Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
The Stone Church of Tam Dao is a captivating blend of history, architecture, and serene mountain beauty, nestled in the misty hills of Vietnam. Hãy nghe Nguyễn Thế Dương (Quảng Ninh) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
On a recent trip to Tam Dao, I found myself drawn to a captivating stone church that seemed to rise majestically from the mist. This church, known as Nhà Thờ Đá Tam Đảo in Vietnamese, stands as a testament to both history and architectural beauty, nestled in the tranquil town of Tam Dao.
Image source: Collected
Built by French colonists in 1937, the church embodies the elegance and grandeur typical of French Gothic architecture. Despite the ravages of time and history, the structure has retained its majestic charm. The church's unique design, featuring arched windows and intricate stone carvings, immediately caught my eye. Each detail seemed to whisper stories from the past, blending seamlessly with the serene ambiance of the surrounding landscape.
Walking towards the church, I was enveloped by the lush greenery and cool mountain air. The path leading up to the entrance is lined with vibrant flowers, adding a splash of color to the otherwise monochrome stone structure. As I stepped inside, the calm and peaceful atmosphere washed over me, providing a perfect escape from the hustle and bustle of daily life.
The interior of the church is just as impressive as its exterior. Sunlight streamed through stained glass windows, casting colorful patterns on the stone walls. The wooden pews, though aged, still offered a place for quiet reflection. It was easy to imagine the church in its early days, filled with the faithful, their prayers resonating within these ancient walls.
Image source: Collected
One of the most striking features of the Stone Church is its bell tower, which offers a panoramic view of Tam Dao town and the surrounding mountains. Climbing the narrow, winding stairs to the top was a small adventure in itself, but the view from above was worth every step. The sight of the mist rolling over the hills, with the church standing proudly in the foreground, was nothing short of breathtaking.
The church is not just a historical relic; it is a living part of the community. Locals and visitors alike come here to find solace, attend services, or simply admire its beauty. On weekends, the church grounds are often filled with the sounds of laughter and chatter, as people gather to enjoy picnics and outdoor activities.
Visiting the Stone Church in Tam Dao was a highlight of my trip. It provided a perfect blend of nature, history, and culture. Each visit feels like a journey back in time, offering a glimpse into the past while allowing one to appreciate the present. For anyone traveling to Tam Dao, this hidden gem is a must-see.
Image source: Collected
As I left the church, I couldn't help but feel a sense of gratitude for the moments of peace and reflection it had offered me. The Stone Church stands as a symbol of enduring faith and resilience, a quiet guardian of Tam Dao's rich heritage. Whether you're a history buff, an architecture enthusiast, or simply seeking a tranquil escape, the Stone Church in Tam Dao is sure to leave a lasting impression.
Để đến khu du lịch Đại Lải, bạn nên đi vào mùa hè, khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 9. Đây là lúc thích hợp để đi tránh nóng, Đại Lải sẽ có nắng đẹp vào ban ngày và se se lạnh vào ban đêm, không khí luôn được điều hoà vì xung quanh có rất nhiều rừng xanh bao bọc, cực kì thích hợp với các hoạt động vui chơi ở đây như đua thuyền, đạp vịt, du thuyền quanh hồ. Đại Lải cách Hà Nội khoảng 60km nên có thể đi đến đây bằng ô tô hoặc xe máy khá dễ dàng và thuận tiện. Nếu xuất phát từ Hà Nội, bạn đi theo hướng quốc lộ 2, sau khi đi qua điểm soát vé Thăng Long-Nội Bài, đến ngã tư đầu tiên thì rẽ trái, đến chặng Xuân Hoà thì rẽ phải rồi đi thẳng tiếp khoảng 10km là đến nơi. Vì khoảng cách cũng không xa nên bạn có thể đi bằng xe máy, nhưng cần chú ý trên đường đi để đảm bảo an toàn cho bản thân. Hồ Đại Lải rộng 525 ha, xung quanh bát ngát màu xanh của cả một rừng cây phòng hộ. Từ bãi tắm dưới hồ có thể lên đỉnh núi Thằn Lằn ở phía nam để ngắm cảnh từ trên cao, xa xa là dãy núi Tam Đảo huyền ảo. Bên cạnh đó, du khách có thể đi thăm những làng bản của người Sàn Dìu để khám phá thêm về phong tục tập quán, thưởng thức các món ăn dân tộc vô cùng đặc sắc và thú vị. Đảo Ngọc, hay còn có tên gọi khác là đảo Chim, nằm giữa lòng hồ Đại Lải là nơi tụ họp của hàng trăm loài chim khác nhau từ khắp nơi bay về, khiến cho nơi đây giống như một bức tranh thiên nhiên đầy sống động mà hiếm nơi nào có được. Đến Đại Lải, bạn có thể tham gia vào rất nhiều những hoạt động thú vị ngoài trời như tắm hồ, đạp vịt, đi thuyền tới tham quan các đảo xung quanh hồ Đại Lải, ngắm cảnh chụp hình và đến thăm vùng rừng núi xanh mát. Các bạn sẽ có những trải nghiệm khó quên khi được vẫy vùng trong làn nước mát hay vừa thảnh thơi đạp vịt vừa ngắm cảnh non nước mây trời. Vì du lịch Đại Lải Vĩnh Phúc gần đây rất phát triển nên các nhà nghỉ cũng mọc lên khá nhiều. Để tìm kiếm một nơi ở lại qua đêm dịch vụ tốt, giá cả hợp lí cũng không quá khó khăn, tuy nhiên bạn nên đặt phòng trước vì rất dễ bị hết phòng. Đặc biệt gần đây có khu resort Flamingo Đại Lải cũng được rất nhiều người ưa chuộng vì sự kết hợp giữa cảnh sắc thiên nhiên với kiến trúc do con người sáng tạo. Ngoài những đồ ăn ngon còn có các dịch vụ, trò chơi vô cùng hấp dẫn. Bạn được tận hưởng mọi thứ theo chuẩn khách sạn 5 sao và hơn thế nữa : hồ bơi, bida, tenis, sân golf, thuyền, vườn… tuy nhiên giá cả cũng khá cao so với những nơi nghỉ ngơi khác.
Vĩnh Phúc 2823 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là một dãy núi trung bình nằm trên địa phận ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang, tên gọi núi Tam Đảo bắt nguồn từ ba đỉnh núi cao nhất là Rùng Rình, Thạch Bàn và Thiên Thị. Chính địa hình khép kín cùng với hệ thống rừng đặc trưng đã gợi lên cho các tín đồ xê dịch một vùng rừng núi huyền bí cần được khám phá. Hầu hết các chuyến leo núi đều bắt đầu từ vườn quốc gia Tam Đảo và đi sâu vào bên trong với nhiều tuyến khác nhau như tuyến đèo Thái Nguyên, tuyến đỉnh Thạch Bàn hay tuyến lên đỉnh phía nam….Lộ trình vẫn được nhiều “nhà leo núi” lựa chọn nhất chính là tuyến đi qua ba đỉnh theo thứ tự là Thiên Thị, Thạch Bàn và Rùng Rình. Trước khi bắt đầu thử thách, bạn phải thông báo với trạm kiểm lâm tại chân núi để được cấp phép leo núi. Nếu là là lần đầu tiên thử thách mình với địa hình núi tại Tam Đảo, bạn nên thuê người hướng dẫn tại trung tâm thị trấn Tam Đảo để đề phòng lạc đường cũng như đối phó với các tình huống xấu. Đoạn đường leo núi Tam Đảo sẽ bao gồm nhiều dạng địa hình dốc thoải, trơn trượt, những rừng tre xanh mát kỳ bí nhưng cùng không kém phần thú vị và kịch tính. Các đỉnh núi Thạch Bàn và Thiên Thị tuy đường đi không quá hiểm trở và âm u nhưng đòi hỏi bạn phải có sức bền cùng với sự phán đoán để có thể chinh phục được những vách đá phân bố dọc đường leo núi. Đứng từ trên đỉnh thứ nhất và thứ hai, bạn sẽ đem về cho mình những trải nghiệm siêu thực khi được hòa mình vào thiên nhiên, ngắm nhìn những làn sương và mây trôi dần phía dưới. Một cảnh tượng choáng ngợp mà có lẽ phải đến đây người ta mới dễ dàng cảm nhận được. Chặng chinh phục đỉnh Rùng Rình (hay còn gọi là Phù Nghĩa) có lẽ chính là thử thách thật sự cho các bạn trẻ quyết định du lịch Tam Đảo. Sau khi đã thấm mệt với những chướng ngại vật tại hai đỉnh núi trước, đỉnh Rùng Rình đòi hỏi ở bạn sự nhẫn nại và lòng quyết tâm chinh phục của một nhà leo núi. Thông thường một chặng leo núi như vậy mất khoảng từ 4 đến 6 giờ. Bạn nên lưu ý thời gian và quyết định thật sáng suốt nếu như không muốn lưu trú lại trong rừng. Vấn đề an toàn luôn được đặt lên hàng đầu cho mỗi chuyến đi, đặc biệt là những hành trình mang tính trải nghiệm như leo núi Tam Đảo. Nước sạch, các thức ăn vặt như sô cô la, bánh snack cùng mì tôm là những loại thực phẩm nhanh, gọn, nhẹ nhất mà bạn nên chuẩn bị, đề phòng phải ở lại trong rừng vào ban đêm. Đêm xuống, nhiệt độ tại các đỉnh núi sẽ giảm thấp, bạn cần lưu ý mang theo áo ấm hoặc thuê các loại lều và túi ngủ dày, tránh bị sốc nhiệt. Ngoài ra, đèn pin là một vật dụng bắt buộc nếu cần phải di chuyển trong đêm. Đừng quên mang theo thuốc chống mũi, thuốc giảm đau, dao găm và các túi ni lông để bọc các vật dụng điện tử, đề phòng trời mưa đột xuất, các vết cắn của côn trùng hay tai nạn không đáng có.
Vĩnh Phúc 1823 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Nằm trên sườn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo, cách Hà Nội khoảng một giờ lái xe, Tây Thiên là một vùng sơn thuỷ hữu tình với hệ động thực vật phong phú và khí hậu quanh năm dịu mát. Chính vì thế nên bạn có thể du lịch Tây Thiên Tam Đảo vào bất kì thời điểm nào trong năm, mỗi mùa là một trải nghiệm không giống nhau. Nếu đi vào mùa xuân, bạn sẽ được trẩy hội để cầu tài, cầu lộc cho cả năm may mắn và tham gia nhiều hoạt động văn hoá độc đáo. Du lịch Tây Thiên Tam Đảo vào mùa hè bạn sẽ được tận hưởng không khí thanh bình, tịnh tâm và được dự lễ sám hối tại thiền viện. Đi vào mùa thu hoặc mùa đông để hít thở không khí trong lành của núi rừng. Mỗi mùa có một nét đặc sắc riêng nên bạn có thể đến đây vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Với diện tích khoảng 148ha, quần thể di tích Tây Thiên nằm trong một vùng đa dạng sinh học với gần 500 loài thực vật và 300 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Tại Tây Thiên có những cây thông đã sống đến ngàn năm tuổi, kiêu hãnh vươn mình và tỏa bóng xuống những lối đi quanh co trong rừng. Một ngày ở nơi đây, người ta có thể thưởng thức được dư vị của bốn mùa trong một năm: gió xuân mơn man lúc bình minh, nắng hạ ấm áp vào buổi trưa, tiết thu dìu dịu khi chiều về và cái se lạnh của mùa đông khi bóng tối đổ xuống. Tây Thiên Tam Đảo không chỉ hấp dẫn bởi phong cảnh thiên nhiên nên thơ trữ tình, núi non trùng điệp thơ mộng mà còn là điểm tâm linh linh thiêng ở miền Bắc. Nếu bạn đang có dự định ghé thăm khu danh thắng đẹp nhất của tỉnh Vĩnh Phúc này thì không thể bỏ qua nơi này. Cảnh sắc thiên nhiên sơn kỳ thuỷ tú, hùng vĩ, thanh bình và ngoạn mục đẹp trong từng giây, từng khoảnh khắc. Đó là cảnh núi rừng nguyên sơ, là những ngôi cổ tự, thảo am tịnh thất cheo leo tren độ cao ngút ngàn hay nguồn Bát Nhã tuyền róc rách ca lên khúc nhạc hoàn hương từ vô thuỷ. Xa xa dòng Thác Bạc trắng xoá như dải ngân hà vắt mình thả xuống từ trời cao xanh thẳm tạo nên một bầu không khí thanh bình. Không những mang vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng hùng vĩ mà Tây Thiên còn đem đến cho du khách những trải nghiệm hết sức thú vị và mới lạ với những loại kiến trúc đền, chùa cổ kính. Thảng trong sự tĩnh lặng đến vô chừng là tiếng chuông từ xa vọng về, gợi ra những yên bình và thanh thản cho tâm hồn của bất kì du khách nào từng đặt chân đến nơi đây. Thiền viện trúc lâm Tây Thiên (hay nhiều người còn gọi là chùa Tây Thiên) nằm cách Hà Nội khoảng 65 km về phía Tây Bắc, thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là một quần thể văn hoá du lịch tổng hợp. Cùng với thiền viện Trúc Lâm ở chùa Yên Tử và Đà Lạt, thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong những thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Nếu quan tâm đến loại hình tôn giáo Phật giáo, có lẽ không ai không biết đến thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, là một trong những thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng ngay bên cạnh khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự. Đây là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ thống, tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển cả về bề rộng cũng như chiều sâu và đẩy mạnh giao lưu với các dòng phật giáo của các nước khác. Nếu có ghé qua Tây Thiên du khách cũng nên một lần đến với trải nghiệm về Phật giáo tại nơi này. Trong Kiến Văn Tản Lục của Lê Quý Đôn cũng có đoạn tả về Tây Thiên: “Bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không thấy đáy; sườn núi có Tây Thiên cổ tự, cảnh sắc thanh nhã. Trên đỉnh núi có chùa Đồng Cổ; từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến hồ sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và có sen đỏ, hoa nở bốn mùa. Hai bên ngoài hồ, suối từ sườn núi chảy ra, bên tả là suối Bạc, bên hữu là suối Vàng…”. Hệ thống Thiền viện Trúc lâm ở khu vực Tây Thiên bao gồm chùa tăng và chùa ni. Thiền Viện Trúc Lâm An Tâm được xây dựng từ năm 2009 do ni sư thích nữ Thuần Giác xây dựng và phần cơ bản hoàn tất năm 2012. An Tâm có ngôi chính điện thờ Phật Thích Ca mâu ni, ngôi nhà tổ thờ các vị tổ thiền tông, một nhà khách, một nhà ăn phục vụ được một lúc 200 người. Ngoài ra còn có ni đường, thiền đường dành cho các thiền sinh tu tập; nhiều thiền thất cho các ni sư tu hành. Ngoài ra du khách khi tới đây có thể tham quan đại bảo tháp Mandala, là bảo tháp dòng tu kim cương thừa đầu tiên tại Việt Nam. Cuối cuộc hành trình là đền Quốc Mẫu Tây Thiên, nơi thờ Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, vương phi của Hùng Vương thứ 7, người có công giúp vua mở mang bờ cõi, dạy dân trồng lúa trong buổi đầu dựng nước.
Vĩnh Phúc 1932 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Vĩnh Phúc may mắn được mẹ thiên nhiên ban tặng những phong cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, đẹp mê đắm lòng người, bởi vậy mà khi người ta nhắc đến Vĩnh Phúc là sẽ nhắc đến một khu du lịch tiềm năng với rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng vươn tầm thế giới. Đó là những khung cảnh núi non hùng vỹ của khu du lịch Tam Đảo, chùa Tây Thiên nơi tâm linh an lạc giúp bạn nuôi dưỡng tâm hồn, hay hồ Đại Lải với hồ nước trong xanh thơ mộng,… và đặc biệt không thể không kể đến tháp Bình Sơn. Tháp Bình Sơn là một trong những tháp cao nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc. Cùng với di tích Tây Thiên, tháp Bình Sơn đã được nhận bằng di tích quốc gia đặc biệt ngày 14/03/2016. Do trải qua quá trình lịch sử khá lâu đời nên tháp Bình Sơn hiện nay chỉ còn lại 11 tầng và 1 tầng bệ. Phần chóp của tháp đã bị phá nên tháp có bình đồ hình vuông và nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng cuối cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Nhìn bao quát tháp Bình Sơn là một tuyệt tác tháp uy nghi, cổ kính. Tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm hai loại là gạch vuông và gạch chữ nhật. Những viên gạch này không cần vôi vữa để lắp ghép với nhau mà được xây dựng bằng phương pháp hết sức đặc biệt đó là nung ở nhiệt độ cao, chính vì sử dụng bằng phương pháp này nên tháp được xây dựng khá vững chắc. Ruột tháp không kín mà có một phần rỗng chạy dọc từ chân tháp lên đến ngọn tháp. Bên ngoài tháp được ốp bằng một lớp gạch vuông được trang trí bằng những hoa văn như hình hoa chanh, hình lá đề, sư tử vờn cầu, rồng uốn khúc,… Những đường nét hoa văn được chạm khắc hết sức tỉ mỉ, tinh tế, mang nét phóng khoáng, chắc khỏe mang đậm nét văn hóa nghệ thuật thời Lý- Trần. Nét độc đáo của tháp Bình Sơn là ở phần chân tháp. Chân tháp có nhiều vành đai sen chồng lên nhau nên khi nhìn vào ta sẽ cảm nhận như tòa tháp được mọc ra từ một đóa sen, mang hình ảnh đặc trưng cho nét đẹp văn hóa Việt. Hình rồng được chạm khắc ở đây cũng rất đặc biệt là hình rồng có sừng và cuộn tròn mình, đầu rúc vào giữa, chân đạp ra ngoài, sống lưng có vây như răng cưa, một chân trước đưa lên. Tháp Bình Sơn với nhiều nét độc đáo về kiến trúc, nghệ thuật cũng như kỹ thuật xây dựng nên tháp Bình Sơn được đánh giá là một trong những cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Nếu du khách lựa chọn thời điểm tham quan vào 15 tháng Giêng thì du khách không chỉ có thể tham quan và chiêm ngưỡng vể đẹp nghệ thuật của tháp Bình Sơn mà còn có thể tham gia vào “Lễ hội chùa tháp” với các nghi thức truyền thống nhu rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, những chương trình văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và những trò chơi dân gian.
Vĩnh Phúc 1787 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nói đến những làng nghề cổ ở miền Bắc nói chung và làng nghề gồm nổi tiếng nói riêng thì không thể không nhắc đến làng gốm Hương Canh ở tỉnh Vĩnh Phúc. Với tuổi đời hơn 300 năm, làng gốm đã có thời kỳ bị mai một nhưng chính nhờ sự yêu nghề và mong muốn giữ gìn nét đẹp của làng nghề truyền thống của nhiều nghệ nhân chân chính. Giờ đây, làng gốm dù đổi mới nhưng vẫn còn giữ lại lại nét đẹp đơn sơ, giản dị và trở thành điểm tham quan hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước. Nằm tại thôn Lò Cang, thị trấn Hương Canh, huyện Xuyên Bình, tỉnh Vĩnh Phúc, làng gốm Hương Canh cách thành phố Vĩnh Yên tầm 12km, cách Hà Nội 42km, vô cùng phù hợp cho những chuyến du lịch ngắn ngày, kết hợp với các điểm du lịch nổi tiếng khác tại Vĩnh Phúc như hồ Đại Lải, Tam Đảo, thiền viền trúc lâm Tây Thiên, v.v… Dù không nổi tiếng như gốm Bát Tràng, Hà Nội nhưng làng gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc lại có nét đẹp và sức hút riêng. Nghề gốm ở đây đã có mặt từ cách đây hơn 300 năm nhưng cho đến những năm 1950 – 1970, khi xuất hiện hợp tác xã gốm thì làng nghề mới thực sự lớn mạnh, tạo ra nhiều sản phẩm gốm cung cấp cho các khu vực gần xa. Đây cũng có thể nói là thời điểm hưng thịnh nhất của làng gốm Hương Canh lúc đó. Giờ đây, làng nghề đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn quyết tâm tồn tại, trở thành một trong những làng nghề độc đáo của miền Bắc nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Trong chuyến du lịch Tam Đảo, du khách có thể ghé qua để chiêm ngưỡng những sản phẩm gốm với nét thẩm mỹ cao cũng như là hiểu hơn về lịch sử của một trong những làng nghề cổ này. Đường đi tới làng gốm Hương Canh không quá khó so với một số điểm du lịch khác trong Vĩnh Phúc. Những du khách du lịch Tam Đảo tự túc có thể thuê xe máy hoặc đi xe buýt từ các bến xe của Hà Nội để tiết kiệm chi phí, còn đối với những khách đoạn nên di chuyển bằng ô tô hoặc là đi tour sẽ là hợp lý nhất. Từ thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc du khách có thể đi theo tuyến quốc lộ 2, hỏi đường về UBND xã Bình Xuyên, đi một đoạn nữa là sẽ tới ngay làng gốm Hương Canh. Còn nếu đi từ Hà Nội, du khách chỉ cần chạy xe máy đi theo quốc lộ 23, tới cầu Lò Cang rồi hỏi đường vào làng gốm. Đây thực sự là điểm đến cho những ai yêu thích nghệ thuật làm gốm cũng như là có niềm đam mê với các sản phẩm gốm truyền thống. Đến với làng gốm, du khách sẽ có dịp được ngắm nhìn và chạm tay vào những sản phẩm gốm truyền thống nhu chậu, chai, lọ, chum, vại,… Ngoài ra, để tạo sự đa dạng phong phú nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ, làng gốm không chỉ chuốt gốm mà còn các loại đồ mỹ nghệ, bức phù điêu bằng gốm vô cùng độc đáo, có giá trị. Một điều thú vị khác là loại đất sét dùng để nặn gốm ở đây là dòng đất sét xanh, nhiều thịt nên khi sản phẩm hình thành có độ dày, màu sắc đẹp và hơn hết là sở hữu nhiều công dụng hơn là một sản phẩm để trưng bày. Những chiếc bình gốm dùng để pha trà sẽ giúp giữ được độ nóng và vị trà rất lâu, càng tuyệt vời hơn khi để đựng rượu vì rượu sẽ không bị giảm đi độ cồn mà còn ngon hơn nếu để lâu. Đặc biệt, do đặc trưng về nguyên liệu nên khi dùng tay để gõ vào, các sản phẩm gốm đều tạo ra tiếng kêu leng keng rất thú vị hệt như những sản phẩm bằng kim loại. Ngày nay, để đáp ứng được nhu cầu và tính thị hiếu thẩm mỹ của người tiêu dùng, các nghệ nhân tại đây đã đổi mới, sáng tạo nhưng đồng thời cũng giữ lại những sản phẩm truyền thống không chỉ đẹp mà còn đa dạng, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho những người dân địa phương. Đến làng gốm nơi đây, du khách cũng đừng bỏ lỡ cơ hội được ngồi nghe các nghệ nhân kể về lịch sử tạo ra gốm, hiểu hơn về quy trình làm gốm và thích thú nhất vẫn là "vào vai" một nghệ nhân gốm thực thụ để tự tạo nên những sản phẩm gốm handmade. Đây cũng chính là những trải nghiệm tuyệt vời hứa hẹn sẽ mang lại cho bạn những giây phút đáng nhớ và ý nghĩa nhất khi đến với làng gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc.
Vĩnh Phúc 1673 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Ẩn mình giữa thung lũng núi Con Trâu, thuộc xã Minh Quang huyện Tam Đảo Vĩnh Phúc, hồ Xạ Hương chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng 60km nên rất dễ để bạn có một chuyến đi phượt bằng xe máy tới đây. Hồ rộng hơn 83ha, là một hồ nước ngọt nhân tạo được đào vét từ năm 1984. Bao quanh hồ là những ngọn núi non trùng điệp theo đúng như ý tưởng thiết kế ban đầu là hồ trên lưng núi. Một năm hồ Xạ Hương có hai mùa nước là mùa ngập nước và mùa nước vơi. Tuy nhiên vào mùa nào thì hồ cũng đẹp, cũng sạch như vậy. Trải qua hơn 30 năm, hồ vẫn luôn giữ được vẻ đẹp đến nao lòng, cảnh sắc thiên nhiên quanh vẫn như những bức tranh sơn thủy hữu tình mê hoặc bao du khách ghé qua đây. Mỗi khi đất trời giao mùa, hồ Xạ Hương lại khoác lên mình một vẻ đẹp yêu kiều mê hoặc khác nhau. Vào mùa xuân, những chồi non bắt đầu chớm nở, hồ Xạ Hương cũng như hòa mình cùng núi rừng cỏ cây vươn mình sau những ngày tháng mùa đông giá rét. Khung cảnh thiên nhiên mộng mơ của những cánh hoa sim tỏa sắc hai bờ, của làn nước phẳng lặng của những rặng cây đang căng tràn nhựa sống khiến nàng thơ của mảnh đất Tam Đảo trở nên xinh đẹp biết nhường nào! Hạ đến cũng là sự xuất hiện của những ánh nắng vàng rực rỡ làm mặt nước Xạ Hương cũng rạo rực đáp lời chào mùa hạ. Cái nắng gay gắt của mùa hè có lẽ cũng phải chịu khuất phục trước không khí mát mẻ, những cơn gió mát lạnh lùa qua rừng cây mặt nước. Một thời điểm vô cùng thích hợp cho các dân phượt Tam Đảo cắm trại. Thu sang, thời điểm mà cảnh sắc của hồ Xạ Hương được phô ra những gì đẹp nhất, quyến rũ nhất. Cả một bầu trời trong xanh với những đám mây trắng hững hờ thả trôi in bóng xuống mặt nước trong veo. Nàng thơ của Tam Đảo được núi rừng hùng vĩ điểm những sắc vàng, sắc đỏ tô thắm. Cả một vùng trời mộng mơ, bình yên khiến bất kỳ một lữ khách nào cũng ngỡ như mình đang lạc vào một chốn Châu Âu nào đó. Đông ghé qua, sự lạnh lẽo của hồ Xạ Hương lại làm nên một vẻ đẹp ma mị đầy quyến rũ. Hòa quyện cùng làn sương trắng xóa buốt giá, núi rừng cũng trở nên trầm mặc hơn. Những ngày đông hồ lại gợi lên trong tâm hồn ai đó một nỗi niềm thật khó tả.
Vĩnh Phúc 1742 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Vườn quốc gia này nằm trọn trên dãy núi Tam Đảo, trải dài 80 km và thuộc địa phận của 3 tỉnh (Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang). Hiện nay, khu du lịch trong khuôn viên vườn quốc gia được khai thác tại Vĩnh Phúc, cho phép du khách ghé qua tham quan và nghỉ dưỡng. Sở hữu diện tích lên đến 34.995 ha, đây là khu rừng sinh thái lớn nhất miền Bắc. Đặc biệt, hệ sinh thái ở đây chủ yếu là rừng tự nhiên mưa ẩm thường xanh với độ che phủ lên tới 70%. Nơi đây nằm trong khu vực núi nên khí hậu có sự phân chia rõ ràng theo độ cao. Với độ cao dưới 700-800m, khí hậu ở vườn quốc gia Tam Đảo đặc trưng bởi độ ẩm cao, nhiệt độ mát mẻ vào ban ngày và trở lạnh khi đêm xuống. Nhờ đó, thảm thực vật luôn xanh tốt quanh năm, tạo nên cảnh quan thiên nhiên tươi mát khiến nhiều du khách thích thú. Ngoài ra, dãy núi Tam Đảo được chia thành sườn Đông và sườn Tây với đặc điểm khí hậu khác nhau. Nhờ đó, hệ sinh thái ở nơi này vô cùng đa dạng với nhiều tầng và nhiều loài. Khi đến đây, bạn sẽ biết thêm nhiều điều kỳ thú về thiên nhiên và được chiêm ngưỡng nhiều cảnh quan độc đáo ở các phân khu khác nhau trong khuôn viên vườn quốc gia. Ngay khi đặt chân đến đây, bạn đã có thể cảm nhận bầu không khí mát mẻ, khác hẳn với khói bụi nơi thành thị. Với thời tiết dễ chịu và cảnh quan xanh mát, du khách sẽ cảm thấy dễ chịu và thoải mái khi bước đi trên những con đường mòn tại đây. Kể cả vào mùa hè, những tán cây cổ thụ rộng lớn cũng làm dịu đi ánh nắng chói chang chiếu xuống mặt đất. Vườn quốc gia còn được biết đến với các con đường xuyên rừng, nơi bạn có thể tản bộ qua rừng trúc bí ẩn và lắng nghe tiếng chim hót líu lo. Trên đường đi, du khách sẽ thấy những loài hoa đặc trưng của Tam Đảo như đỗ quyên, phong lan,… Việc đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp sẽ giúp bạn quên đi những âu lo, mỏi mệt và tận hưởng chuyến đi một cách trọn vẹn nhất. Vườn quốc gia còn được biết đến với các con đường xuyên rừng, nơi bạn có thể tản bộ qua rừng trúc bí ẩn và lắng nghe tiếng chim hót líu lo. Trên đường đi, du khách sẽ thấy những loài hoa đặc trưng của Tam Đảo như đỗ quyên, phong lan,… Việc đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp sẽ giúp bạn quên đi những âu lo, mỏi mệt và tận hưởng chuyến đi một cách trọn vẹn nhất. Đặc biệt, khi đứng ở độ cao 1.300m, bạn sẽ được chiêm ngưỡng toàn bộ khung cảnh của vườn quốc gia với thảm thực vật xanh tốt. Đây có thể là phông nền hoàn hảo cho các bức ảnh “sống ảo” của bạn. Trong hành trình này, nhiều du khách còn tranh thủ check-in tại rừng trúc và ghé thăm chùa Đồng Cổ trên đỉnh Thiên Thị. Dọc theo tuyến đường xuyên rừng có nhiều bãi đất bằng phẳng, thích hợp cho hoạt động cắm trại qua đêm. Theo kinh nghiệm du lịch vườn quốc gia Tam Đảo, du khách nên dành một ngày khám phá hết các điểm tham quan tại đây và dừng chân cắm trại qua đêm. Khung cảnh thơ mộng và tiếng suối chảy róc rách sẽ khiến bạn có những trải nghiệm vô cùng thú vị. Các hoạt động như đốt lửa trại, tổ chức tiệc nướng ngoài trời hay ngắm sao sẽ giúp bạn có thêm nhiều kí ức khó quên bên bạn bè, người thân. Du khách có thể lưu lại một số địa điểm cắm trại được nhiều người lựa chọn như lầu Gió, đồi Mây, đồi Gió,... Nếu không có thời gian ở lại qua đêm, bạn hãy tổ chức cắm trại vào buổi trưa và quay về trung tâm thị trấn lúc hoàng hôn. Du khách có thể lựa chọn lưu trú tại một trong các khách sạn ở huyện Tam Đảo để hành trình khám phá được thuận tiện nhất.
Vĩnh Phúc 1754 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Hồ Bản Long là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên và sự phát triển văn hóa độc đáo. Tọa lạc tại huyện Tam Đảo, là viên ngọc quý trong bức tranh du lịch của tỉnh và là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích khám phá vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Hồ Bản Long, nằm tại huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, là một điểm đến nổi bật của khu vực phía Bắc của tỉnh, gần với ranh giới của Thái Nguyên và Hà Nội. Bao quanh bởi những dãy núi hùng vĩ của Tam Đảo, hồ được thiên nhiên ban tặng khung cảnh hữu tình với rừng cây xanh tươi và không khí trong lành, mát mẻ. Chỉ cách trung tâm thành phố Vĩnh Yên một quãng đường ngắn, Hồ Bản Long là điểm dừng lý tưởng để du khách có thể tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và khám phá nét văn hóa đặc sắc của các cộng đồng dân tộc miền núi. Hồ Bản Long, với diện tích rộng lớn và hình dáng không đều, tạo nên một mặt nước trong vắt với những vùng nước sâu, bờ đá và bãi cát nhỏ ấn tượng. Màu nước xanh ngọc bích, trong veo của hồ mang đến cảm giác tinh khiết và mát mẻ khi nhìn từ xa. Nằm giữa những dãy núi Tam Đảo hùng vĩ và bao quanh bởi rừng cây phong phú, Hồ Bản Long sở hữu cảnh quan hoang sơ, hùng vĩ, đưa du khách hòa mình vào thiên nhiên tuyệt vời. Đây là một không gian thư giãn lý tưởng, với khí hậu mát mẻ dễ chịu quanh năm, đặc biệt vào mùa thu và đông, khi không khí trong lành và dịu nhẹ. Mùa mưa cũng là thời điểm hồ trở nên đẹp hơn, với nước dâng cao, làm nổi bật sự phong phú của cảnh vật xung quanh. Môi trường tại Hồ Bản Long còn nổi bật với hệ sinh thái đa dạng. Những cánh rừng già phủ đầy cây cỏ tươi tốt là nơi sinh sống của vô số loài động vật hoang dã, chim chóc và côn trùng. Hồ cũng là nơi trú ngụ của các loài cá và động vật thủy sinh, mang đến sự phong phú cho hệ sinh thái của vùng đất này. Màu xanh của hồ hòa quyện với màu sắc rực rỡ của hoa lá, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và đầy huyền bí. Không chỉ là nơi để ngắm cảnh, Hồ Bản Long còn là điểm đến lý tưởng cho các hoạt động thư giãn như câu cá, đi bộ, cắm trại hay chỉ đơn giản là tận hưởng sự tĩnh lặng giữa thiên nhiên hoang sơ. Đây là nơi lý tưởng để du khách tìm lại sự bình yên, hòa mình vào cảnh vật và tận hưởng vẻ đẹp thanh bình của Vĩnh Phúc. Câu cá tại Hồ Bản Long là một hoạt động thư giãn tuyệt vời, mang đến cho du khách không chỉ cơ hội trải nghiệm niềm vui bắt cá mà còn là dịp để hòa mình vào không gian thiên nhiên tĩnh lặng. Với mặt hồ trong xanh, bạn có thể thả câu trong sự yên bình, lắng nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào bờ và tận hưởng cảm giác hồi hộp khi kéo lên những con cá nhỏ hay cá lớn. Đây là cơ hội lý tưởng để tận hưởng sự bình yên và gắn kết tình cảm cùng bạn bè và gia đình. Đối với những ai yêu thích thử thách và khám phá, trekking tại Hồ Bản Long sẽ là một trải nghiệm đầy thú vị. Những con đường mòn xuyên qua rừng cây xanh mướt sẽ đưa bạn đến những góc nhìn mới lạ, giúp bạn chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của khu vực xung quanh hồ. Mỗi bước đi đều là một cơ hội để tạo ra những kỷ niệm khó quên với người thân và bạn bè, đồng thời cảm nhận trọn vẹn hơi thở của thiên nhiên nơi đây. Nếu bạn muốn tận hưởng sự tĩnh lặng và mát mẻ của mặt nước, thuyền kayak hoặc thuyền điện là lựa chọn hoàn hảo. Khi lướt trên mặt hồ phẳng lặng, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng cảnh đẹp tuyệt vời của hồ từ một góc nhìn khác biệt. Mỗi chuyến đi trên thuyền như một hành trình thư giãn, giúp bạn thả lỏng và tận hưởng không gian yên bình và tươi mới của Hồ Bản Long. Cắm trại tại Hồ Bản Long là một hoạt động không thể bỏ qua nếu bạn muốn tận hưởng một đêm giữa thiên nhiên hoang sơ. Được trải nghiệm không khí trong lành, nằm dưới bầu trời đầy sao, đốt lửa trại và chia sẻ những câu chuyện thú vị với người thân sẽ là một kỷ niệm đáng nhớ. Hồ Bản Long – một viên ngọc tự nhiên thuần khiết giữa lòng Vĩnh Phúc, là điểm đến lý tưởng cho những ai khao khát khám phá vẻ đẹp hòa mình vào thiên nhiên tươi đẹp. Đến với Hồ Bản Long, du khách không chỉ được trải nghiệm sự thanh bình và yên bình của không gian nước xanh, mà còn đắm chìm trong những hoạt động giải trí đa dạng và trải nghiệm văn hóa phong phú. Hãy để Hồ Bản Long là điểm dừng chân lý tưởng trong hành trình khám phá vùng đất Vĩnh Phúc, nơi mà thiên nhiên và con người hòa quyện, tạo nên bức tranh tuyệt vời của sự hài hòa và tinh tế.
Vĩnh Phúc 169 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12
Đầm Rưng là một điểm đến không thể bỏ qua khi du khách đặt chân đến Vĩnh Phúc. Với vẻ đẹp hoang sơ và không gian yên bình, Đầm Rưng đã và đang thu hút rất nhiều du khách, là nơi lý tưởng để khám phá thiên nhiên, tận hưởng sự thư giãn và tìm lại sự bình yên giữa cuộc sống hối hả. Đầm Rưng, với diện tích mặt nước gần 80ha, được chia thành khu nuôi cá và điểm du lịch sinh thái, là một trong những điểm đến hấp dẫn của Vĩnh Phúc. Hình thành từ sự thay đổi dòng chảy của con sông Kỳ Giang, Đầm Rưng hiện nay có diện tích khoảng 330 mẫu. Được mệnh danh là "chiếc điều hòa khổng lồ của tự nhiên", Đầm Rưng không chỉ mang lại không khí trong lành, mà còn là nơi lý tưởng để du khách thư giãn, tìm lại sự bình yên và tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên. Đây chính là điểm dừng chân lý tưởng cho những ai muốn hòa mình vào không gian thiên nhiên tươi mát và thanh bình. Đầm Rưng, tọa lạc tại huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, cụ thể là trên địa phận của 4 xã: Tam Phúc, Tứ Trưng, Ngũ Kiên và Phú Đa, cách trung tâm thành phố Vĩnh Yên chỉ khoảng 20km. Cách thị trấn Vĩnh Tường 2 km về phía Tây Bắc, Đầm Rưng mang vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, êm đềm. Nơi đây không chỉ là khu vực nuôi cá mà còn là một khu du lịch sinh thái thu hút du khách với không gian yên bình, cảnh quan tuyệt đẹp và không khí trong lành. Đầm Rưng chính là điểm đến lý tưởng để thư giãn, khám phá vẻ đẹp mộng mơ của thiên nhiên và hòa mình vào sự tĩnh lặng của vùng đất Vĩnh Phúc. Thời điểm lý tưởng nhất để khám phá Đầm Rưng là vào mùa thu, từ tháng 9 đến tháng 11. Vào lúc này, không khí mát mẻ, dễ chịu kết hợp với sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp khiến lòng người xao xuyến. Tuy nhiên, Đầm Rưng mang vẻ đẹp riêng biệt ở mỗi mùa trong năm, vì vậy bạn hoàn toàn có thể ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào và luôn cảm nhận được sự tươi mới, thanh bình của nơi đây. Một trong những trải nghiệm tuyệt vời nhất khi đến với Đầm Rưng là sự hòa mình vào không gian yên tĩnh và bình yên của khu vực này. Bạn có thể thả bước dạo quanh đầm, dừng lại ngắm nhìn những cánh đồng lúa xanh mướt trải dài, hòa quyện với màu xanh tươi của những rừng cây xung quanh. Cảm giác thư thái khi hít thở bầu không khí trong lành, mát mẻ, đầy sức sống chắc chắn sẽ làm tâm hồn bạn trở nên nhẹ nhõm hơn bao giờ hết. Đây là thời gian lý tưởng để tạm gác lại những lo toan, những bộn bề của cuộc sống thường nhật và dành cho bản thân những khoảnh khắc tĩnh lặng, thư giãn. Đặc biệt, nếu bạn là người yêu thích thiên nhiên, Đầm Rưng sẽ là điểm đến lý tưởng để giải tỏa căng thẳng và tìm lại sự cân bằng trong tâm hồn. Đầm Rưng không chỉ là một nơi để thư giãn mà còn là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích các hoạt động giải trí ngoài trời. Tại đây, bạn có thể thử sức với việc câu cá, chèo thuyền trên mặt hồ yên bình hoặc tham gia các hoạt động dã ngoại thú vị cùng gia đình và bạn bè. Nếu bạn là người yêu thích sự mạo hiểm, không thể bỏ qua cơ hội khám phá những ngọn núi xung quanh, chinh phục những cung đường leo núi hấp dẫn và đắm mình trong không gian tươi mới của thiên nhiên hoang dã. Đối với những tín đồ yêu thích nhiếp ảnh, Đầm Rưng cũng là một "thiên đường" tuyệt vời để thỏa sức sáng tạo. Mỗi góc nhìn, mỗi khoảnh khắc tại đây đều có thể trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho những bức ảnh đầy nghệ thuật, từ những cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp đến những khoảnh khắc đời thường dung dị nhưng cũng đầy ý nghĩa. Khi đến Đầm Rưng, ngoài việc đắm mình trong không gian thiên nhiên thanh bình, bạn còn có cơ hội thưởng thức những món ăn đặc sản hấp dẫn của địa phương. Những quán ăn và nhà hàng gần khu vực đầm sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm ẩm thực đậm đà, như cá nướng trui thơm lừng, cơm lam dẻo ngọt, hay những món rau cải xào nấm tươi ngon, tất cả đều được chế biến từ nguyên liệu tươi mới, mang đậm hương vị bản địa. Ngoài ẩm thực, bạn cũng đừng quên ghé thăm các cửa hàng địa phương để mua sắm những món quà lưu niệm độc đáo. Những sản phẩm thủ công làm từ đá, gốm sứ hay các vật dụng truyền thống khác sẽ là món quà tuyệt vời để bạn mang về làm kỷ niệm, đồng thời cũng là cách để ủng hộ các nghệ nhân và bảo tồn những giá trị văn hóa địa phương. Với sự kết hợp giữa những hoạt động thú vị, ẩm thực ngon miệng và những món quà độc đáo, chuyến du lịch tại Đầm Rưng sẽ trở thành một hành trình đầy đủ và đáng nhớ. Hãy sẵn sàng để tận hưởng tất cả những khoảnh khắc tuyệt vời mà thiên nhiên và văn hóa Vĩnh Phúc mang lại cho bạn!
Vĩnh Phúc 176 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 11.
Đầm Vạc là đầm nước tự nhiên có quy mô lớn tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Bên cạnh cung cấp nước sạch cho khu vực nội thành và lân cận, mang lại lợi ích kinh tế với nguồn sản vật dồi dào, nơi đây còn sở hữu cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, yên bình được khai thác cả về du lịch và nghỉ dưỡng. Không ai biết Đầm Vạc có từ khi nào, chỉ biết đây là đầm thiên tạo từ phần phình to của sông Cánh nằm ở phía Nam thành phố Vĩnh Yên. Đầm nước chạy vòng cung từ Đông sang Tây, trải rộng qua xã Đồng Cương thuộc huyện Yên Lạc, xã Quốc Lưu và thị trấn Tam Dương. Với diện tích mặt nước lên đến 48,4 km2 và khu vực có đáy sâu nhất khoảng 4,5 m. Khi đến điểm du lịch Vĩnh Phúc này lần đầu, nhiều người thường thắc mắc về cái tên Đầm Vạc. Sở dĩ địa danh này được gọi như vậy là vì nơi đây có đa dạng các loài chim như cò, le le, bồ nông… cư trú, nhiều nhất trong số đó phải kể đến chim vạc. Tên gọi của đầm nước cũng bắt nguồn từ đặc điểm này mà ra. Là đầm nước tự nhiên với diện tích rộng lớn, nơi đây rất thích hợp cho các hoạt động như chèo thuyền, chạy mô tô lướt sóng. Bạn có thể thuê thuyền ở khu vực ven đầm để vi vu khám phá hoặc thuê người chèo để thoải mái hóng gió, ngắm cảnh. Nếu thích cảm giác mạnh, bạn có thể thuê mô tô nước để trải nghiệm cảm giác lướt sóng tốc độ cao. Khu du lịch Đầm Vạc nổi tiếng với cảnh sắc thơ mộng và không khí trong lành dễ chịu. Do đó còn gì thư giãn bằng tản bộ quanh đầm ngắm cảnh, tận hưởng làn gió mát. Vào buổi sáng, nơi đây có ánh nắng rất đẹp, thích hợp để diện đồ và bỏ túi những bức ảnh “sống ảo” lung linh. Ngay sau khi hoạt động dưới hình thức khu du lịch, Đầm Vạc đã được xây dựng thêm sân golf với quy mô lên đến 100 ha. Sân chơi nằm giữa cảnh quan thiên nhiên rộng lớn, yên bình, chào đón hàng trăm lượt khách đến đánh golf và tận hưởng thời gian nghỉ ngơi thoải mái. Hành trình xách balo du lịch Đầm Vạc cũng là dịp để bạn tham gia các hoạt động đậm chất địa phương, mở rộng trải nghiệm khám phá văn hóa. Người dân sống quanh đầm rất thân thiện và xởi lởi, hầu hết đều theo nghề chài lưới nên sẵn sàng hướng dẫn bạn cách đánh bắt thủy, hải sản hay tâm sự về chuyện đời. Đây là hoạt động giúp bạn hòa mình vào cuộc sống bình dị của ngư dân và tìm hiểu thêm về Đầm Vạc. Sau khi vui chơi thỏa thích, mời bạn thưởng thức bữa tiệc với đa dạng món ngon đậm chất địa phương. Nổi bật nhất tại Đầm Vạc phải kể đến những món dưới đây. Tép dầu là sản vật đặc trưng của Đầm Vạc. Nếu không phải người địa phương, bạn sẽ không có dịp nghe nhiều về loại tép này. Chúng thường có nhiều ở đầm vào thời điểm từ tháng 8 - tháng 10, với bụng đầy ắp trứng. Khi chế biến mang đến hương vị thơm béo, lạ miệng. Tép dầu ngon nhất là kho hoặc nấu canh. Ngọn su su Tam Đảo: Được trồng trong điều kiện thời tiết và thổ nhưỡng thích hợp nên ngọn su su có vị giòn, ngọt tự nhiên. Không cần chế biến cầu kỳ, sau khi hái ngọn su su về chỉ việc xào lên với tỏi hoặc thịt bò là đã có ngay món ngon hấp dẫn. Tiên tửu Ngọc Hoa: Đây là thương hiệu rượu nổi tiếng tại Vĩnh Phúc. Rượu được lên men từ nước dừa, uống vào có vị thơm bùi không gây đau đầu khó chịu. Loại rượu này thường đựng nguyên trong quả dừa nên rất thích để mua về làm quà du lịch cho người thân. ạn có thể đến Đầm Vạc vui chơi vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên lý tưởng nhất là du lịch vào đầu mùa hè, tức từ tháng 4 - tháng 6. Lúc này thời tiết nơi đây nóng ẩm vừa đủ, có nắng đẹp, gió mát thích hợp để check-in “sống ảo” và tổ chức tiệc picnic thư giãn cùng gia đình, bạn bè. Nếu đang tìm kiếm một điểm du lịch gần Thủ đô Hà Nội, thuận tiện cho việc vui chơi trong ngày, Đầm Vạc sẽ là gợi ý mà bạn không nên bỏ lỡ. Phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, yên bình với đầm nước xanh trong rộng lớn sẽ mang đến trải nghiệm vui chơi và nghỉ dưỡng thú vị vào những ngày cuối tuần rảnh rỗi.
Vĩnh Phúc 225 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 06.
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3631 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2943 lượt xem
Chùa Hoa Dương ở xã Tuân Lộ, tổng Tuân Lộ, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. Nay là thôn Thượng, xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường. Chùa được xây dựng vào năm Chính Hoà thứ nhất (Canh Thân 1680), đời vua Lê Hy Tông Duy Hiệp. Chùa Hoa Dương được xây dựng thời Hậu Lê, năm 1680, còn lại cho đến ngày nay là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy nga, mặt bằng hình chữ “công” gồm 3 toà chính: Tiền đường (7 gian), thượng điện (4 gian) và nhà tổ (5 gian), tổng diện tích 262m2 cùng 2 nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích 196m2, phía trước sân còn cây Bồ Đề cổ thụ trăm năm tuổi và các loài cây: Đại, Ngâu, Lan, Sấu tạo nên không khí thâm nghiêm, u tịch nơi cửa thiền. Về kiến trúc: Kết cấu bộ vì theo kiểu thức “chồng rường giá chiêng”, hệ thống cột chịu lực đều bằng gỗ lim to, chu vi cột 1,5m và đều được kê trên chân đá tảng vuông, to mỗi chiều 75cm để chống mối và chống ẩm. Về mỹ thuật: Giá trị nổi bật của chùa Hoa Dương là nghệ thuật điêu khắc, được biểu hiện ở hệ thống tượng tròn và các tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối). Đó là các lớp tượng cơ bản, đại diện chung cho hệ thống tượng được bài trí trong một ngôi chùa thờ phật theo phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam, gồm các lớp: Bộ tượng Tam thế phật, Di Đà tam tôn phật, Thích ca cửu long, tứ Bồ tát, tứ Thiên vương, tượng Đức ông, Thánh hiền, Hộ pháp phật và tượng phật Tổ. Tất cả các pho tượng phật đều được tạo từ gỗ mít già, nguyên lõi, kỹ thuật công phu, tỉ mỉ, nghệ thuật sáng tạo, điêu luyện, thể hiện khả năng tư duy thẩm mỹ nghệ thuật cao và hoà nhuyễn trong nhận thức giá trị tuyệt đối “không” của phật pháp. Giá trị chân, thiện, mỹ của đạo phật bắt nguồn từ những chân lý giản đơn của cuộc sống thường nhật qua hàng nghìn năm tu luyện, bồi dưỡng, lưu truyền đã trở thành một bộ phận cơ bản của tâm hồn Việt Nam, tâm hồn nghệ sỹ khi thổi hồn cho các pho tượng hoặc từ gỗ, đá, hay đất mà trở nên lung linh, huyền ảo nhưng rất thực trước mỗi người khi bước chân vào chùa chiêm bái phật. Các tác phẩm điêu khắc gỗ có: 8 bức y môn (biển hoành) đều chung kích thước (dài 3,0m rộng 0,6m) được chạm nổi, sơn son thếp vàng các đề tài thiên nhiên: Hoa lá, vân mây, cổ thụ, chim muông vô cùng gần gũi, tự nhiên và sống động, chính giữa đục các “đại tự” mang ý nghĩa tụng ca, răn dạy, đan xen giữa phật pháp và triết lý Nho học. 8 bức “tranh Kệ” khắc các bài kệ bằng chữ Hán với nội dung về phong cảnh thiên nhiên và những đề tài liên quan đến việc hoằng dương phật pháp, là những thi ca tuyệt hảo lồng trong tác phẩm điêu khắc tài ba, trên nền của kỹ thuật chạm khắc, trang trí phóng khoáng, bố cục hài hoà, sơn thếp đẹp, xứng đáng là di sản cho muôn đời hậu thế chiêm ngưỡng và ngẫm suy. 8 bộ hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, câu chữ chuẩn chỉnh, ngay ngắn, ý tứ sâu xa, ngữ nghĩa bao trùm, chân tâm, chân thiện. Cùng với các di vật cổ: Chuông đồng, cây hương, bia đá,.đồng thời là những tư liệu văn tự cổ trên đá lưu mãi để muôn đời hậu thế, thập phương du khách, tăng ni phật tử tìm cơ hội đến chiêm bái nơi cảnh thiền ẩn lặng dấu quê. Chùa Hoa Dương có lịch sử trên 300 năm tuổi. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12/12/1994. Nguồn: Cổng thông tin giao tiếp điện tử Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2426 lượt xem
Tháp Bình Sơn (Tháp Then, Tháp chùa Then, Tháp chùa Vĩnh Khánh) thuộc thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; là một kiến trúc Phật giáo mang dấu ấn của một giai đoạn khá dài (khoảng từ thế kỷ XIV tới XVI). Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh toạ lạc trên một gò đất cao và rộng rãi, diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ là 17.200m2, bao gồm: Tháp Bình Sơn, tòa Tam bảo cũ, Tam bảo mới, giếng mực, nhà khách, hồ sen, cổng, các công trình phụ trợ. 1. Tháp Bình Sơn Tháp hiện nay cao 16,5 mét, (chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ), được cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về ngọn, với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ ngôi tháp được xây bằng gạch nung không tráng men. Từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét hoa văn hoàn chỉnh nhất. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng với hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu"… Từ tầng thứ ba trở lên, trang trí vẫn còn, nhưng càng lên cao, chiều ngang mặt tháp càng bị thu hẹp, thì trang trí cũng giảm dần. 2. Toà Tam bảo cũ: được đại trùng tu năm 1976, dạng chữ Đinh, có diện tích 131,5 m2, bao gồm Tiền đường 5 gian , Hậu cung 3 gian . Đặc biệt công trình có 2 cột đồng trụ phía trước, đua ra 6m, tạo như tay ngai. Hệ thống tượng thờ tại đây chủ yếu được làm bằng đất phủ sơn, niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vài tượng có niên đại thế kỷ XX. 3. Tam bảo mới: được xây dựng năm 2012, trên nền nhà tam bảo cũ, hình thức kiến trúc mang phong cách thiền viện. 4. Giếng Mực: tương truyền vị trí này xưa kia là đế của một ngôi tháp cổ màu xanh, khi tháp cổ này biến mất để lại một hố sâu hình giếng tròn. 5. Nhà khách: mới được xây dựng năm 2012, diện tích 283,5m2 có mặt bằng chữ nhất, kiến trúc đao mái, phù hợp với kiến trúc cổ truyền thống. 6. Hồ sen: nằm ở vườn trước tháp Bình Sơn, hiện đang trồng sen 7. Cổng vào khu di tích: gồm 4 cột trụ xây gạch, gắn 2 cánh cổng sắt ở lối chính giữa, hai lối bên rào tạm bằng cây, tre mang tính chất là cổng bảo vệ. 8. Một số trang trí của Tháp Bình Sơn Sư tử hý cầu: một trong những đồ án gây thắc mắc cho các nhà nghiên cứu là "sư tử hý cầu”, vì nó khác xa những con "sấu đớp ngọc" đội toà sen ở các bệ Phật thời Lý. Rồng: có sừng, uốn trong “ổ”, đầu quay vào giữa vòng tròn, thân không cuộn khúc mà lượn thành hình sin, do đó không "thắt túi", chân đạp ra ngoài, hoặc vắt qua thân để đạp ra ngoài, sống lưng hình “răng cưa” một chân trước đưa lên nắm "tóc"... Một số chi tiết vừa nêu phảng phất bóng dáng những con rồng cuối Trần, nhưng các chi tiết khác lại không cho phép quy con rồng trên tháp Bình Sơn vào một kiểu thức nhất định nào cả. Điều quan trọng hơn là rồng Bình Sơn thường đưa chân trước lên nắm tóc, trong một tư thế ngộ nghĩnh, rất nghịch ngợm, do đó khá "dân gian": trong trường hợp này, nó đã mang phong cách của mô - típ rồng vuốt râu thời hậu Lê. Lá đề: là một loại hình tương đối phổ biến, với những hoạ tiết hàm nhiều ý nghĩa. "Lá đề” Bình Sơn thuộc nhiều kiểu thức, nhưng kiểu nào cũng đơn giản, không thực trau chuốt như "lá đề" thời Lý. Hoa cúc dây: đã có từ thời Lý dưới dạng uốn thành khung tròn, lòng khung chứa gọn các đồ án trang trí khác. Thời Trần kế thừa bố cục ô tròn đó. Đấu ba chạc (con sơn): một điểm đáng quan tâm là đấu này đã thấy xuất hiện từ thời Lý (Tháp Chương Sơn, Nam Định) chúng càng phổ biến hơn ở dưới thời Mạc (Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội). Tháp Bình Sơn có nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Tháp Bình Sơn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, mà còn có giá trị mỹ thuật cao được gọi là “Hòn ngọc báu của kho tàng dân tộc”, trên các hòn gạch có rất nhiều loại hoa văn trang trí, chỗ hình tròn, chỗ lượn vòng tròn, chỗ sâu, nông, chỗ đậm… chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện. Tháp Bình Sơn là một công trình có kiến trúc độc đáo, theo đánh giá của người Pháp đây là một cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Hiện nay, Lễ hội tại Khu di tích Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh được địa phương tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm, gọi là “Lễ hội chùa tháp”, bao gồm những nghi thức: rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và những chương trình văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian (cờ tướng, cờ người, chọi gà...) Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015 . Nguồn: Cục di sản văn hoá
Vĩnh Phúc 2401 lượt xem
Hương Canh vốn là tên một xã của huyện An Lãng, trấn Sơn Tây đời Hậu Lê, rồi được lấy làm tên tổng thời Nguyễn và tên của thị trấn ngày nay - thị trấn Hương Canh (thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Theo dân gian, Hương Canh còn được gọi là Tam Canh bởi đây là tên chung của ba làng Canh gồm: Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh. Địa danh Hương Canh còn có tên nôm cổ là Kẻ Cánh. Tên gọi này bắt nguồn từ giống lúa của địa phương, thứ lúa có hai tia nhọn ở hai bên hạt thóc. Người ta gọi hai tia nhọn ấy là CÁNH và hạt thóc có tên là GIÉ CÁNH được lấy chữ CÁNH làm danh xưng của làng. Ban đầu ở đây mới có một làng Hương Canh, dần dần dân số phát triển mới tách thêm làng lấy tên là Ngọc Canh - nơi có thứ lúa Gié Cánh, hạt gạo đẹp như ngọc. Sau cùng, khi cả hai làng Hương Canh (lúa Cánh thơm), Ngọc Canh (lúa Cánh đẹp) cư dân đông đúc, mới mở rộng sang phía Tây và Tây Bắc thêm một làng nữa và lấy tên là Tiên Canh với nghĩa “lúa Cánh sớm”. Ba ngôi đình của ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh đều được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia và hiện đang trong quá trình lập hồ sơ đề nghị xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt. Các đình tọa lạc tại vị trí cách nhau từ 50m đến 100m, tạo thành quần thể di tích hoành tráng, kề sát quốc lộ 2A, thuận lợi cho tham quan, du lịch và hành hương. Về các nhân thần được thờ, theo truyền tụng của nhân dân địa phương, sau khi đánh bại quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc Hà Nội). Đất nước đã độc lập, hòa bình nhưng Ngô Quyền vẫn không quên đề cao cảnh giác, luyện tập binh mã để phòng giặc. Bấy giờ săn bắn cũng là một hình thức tập trận, nên có lần Ngô Quyền đã cử hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn cùng vị tướng thân cận Đỗ Cảnh Thạc mang quân đi tập trận dưới hình thức đi săn. Họ đã hành quân qua Hương Canh, đóng doanh trại tại một gò đất giữa đồng, nhân dân gọi là Gò Ngự. Để ghi lại dấu thiêng và tri ân các vị anh hùng nhà Ngô, nhân dân Hương Canh đã lập ở Gò Ngự một ngôi miếu để thờ các vị, theo quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” (sống là tướng giỏi - chết là thần thiêng). Đến thời Hậu Lê, nhân dân ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh lại xây dựng mỗi làng một ngôi đình, rước thần hiệu về thờ ở đình và hàng năm đều mở hội, tế lễ như hiện nay. 1.Đình Hương Canh Được hình thành sớm nhất nên làng Hương Canh xây dựng đình trước hai làng còn lại. Tuy không to hơn đình Ngọc Canh và đình Tiên Canh, nhưng đình Hương Canh được gia công, thể hiện nhiều hơn về trang trí, chạm trổ. Đình tọa lạc ở phía Nam thị trấn Hương Canh, mặt tiền hướng Tây Nam, nhìn ra hồ Điếm Lang, đấu trường kéo song và sông Cầu Treo. Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lịch sử, gần 300 năm nay đình Hương Canh vẫn đứng đó như thách thức với nắng mưa, chống chọi với thiên nhiên về bộ mái đồ sộ, duyên dáng của mình. Mái đình lợp bằng ngói mũi hài, được xếp đặt một cách thứ tự theo kiểu đóng ốc vảy rồng, rất chặt chẽ, phẳng đẹp. Bờ nóc đình được đắp thẳng ke, các đầu đao cong vút. Toàn bộ mái đình trông như một cánh diều khổng lồ đang động đậy, sắp sửa bay lên không trung. 2.Đình Ngọc Canh được kiến tạo vào thời Hậu Lê, trùng tu vào đầu triều Nguyễn. Trên câu đầu thứ nhất ở đình Ngọc Canh có 2 vế chữ chạm nổi: “Gia Long thập nhị niên, tuế tại Quý Dậu, thập nguyệt, nhị thập lục nhật y cựu thượng lương, trùng tu thổ mộc Giáp Tuất niên, ngũ nguyệt, thập ngũ nhật hoàn thành, hòa ninh đại cát”. (Nghĩa là: Năm Gia Long thứ 12 là năm Quý Dậu, ngày 26 tháng 10, dựng cây nóc như cũ. Chữa lại mộc, ngõa năm Giáp Tuất. Ngày 15 tháng 5 hoàn thành, mong hòa thuận tốt lành). Tính theo dương lịch, Quý Dậu là năm 1813 và Giáp Tuất là năm 1814, việc trùng tu kéo dài 7 tháng. Câu đầu thứ hai khắc là: “Minh mệnh nguyên niên, tuế tại Canh Thìn, lục nguyệt, thập nhất nhật, khởi công trang sức kim chu, chí thập nguyệt, thập nhật, hoàn thành đại cát đại vượng” (Nghĩa là: Năm Minh Mệnh thứ nhất là năm Canh Thìn, ngày 11 tháng 6 khởi công, sơn vẽ vàng son, đến ngày 10 tháng 10 hoàn thành, mong tốt lành lợi vượng). Tính theo dương lịch, Canh Thìn là năm 1820, niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất. Việc trang trí kéo dài 4 tháng. 3.Đình Tiên Canh được xây dựng sau cùng, song đình Tiên Canh có quy mô lớn hơn hai đình Ngọc Canh và Hương Canh. Về niên đại xây dựng, khi dỡ thượng lương nhà hậu xuống để phục chế, nét chữ khắc còn rõ rành rành “Cảnh Hưng tam thập thất niên, tuế thứ Bính Thân, thập nhị nguyệt, nhị thập nhị nhật, hoàng đạo thời, thụ trụ thượng lương đại cát lợi vượng thịnh” (Nghĩa là: Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, năm Bính Thân, tháng 12, ngày 22, giờ hoàng đạo, dựng cây nóc rất tốt lành, lợi vượng nhiều). Chiếu theo dương lịch, Bính Thân là năm 1776. Như vậy nhà hậu của đình được kiến tạo cách ngày nay (2022) đã 300 năm. Câu đầu hữu biên cũ của đại bái khắc “Kỷ Mùi niên, thập nguyệt Ất Hợi, nhị thập nhật Đinh Mùi, Ất Tỵ thời, thụ trụ thượng lượng đại bái” (Nghĩa là: Năm Kỷ Mùi, tháng 10 Ất Hợi, ngày 20 Đinh Mùi, 10 giờ sáng Ất Tỵ, dựng cây nóc nhà đại bái). Như vậy, tòa đại bái đình Tiên Canh được xây cất vào niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, triều Tây Sơn Nguyễn Quang Toản - 1799, cách ngày nay (2022) đã 223 năm, làm sau nhà hậu 23 năm. Đây là 3 ngôi đình cổ tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đình làng Bắc Bộ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Di tích kiến trúc nghệ thuật cụm đình Hương Canh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt ngày 29/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Báo Vĩnh Phúc tổng hợp
Vĩnh Phúc 2380 lượt xem
Đền thờ Trần Nguyên Hãn, còn gọi là đền Tả Tướng hay đền Thượng là một công trình kiến trúc nghệ thuật được xây dựng vào thời Hậu Lê cách đây trên 200 năm. Di tích này gắn liền với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Trần Nguyên Hãn. Ông vốn xuất thân dòng dõi vương tộc nhà Trần và là một vị tướng tài đức song toàn, có công lớn giúp Lê Lợi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đền ở thôn Đa Cai, xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch. Đền thờ Trần Nguyên Hãn Tả Tướng Quốc, phò Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước thế kỷ XV. Đền được xây dựng trên một thế đất bằng phẳng, rộng cao, tương truyền chính là nơi đặt Phủ đệ cũ của Trần Nguyên Hãn. Đền được cấu trúc theo kiểu chữ “Đinh”, xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuôn viên chữ “điền” vuông vắn. Các công trình xây dựng gồm 3 phần: Cổng đền, nhà tiền tế, hậu cung. Từ khi xây dựng đến nay, đền đã được tu sửa nhiều lần và xây dựng thêm, chủ yếu vào đời Nguyễn. Nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn: Đục trơn bào nhẵn, trang trí đơn giản. Liên quan tới di tích tương truyền còn có 2 vật cổ: Thanh Gươm và phiến đá mài gươm. Chuyện kể rằng: Trong thời kỳ giặc Minh thống trị nước ta, Trần Nguyên Hãn mới bước vào tuổi thanh xuân. Vì cha mẹ lên khai hoang lập trại ở địa đầu trang Sơn Đông, nên ngày ngày Trần Nguyên Hãn vẫn đi cày, đi cuốc. Trong một lần đi cày ở nương Gò Rạch, Trần Nguyên Hãn cày lên một thanh sắt dài như gươm. Đêm đêm ông đem gươm ra mài ở một hòn đá lớn bên bờ ao Son, vì vậy hòn đá đó có tên là đá mài gươm, hòn đá có một vết lõm trông tựa như vết chém tương truyền đó là vết chém thử gươm của Trần Nguyên Hãn. Thanh gươm được Trần Nguyên Hãn mang bên người, tình cờ Trần Nguyên Hãn được một ông chủ bè ở cửa sông Phú Hậu tặng một thanh gỗ hình chuôi gươm vớt ở dưới lòng sông, khi cắm lưỡi gươm vào thì vừa khít, thanh gươm từ đó công hiệu. Thanh gươm huyền thoại ấy đã gắn liền với những chiến tích lẫy lừng của vị công thần khai quốc thứ nhất triều Lê. Tương truyền, về sau Tôn Thất Thuyết đã mượn thanh gươm ấy đem đi Cần Vương chống Pháp. Còn phiến đá, sau một thời gian dài bị phù sa sông Lô lấp, ngày 12/1/1998 nhân dân thôn Đa Cai tìm thấy ở độ sâu 2m nghiêng về phía ao sen, chiều dài khoảng 2,49m, chiều rộng khoảng 1,6m, bề dày khoảng 0,4m và nặng khoảng 2 tấn. Phiến đá cổ tích này được chính quyền và nhân dân xã Sơn Đông trục vớt lên, chuyển về đặt trong khuôn viên đền thờ Tả Tướng Quốc để mọi người cùng chiêm ngưỡng dấu tích còn lại của người anh hùng thủa trước. Năm 1984, Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử đền thờ Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn là Di tích quốc gia. Hằng năm, vào những dịp kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của ông, nhất là vào dịp đầu Xuân, nhân dân trong vùng và khắp nơi trong cả nước thường về đây dâng hương tưởng nhớ công lao của người Anh hùng dân tộc. Nguồn: Báo điện tử Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2371 lượt xem
Chùa Hà Tiên tọa lạc trên đồi Hà – thuộc thôn Gia Viễn xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.Xưa xã Định Trung thuộc huyện Tam Dương – Thời Hùng Vương thuộc Phong Châu, thời Trần thuộc lộ Tam Bái, thời Nguyễn thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây; năm 1899, thành lập tỉnh Vĩnh Yên – nay là thôn Gia Viễn, xã Định Trung thuộc thành phố Vĩnh Yên – tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa Hà Tiên được xây dựng năm Quý Mùi (1703), niên hiệu Chính Hòa thứ 24, đời vua Lê Hy Tông Duy Hiệp. Từ xưa đến nay, du khách và Phật tử gần xa mỗi khi đến chùa Hà Tiên không chỉ thắp hương khấn Phật mà còn thành tâm làm lễ trước thánh mẫu cầu cho quốc thái dân an và cuộc sống bình yên. Theo sách xưa, chùa nằm ở thế “sơn chỉ, thủy giao”, hai bên có gò đất lớn án ngữ tựa hình thanh long, bạch hổ. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, bà Lăng Thị Tiêu trên đường hội quân với vua Hùng Vương thứ 7 thấy thế đất lạ nên đã dừng chân để chiêu binh. Sau này bà được tôn phong là Quốc Mẫu Tây Thiên, để tưởng nhớ bà, người dân lập bài vị thờ tại chùa, gọi là Đức Thánh Đại Vương. Chùa Hà Tiên là nơi thờ tam bảo đồng thời cũng thờ tự Quốc Mẫu. Chùa Hà Tiên còn có tên khác là “chùa cầu mưa”. Ngày xưa trong vùng thường xuyên hạn hán. Người dân sống dựa vào nông nghiệp rơi vào cảnh đói khát. Vị trụ trì chùa khi ấy là Tịnh Huân đã cho lập đàn cầu mưa. Hơn thế, vị sư đã nguyện tự thiêu để cầu mưa cho dân vào ngày 30-5 âm lịch. Sau khi phát nguyện trước tam bảo và đất trời, ngài đã tọa trong tư thế kiết già rồi tự thiêu để cúng già chi thiên, cầu đảo cho dân. Đến ngày 1-6, sau một ngày tự thiêu, thì trời mưa lớn và kéo dài liên tiếp 3 ngày. Và từ đó, hàng năm cứ đến ngày giỗ của sư tổ, trời thường đổ mưa. Vô cùng ghi nhớ công ơn của bậc chân tu, người dân đã dựng ngôi tháp bảo ba tầng để lưu trữ tro cốt của ngài. Hiện trong vườn mộ tháp của chùa có 8 ngôi tháp. Phần lớn những bảo tháp vẫn còn nguyên với 3 tầng chính. Các tháp cao khoảng 3m, có 4 mặt, dựng bằng gạch nung đỏ kết dính bằng nguyên liệu từ nhựa cây kết hợp đất sét nhão. Dù 8 ngôi tháp đều lưu giữ báu thân của các vị cao tăng, tuy nhiên, ở tháp của ngài Tịnh Huân lại đặc biệt hơn do được bao phủ bởi một cây sanh. Cây sanh lâu năm vẫn xanh tốt, mọc rất nhiều rễ, bao trùm gần trọn 3 mặt của bảo tháp. Trong chùa còn có giếng cổ (giếng Ngọc) có dòng nước lành mát. Ngày xưa, vào mùa hạn, những giếng khác đều cạn, riêng giếng cổ vẫn còn nước, vì thế người dân trong làng phải ra giếng cổ múc nước. Giếng chùa Hà Tiên “trong xanh, mạch thủy nhiệm màu” nên các cụ xưa vẫn ví von: “Dù ai có xấu như ma/ Uống nước chùa Hà lại đẹp như tiên”. Hàng năm, vào những ngày lễ lớn, khách thập phương đến chùa lễ Phật đều xin nước ở giếng Ngọc, mang về thắp hương và uống dần, nhất là những ngày đầu xuân. Người ta tin rằng có nước giếng cổ để sử dụng dịp Tết sẽ mang đến nhiều điều may mắn. Với những giá trị về lịch sử và văn hóa được nêu khái quát trên, chùa Hà Tiên đã được UBND tỉnh Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc) ra quyết định xếp hạng là di tích Lịch Sử Văn Hoá cấp tỉnh, năm 1995. Nguồn: Cổng thông tin điện tử TP Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2223 lượt xem
Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Tây Thiên - Tam Đảo (Khu danh thắng Tây Thiên) thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Tây Thiên nằm trong thung lũng lòng chảo của sơn hệ Tam Đảo, có độ cao từ 54m đến 1.100m so với mực nước biển, phạm vi phân bố khoảng 11km2 với cảnh quan đẹp và hùng vĩ. Tam Đảo dùng để chỉ 3 ngọn núi (trong dãy núi) liền nhau đột ngột nổi lên, bồng bềnh trong mây, tựa như 3 hòn đảo trong biển mây phủ, theo địa chí cổ đó là Phù Nghì cao 1.250m; Thiên Thị (Kim Thiên) cao 1.585m; Thạch Bàn cao 1.585m. Khu di tích và danh thắng Tây Thiên nằm trên sườn ngọn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo trong khoảng chiều dài 11km, chiều ngang 1km, là một quần thể di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, bao gồm hệ thống các đình, chùa có giá trị văn hóa và khảo cổ như đền Thượng, đền Thõng, đền Mẫu, đền Cậu, đền Cô... Nơi đây tập trung mật độ lớn dấu vết cũ cũng như các công trình văn hóa, các địa chỉ có giá trị nghiên cứu khảo cổ học nằm ẩn mình dưới những cánh rừng già dọc theo con suối Tây Thiên... Đền Thõng: là kiến trúc khởi đầu cho cả hệ thống di tích Tây Thiên. Đền nằm ở chân núi, trên một nền cao rộng, được dựng theo phong cách cổ truyền. Hệ thống bậu đá chạy dài suốt mặt trước, với ba lối lên, phân cách bởi bốn rồng lớn. Tiếp theo là nghi môn tứ trụ, mới được dựng lại theo kiểu thức truyền thống, với chất liệu bằng đá. Sau nghi môn trụ là sân đền, rất rộng, được lát đá. Ngôi điện chính có kết cấu mặt bằng hình chữ Đinh, gồm tiền bái, với ba gian hai chái lớn, phần “chuôi vồ”, nơi đặt bàn thờ của Thánh Mẫu có ba gian dọc. Đền Cậu - đền Cô: vượt qua đền Thõng bằng con đường đá xếp gập ghềnh men theo bờ suối khoảng hơn 1km tới đền Cậu. Ở nơi đó đã từng có một miếu nhỏ, nay được thay bằng một căn nhà có vẻ đơn sơ làm nơi thờ. Trung tâm của chính điện, có tượng của ba cậu bé cửa rừng đặt trong khám. Đền Cậu khởi nguồn là khe Trường Sinh, tương truyền là nơi “Cậu” ngự lại chiêu mộ và nuôi quân để đi theo phò Quốc Mẫu. Đền được tu sửa lại vào năm 1993. Đền Cô, cách đền Cậu khoảng 2km, gần thác Bạc, bên dòng Giải Oan (phần trên suối Trường Sinh), để chúng sinh rũ bỏ bụi trần mà nhẹ tâm tiếp bước lên miền thánh thiện. Đền Cô cũng có niên đại lâu đời và hiện đang thờ Cô Bé, tương truyền là một vị con nhà Trời đã cùng Quốc Mẫu giúp dân giúp nước. Cảnh sắc nơi đây thanh nhã, khoáng đãng và yên bình với thảm thực vật phong phú cùng khí hậu quanh năm trong lành, mát mẻ. Dòng suối Giải Oan cùng giếng nước cổ sát chân đền tăng thêm vẻ tịch mịch và thanh tĩnh cho không gian nơi đây. Nếu ai lấy nước từ đó dâng lên cùng lễ vật rồi uống sẽ thấy trong lòng thư thái, thanh thản và tịnh tâm đến lạ lùng. Khu vực đền Thượng: Hiện nay, đây là khu vực tâm linh chung của cả tín ngưỡng dân gian và tôn giáo, mà trung tâm là điện thờ Quốc Mẫu Tây Thiên. Đền Thượng: Những tầng bậc xen nhau của mạch núi nơi đây đã tạo nên nền của các điện thờ khác nhau, trong đó, đền Thượng nằm ở chính tâm, lưng tựa vào ngọn Thạch Bàn, hai bên là hai tay núi chạy xuống, phía trước rộng thoáng. Nơi đây, mây vờn núi, cây cối tốt tươi, chim muông tụ hội, khe suối reo vui, tạo thành một trong những miền Thánh địa của dãy núi Tam Đảo. Đền Thượng quay mặt về hướng Tây – Nam; Nghi môn được kết cấu theo kiểu tứ trụ, có tường nối giữa trụ lớn và trụ bên, chỉ để một cửa giữa cho khách hành hương ra vào. Trên các tường này đắp thanh long (rồng xanh), bạch hổ (hổ trắng) và cây cỏ tượng trưng cho bốn mùa. Sân lát đá ở giữa có thần đạo, tạc ba chữ lớn Phúc, Lộc, Thọ (nối dọc) dẫn vào bậc thềm lên điện. Kiến trúc này có mặt nền kiểu chữ Đinh, kết cấu ba gian, hai chái lớn. Nhìn mặt trước, kiến trúc khá cân đối với hai tầng “chồng diêm” tám góc mái cong duyên dáng. Ở phần “chồng diêm” gian giữa treo một bức hoành phi lớn, đề “Đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên” bằng Quốc ngữ. Trên chính điện chỉ một pho tượng Bà ngồi ở trên bệ trung tâm, mang dáng vẻ uy nghi, sang trọng, hai chân buông thẳng, hai tay tì trên gối, tay phải cầm quạt gấp. Ngoài ra, tại khu vực này còn có các công trình mới xây dựng như: miếu Sơn thần, đền Cô Chín, đền Địa Mẫu, đền Tam tòa Thánh Mẫu, Tả/ hữu vu. Đền thờ thần núi Tam Đảo: Sự tích kể rằng, thần đã âm phù cho cuộc cầu đảo dưới thời Trần Nhân Tông (1279 - 1293) nên được vua phong là “Thanh Sơn Đại Vương”. Đến thời Lê Sơ, đời vua Nhân Tông, niên hiệu Thái Hoà thứ 8 (1450), vua sai đại thần Lê Khắc Phục lên tế thần, ông có để lại tấm bia ma nhai (khắc vào vách núi) ghi lại sự kiện này (cách đền khoảng gần 700m theo lối mòn). Bia đá chữ: một di vật lịch sử có giá trị, là tấm bia ma nhai ở khu vực mà người dân địa phương gọi là Bia đá chữ. Tấm bia này trước đây được nhiều người biết đến nhưng chưa ai công bố bởi những khó khăn trong việc đi lại tiếp xúc với hiện vật. Qua khảo sát thực tế, đó là bài văn bia được khắc trực tiếp vào giữa một phiến đá màu ngà, chiều dài khoảng 5m, cao khoảng 3m. Cả phiến đá nằm nghiêng bên bờ suối, tạo ra hình vòm, tựa như hàm ếch, khiến cho phần chữ của bia khắc ở giữa hàm ếch không bị bào mòn bởi mưa nắng. Bia đá chữ có tổng cộng 121 chữ Hán, chữ khắc theo hàng dọc, phân bố trên 11 dòng, dòng nhiều 16 chữ, dòng ít 3 chữ. Chữ dùng theo thể khải thư, với đặc điểm chữ khắc sâu, dễ đọc. Duy ba chữ Bát nhã tuyền (Suối Bát nhã) đặt ở cuối bia được khắc to. Với giá trị tiêu biểu trên, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Tây Thiên - Tam Đảo (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục di sản văn hoá
Vĩnh Phúc 2084 lượt xem
Chùa Cói, xưa thuộc làng Cói xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, nay thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên. Di tích chùa Cói là một tổ hợp đầy đủ của một Phật đường bao gồm: Tam quan, chùa và tháp. Tam quan chùa Cói với kiến trúc gồm 3 gian nhỏ, gọn, có hệ thống chịu lực chính là 10 cột đá xanh nguyên khối được đẽo gọt công phu, đường kính 0,25m, cao 2,0m, có 3 hàng chân cột, trong đó 2 cột cái gian chính giữa sử dụng cột gỗ lim kéo dài vượt lên làm cột chung cho 2 vì nóc theo lối kiến trúc kiểu chồng rường, thay cho hàng con rường dưới ngoài cùng là đầu bẩy gỗ đua ra đỡ lấy tàu mái, 4 góc mái là các đầu đao cong vút, uyển chuyển ẩn hiện trong vòm lá xanh hữu cảnh đa tình. Trên 2 cột đá gian chính giữa được vát phẳng một mặt, lần lượt có ghi lạc khoản, tuy qua năm tháng đã phai mờ nhưng quan sát kỹ còn nhận đọc được “Canh Tý, mạnh xuân, cát nhật”. Theo tư liệu của Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam thì tam quan chùa Cói được xây dựng cùng với chùa Cói vào thế kỷ XIII. Chùa Cói nguyên gốc không còn, nay chỉ còn 12 pho tượng cổ được lưu giữ tại ngôi chùa được xây dựng lại vào năm cuối thế kỷ XX, gồm: 3 pho tam thế Phật, bộ Di đà Tam Tôn ( A Di đà, Quan thế âm và Đại thế chí Bồ tát), tượng A Nan Đà Tôn Giả và Phật Tổ Thích Ca thuyết pháp, tất cả đều bằng gỗ, sơn son thếp vàng, phong cách điêu khắc tượng tròn cuối thế kỷ XVIII. Tháp: Một loại hình kiến trúc Phật Giáo, một trong những đặc trưng của đạo phật, tháp có thể là nơi chứa đựng Xá Lị, tranh, tượng hoặc có ý nghĩa tượng trưng, ví như: 4 bậc thang lên tháp thể hiện khái niệm là từ – bi – hỉ – xả hay 10 bậc là tượng cho thập địa,…Các tầng tháp thể hiện các phương tiện hoằng hoá phật pháp. Nếu là tháp mộ thì tượng cho mộ tăng hay ni, hoa sen 5 cánh tượng trưng cho “Ngũ Phật”. Tháp Cói có 7 tầng, cao 7,70m, thu dần từ đế lên đỉnh, cứ mỗi tầng thu rút 20cm cả mỗi cạnh vuông và chiều cao (1 cạnh vuông chân đế dài 1,70m) – gạch xây tháp là gạch Bát Tràng, loại gạch bìa vuông, dày 3cm, các viên gạch ở 4 góc tháp đều được tạo vát lên làm cho cây Tháp có dáng cong thanh thoát nhẹ nhàng, vữa kết dính được chế từ vôi vỏ sò trộn mật mía – thân tháp được trát kín một lớp vữa bảo vệ. Tương truyền. tháp Cói được xây dựng khoảng giữa thế kỷ XVIII, có liên quan tới sự kiện về cuộc khởi nghĩa của Quận Hẻo (Nguyễn Danh Phương, 1740 – 1751) rằng: Chỉ qua một đêm, Nguyễn Danh Phương cho quân xây xong cây tháp và cả quán Tiên, nhằm gây thanh thế và thu phục nhân tâm chống lại triều đình Lê Trịnh, qua hàng trăm năm, một màu rêu phong cổ kính bao trùm toàn bộ cây tháp càng tăng thêm sự gợi mở mong muốn tìm hiểu về một loại hình kiến trúc phật giáo ở Vĩnh Phúc. Như vậy, chùa Cói được xây dựng từ thế kỷ XIII, đến thế kỷ XVIII sau khi dựng 2 cây tháp (nay chỉ còn một, do chiến tranh huỷ hoại) trở thành một tổng thể kiến trúc có giá trị nghệ thuật được Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng là di sản văn hoá có giá trị ở Việt Nam (năm 1939). Nằm trong một quần thể các di tích: Đình Đông Đạo, Quán Tiên, đình Tiên, chùa Hạ, cầu đá…và ở vị trí trung tâm của thị xã Vĩnh Yên, chùa tháp Cói sẽ là điểm đến tham quan, nghiên cứu của đông đảo du khách gần, xa trong và ngoài tỉnh. Nguồn: Trung tâm thông tin và xúc tiến du lịch Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2079 lượt xem
Đình Thổ Tang thuộc thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đình được tạo dựng từ thế kỷ XVII, trải qua thời gian, đến nay còn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn kiểu thức kiến trúc thời Hậu Lê. Đình thờ danh tướng Lân Hổ, có công đánh giặc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII. Tương truyền, theo lệnh Vua Trần, Lân Hổ đã dẫn quân lên vùng Gia Ninh (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) lập phòng tuyến, bày binh bố trận, chỉ huy quân sĩ chiến đấu anh dũng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ kinh đô Thăng Long. Hiện nay suốt một dải từ Dục Mỹ- Sơn Vi (Phú Thọ) đến Vĩnh Tường - Yên Lạc (Vĩnh Phúc) có hệ thống di tích thờ Lân Hổ. ở xã Thổ Tang có Miếu Trúc, đình Thổ Tang, đình Phương Viên, trong đó đình Thổ Tang là trung tâm để tổ chức lễ hội cùng những trò diễn, hèm tục tưởng niệm về vị tướng tài Lân Hổ và cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước của dân tộc ta thời Trần. Đình Thổ Tang được xây dựng với quy mô đồ sộ, gồm hai toà kiến trúc bố cục theo hình chữ "đinh". Đại đình 5 gian 2 dĩ 6 hàng chân, hậu cung 2 gian. Toàn đình đếm được 60 cột, làm bằng gỗ tốt đại khoa. Cột cái có đường kính 0,80m, cột con đường kính 0,61m. Nền đình dài 25,80m, rộng 14,20m, bó đá xanh xung quanh. Kết cấu kiến trúc kiểu tứ trụ, chồng rường giá chiêng, gia cố bền chắc. Đình Thổ Tang hiện còn 21 bức chạm khắc gỗ hết sức tinh tế, được thể hiện trên các thành phần kiến trúc: Thân kẻ, thân bẩy, thân rường, nội dung phong phú, khái quát về chu trình: lao động - làm ăn - hưởng thụ của cư dân nông nghiệp, của nhân dân ta thời Lê Trung hưng. Các bức chạm ở đây được sắp xếp thứ tự theo chu trình đó. Bước vào cửa đình thì thấy ngay bức chạm đầu tiên là "ngày hội xuống đồng" (lễ tịch điền) rồi lần lượt đến các bức "bắn thú dữ" để bảo vệ mùa màng, thôn xóm. Cảnh vui chơi giải trí có: "đá cầu", "chơi cờ", "uống rượu", "người múa". Cảnh sinh hoạt gia đình có: "trai gái tình tự", "gia đình hạnh phúc". Phê phán những thói hư tật xấu có: "đánh ghen", "vợ chồng lười". Trang trí thờ phụng gồm các bức: "cửu long tranh châu", "bát tiên quá hải" và nhiều hình rồng, phượng khác. Theo đánh giá của các nhà sử học, Thổ Tang là nơi duy nhất của nước ta thờ ba chữ “Hòa vi quý”. Ba chữ đại tự này đến ngày nay vẫn còn khá nguyên vẹn. Chữ được sơn son thếp vàng trên nền màu gỗ nâu sậm. Hai bên hoành phi là hai dòng chữ nhỏ ghi thời điểm khắc chữ. Chính vì sự linh thiêng như vậy mà từ khi được xây dựng tới thời điểm hiện tại đình Thổ Tang chưa từng bị kẻ xấu xâm hại. Trải qua 400 năm trải qua mọi biến cố thăng trầm mà ngôi đình vẫn nguyên vẹn từ cột lim đến viên ngói vảy hến. Đình Thổ Tang được xếp hạng Di tích cấp quốc gia năm 1964. Đình Thổ Tang là một trong những ngôi đình đạt đến đỉnh cao về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian thời Hậu Lê, là di tích được xếp hạng quốc gia sớm nhất ở Vĩnh Phúc, mấy thập kỷ qua luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học, sự quan tâm bảo vệ tu bổ của Nhà nước các cấp, chính quyền và nhân dân địa phương. Nguồn: Cổng thông tin điện tử giao tiếp Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2006 lượt xem