đáo. Đền thờ Bác Hồ đã trở thành niềm tự hào, là biểu trưng của tấm lòng người dân Trà Vinh đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguồn: Du lịch Trà Vinh
Trà Vinh 1433 lượt xem
Phước Minh cung còn có các tên gọi khác là Chùa Quan Thánh đế hay Chùa Ông là cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng người Hoa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Như tên gọi chùa Quan Thánh đế, vị thần chính được thờ tại Phước Minh cung là Quan Công, tức Quan Vũ hay Quan Vân Trường – viên tướng văn võ song toàn, nổi tiếng trung hiếu tiết nghĩa của lịch sử Trung Hoa thời Tam quốc. Cùng được phối tự với Quan Thánh đế tại Phước Minh Cung còn có Phước đức chính thần, Chúa sanh nương nương và hai vị tùy tướng của Quan Thánh đế là Quan Bình và Châu Xương. Phước đức chính thần trong quan niệm của người Hoa ở Trà Vinh là sự đồng nhất giữa Thổ công, Thần tài và Bổn đầu công. Riêng Bổn đầu công, hay còn gọi là ông Bổn là viên quan có tên Trịnh Tu Hòa – người được hoàng đế nhà Minh cử đi thương thuyết với triều đình các nước Đông Nam Á tạo điều kiện cho Hoa kiều làm ăn, sinh sống. Phước sanh nương nương hay còn gọi là Mẹ Thai sanh, trong quan niệm của người Hoa, là vị nữ thần cai quản việc sinh đẻ, nuôi dưỡng trẻ con. Phước Minh cung tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ, Phường 3, thành phố Trà Vinh. Khuôn viên ngôi chùa rộng hơn 800 m2, chùa có kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc (bên trong là chữ Công, vòng ngoài là chữ Quốc). Mặt bằng tổng thể gồm ba tòa nhà tiền điện, trung điện và chính điện song song nhau; dọc hai bên có hai dãy nhà Tả điện và Hữu điện đối diện nhau, tạo thành hình chữ Khẩu. Giữa các tòa nhà có sân thiên tĩnh và hành lang thông thương nhau. Toàn bộ các tòa nhà đều thiết kế theo tầng bậc và lợp ngói lưu ly. Mặt dựng đầu hồi trang trí bằng các đồ án truyền thống Trung Quốc như lưỡng long tranh châu, bát tiên, hoa lá, muông thú. Tiền điện có 16 trụ cột bằng gỗ lim sơn màu son, trong đó có 4 cột vuông trên tảng đá tròn và 12 cột tròn trên tảng đá vuông, biểu trưng của âm dương hòa hợp. Tiền điện là nơi thờ Ngọc hoàng thượng đế ở án giữa cùng phối tự Tiên hiền – Hậu hiền hai bên tả hữu. Trung điện là tòa nhà nhỏ hình vuông, có bốn cột đều vuông trên tảng đá tròn. Đây là nơi thiện nam tín nữ thập phương tề tựu chuẩn bị lễ vật cúng tế trước khi bước vào ngôi Chính điện. Chính điện là tòa nhà cân đối với Tiền điện với 16 cột tròn trên tảng đá vuông. Ngôi chính điện được chia thành ba gian: – Gian trung tâm đặt án thờ Quan Thánh đế quân dưới bức đại hoành phi bằng chữ Hán Càn khôn chính khí. Ba pho tượng Quan Vân Trường ở giữa cùng Quan Bình, Châu Xương hầu hai bên với ngựa Xích thố bằng mây. – Gian trái đặt án thờ Chúa sanh nương nương dưới bức hoành phi Tải sinh tải dục bằng chữ Hán. – Gian phải đặt án thờ Phúc đức chính thần dưới bức hoành phi Uy linh uy đức bằng chữ Hán. Phước Minh cung thực sự là một Bảo tàng mỹ thuật truyền thống của cộng đồng người Hoa trên địa bàn Trà Vinh cũng như cả Nam bộ. Với các giá trị văn hóa về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc, âm nhạc truyền thống cũng như vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Hoa, vai trò củng cố tình đoàn kết các dân tộc cùng cộng cư trên vùng đất Trà Vinh, Phước Minh cung đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 2005. Nguồn: Du lịch Trà Vinh
Trà Vinh 1430 lượt xem
Di tích chùa Phước Mỹ thuộc ấp Bến Chùa, xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang. Chùa Phước Mỹ còn gọi là chùa Cây Quăn hay chùa Bà Sở. Gọi là chùa Cây Quăn là vì trước đây bên bờ sông phía trước chùa có cây quăn lớn nên bà con lấy đặc điểm này gọi tên chùa. Gọi là chùa Bà Sở vì ngôi chùa do bà Phạm Thị Đồ còn gọi là Bà Sở một lưu dân người Gò Công về đây lập nghiệp tạo dựng vào năm 1886. Ngôi chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng hơn 1 hécta, phía trước là sông Thâu Râu. Bến sông trong kháng chiến là Khu Căn cứ Tỉnh ủy (Khu Căn cứ Ấp 5, Mỹ Long). Cách chùa khoảng 500m về phía Nam là khu Căn cứ Huyên ủy (Khu Căn cứ Rẫy Tiều). Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ngôi chùa là cơ sở của cách mạng, là địa điểm dừng chân đóng quân của nhiều đơn vị. Các nhà sư, phật tử hết lòng đùm bọc, chở che và đóng góp tiền của phục vụ kháng chiến. Mọi người luôn tin tưởng vào Đảng vào sự nghiệp cách mạng, vì vậy nơi đây là chỗ dựa để Huyện ủy Cầu Ngang xây dựng khu căn cứ kháng chiến. Ngay khi Chi bộ Hiệp Mỹ ra đời, Chi bộ đã chọn chùa là một trong những địa điểm hội họp, tuyên truyền phát động các phong trào đấu tranh và được quần chúng nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ phong trào cách mạng lắng xuống, chùa Bà Sở đón đồng chí Tám Sự được trên điều về vào trụ trì chùa nhằm che mắt địch hoạt động gầy dựng lại cơ sở. Đồng chí được bà con phật tử nuôi chứa, chở che. Trong công cuộc “Trường kỳ kháng chiến” để khống chế phong trào cách mạng trong vùng, tháng 6/1951 thực dân Pháp đưa bọn Leon Leroy từ Bến Tre sang dùng tàu theo sông Thâu Râu vào đóng đồn tại chùa Bà Sở. Nhưng chỉ một tháng sau với sự hỗ trợ của bà con phật tử, Đại đội 380 của ta đã tập kích đồn làm địch thương vong nặng. Bước sang giai đoạn chống Mỹ chùa Bà Sở tiếp tục là trụ sở, là địa điểm dừng chân đóng quân của nhiều cơ quan như: Huyện đội, hậu cần, dân y, công trường huyện, Xã ủy, Huyện ủy, Tỉnh ủy… Cũng tại chùa, ngày 5/12/1974 đồng chí Nguyễn Trường Thọ, Phó Bí thư Tỉnh ủy, chính trị viên tỉnh đội tổ chức cuộc họp với Thường vụ Huyện ủy, ban chỉ huy các Tiểu đoàn 501, 512, 509 triển khai kế hoạch giải phóng nông thôn, giải phóng Cầu Ngang. Vì nằm trong vùng căn cứ lại là địa điểm đóng quân của ta, cho nên trong kháng chiến ngôi chùa cũng là mục tiêu càn quét, bắn phá của địch. Nhiều lần chùa bị bom đạn làm hư hỏng, có giai đoạn địch chiếm chùa làm trụ sở. Thế nhưng các sư và phật tử vẫn tin tưởng vào Đảng, bất chấp hy sinh đùm bọc, chở che bảo vệ cơ sở cách mạng. Chính nơi đây đã khởi xướng nhiều phong trào đấu tranh chính trị, phong trào bao vây bức rút đồn bót, phong trào phá ấp chiến lược. Ngoài ra, nhà chùa và bà con phật tử cũng đóng góp nhiều của cải cho cách mạng. Với những thành tích đó, ngày 10/12/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận chùa Phước Mỹ (chùa Bà Sở) là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh 1355 lượt xem
Chùa Phnô Om Pung (Sirivansaràma) hay còn gọi là chùa Long Trường, tọa lạc tại ấp Long Trường, xã Tân Hiệp, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Chùa được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 15/3/2016. Tháng 8 năm 1945, lực lượng Thanh niên Tiền phong, quần chúng nhân dân xã Long Hiệp và khoảng 30 vị sư của chùa Phnô Om pung, trong đó có sư cả đã dùng các loại vũ khí thô sơ như gậy gộc, tầm vông vạt nhọn, súng giả nổi dậy biểu tình thị uy rầm rộ. Trước sức ép mạnh mẽ của quần chúng nhân dân và sự vận động tích cực, nhiệt tình của các vị sư, bọn Tề xã đã giao lại chính quyền cho cách mạng. Tháng 9/1946, Chi bộ xã Long Hiệp đầu tiên được thành lập, Chùa Phnô Om Pungbộ đã được chọn làm cơ sở nuôi chứa, bảo vệ lực lượng cách mạng. Trong giai đoạn từ năm 1946 đến 1950, tiểu đoàn 310 thuộc lực lượng quân khu 9 đánh trận Nômen, có sự tham gia của quân du kích địa phương, phật tử và sư sãi của chùa Phnô Om Pung. Trong trận đánh này, lực lượng của ta đã giành thắng lợi. Tháng 4/1953, dựa vào bọn gián điệp chỉ điểm nên bọn địch phục kích và bắt được đồng chí Thạch Ngọc Biên đang trú ẩn trong tủ tại chùa Phnô Om Pung. Lúc này chúng tra tấn đồng chí trước sân chùa đến ngất xỉu. Thấy vậy, sư cả vận động các vị sư sãi trong chùa biểu tình để gây áp lực cho bọn địch. Do đã bắt được lực lượng cách mạng của ta trú ẩn ngay tại chùa, nên bọn địch xem chùa là cái gai trong mắt, chúng luôn tìm mọi cách lùng sục, bắt bớ, bắn phá chùa. Cũng trong năm này chùa bị bắn cháy hoàn toàn, có 5 phật tử và 2 vị sư của chùa bị thương. Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, lực lượng cách mạng gặp nhiều khó khăn, địch bắt bớ giam cầm nhiều cán bộ, tìm mọi cách cô lập gia đình kháng chiến. Tuy vậy, nhiều gia đình không ngại khó khăn gian khổ, chấp nhận hy sinh để nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng trong đó có sư sãi chùa Phnô Om Pung. Nhà chùa làm hầm bí mật để nuôi chứa cán bộ cách mạng. Đặc biệt, trong chính điện là nơi tôn nghiêm nhất, nhưng các vị sư đã không ngại nuôi chứa cán bộ trong hầm dưới tượng Phật Thích ca. Năm 1960, chùa Phnô Om Pung được lực lượng cách mạng chọn làm địa điểm in ấn nhiều loại truyền đơn, khẩu hiệu và nuôi chứa bảo vệ cán bộ cách mạng đóng tại chùa. Từ năm 1961 - 1968, chi bộ vận động nhường cơm xẻ áo và chia cấp ruộng đất cho nhân dân, chùa Phnô Om Pung cũng tích cực tham gia đóng góp để cung cấp lương thực cho lực lượng cách mạng. Trong lúc này, tại chùa mở trường dạy học giáo lý, pali và các lớp phổ thông. Thông qua các lớp học này, các vị sư sãi và cán bộ cơ sở đã tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, giải thích âm mưu thâm độc của kẻ thù, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cách mạng. Từ những lớp học này nhiều người sau đó trở thành những cán bộ chiến sĩ cách mạng. Giai đoạn 1969 - 1971, Phnô Om Pung tiếp tục nuôi chứa bảo vệ nhiều cán bộ của xã, huyện và tỉnh. Qua hai cuộc kháng chiến các vị sư sãi và phật tử bất chấp những khó khăn nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng và tham gia kháng chiến. Chùa Phnô Om Pung đã đóng góp một phần vào công cuộc giải phóng đất nước. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh 1329 lượt xem