Vietnam V

điểm di tích

Khu tưởng niệm anh hùng Lý Tự Trọng

Khu Tưởng niệm anh hùng liệt sỹ Lý Tự Trọng thuộc địa phận thôn Tân Long, xã Việt Xuyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Đây là công trình của tuổi trẻ cả nước và nhân dân tỉnh nhà nhằm tri ân sự hy sinh anh dũng của anh hùng liệt sỹ Lý Tự Trọng – người đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản đầu tiên. Anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng, sinh năm 1914 tại Bản Mạy, thuộc tỉnh Nakhon Phanom - Thái Lan, nguyên quán huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Anh sinh ra trong gia đình có bố mẹ đều là những Việt kiều yêu nước. Sinh ra trong cảnh “nước mất nhà tan”, gia đình phải phiêu bạt sang Thái Lan sinh sống, luôn mang trong mình nỗi niềm thương nhớ quê nhà nơi đang bị kẻ thù xâm lược. Từ khi còn nhỏ, Lê Hữu Trọng là người chăm chỉ, ham học hỏi và sớm giác ngộ cách mạng, Anh là một trong 8 thiếu nhi được Hồ Tùng Mậu lựa chọn đưa sang Quảng Châu - Trung Quốc học tập và hoạt động trong hội thanh niên yêu nước, tại đây Lê Hữu Trọng được đồng chí Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Lý Tự Trọng. Sau khi về nước hoạt động. Năm 1931, trong buổi mít tinh kỷ niệm một năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái tổ chức tại Sài Gòn, Lý Tự Trọng đã bắn chết viên mật thám Le Grand để bảo vệ diễn giả Phan Bôi đang diễn thuyết tại Quảng Trường Lareni. Anh bị địch bắt sau đó và bị kết án tử hình khi mới 17 tuổi. Dù ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng anh hùng Lý Tự Trọng đã để lại cho các thế hệ thanh niên Việt Nam một di sản quý giá, đó chính là lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và nhiệt huyết tuổi trẻ. Lý Tự Trọng đã đi vào lịch sử với câu nói nổi tiếng trước tòa án kẻ thù, “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác”, đã trở thành kim chỉ nam, là tấm gương sáng chói cho lớp lớp thanh niên Việt Nam học tập và noi theo. Ngày 30/4/2011, 80 năm sau ngày mất, hài cốt của Anh được tìm thấy và đưa về an táng tại quê nhà. Thể theo nguyện vọng tha thiết của cán bộ, chiến sỹ, nhân dân Hà Tĩnh và đoàn viên thanh niên cả nước, Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng Khu tưởng niệm Lý Tự Trọng tại xã Việt Xuyên, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là công trình tri ân đối với người thanh niên cộng sản trẻ tuổi; có ý nghĩa lịch sử, văn hóa tâm linh; giáo dục truyền thống cho thanh thiếu nhi cả nước. Ngày 20/10/2011, nhân kỷ niệm 97 năm ngày sinh của anh hùng Lý Tự Trọng, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Hà Tĩnh đã tổ chức Lễ khởi công xây dựng Khu tưởng niệm. Đến ngày 20/10/2014 công trình được hoàn thành đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Anh. Nguồn: Trung Tâm Lưu Trữ Lịch Sử Tỉnh Hà Tĩnh

Hà Tĩnh 5 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đồn Phai Khắt

Đồn Phai Khắt thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, cách khu rừng Trần Hưng Đạo 7km. Tại đây, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị, Đội xây dựng kế hoạch tổ chức một trận đánh để “cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của cả một dân tộc đang bị nô lệ, đang sục sôi ý chí vùng lên”, đồng thời “khắc phục tình hình thiếu vũ khí trang bị”. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội thảo luận kỹ lưỡng để làm rõ vấn đề: "Đánh vào đâu và đánh như thế nào, để chỉ với một lực lượng nhỏ nhưng có thể giành được thắng lợi to lớn về chính trị và quân sự, đồng thời hạn chế tổn thất về người và vũ khí của ta. Sau khi bàn bạc các phương án, Ban chỉ huy Đội quyết định “phải tập kích vào đồn trại của địch để chiếm lấy đạn dược”, mục tiêu là đồn Phai Khắt và Nà Ngần. Lực lượng đánh đồn gồm hai tiểu đội, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp). Ngoài ra, còn có sự tham gia của du kích và cán bộ Việt Minh địa phương làm nhiệm vụ canh gác các ngả đường vào bản. Để đột nhập thuận lợi, đồng chí Võ Nguyên Giáp cho chuẩn bị sẵn Giấy đi tuần giả, có đóng dấu đỏ để phục vụ trận đánh. Đến chiều ngày 24/2, lực lượng tham gia trận đánh cải trang thành lính dõng, hành quân về Phai Khắt. Sau khi nhận được tin Đồn trưởng Simônô lên châu lỵ Nguyên Bình, 17 giờ ngày 25/2, “Đội xếp” Thu Sơn dẫn quân tiến vào đồn một cách dễ dàng. Đội nhanh chóng chia làm hai mũi: Tiểu đội 1 đánh chiếm nơi để súng, Tiểu đội 2 bao vây đồn. Trong khi bọn địch chưa kịp phản ứng, đồng chí Thu Sơn hô lớn: “Rát-săm-măng” (tập hợp), 17 tên lính và tên cai ra tập hợp giữa sân. Địch bị bất ngờ, không kịp trở tay, nhanh chóng đầu hàng. Trận đánh diễn ra nhanh chóng, tên Simônô từ Nguyên Bình trở về cũng bị tiêu diệt. Kết quả, ta tiêu diệt 1 tên và bắt sống 17 tên địch, thu được 17 khẩu súng, một ít đạn và quân trang. Sau khi hạ được đồn Phai Khắt, ngay trong đêm 25/12, Đội khẩn trương hành quân tới xã Cẩm Lý (cách Phai Khắt 15km), nơi có đồn Nà Ngần. Đội tiến hành rút kinh nghiệm và biểu dương các đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời phổ biến lại kế hoạch tiến công vào ngày hôm sau. Do địa thế đồn Nà Ngần hiểm trở, nên Đội quyết định cải trang làm một toán lính dõng, lính khố đỏ áp giải ba Cộng sản Mán đến giao nộp cho quan đồn. Lực lượng đánh đồn Nà Ngần là toàn bộ đội viên đã tham gia đánh đồn Phai Khắt. Khoảng 7 giờ sáng ngày 26/12, đồng chí Thu Sơn cùng tổ xung phong dẫn ba cộng sản bị trói vào đồn cùng với lá cờ tam tài (Đội lấy được ở đồn Phai Khắt). Bọn lính tưởng thật vội bố trí 6 lính và tên cai ra xếp hàng đón theo nghi thức nhà binh. Sau khi cả Đội tiến vào đồn, theo kế hoạch đã phân công, bốn chiến sĩ tiến tới gian giữa án ngữ giá để súng. Đồng chí Thu Sơn và Bế Văn Sắt nói chuyện với tên Đường để đánh lạc hướng. Tiểu đội 2 chặn các cửa đồn, sau đó chia thành từng tổ vây bắt tù binh. Tiểu đội 3 vừa bắn chỉ thiên vừa gọi địch đầu hàng. Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt 5 tên, bắt 17 tên, thu 27 súng và nhiều đạn. Trong trận này, đồng chí Nông Văn Bê bị thương nhẹ. Sau khi hạ đồn xong, Đội nhanh chóng thu gom súng đạn, tài liệu và phát truyền đơn biểu ngữ cho nhân dân. Tốp tù binh được tập hợp ở giữa sân, hai nữ đồng chí Cầm và Thanh giải thích bằng tiếng Tày cho họ hiểu chủ trương chính sách đánh Pháp, Nhật, cứu nước của Việt Minh, kêu gọi họ quay súng vào Pháp-Nhật để giành độc lập cho dân tộc. Sau khi được nghe chính sách của Việt Minh, một số tù binh xin đi theo cách mạng còn đa phần xin được trở về quê. Trong hai trận đánh đầu tiên, Đội sử dụng chiến thuật “tiến công bằng lối hoá trang kỳ tập (tập kích) đã mở đầu một cách xuất sắc trang sử chiến thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam”. Hoá trang kỳ tập là lối đánh tốn ít súng đạn, thương vong thấp song hiệu quả chiến đấu cao. Hai trận đánh đầu tiên, ngoài việc tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đồn, Đội còn thu được nhiều vũ khí, quân trang. Quan trọng nhất là Đội giành thắng lợi theo đúng Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Trận đầu nhất định phải thắng lợi”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Cao Bằng

Cao Bằng 16 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Thành Tân Sở

Di tích Căn cứ Thành Tân Sở nằm ở làng Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ. Di tích Căn cứ Thành Tân Sở được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Quốc gia vào ngày 16 tháng 1 năm 1995. Đây là một di tích thành lũy quân sự cuối cùng của triều đại phong kiến triều Nguyễn ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng của phong trào Cần Vương chống Pháp đầu thế kỷ XX. Tân Sở là một vùng đất biệt lập với đồng bằng và xa cách với trung tâm các sở lỵ. Bao quanh bốn phía là các đỉnh núi, dãy đồi tự nhiên tạo ra như một vòng thành khép kín. Mặt phía đông hướng ra đồng bằng Triệu - Hải rất thuận lợi cho việc giao lưu với miền xuôi. Các mặt kia đều có những con đường thượng đạo dẫn qua Lào và ra Bắc phòng khi rút lui, vì vậy nơi đây đã được chính quyền quân chủ phong kiến qua các thời kỳ chọn làm đồn trấn ải biên giới, Nha sơn phòng. Đến năm 1883 thì đổi thành Sơn phòng Quảng Trị hay còn gọi là thành Tân Sở. Căn cứ kháng chiến ở Tân Sở bắt đầu xây dựng từ năm 1883 và đến năm 1885 thì hoàn thành. Dưới sự chỉ đạo của các quan: Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Lệ, Đặng Duy Cát, hàng nghìn binh lính, dân phu đã đào đắp miệt mài suốt ngày đêm. Chính từ công việc đào đất, trồng tre để xây dựng căn cứ Tân Sở vốn tốn rất nhiều công sức nhưng nhân dân ta lại không hề nghĩ đến lợi ích riêng mà có câu ca: "Ăn cơm nhà đi vác tre ngà cho quan". Thành Tân Sở có cấu trúc theo hình chữ nhật: chiều dài 548m, chiều rộng 418m, tổng diện tích là 22,9 ha. Thành ngoại có 4 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu đắp bằng đất, phía ngoài có hàng rào cọc nhọn và hệ thống hào bao quanh (sâu 2m, rộng 10m), 4 mặt thành được trồng tre ngà dày đặc gồm bốn lớp cách nhau hàng chục mét, giữa các lớp tre là thành đắp bằng đất. 4 góc thành có 4 giếng nước sâu 20m, bên trong thành ngoại có nhà cửa, trại lính, kho tàng, bãi tập trận của voi ngựa; Ở các cửa và góc thành đều có các đồn lính, ụ súng canh giữ, bảo vệ thành nội. Thành nội được xây dựng bằng gạch vững chắc, chiều dài là 165 m, chiều rộng 100m, tổng diện tích là 1,65 ha. Nội thành có 5 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu và Ngọ Môn giành cho vua và các quan ra vào hành cung. Bên trong thành nội có các khu nhà là nơi ở, làm việc của các quan. Thực dân Pháp sau vụ bị quan quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đã trả thù man rợ. Chúng gây ra vụ thảm sát tàn khốc đối với nhân dân kinh thành Huế, rồi sau đó tức tốc đánh chiếm Tân Sở, bắt cho được vua Hàm Nghi và những người cầm đầu phe chủ chiến. Cuối cùng thì Pháp chiếm được Tân Sở, chúng đã đốt phá, huỷ diệt hoàn toàn. Tân Sở chìm trong biển lửa, báo hiệu sự kết thúc của một kinh đô - một trung tâm đầu não lãnh đạo phong trào Cần vương, ghi lại một mốc lịch sử vô cùng oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc ta, trở thành nơi chứng kiến, ghi nhận tinh thần dân tộc của một vị vua yêu nước - vua Hàm Nghi. Sau hoà bình, Tân Sở ngổn ngang những đống phế liệu chiến tranh và chi chít hàng trăm hố bom. Di tích Căn cứ Thành Tân Sở rất cần được gìn giữ, tôn tạo. Nguồn: Báo Quảng Trị

Quảng Trị 18 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Quảng Bình Quan

Quảng Bình Quan (mới phục chế lại), ở ngay trung tâm phường Đồng Hải giữa bốn ngả đường: phía Tây là đường đi lên Đức Ninh, phía Đông là đường Mẹ Suốt đi xuống bến sông Nhật Lệ, phía Bắc là đường đi Hà Nội, phía Nam là đường đi Huế. Quảng Bình Quan cũng có nhiều tên gọi. Người thì nói đó là cửa vào dinh Quảng Bình, người thì nói Cổng Bình Quan. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép: ’’cửa quan dài hai trượng 1 thước, rộng hai trượng 5 thước; thành ngoài bảo vệ cửa quan dài 14 trượng 6 thước cao 3 thước, năm Minh Mệnh thứ (1826) xây gạch đá…’’ Quảng Bình Quan thời Nguyễn, được đắp bằng đất vào năm 1631, là hệ thống thành lũy cổ được xây đắp để bảo vệ kinh thành Nguyễn. Quảng Bình quan nằm trong hệ thống Lũy Thầy, bao gồm Lũy Trường Dục, Lũy Trấn Ninh, Lũy Nhật Lệ, Lũy Trường Sa kéo dài hơn 30 km. Hệ thống Lũy Thầy do Quân sư chúa Nguyễn là Đào Duy Từ (1572-1634) thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng từ năm 1631-1634, nhằm giúp Chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống lại các đợt tấn công của Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Nơi đây có địa thế tựa núi gần khe rất chắc chắn, ngăn cách với đất Bắc, vô cùng hiểm trở chẳng khác gì đang đi vào đất Thục cả. Dưới thời chúa Nguyễn, người châu Nam Bố Chính hay ở phương Bắc có việc gì, muốn vào dinh Quảng Bình nếu đi đường bộ thì trước hết phải vào Quảng Bình Quan trình giấy tờ rồi mới ngược ra hướng bắc mà vào cửa Nam Môn để nhập thành. Người đi đường thủy thì phải ghé thuyền ở cửa Nhật Lệ, trình giấy tờ ở cửa quan Thủ Ngự rồi cho thuyền lên bến cửa đông mà nhập thành. Quảng Bình quan nằm trấn giữ con đường huyết mạch Bắc-Nam và đường thuỷ từ cửa biển Nhật Lệ vào. Vì thế, mà hơn 7 lần quân của Chúa Trịnh vượt Sông Gianh vào Nam đều bị chặn đứng tại đây. Là chứng tích đau thương của một thời phân tranh đất nước, nhưng Quảng Bình Quan cũng như hệ thống Luỹ Thầy đã thể hiện sự phát triển cao của nghệ thuật kiến trúc thành luỹ quân sự Việt Nam. Nơi này là trung tâm của hệ thống Lũy Thầy, Quảng Bình Quan được xây dựng theo một mô hình kiến trúc độc đáo, kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố, vừa là chiến luỹ phòng ngự chiến đấu kiên cố vững chắc, vừa là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Quảng Bình Quan chính là địa chỉ tin cậy cho các nhà nghiên cứu kiến trúc và quân sự sau này. Vào năm 1825, vua Minh Mạng đã cho trùng tu Quảng Bình Quan và nâng cao thêm tầng tháp canh bằng loại gạch nung kiên cố, sau khi khánh thành nhà vua đã xếp Quảng Bình Quan là một trong những công trình văn hoá lịch sử đặc sắc của đất nước, cho đúc nổi hình ảnh Quảng Bình Quan vào Nghi Đỉnh đặt trước Thế Miếu trong Tử Cấm Thành. Trước Cách mạng tháng 8-1945, Quảng Bình Quan (phía đường Đức Ninh) còn có hào ngoài thành, có cầu gạch vòng qua hào và phía ngã ba giữa hai con đường Đức Ninh và Cầu Rào (ngày xưa thời chúa Nguyễn là đường thiên lý và đường thượng đạo) còn có một âm hồn trên một nghĩa địa lớn. Quảng Bình Quan bị quân đội Pháp phá hủy khi họ rút khỏi Đồng Hới năm 1954, sau đó được xây lại gần giống như cũ. Năm 1965, chiến tranh phá hoại, bị máy bay của Mỹ đánh tan. Hiện nay, Quảng Bình Quan đã được phục chế lại như nguyên bản cách đây hơn ba thế kỷ. Quảng Bình Quan, một di tích kiến trúc có giá trị lịch sử và nghệ thuật, biểu tượng đặc trưng về văn hóa của vùng đất địa linh nhân kiệt. Nguồn: BẢO TÀNG TỔNG HỢP QUẢNG BÌNH

Quảng Bình 17 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn

Khu lưu niệm nhà bác học Lê Quý Ðôn thuộc thôn Ðồng Phú, xã Ðộc Lập, huyện Hưng Hà là nơi lưu giữ, bảo tồn những hiện vật, dấu tích từng gắn bó với nhà bác học - danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Lê Quý Đôn tên thật là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh ngày mùng 5 tháng 7 năm Bính Ngọ, tức là ngày mùng 2 tháng 6 năm 1726 ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Đồng Phú xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Thân phụ là Lê Trọng Thứ đậu Tiến Sĩ làm quan đến Thượng Thư bộ Hình tước Hầu. Thân mẫu là Trương Thị Ích, con gái Tiến sĩ Trương Minh Lượng, làm quan Hoằng phái hầu. Thủa nhỏ Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là thần đồng, năm 1739 theo cha lên kinh đô theo học thày là tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Năm 18 tuổi thi Hương đậu giải nguyên, sau ở nhà dạy học và làm sách. Năm 27 tuổi thi Hội đỗ đầu, thi Đình đỗ Bảng Nhãn. Lê Quý Đôn lần lượt làm việc tại Viện Hàn lâm, Ban Toản tu quốc sử, đi Liêm Phóng tham gia việc binh, đi sứ Trung Quốc, làm việc tại phủ Chúa Trịnh… được thăng dần các chức Hàn Lâm viên chỉ, Tư nghiệp Quốc tử giám, Bồi tụng, Quốc sử tổng tài, Hiệp trấn … Năm 1784 được thăng Thượng Thư bộ Công, tước Nghĩa Phái hầu, cũng năm đó ông bị bệnh về nhà dưỡng bệnh tại quê ngoại là làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc tỉnh Hà Nam) ông mất tại đây ngày 14 tháng 4 âm lịch thọ 58 tuổi. Vợ ông là bà Lê Thị Trang con gái thày học Lê Hữu Kiều, ông có bốn con trai là Quý Kiệt, Quý Tá, Quý Châu, Quý Nghị. Sự nghiệp sáng tác của Lê Quý Đôn rất đồ sộ, ông đã làm khoảng 40 đầu sách các loại bao gồm hầu hết các tri thức đương đại như lịch sử, thơ văn, triết học, chú giải kinh điển, tổng loại… là kho tàng quý của nền học thuật nước nhà. Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn bao gồm ba công trình: Từ đường danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn, lăng mộ Lê Trọng Thứ (thân phụ Lê Quý Đôn), hồ Lê Quý. 1. Từ đường danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn Từ đường bao gồm tòa Bái đường năm gian, toà Trung đường và Hậu cung mỗi toà ba gian.Tiền thân Từ đường xưa là nhà ở của Lê Quý Đôn, khi phụ thân mất, Lê Quý Đôn mới cải thành từ đường, đến đời Lê Quý Kiệt đưa thêm cả bài vị Lê Quý Đôn về cùng ông nội. Dân địa phương quen gọi nơi đây là từ đường Bảng nhãn Lê Quý Đôn. 2. Lăng mộ Lê Trọng Thứ. Lê Trọng Thứ (1693 - 1783), là quan đại thần thời Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là thân phụ nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến Lê Quý Đôn. Lê Trọng Thứ, hiệu Trúc Am tiên sinh, lúc nhỏ học hành rất sáng dạ, nổi tiếng là thần đồng, lớn lên theo học cụ Thám hoa họ Vũ ở Hà Nam. Năm Lê Trọng Thứ 27 tuổi đỗ hương tiến, năm 31 tuổi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái thứ năm (1724), triều vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương, làm quan thanh liêm nổi tiếng trong ngoài, năm 65 tuổi về nghỉ với chức Hộ bộ Hữu thị lang. Ít lâu sau lại được mời ra làm quan lần thứ hai thăng đến chức Thượng Thư bộ Hình, rồi về nghỉ hưu ở tuổi 80. 3. Hồ Lê Quý. Năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765) , ông xin triều đình trở lại quê nhà “đóng cửa viết sách”. Để thư thái, có điều kiện để đọc sách và viết sách, Lê Quý Đôn cho đào một chiếc hồ lớn. Giữa hồ cho đắp một đảo nhỏ, trồng cây cảnh, xây một Thư Lân. Thời gian này ông viết nhiều sách “đặc biệt chú trọng đến địa lí” như : Địa lí tinh ngôn, Địa lí tuyển yếu… Có thể cả chương hình tượng và sản vật trong bộ Vân Đài loại ngữ cũng được chuẩn bị tài liệu từ thời kì này . Khu Lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích quốc gia ngày 12 tháng 12 năm 1986. Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Thái Bình

Thái Bình 25 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Tháp Phổ Minh

Chùa Phổ Minh tên chữ là Phổ Minh tự, là một ngôi chùa tọa lạc ở thôn Tức Mặc , phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Căn cứ vào văn bia sắc phong cũng như các thư tịch cổ thì ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý, đến năm 1262 nhà Trần mở mang quy mô bề thế hơn. Năm 2012 chùa Phổ Minh đã được thủ tướng chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt. Bởi vì phía trước chùa Phổ Minh có một cây tháp nên chùa còn có tên gọi khác là Chùa Tháp, Tháp hay được gọi là Tháp Phổ Minh. Tháp Phổ Minh là một công trình kiến trúc độc đáo. Đây là ngôi tháp lớn nhất, cổ nhất và còn nguyên vẹn nhất của nước Việt Nam. Sách Nam Định tỉnh địa dư chí của tác giả Khiếu Năng Tĩnh có ghi về chùa như sau: “ Thời Trần, vua Nhân Tông sửa lại xuất gia cư trú. Lúc vua mất, Anh Tông xây tòa tháp cao 14 tầng gồm 53 thước, chân mỗi bề 10 thước để cất xá lỵ. Thời Tây Sơn, quan trấn giữ vùng này phá đỉnh tháp hồ lô bằng đồng. Khi phá tới tầng thứ 13 nơi hòn đá thì thấy có một vật hình dải lụa đỏ bay lên trời, bèn không phá nữa…” Ngoài ra trong dân gian còn truyền ngôn nhau câu nói của Phật hoàng Trần Nhân Tông : “ Dù ai tranh bá đồ vương Trẫm xin gửi lại nắm xương chùa này” Vì thế các nhà nghiên cứu cho rằng đây là tháp mộ. Hiện nay trong cả nước chỉ còn ba cây tháp được xây từ thời Trần đó là tháp Phổ Minh (Nam Định), tháp Huệ Quang (Yên Tử, Quảng Ninh) và tháp Bỉnh Sơn (Lập Thạch, Vĩnh Phúc), song Tháp Phổ Minh vẫn là ngọn tháp bề thế hơn, xây dựng công phu, mỹ thuật, kỹ thuật hơn cả. Tháp xây dựng ngay trước khu nhà bái đường nằm theo trục Bắc – Nam. Tháp cao tổng cộng 19,51m gồm 1 kiệu bát cống và 13 tầng. Tháp được xây trên một sân nhỏ hình vuông, mỗi chiều là 8,6m và nằm thấp hơn so với mặt đất 0,45m. Kiệu bát cống là phần đế của tháp được thiết kế hoàn toàn bằng đá xanh mỗi cạnh dài 5,20m. Dưới chân tháp có một băng hoa sen có cánh to cánh nhỏ từ giữa nghiêng dần về góc tháp biểu tượng một đài sen nâng kiệu. Phần dưới bệ đá được tạo dáng cong lên về hai phía làm người ta lầm tưởng do đá bị lún nhưng thực chất là dụng ý xây dựng để tạo đà cho hơn một chục tầng phía trên đều có độ cong như vậy. Nhìn toàn bộ cây tháp người ta sẽ liên tưởng đến một bông hoa Sen đang vươn lên và nở ra giữa hồ nước. Từ kiệu bát cống trở lên có 13 tầng tháp xây bằng gạch đỏ trổ 4 cửa Đông, Tây, Nam, Bắc. Trước đây, các tầng đều để mộc lộ họa tiết Rồng chầu cùng hoa lá trang trí khá đẹp mắt, các tầng tháp càng lên cao thì chiều cao và chiều rộng của mặt tháp càng nhỏ dần.Trên cùng cây tháp là một hình khối có dáng một đóa hoa Sen chưa nở bằng đất nung già. Rất tiếc rằng vào những năm đầu thế kỷ XX khi tu sửa cây tháp người ta đã cho khoác bên ngoài cây tháp một tấm áo khoác bằng vật liệu xi măng làm mất đi những hoa văn trên viên gạch. Năm 1987, do một số tầng tháp phía trên bị rễ cây xâm thực làm nứt rạn, ngành văn hóa đã sửa chữa, tu bổ. Trong quá trình tu sửa người ta phát hiện tại vị trí tầng 11, 12 của cây tháp có một quách bằng đá vây quanh một hộp đồng mà theo nhân dân truyền tụng thì đây có thể là hộp đựng xá lỵ của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tháp Phổ Minh đã tồn tại qua 7 thế kỷ, mặc dù trải qua nhiều sóng gió, thiên tai giặc giã nhưng cây tháp vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn trở thành một kỳ quan quý hiếm làm nên nét độc đáo không chỉ riêng của chùa Phổ Minh mà còn cả tỉnh Nam Định nói chung. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Lịch sử- Văn hóa Đền Trần, Chùa Tháp

Nam Định 23 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Thành nhà Mạc (Thành Tuyên Quang)

Thành Tuyên Quang (còn gọi là thành nhà Mạc) nằm giữa hai khu phố Xuân Hoà và Tam Cờ, thuộc địa phận phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, được xây dựng vào khoảng năm 1533-1548. Thành xây theo kiểu hình vuông, mỗi bề dài 275m, tường thành cao 3,5m, bề dày phía trên cùng thành 0,8m. Ở giữa mỗi mặt thành có một cửa bán nguyệt mở ra bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Trên cửa xây tháp, mái lợp bằng ngói vảy. Bên trong tường thành có một con đường nhỏ để tiếp đạn dược, cấp cứu, tải thương. Gạch xây thành bằng đá ong chứa quặng sắt, rất rắn. Ngoài cùng bao thành là một lớp hào sâu ngập nước. Đầu thời Nguyễn, thành được sửa chữa, gia cố thêm, xây bằng loại gạch nhỏ. Trong thành, chếch về hướng bắc có núi Thổ Sơn, cao gần 50m, dốc đứng, rất tiện cho việc quan sát và cố thủ khi bị bao vây. Án ngữ bên bờ sông Lô, nằm trên trục giao thông thuận lợi, địa hình và cấu trúc làm cho thành có một vị trí quân sự trọng yếu. Đã có nhiều sự kiện lịch sử diễn ra trong thành nhà Mạc: Năm 1884, đồng bào các dân tộc do Lãnh Chân, Đốc Thịnh chỉ huy cùng với quân của Lưu Vĩnh Phúc, vây hãm quân Pháp trong thành từ tháng 8-1884 đến tháng 4-1885, chặn đánh chiến thuyền tiếp tế, đào nhiều đường hầm, dùng thuốc nổ để công phá. Trong tổng số 600 tên địch đã có 200 tên bị diệt, hơn 300 tên bị thương. Rạng sáng ngày 17/8/1945, dưới sự chỉ huy của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, Quân giải phóng, tự vệ địa phương nhanh chóng đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, trại bảo an, nhà bưu điện, sở kho bạc, chỉ còn thành Tuyên Quang do quân Nhật đóng trại. Ngày 20/8, Quân giải phóng vừa chặn đánh quân Nhật từ Hà Giang xuống vừa tập trung lực lượng tấn công vào thành, tổ chức đông đảo quần chúng tuần hành thị uy. Ngày 21/8, quân Nhật buộc phải đầu hàng. Ngày 20/3/1961, tại sân vận động ở chân núi Thổ Sơn, nhân dân Tuyên Quang mít tinh đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh lên thăm và làm việc. Di tích thành Tuyên Quang được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia, ngày 30-8-1991. Nguồn: Báo Tuyên Quang điện tử

Tuyên Quang 26 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Địa Điểm Chiến Thắng Xương Giang

Khu di tích lịch sử Chiến thắng Xương Giang được Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2009; Thành cổ Xương Giang nằm ở xã Đông Nham, tổng Thọ Xương nay là phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Xương Giang là tên ngôi thành cổ do quân Minh xây dựng vào thế kỷ thứ XV (1407). Qua bao thăng trầm của lịch sử, di tích Thành cổ Xương Giang chỉ còn lại một vài vết tích, song vị trí và hình hài khu Thành cổ vẫn được lưu giữ nguyên vẹn trong tâm trí của từng người con đất Bắc Giang. Bởi thế, năm 2012, để tưởng nhớ các anh hùng dân tộc và giáo dục truyền thống yêu nước của quê hương, UBND tỉnh Bắc Giang đã phê duyệt quyết định xây dựng ngôi Đền Xương Giang mới trên nền Thành cổ Xương Giang xưa. Khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng rợp bóng cây xanh, qua cổng Tam quan là sân hội lớn. Phía bên trái sân là tả vu và lầu chuông, bên phải sân là hữu vu và lầu trống. Trung tâm quần thể di tích là công trình Đền Xương Giang có diện tích 1,3ha. Hệ thống hoành phi câu đối đều được viết bằng chữ Quốc ngữ, tấm bảng tự Đền Xương Giang được sơn son, thếp vàng nổi lên trên nền đỏ rực rỡ. Đền Xương Giang ngày nay là vị trí trung tâm của Thành cổ Xương Giang, do nhà Minh xây dựng năm 1407. Sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh đã cho xây dựng các sở vệ, đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phòng thủ. Thành Xương Giang khi đó trở thành thành lũy kiên cố của giặc Minh, án nữ trên con đường dịch trạm từ Quảng Tây (Trung Quốc) nối với Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay). Các dấu tích còn lại cho thấy Thành Xương Giang nằm trên một gò đồi thấp, được đắp bằng đất, có sông nhỏ và các thửa ruộng trũng bao quanh. Thành có hình chữ nhật với tổng diện tích là 27ha. Trong thành được phân chia thành các khu vực rõ ràng: Dinh thự, doanh trại, kho lương, kho đạn... Thành Xương Giang được xem là trung tâm của chiến trận và có ý nghĩa quyết định trong Chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang khi năm 1427, Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn công thành, phá tan quân Minh do Liễu Thăng cầm đầu. Đây chính là chiến thắng quyết định cho nền độc lập của dân tộc ta ở thế kỷ thứ XV, lật đổ ách thống trị bạo tàn của nhà Minh kéo dài 2 thập kỷ, đồng thời mở ra trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước vinh quang của dân tộc. Để kỷ niệm lịch sử chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại thành Xương Giang, hàng năm tỉnh Bắc Giang tổ chức lễ hội vào ngày 6 và ngày 7 tháng Giêng, thu hút đông đảo khách thập phương dự hội. Trong lễ hội có nhiều nghi lễ và trò vui đặc sắc. Với giá trị tiêu biểu, ngày 31/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là di tích quốc gia đặc biệt. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa của dân tộc. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 30 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Phật Tích

Chùa Phật Tích (còn gọi là chùa Vạn Phúc) toạ lạc trên sườn phía Nam núi Phật Tích trên địa bàn xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Theo sách "Đại Việt Sử Ký toàn thư" và các dấu tích, di vật tìm thấy ở khu vực chùa, Vạn Phúc tự được xây dựng vào khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 10. Ngay từ khởi đầu, chùa Tiên Sơn là nơi hội tụ và dừng chân của các nhà truyền giáo đầu tiên từ Ấn Độ sang nước ta và các thiền sư đạo cao, pháp minh. Tuy nhiên, phải đến thời Lý (1010-1025) mô hình sinh hoạt, tu tập tại chùa mới rõ nét và quy mô bởi lúc này chùa trở thành quốc tự, cũng là quê hương của các vị vua triều Lý. Năm 1041, Lý Thái Tông cho xây Viện Từ Thị Thiên Phúc và đúc tượng Phật A Di Lặc nặng 7.560 cân để tôn thờ. Kể từ đấy, núi Thiên Phúc hay chùa Thiên Phục được hình thành, thay cho tên chùa Tiên Sơn. Năm 1057 - 1066, vua Lý Thánh Tông cho xây chùa Thiên Phúc và dựng tháp cao nhất nước, bên trong dựng tượng Phật hiện cao 1,87m, cả bệ là 2,87m, đúc 2 tượng Phạm Thiên và Đế Thích bằng vàng thờ trước chùa. Theo sử sách, năm 1071, vua Lý du ngoạn đến Phật Tích đã viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước (5m), sai khắc vào đá để ở chùa trên núi Tiên Du. Cũng có truyện kể rằng, năm 1129, dưới triều vua Lý Thần Tông đã khánh thành 84.000 bảo tháp đất nung, đặt ở nhiều nơi trong cả nước, riêng ở Phật Tích đặt 8 vạn tháp, vì vậy dãy núi ở Phật Tích được mang tên Bát Vạn sơn. Từ 1073 – 1210, các triều vua Lý Anh Tông, Lý Cao Tông đều đến Quốc tự Thiên Phúc. Sang đời Trần (1228 - 1400), chùa Thiên Phúc vẫn là quốc tự nhưng được đổi tên là Vạn Phúc. Năm 1279 - 1280, vua Trần Nhân Tông đã cho xây cung Bảo Hoa, sau khi khánh thành, nhà vua đã soạn tập thơ Bảo Hoa dư bút gồm 8 quyển để kỷ niệm. Vua Trần Nghệ Tông (1370) cho xây dựng thư viện Lạn Kha do chính ông làm Viện trưởng, để đọc sách, thưởng ngoạn và hành cung của triều đình. Năm 1384, Vua tổ chức cho thi Thái học sinh (Tiến sĩ) tại đây để chọn người tài đức phục vụ đất nước. Chùa cũng là nơi ghi nhận dấu ấn một thiền sư Trung Hoa nổi tiếng - thiền sư Chuyết Chuyết. Từ năm 1635 - 1644, Thiền sư Chuyết Công đến hành đạo tại chùa Phật Tích, chúa Trịnh Tráng, vua Lê Huyền Tông và các bậc công hầu đều kính trọng. Chúa Trịnh Tráng muốn có thêm kinh điển Phật giáo để lưu hành trong nước nên thiền sư đã cho đệ tử Minh Hành về Trung Hoa thỉnh kinh. Kinh điển thỉnh về, một số được khắc để phổ biến, số còn lại và các bản khắc đều được tàng trữ tại chùa Phật Tích. Đến thời Lê Trung Hưng (1686), chùa bị xuống cấp, các vua Lê đã cho tu bổ lại như quy mô cũ, gọi là chùa Phật Tích (tên chữ là Vạn Phúc). Thời Nguyễn, chùa Phật Tích được tu bổ lần cuối. Từ năm 1949 - 1952, Pháp chiếm chùa Phật Tích và phá hủy hoàn toàn ngôi quốc tự này, chỉ còn nền gạch và một số pho tượng Tổ, và một vài Pháp khí khác.Năm 1959, chùa Phật Tích được Nhà nước cho xây dựng lại theo quy mô nhỏ để giữ gìn các di vật còn lại. Năm 2008, khởi công xây dựng mới một số công trình, trong đó có công trình tạo tác tượng Phật bằng đá(tính cả bệ) cao 30m trên núi Phật Tích. Tượng Phật A Di Đà mới dựng theo tượng Phật do vua Lý Thánh Tông cho tạc năm 1057, nay được tôn thờ tại Chánh điện. Phật Tích không chỉ là trung tâm Phật giáo mà còn lưu giữ kho tàng truyền thuyết, sinh hoạt văn hóa - văn nghệ dân gian, tiêu biểu là những huyền thoại về bà Tổ Cô, các cuộc chiến tranh giữa An Dương Vương và Triệu Đà, chàng tiều phu Vương Chất, Từ Thức gặp tiên, Cao Biền xây tháp yểm bùa, bà chúa Chè, Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo và nổi tiếng là hội xem hoa mẫu đơn chùa Phật Tích vào ngày mồng 4 tháng Giêng. Với những giá trị nổi bật nêu trên, chùa Phật Tích đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt, ngày 31 tháng 12 năm 2014. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Bắc Ninh 29 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích thành Cha

Thuở vàng son, thành Cha có tên là Phật Thệ, thành đô của kinh đô Vijaya. Đây là một trong bốn thành cổ Chăm Pa ở Bình Định, từng là trung tâm kinh tế, chính trị của khu vực này khoảng từ thế kỉ 8 đến thế kỉ 15. Thành Cha nằm ở phía nam kinh thành Vijaya, nay thuộc địa phận thôn An Thành xã Nhơn Lộc huyện An Nhơn – Bình Định. Nằm trên một dải đất cao ở bờ nam sông Kôn, thành Cha gồm hai khu thành lớn nhỏ được xây dựng gần nhau (còn gọi là thành nội, thành ngoại), đều có bình đồ hình chữ nhật. Ở khu vực thành lớn, các cặp tường thành đối diện nhau với chiều dài chênh lệch không đáng kể. Khi xây dựng, người xưa dựa vào hướng sông Kôn, nên chiều dài của bức tường thành phía bắc dài hơn phía nam một đoạn khoảng 100m. Cặp tường thành phía đông và phía tây dài gần 350m, còn cặp tường thành phía bắc và phía nam dài gần 950m. Ngoại trừ mặt thành phía bắc do gần sông Kôn nên bị xói lở gần hết, các mặt còn lại tương đối nguyên vẹn. Ở góc tây bắc của khu vực thành lớn còn có dấu tích một khuôn viên hình chữ nhật, được bao bọc xung quanh một gò gạch mà trong đó số lượng gạch ngói còn sót lại rất lớn với những thềm cửa, trụ cửa có kích thước lớn, đặc biệt là có rất nhiều viên gạch ngói âm dương và ngói ống - loại vật liệu kiến trúc có trang trí chỉ tìm thấy tại kinh đô cũ của ChămPa như Trà Kiệu. Tại khu vực này, người ta đã phát hiện ra bức tượng bán thân của nữ thần Kabêra Yakshini rất đẹp cùng với những bức phù điêu được làm bằng đất nung rất tinh xảo, là minh chứng cho sự tồn tại hiện thực của một kiến trúc đô thành. Khu thành nhỏ được nằm giáp lưng với khu thành lớn theo hướng tây bắc, có chiều rộng 134m và chiều dài 240m. Một điều thú vị ở đây là nhà kiến tạo nên thành cổ Phật Thệ này đã cố tình bố trí hai khu thành lớn nhỏ theo thế liên hoàn, được thể hiện ở chỗ là bức tường phía đông thành nhỏ cũng chính là một phần bức tường phía tây thành lớn nối thêm một đoạn nữa. Tại khu thành nhỏ này, người ta không tìm thấy dấu vết bức tường ở phía bắc và nó lấy sông Kôn làm hào để tạo thành lá chắn bảo vệ thành. Chính điều này cho thấy khu thành nhỏ được người đời xưa bố trí như một tiền đồn của khu thành lớn, là tuyến giao thông đường thủy rất quan trọng. Thành Cha là toà thành còn có nhiều tên gọi khác trong dân gian như thành Hời, thành Hồ Xứ, thành Bắc, thành Cừ … nhưng tên gọi thông dụng nhất là thành Cha. Toà thành lớn nằm về phía Đông. Tường thành mặt Bắc chạy theo hướng Tây-Đông, dài 947m, mặt rộng 3 đến 5m, chiều cao hiện còn khoảng 1m. Ở vị trí chính giữa tường thành nổi lên một gò đất cao 8m, thoải dần về hai phái mặt thành, có tên gọi là gò Cột Cờ. Bức tường phía Nam có chiều dài tương tự, nhưng đã bị bào mòn, chỉ còn cao hơn mặt đất một chút. Phần di tích còn rõ nhất là hai bức tường phía Đông và phía Tây. Tường phía Đông chạy theo hướng Bắc-Nam, dài 345m với chiều cao trung bình 4m, mặt thành rộng tới trên 30m. Bức tường phía Tây có độ dài và chiều cao tương tự, nhưng bề mặt hẹp hơn, khoảng 7 đến 10m. Góc Tây Bắc của toà thành lớn được vây kín bởi hai đoạn tường thành, một chạy từ gò Cột Cờ xuống phía Nam dài 240m và một đoạn vuông góc với nó chạy sang phía Tây, nối với bức tường phía Tây của thành lớn tạo thành một khuôn viên hình chữ nhật. Chính giữa khuôn viên này có một gò gạch lớn, dấu tích còn lại của một công trình kiến trúc đã bị sập đổ. Thành hình chữ nhật nhỏ hơn nằm kề phía Tây Bắc thành lớn có chiều dài 440m, chiều rộng 134m. Di tích Thành Cha được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia vào ngày 27 tháng 11 năm 2003. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Bình Định 40 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào

Khu di tích cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô, thuộc xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La là một địa danh, một biểu tượng cao đẹp của tình quân dân Việt Nam – Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây cũng là một trong những căn cứ cách mạng đầu tiên dọc biên giới Việt Nam - Lào, nơi để lại dấu ấn đậm nét về sự giúp đỡ của người dân trong vùng đối với Người Chỉ huy của Ban xung phong Lào – Bắc (Lào) là Chủ tịch Kaysone Phomvihane. Ngày nay, Khu di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút nhân dân hai nước tới tham quan và tìm hiểu. Nằm sát biên giới, bản Lao Khô có vị trí địa lý hết sức quan trọng, phía Tây và Nam giáp huyện Xiềng Khọ, tỉnh Hủa Phăn (Lào); địa hình hiểm trở, núi cao, nhiều thung lũng sâu, rừng rậm, là điều kiện thuận lợi cho việc đóng quân và hoạt động bí mật của du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 20/5/1948, Ban xung phong Lào Bắc được Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam ra chỉ thị thành lập. Ban Xung phong Lào Bắc do đồng chí Kaysone Phomvihane (sau này là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Thủ tướng, Chủ tịch nước Lào) làm Trưởng ban, có nhiệm vụ gây cơ sở vùng sau lưng địch, phát động phong trào du kích để thành lập căn cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp, đào tạo cán bộ địa phương. Ban Xung phong Lào Bắc đã chọn bản Phiêng Sa, xã Chiềng On, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La làm nơi đứng chân, chuẩn bị mọi điều kiện cho thực hiện nhiệm vụ. Tại đây, nhân dân bản Phiêng Sa và gia đình ông Tráng Lao Khô đã ủng hộ, chia sẻ lương thực, thực phẩm để nuôi giấu cán bộ cách mạng, giúp đồng chí Kaysone Phomvihane và Ban xung phong Lào Bắc từng bước tiến sâu vào nội địa Lào, gây dựng cơ sở, phát triển lực lượng, góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân các bộ tộc Lào phát triển. Bản Phiêng Sa, xã Chiềng On, nay là bản Lao Khô, xã Phiêng Khoài trở thành địa danh lưu nhiều dấu ấn về liên minh đoàn kết chiến đấu, biểu tượng của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam - Lào. Một niềm vinh dự khác mà người dân ở bản Lao Khô cũng như gia đình ông Tráng Lao Khô hết sức tự hào, đó là vào ngày 19/3/2010, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã trao tặng Huân chương Tự do hạng III và Huân chương Hữu nghị. Điều này đã thể hiện sự biết ơn sâu sắc của Đảng, Nhà nước, nhân dân Lào đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nói chung, bản Lao Khô nói riêng. Với giá trị quốc tế, lịch sử nổi bật của cách mạng hai nước Việt Nam và Lào, ngày 3/4/2012, Di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đến ngày 29/8/2022, Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam-Lào được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Nhằm bảo tồn di tích cách mạng trong kháng chiến chống thực dân Pháp, là nơi ôn lại truyền thống lịch sử, ghi nhớ công ơn của thế hệ cha, ông trong quá trình giải phóng dân tộc Việt Nam - Lào, góp phần ổn định chính trị, giữ vững an ninh, chủ quyền biên giới, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc. Nhằm phát huy di tích gắn liền với phát triển du lịch, Quốc hội hai nước đã quyết định và chỉ đạo xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô. Từ đó đến nay, khu di tích là nơi giới thiệu, tôn vinh những giá trị lịch sử to lớn, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa nhân dân hai nước, khẳng định tinh thần quốc tế cao cả và sự hy sinh to lớn của quân đội và nhân dân Việt Nam giành cho nhân dân Lào. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La

Sơn La 41 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Tháp Mường Bám

Tháp Mường Bám, còn gọi là Thạt Bản Lào, là di tích kiến trúc nghệ thuật ở bản Lào xã Mường Bám huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La, Việt Nam. Tháp Mường Bám được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia ngày 24/10/2012. Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật của dân tộc Lào xây dựng từ thế kỷ XVI. Tháp Mường Bám cổ kính, rêu phong, lặng lẽ trên một quả đồi đầu xã. Nằm trên một quả đồi nhìn ra dòng Nậm Hua, tiếng Thái nghĩa là “suối đầu nguồn” của dòng sông Mã. Tháp cao 4 tầng, xây dựng theo hình bút tháp cao 13 m. Đứng từ trên tháp, thả tầm mắt, có thể bao quát được cả xã Mường Bám với dòng Nậm Hua uốn lượn như con rắn lớn và những dãy núi trập trùng bao quanh. Đồng bào ở Mường Bám chủ yếu là người dân tộc Thái, Khơ Mú, H’Mông. Theo lời kể của người già trong bản, cách đây khoảng hơn 500 năm, đây là vùng đất có cảnh đẹp, địa lý thuận lợi, có dãy núi chạy dài, đằng trước là dòng Nậm Húa chảy qua, cánh đồng lúa men theo dòng suối. Theo thuyết phong thuỷ, đây là vùng đất đẹp và ổn định. Tại đây nửa thế kỷ trước các dân tộc bộ tộc Lào, Thái cùng cư ngụ hòa bình, chăm chỉ làm ăn. Tháp Mường Bám còn có tên gọi là “Thạt Bản Lào” (Thạt tiếng Lào có nghĩa là Tháp). Tháp nằm ở vị trí trung tâm bản, nơi có nhiều đồng bào dân tộc Lào của xã tập trung sinh sống. Kiến trúc của Tháp mang đậm nét kiến trúc Tháp của dân tộc Lào. Do vậy người dân ở đây thường gọi là Tháp bản Lào. Tháp gồm một quần thể 5 tháp, một tháp to ở giữa và 4 tháp con ở cạnh tháp to. Mặt Tháp nhìn ra ngã ba suối Nậm Hua trải dài uốn lượn, có núi án ngữ làm bình phong, núi chắn hai bên thế tay ngai, phía sau Tháp có dãy núi tựa như người đang ngồi "thiền". Quần thể Tháp có vị thế rất tĩnh lặng, uy nghi. Tất cả 5 tháp đều được xây bằng một loại vật liệu chủ yếu là gạch vồ màu đỏ, được gắn kết với nhau bằng vôi, cát, và mật. Các họa tiết hoa văn được làm bằng vữa đắp nổi, nhiều chỗ gắn thêm vào những hình đất nung trang trí. Tháp to còn gọi là Tháp Mẹ, cao 13 m, chia làm 4 tầng. Được trang trí chủ yếu hoa văn hình Voi, Hổ và tượng Vũ Nữ nhảy múa, lá đề uốn theo hình mây, hoa văn hoa cúc, hoa chanh cách điệu, chuỗi hoa văn "tràng hạt", hình "rắn thần" Naga 5 đầu, hình hoa sen cụp xuống, … Tất cả các họa tiết hoa văn này đều đắp nổi phía trên đế thu nhỏ dần. Toàn bộ thân trông xa như một búp sen đang hé nở. Các Tháp nhỏ cao 3,7m nằm cách tháp to 3m, được xây dựng với kiến trúc và trang trí hoa văn giống hệt nhau. Tháp nhỏ còn gọi là Tháp con được chia làm 4 tầng. Được trang trí chủ yếu là hoa văn lá đề xen kẽ hình vân mây, dây hoa cúc và hoa đồng tiền. 4 cạnh chân tháp được đắp 4 lá đề nổi, to ôm gọn 4 góc, bên trong có 2 đường chỉ chìm chạy song song. Phần trên ngọn tháp được thu nhỏ dần, vút lên nền trời. Hiện nay, di tích còn lại một tháp to (tháp mẹ) và một tháp nhỏ (tháp con). Bên cạnh tháp to, còn có pho tượng “chư thần” ngay dưới chân tháp đã bị vỡ hết (hiện chỉ còn bệ tượng). Tháp Mường Bám cùng với hệ thống các Chùa và Tháp ở khu vực Tây Bắc như: Tháp Mường Luân (Điện Biên Đông), Tháp Mường Và (huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La) Chùa Chiền Viện (Chùa Vặt Hồng- huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn la) Tháp Mường Bám (huyện Thuận Châu- Tỉnh Sơn La) là một kiến trúc Chùa, Tháp Phật Giáo đặc sắc thuộc phái Tiểu thừa. Theo người già trong bản kể lại, trước kia, tại khu vực Tháp vào tháng 4 dương lịch hàng năm có tổ chức "lễ cầu mưa" vào vụ mùa mới. Theo năm tháng bộ tộc người Lào di chuyển đến nơi khác sinh sống. Hiện nay, tại đây không còn tổ chức lễ hội nữa. Theo đánh giá của ngành văn hóa nét độc đáo của tháp ngoài hình khối còn phải kể đến nguyên liệu xây dựng tháp. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Sơn La

Sơn La 53 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Đồn Mộc Lỵ

Đồn Mộc Lỵ do thực dân Pháp xây dựng vào năm 1951 tại Mộc Châu. Đồn nằm trên một núi đá tai mèo nằm độc lập, địa thế hiểm trở, có nhiều vách đứng án ngữ trên ngã ba đường từ Hà Nội lên Tây Bắc, từ Việt Nam sang vùng Thượng Lào nhằm mục đích ngăn chặn quân ta tiến đánh giải phóng Tây Bắc và vùng Thượng Lào. Chúng trang bị hoả lực dày đặc nên đồn Mộc Lỵ được mệnh danh là: "Chiếc áo giáp sắt" bất khả xâm phạm ở phân khu Sơn La. Đồn Mộc Lỵ do tên quan ba Pháp Vanh - Xăng chỉ huy hơn một tiểu đoàn Thái tăng cường. Ngoài trang bị vũ khí cá nhân đầy đủ như tiểu liên, súng trường, Đồn còn được trang bị một pháo 94 ly, 6 súng cối 81 và 60 ly, 3 đại liên, 27 trung liên, lương thực, thực phẩm, vũ khí thường xuyên được bổ sung đảm bảo cho chiến đấu dài ngày. Đây là một vị trí then chốt hết sức quan trọng nên Tướng Đờ- Ly-Na-Rét đã đích thân tới đây để kiểm tra việc bố phòng và giao nhiệm vụ cho sĩ quan, binh lính phải chống giữ đến cùng khi bị tấn công. Bộ chỉ huy quân đội Pháp còn rút từ Phát Diệm (Ninh Bình) lên tăng cường cho Đồn Mộc Lỵ Những toán biệt kích, ác ôn được lựa chọn và huấn luyện kỹ để tung vào hoạt động các vùng mà chúng nghi là căn cứ giấu quân của ta. Vào đầu tháng 9/1952, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới. Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Chủ trương của Trung ương Đảng là “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh" và hướng tiến công là Tây Bắc. Với quyết tâm tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ sức mạnh của nhân dân, phá tan “xứ Thái tự trị” giả hiệu của thực dân Pháp, giải phóng Tây Bắc, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, giữ vững đường giao thông quốc tế Lào - Vân Nam (Trung Quốc), tạo điều kiện phát triển cách mạng Lào, cô lập, làm rối loạn hậu phương của địch. Chính vì vậy, việc đánh chiếm đồn Mộc Lỵ đối với quân và dân ta có một ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định việc triển khai vận chuyển hậu cần cho chiến dịch từ Hoà Bình lên Tây Bắc. Lúc này các binh đoàn chủ lực của ta đã tiến sâu vào vùng hậu phương của địch. Nên việc đảm bảo lương thực, thực phẩm, vũ khí đang là một trong những vấn đề cấp bách có tầm quan trọng hàng đầu trong việc quyết định các phương án tác chiến. Vì vậy trong ngày 17 và 18/11/1952 các đơn vị bí mật đào công sự, chiếm lĩnh trận địa. Các tiểu đoàn 249 và 888 luồn rừng theo dòng suối tiến lên phía Tây Bắc hình thành thế bao vây chặn quân tiếp viện của địch từ Sơn La xuống. Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Bắc, ngày 19 tháng 11 năm 1952, quân ta xiết chặt vòng vây quanh vị trí đồn Mộc Lỵ. Sau đúng 3 giờ chiến đấu vô cùng ác liệt, trận đánh đồn Mộc Lỵ kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt và bắt sống 350 tên trong đó có tên (quan ba Vanh - Xăng cùng một số sĩ quan) thu hơn 500 khẩu súng các loại cùng toàn bộ kho tàng vũ khí, quân trang, quân dụng và lương thực, thực phẩm, giải phóng trên 1000 dân. Phối hợp với bộ đội chủ lực, các đội du kích Tú Nang, A Má, Chiềng Khừa, Pa Háng tổ chức bao vây tiến công đồn Pa Khôm, Pa Háng. Địch hoảng sợ vội vã mở đường rút chạy lên Yên Châu và sang Lào. Sau khi giải phóng Mộc Châu, Đại đoàn 316 chia làm 3 cánh quân tiếp tục tiến lên giải phóng Mộc Châu, Sơn La. Ngày 10 tháng 12 năm 1952 chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi giòn giã. Chiến thắng Đồn Mộc Lỵ có một ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp của quân và dân ta. Ta đã nối thông đường giao thông từ Hoà Bình lên Sơn La, tạo thuận lợi cho việc giải phóng Tây Bắc và giải phóng Điện Biên Phủ, ngăn chặn và cắt đứt giao thông của địch đối với vùng Thượng Lào. Bên cạnh đó chiến thắng Đồn Mộc Lỵ còn có một ý nghĩa về mặt chiến lược quân sự, quân và dân ta rút ra bài học kinh nghiệm đánh đồn kiên cố phải đánh từ trên đánh xuống. Trong trận đánh Đồn Mộc Lỵ đã có 53 chiến sĩ thuộc Trung đoàn 174, sư đoàn 316 anh dũng hy sinh. Để tưởng nhớ những công lao to lớn của các liệt sĩ Đảng, Nhà nước và nhân dân các dân tộc Sơn La đã xây dựng Nhà bia tưởng niệm khắc ghi tên tuổi của 53 liệt sỹ. Ngày nay Di tích lịch sử Đồn Mộc Lỵ là nơi giáo dục truyền thống cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ của tỉnh Sơn La. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, Di tích lịch sử Đồn Mộc Lỵ được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Quốc gia ngày 20/01/1998. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ VHTTDL

Sơn La 44 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Ngã ba Cò Nòi

Ngã ba Cò Nòi (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La), một địa danh lịch sử, một mốc son chói lọi khắc ghi một thời kỳ chiến đấu oanh liệt của lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam trong cuộc kháng chiến thần thánh chín năm chống thực dân Pháp. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ Ngã ba Cò Nòi là điểm nút giao thông quan trọng nhất để các mũi tiến quân của quân và dân ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Địa điểm này đã trở thành "Điểm đỏ" để Thực Dân Pháp bắn phá ác liệt nhất, nhằm chặn đứng và phá tan huyết mạch giao thông của quân và dân ta. Một ngày tại đây chúng đã ném khoảng 69 tấn bom để cày xới phá huỷ, nhưng dưới làn mưa bom của địch, các lực lượng vũ trang, Thanh niên xung phong trong cả nước đã dũng cảm bám trụ, ngày đêm vẫn đảm bảo thông đường mạch máu giao thông vẫn chảy đều trên tuyến lửa. Trong quá trình phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tại Ngã ba Cò Nòi 100 chiến sỹ và Thanh niên xung phong đã hy sinh. Tháng 12 năm 1952 Trung ương Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, mở rộng và củng cố vùng giải phóng chuẩn bị cho chiến dịch, hàng vạn bộ đội, dân công, thanh niên xung phong ở khắp các địa phương được huy động lên chiến trường Tây Bắc. Trong chiến dịch lịch sử này, Sơn La đóng một vai trò hết sức quan trọng vừa là hậu phương lớn gần chiến trường vừa là cửa ngõ để tiến vào Tây Bắc. Sơn La án ngữ các tuyến đường huyết mạch giao thông nối đồng bằng Bắc Bộ, chiến khu Việt Bắc; Liên khu III, IV với chiến trường Điện Biên Phủ. Trong đó ngã ba Cò Nòi là nút giao thông quan trọng bậc nhất, được ví như "yết hầu" trên tuyến lửa. Ngã ba này là nơi giao nhau giữa hai tuyến quốc lộ là 13A (quốc lộ 37 hiện nay) và đường 41 (quốc lộ 6 hiện nay), thuộc địa phận xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn. Địa hình nơi đây hiểm trở, được bao bọc bởi những dãy núi trùng điệp tạo thành một thung lũng hẹp và sâu có chiều dài hơn 2 km. Tất cả mọi hoạt động chi viện vũ khí, lương thực, thực phẩm của quân và dân ta từ hậu phương Việt Bắc và liên khu III, IV tiến lên chiến trường Điện Biên Phủ đều phải đi qua cửa ải này. Trong hồi ký của mình Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "Ngã ba Cò Nòi là một cửa ải, tất cả những người ra trận đều phải vượt qua". Với vị trí chiến lược quan trọng đó, ngã ba Cò Nòi đã trở thành "túi bom", một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của không quân Pháp trên địa bàn Sơn La. Chúng cho rằng việc ngăn chặn và cắt đứt con đường vận tải, tiếp tế về mọi mặt của hậu phương Miền Bắc cho chiến trường Điện Biên Phủ là vấn đề sống còn của quân đội viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Với tinh thần cả nước phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, khẩu hiệu xuyên suốt chiến dịch của quân và dân ta là: "Tất cả cho tiền tuyến" "Tất cả để chiến thắng". Nhân dân các tỉnh lần lượt tiễn con em hăng hái lên đường tham gia quân ngũ, đi thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến. Cuộc chiến đấu trên mặt trận tiếp tế, vận tải, tháo dỡ bom mìn đảm bảo giao thông, liên lạc diễn ra khẩn trương, quyết liệt ngay từ ngày mở màn đến lúc kết thúc chiến dịch. Để đời đời tri ân công ơn các liệt sỹ thanh niên xung phong đã chiến đấu, hi sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc tại ngã ba Cò Nòi. Ngày 21/4/2000 Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La đã khởi công xây dựng nhóm đài tưởng niệm liệt sỹ thanh niên xung phong tại ví trí "tọa độ lửa" năm xưa với diện tích 20.000m2. Công trình được khánh thành ngày 7/5/2002, nhóm tượng gồm 3 thanh niên xung phong ở các tư thế khác nhau được tạo từ chất liệu đá granit. Tượng cao 12 mét, được đặt trên bệ một khối đá nặng 280 tấn. Cùng với nhóm tượng đài, còn có hai bức phù điêu thể hiện hình ảnh toàn dân ra trận chiến đấu chống thực dân Pháp. Mỗi bức phù điêu có diện tích 42m2, nặng 52 tấn, được phủ bằng kim loại, tái hiện hình ảnh quân và dân ta hăng hái chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ, thể hiện ý chí quật cường của lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954 - 2004) di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Mai Sơn

Sơn La 42 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đồi Bản Kéo

Đồi bản Kéo nằm ở phía Tây bắc của tập đoàn cứ điểm. Thực dân Pháp đặt tên mới cho bản Kéo là trung tâm đề kháng Annơ Mari. Cứ điểm này nằm cạnh bản Kéo - một bản của đồng bào dân tộc Thái nên được gọi là đồi bản Kéo. Tiếng Thái Kéo là cái “Thung” nhỏ ở chân núi. Ở đây có một bãi rộng gần chân núi (Bộ đội hiện nay thường dùng làm bãi tập), đồi bản Kéo không cao lắm nhưng khá dài, hình vành trăng khuyết, chiều lõm quay về dãy núi phía Bắc. Cùng với đồi Độc Lập, bản Kéo có nhiệm vụ bảo vệ sân bay Mường Thanh, ngăn chặn sự tấn công của quân ta từ hướng Lai Châu vào Điện Biên Phủ Tại đây, quân Pháp bố trí hệ thống công sự phòng ngự khá vững chắc. Ngoài trận địa kiên cố, chúng còn sử dụng hàng rào dây thép gai bao xung quanh cứ điểm. Mở màn đợt tấn công đầu tiên, ngày13/3/1954 ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam. Ngày 15/3/1954 ta tiêu diệt cứ điểm Độc Lập. Cứ điểm bản Kéo lúc này đã trở nên cô lập, bị quân ta uy hiếp mạnh, những người lính Ngụy bất đắc dĩ ấy ở trong tâm trạng rất căng thẳng và trong 2 ngày xảy ra trận đánh, những người lính Thái đã chứng kiến sự sụp đổ nhanh chóng của 2 trung tâm đề kháng mạnh nhất, do những đơn vị Âu Phi của Pháp được coi là sừng sỏ bảo vệ, họ đã tận mắt nhìn binh lính dù đi cứu viện cũng bị đánh tả tơi trong những chiếc xe tăng dính đầy máu từ Độc Lập chạy về Mường Thanh, và lúc này họ phải liệu tính một lối thoát, họ đã thấy sức mạnh của Việt Minh. Việt Minh có pháo lớn có quân đội dũng mãnh, Việt Minh lại có xe kéo pháo, mới xuất hiện trên cánh đồng là sự kiện lạ chưa từng thấy trong chiến tranh tại Điện Biên Phủ. Trung đoàn 36 thuộc đại đoàn 308 được phân công tiêu diệt bản Kéo, Trung đoàn 36 đã nhận thấy có khả năng giải quyết cứ điểm này mà không cần tới một trận đánh nên đã dùng tuyền đơn binh vận kêu gọi lính Thái đầu hàng. Ngày 16/3/1954, dưới chân đồi bản Kéo đã xuất hiện cảnh tượng như một bức tranh lớn là một đoàn lính Thái rời bỏ vị trí kèm theo dòng chữ: “Quay trở về với Tổ quốc, với đồng bào các anh sẽ được đón tiếp tử tế”. Mặc dù chỉ huy người Pháp ra sức khống chế, nhưng lính người Thái đã lợi dụng lúc chỉ huy Pháp chui xuống hầm ẩn nấp, thì mang vũ khí kéo ra hàng, quân Pháp cho xe tăng đuổi theo toán quân Ngụy Thái, pháo binh của Việt minh đã bắn chặn để yểm trợ cho số hàng binh nói trên chạy tới những vị trí trú ẩn an toàn trong rừng. Trung đoàn 36 không cần nổ súng đã chiếm được bản Kéo kết thúc đợt tấn công thứ nhất, mở toang cánh cửa phía Bắc vào trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tổng hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên

Điện Biên 52 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đồi Độc Lập

Đồi Độc Lập là di tích thành phần thuộc Di tích Quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ. Đồi Độc Lập có tên gọi khác là Pú Vằng (Đồi vực). Nằm ngay dưới chân Pú Vằng là cánh đồng Tông Khao, một cánh đồng trũng. Năm xưa giặc Phẻ bắt hết trẻ em trong vùng đem giết. Trẻ còn ẵm ngửa chúng cho vào cối giã, trẻ lẫm chẫm biết đi hoặc lớn hơn thì chúng ném xuống cánh đồng trũng này rồi tháo nước vào cho chết hết. Khi cánh đồng cạn, xương trẻ con trắng xóa khắp đồng, từ đấy cánh đồng này được gọi bằng cái tên Tông Khao (tiếng địa phương có nghĩa là cánh đồng xương trắng). Tại cánh đồng Tông Khao cũng theo người dân địa phương kể lại: nơi đây còn ghi lại dấu tích về chiến công của vị thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Công Chất từ miền xuôi lên phất cờ khởi nghĩa. Thủ lĩnh được đồng bào dân tộc Thái mà tiêu biểu là tướng Ngải và tướng Khanh giúp mưu, giúp sức đánh đuổi tướng giặc Phẻ là Phạ Chẩu Tin Tòong ở thành Tam Vạn. Nghĩa quân đã truy đuổi giặc Phẻ lên đến chân đồi và tiêu diệt hết quân giặc, chém chết tướng giặc vào năm 1754. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, Quân Pháp đặt tên cứ điểm này là Gabrielle. Còn Độc Lập là tên của Quân đội Nhân dân Việt Nam đặt cho cứ điểm này do quả đồi đứng riêng biệt giữa một vùng bằng phẳng ở phía Bắc cánh đồng Mường Thanh. Ngày 20/11/1953, quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ và sau đó xây dựng Điện Biên Phủ thành một Tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương. Cứ điểm Gabrielle, nằm trên quả đồi Mường Thanh dài 500m, rộng 200m, là một trong những trung tâm đề kháng kiên cố vào bậc nhất của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thuộc phân khu Bắc, cách trung tâm Mường Thanh khoảng 4km. Trung tâm đề kháng Độc Lập cùng với 2 trung tâm đề kháng Him Lam và Bản Kéo, tạo thành một khu vực phòng ngự vòng ngoài lợi hại về phía Bắc, Đông Bắc của Trung tâm Tập đoàn cứ điểm. Về phía Quân đội Việt Nam, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tiến công đồi Độc Lập được giao cho Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 do Trung đoàn trưởng Bùi Nam Hà chỉ huy và Trung đoàn 165, Đại đoàn 312 do Trung đoàn trưởng Lê Thùy chỉ huy. Hai đơn vị được tăng cường 4 khẩu pháo 105mm, 4 khẩu cối 120mm, 4 khẩu sơn pháo 75mm và dưới quyền chỉ huy của Đại đoàn trưởng Đại đoàn 308 Vương Thừa Vũ. Trung đoàn 165 đảm nhiệm mũi tiến công chủ yếu, đột phá từ hướng Đông - Nam, đánh dọc theo chiều dài của cứ điểm. Trung đoàn 88 đảm nhiệm mũi tiến công thứ yếu đột phá từ hướng Đông - Bắc, đồng thời tổ chức 1 mũi vu hồi ở hướng Tây và bố trí lực lượng làm nhiệm vụ chặn viện từ Mường Thanh ra. Trận chiến thắng trên cứ điểm Độc Lập là trận thắng lớn thứ hai sau trận thắng Him Lam, tạo tinh thần rất tốt cho các chiến sĩ Quân đội Việt Nam chiến đấu, giành thắng lợi trong những trận đánh tiếp theo. Chiến thắng trên cứ điểm Độc Lập đã mở thông đường vào phân khu trung tâm Mường Thanh, Quân đội Việt Nam đã tiêu diệt và xóa sổ những đơn vị Lê Dương tinh nhuệ của quân Pháp. Hiện nay, Di tích đồi Độc Lập là một trong 45 điểm di tích thành phần thuộc Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ. Công tác trùng tu, tôn tạo dự kiến sẽ được thực hiện trong thời gian tới nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu của du khách trong nước và quốc tế, trở thành điểm tham quan chính thức trong hành trình du lịch, tìm hiểu lịch sử của du khách khi đến với tỉnh Điện Biên. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tổng Hợp Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Điện Biên

Điện Biên 61 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Trương Hán Siêu

Đền thờ Trương Hán Siêu nằm ở phía Tây Nam của núi Dục Thúy, một bên dựa vào núi, bên dưới là dòng sông Đáy trữ tình lững lờ trôi, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy khu Đền tạo nên khung cảnh trữ tình, thanh bình mà uy nghiêm. Trương Hán Siêu (không rõ năm sinh) quê ở huyện Yên Ninh, phủ Trường Yên, nay là thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ông là người có tài văn, võ, giàu lòng yêu nước, được các vua đời Trần tôn quý. Ông cùng với Nguyễn Trung Ngạn đã soạn ra Bộ Luật "Hình thư" và sách "Hoàng triều đại điển", đặt nền tảng cho chế độ phong kiến Việt Nam vận hành theo pháp luật. Khi chết, ông được truy tặng chức Thái phó, cho thờ tự ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Khi ông mất, đã được lập đền thờ ở phía Đông Nam gần mộ ông. Nhưng trải qua thời gian do chiến tranh, đền Trương Hán Siêu đã bị san lấp. Đầu năm 1993 trong quá trình thi công xây dựng nhà ở phường Vân Giang, người dân thành phố đã phát hiện ra bài vị đá và những tấm bia đá, chân cột, bậc thềm đá của đền vùi sâu trong lòng đất. Ngày 24/4/1998, công trình xây dựng đền thờ Trương Hán Siêu đã chính thức khởi công tại khu đất phía Tây Nam núi Dục Thúy. Đền thờ Trương Hán Siêu có kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm 3 gian Bái Đường và 2 gian Hậu cung, hai tầng mái lợp bằng ngói ta, các góc có các đầu đao cong vút lên. Nhìn bán diện rìa mái cuộn lên ở hai đầu như hình ảnh một chiếc thuyền rồng ngoạn mục. Trên nóc đền là hai con rồng chầu mặt nguyệt. Mặt tiền của đền có tấm đại tự bằng chữ Hán "Trương Thăng Phủ Từ". Bên trong gian thờ là bức tượng Trương Hán Siêu bằng đồng với tỷ lệ 1 1, đặt ngồi trên bệ trong trang phục triều Trần. Bái đường có cửa võng, hương án và hai giá ở hai bên cắm bát bửu. Gian cuối của hậu cung có hương án để bài vị của Trương Hán Siêu. Mỗi dịp đầu xuân, Đền thờ Trương Hán Siêu còn là nơi đông đảo tầng lớp nhân dân trong tỉnh đến thắp nén hương thơm, thành tâm xin chữ đầu năm mới, với ước mong về những điều tốt đẹp và may mắn trong năm mới. Đền thờ Trương Hán Siêu nằm ngay bên núi Non Nước, là một trong những địa điểm du lịch Ninh Bình được nhiều người biết đến. Đền thờ Trương Hán Siêu – một vị danh nhân Văn hóa và cũng là một người con của Ninh Bình. Ông là một người “văn võ song toàn”, đã cùng với tiền sĩ Nguyễn Trung Ngạn soạn ra bộ luật “Hình Thư”. Đền thờ Trương Hán Siêu sẽ vẫn luôn là những tư liệu sống mãi cho đến muôn đời sau. Nếu ghé thăm mảnh đất cố đô, quý khách đừng quên đến thăm đền thờ Trương Hán Siêu để tìm hiểu thêm về cội nguồn lịch sử Việt Nam. Thế hệ mai sau cần gìn giữ những di tích văn hóa mang ý nghĩa lịch sử bởi đây không chỉ đơn thuần là lưu giữ những kiến trúc cổ mà còn liên quan để cả lịch sử văn hóa của cả một dân tộc. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Trung Tâm Thông Tin Sở Du Lịch Ninh Bình

Ninh Bình 58 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

DI TÍCH LỊCH SỬ LINH SƠN CỔ MIẾU

Linh Sơn Cổ Miếu ở Thới Hòa 1, Phường Thới Long, quận Ô Môn. Đây không chỉ là cơ sở tín ngưỡng của người Hoa mà còn là cơ sở Hoa vận vững chắc, góp phần bảo vệ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Theo các bậc cao niên kể lại, sau khi một nhóm người Hoa Triều Châu đến làng Thới Hưng (nay là phường Thới Long) thấy vùng đất phì nhiêu, họ ổn định cuộc sống mưu sinh tại đây. Năm 1890 bà con quyết định dựng ngôi miếu đầu tiên bằng cây lá để thờ Quan Thánh Đế, đồng thời tạo điều kiện liên lạc với nhóm người Hoa cùng xa quê hương. Năm 1930 miếu được cất lại vững chắc bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương, về sau thêm nhiều lần tôn tạo vào các năm 2002, 2004 làm cho ngôi miếu ngày càng khang trang và mang một giá trị thẩm mỹ nhất định. Linh Sơn Cổ Miếu tọa lạc trên diện tích 517,5m2 được xây dựng theo lối kiến trúc hình chữ Quốc, các dãy nhà bố cục vuông góc nhau gồm: tiền điện, sân thiên tỉpnh, chính điện, bên trái ngôi miếu là nhà khánh tiết, bên phải là cổng vào khu nghĩa trang người Hoa tạo ra một khoảng không gian ở giữa gọi là sân thiên tĩnh. Ngôi miếu được bao bọc xung quanh bằng tường rào song sắt, mặt chính hướng ra rạch Bằng Tăng. Hai bên cửa là đôi liễn đối ca ngợi bậc thánh nhân được thờ tại Miếu: “Thiên thu nghĩa dũng vô song sĩ. Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhơn”. Các mảng tường bên trong Miếu được trang trí tranh vẽ điển tích Trung Hoa, phong cảnh thiên nhiên… tạo cảm giác gần gũi và trang nghiêm nơi thờ cúng. Hệ thống vì kèo được chống đỡ bởi 4 cột tròn đắp nổi hình rồng gọi là long trụ. Giữa tiền điện và sân thiên tĩnh là một đôi “quy hạc chầu lư”. Tiếp nối là sân thiên tĩnh là chính điện được trang trí bao lam “lưỡng long chầu thái cực”, bên dưới là bức bình phong trang trí hình lân, cảnh núi sông, mai, lan, cúc, trúc tượng trưng cho mong ước ấm no, yên bình, hạnh phúc. Đối tượng thờ chính tại Linh Sơn Cổ Miếu là Quan Thánh Đế Quân; ngoài ra Linh Sơn Cổ Miếu còn thờ Thổ thần, Tiền hiền, Hậu hiền… Các tượng thờ tại Miếu được chạm khắc theo phong cách tượng tròn, rất chân phương, mộc mạc, thể hiện tính cách qua nét mặt từng nhân vật, vừa gần gũi với người trần tục, vừa mang nét uy nghiêm của thế giới thần linh. Phong cách kiến trúc, các lễ hội ở Linh Sơn Cổ Miếu đã góp phần phản ánh những nét văn hóa dân gian đặc trưng của đồng bào người Hoa ở thành phố Cần Thơ. Từ 1950 - 1975, chính điện của Linh Sơn Cổ Miếu còn được sử dụng làm nơi hội họp của cán bộ cách mạng. Dưới bệ thờ các vị thần là hầm bí mật có sức chứa 4-5 người. Cửa hầm ở ngay giữa bệ thờ, trước đây được ngụy trang bằng bàn thờ Thổ Thần. Sau vách gỗ nhà hậu liêu cũng là lối ra hầm được ngụy trang bằng hàng rào dâm bụt. Mặc dù nhiều lần địch khả nghi đến lùng sục khắp nơi trong Miếu nhưng nhờ ngụy trang khéo léo và sự đùm bọc của bà con người Hoa nên cán bộ cách mạng được bảo vệ an toàn. Vì thế Linh Sơn Cổ Miếu không chỉ là cơ sở tín ngưỡng mà còn là một di tích lịch sử ghi lại mốc son đấu tranh cách mạng của đồng bào người Hoa ở Cần Thơ. Linh Sơn Cổ Miếu đã được UBND thành phố Cần Thơ xếp hạng là Di tích lịch sử vào ngày 31/3/2008. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Tp Cần Thơ

Cần Thơ 57 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Am Chúa

Am Chúa tọa lạc trên núi Đại An hay còn gọi là Qua Sơn (Qua Lãnh, núi Chúa, núi Cấm), xưa nay tên Đại An thông dụng nhất. Núi Chúa là một thổ sơn, cao 284 thước, Am Chúa nằm ở lưng chừng núi, có độ cao 80m so với mực nước biển, thuộc địa phận thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Cho đến nay, chưa có tư liệu nào xác định thời gian cụ thể mà Am Chúa được xây dựng; song qua lời kể của hào lão địa phương thì khởi đầu Am Chúa là một thảo am nhỏ nằm cùng Đại An sơn tự (chùa Đại An) trên ngọn Hoa Sơn và sau nhiều lần trùng tu thảo am đã trở thành nơi thờ Thiên Y Thánh Mẫu khang trang như ngày nay. Mặc dù hiện nay ngôi chùa nhỏ mang tên Đại An không còn nữa, nhưng sự hòa quyện giữa tục thờ Mẫu và những lễ nghi mang màu sắc Phật giáo thì vẫn còn nguyên vẹn và là nét văn hóa đặc trưng ở Am Chúa. Hệ thống kiến trúc thờ tự tại Am Chúa có nhiều nét tương đồng với kiến trúc các đình làng Khánh Hòa. Cấu trúc thờ tự có sự phối thờ, phối tế gần giống với các công trình kiến trúc tín ngưỡng trong tỉnh và đây chính là một đặc điểm tín ngưỡng của người dân Khánh Hòa. Các công trình kiến trúc ở Am Chúa gồm: Tam quan, mộ ông bà Tiều, bia ký, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chánh điện. Ngôi chánh điện được trùng tu lần thứ 3 vào năm Mậu Tuất (1958), lần thứ 4 năm Mậu Thìn (1988), đại trùng tu năm Kỷ Sửu (2009) với dạng thức kiến trúc ba gian. Am Chúa bài trí thờ tự với lỗ bộ, các cặp liễn đối, hoành phi được khắc, chạm tinh tế, sắc sảo. Án thờ đầu tiên là hương án thờ thần vị của Tiều công phu phụ. Khám thờ Thiên Y Thánh Mẫu được trang hoàng lộng lẫy, là điểm tập trung nhất của cấu trúc thờ tự trong Chánh điện; hai bên là khám thờ Lục vị Tiên cô và Thập nhị Tiên Nương. Bên tả ban thờ Thánh Mẫu là ban thờ Tứ vị Thái tử và Thập nhị hành khiển, còn được gọi là ban thờ Cậu (Hoàng tử Trí – con trai Thánh Mẫu); bên hữu là ban thờ Lục vị Tiên cô và Thập nhị Tiên Nương, còn gọi là ban thờ Cô (Công chúa Quý – con gái Thánh Mẫu). Tất cả các ban thờ trong Chánh điện đều được làm bằng gỗ quý, chạm khắc hoa văn, họa tiết tinh tế, đặc sắc. Toàn bộ chánh điện có kết cấu vì nóc kiểu vì kèo, các hàng cột cái và cột quân được làm từ gỗ quý có giá trị cao. Am Chúa còn lưu giữ được hai sắc phong do các vua triều Nguyễn ban tặng. Theo quan niệm dân gian, tháng Ba là tháng Vía Bà, “Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Lễ hội Am Chúa từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 3 tháng Ba âm lịch hàng năm và diễn ra theo một diễn trình truyền thống: Lễ mộc dục (tắm tượng), lễ tam hiến trơn, lễ tế chính, hát văn Mẫu, tế Nữ quan, lễ cúng Hậu thường, nghi thức dâng hương và múa bóng. Qua các truyền thuyết, truyện kể dân gian đến thờ phụng thể hiện sự tiếp nối liên tục về văn hóa, tín ngưỡng, Am Chúa đã mang trong mình những giá trị của hai nền văn hóa Chăm – Việt. Tuy rằng có những dấu ấn khác nhau, song phải khẳng định hình tượng Thiên Y A Na là một sáng tạo của người Việt, có cội nguồn từ hình tượng Pô Nagar của dân tộc Chăm và đều xuất phát từ hình tượng hiện thân cho người mẹ sáng tạo muôn loài. Với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, năm 1999 Am Chúa được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử – văn hóa Quốc gia. Nguồn: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Khánh Hòa

Khánh Hòa 54 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin

Di tích lịch sử lưu niệm nhà bác học Alexan drơ Yersin đã được Bộ Văn hóa – Thông tin, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích quốc gia ngày 28/9/1990. Di tích là một quần thể các địa điểm riêng lẻ, tiêu biểu, nổi bật, gắn bó trực tiếp với cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học Alexan drơ Yersin, bao gồm 3 địa điểm là thư viện tại Viện Pasteur Nha Trang (đường Trần Phú, Phường Xương Huân, TP Nha Trang), chùa Linh Sơn, mộ Alexan drơ Yersin (xã Suối Cát, Huyện Cam Lâm). Bác sĩ Alexan drơ Yersin sinh ngày 22/9/1863 tại Thụy Sỹ, đến năm 20 tuổi, ông tốt nghiệp Đại học Paris (Pháp), năm 1886 ông làm việc tại viện Pasteur Paris và cộng tác với bác sĩ Roux tìm độc tố vi khuẩn bạch cầu. Đến năm 1890, ông được chuyển lại quốc tịch Pháp. Sau khi ông đã gặt hái được những thành công nhất định trong ngành y học, Yersin bất ngờ rời bỏ ngành vi trùng học - sống đời thủy thủ và thám hiểm - mở đầu một cuộc đời khác kéo dài 50 năm. Năm 1891, ông xin thôi việc ở Messageries và đã sang Đông Dương làm y sĩ cho hãng tàu thủy Messageries để thực hiện ước mơ khám phá những chân trời mới. Tháng 7-1891 ông đến Nha Trang lần đầu tiên, đến năm 1895, Yersin sáng lập Viện Pasteur Nha Trang và điều chế huyết thanh chữa bệnh dịch hạch. Một năm sau, bệnh dịch tái phát ở Trung Quốc, Yersin lại sang Trung Quốc và cứu được nhiều người thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo đã giết 50 triệu người ở thượng cổ. Đến cuối năm 1899 ông đã trở lại Nha Trang và thành lập viện Pasteur. Gần 50 năm sống độc thân ở Nha Trang ông đã dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp khoa học, nghiên cứu thành công cho việc sản xuất thuốc chữa bệnh dịch hạch vào ngày 20/6/1894. Bởi vì ông sống tương đối giản dị và gần gũi với nhân dân xóm Cồn nên rất được mọi người yêu mến. Sau đó, ông dành khoảng hai năm (1902-1903) để ra Hà Nội mở trường Cao đẳng y khoa Đông Dương và làm hiệu trưởng đầu tiên tại đây. Năm 1924, ông giữ chức vụ Tổng Thanh Tra Các Viện Pasteur ở Đông Dương. Năm 1933, ông làm viện trưởng danh dự viện Pasteur ở Paris. Ngày 28/6/1935, trường trung học Yersin được khánh thành ở Đà Lạt, Yersin trở về Đà Lạt lần cuối cùng trước khi mất. Khoảng thời gian còn lại của cuộc đời mình, Yersin chỉ sống và làm việc tại Viện Pasteur Nha Trang. Khi về già, ông đã lên đỉnh núi phía trên Suối Dầu để dựng một ngôi nhà gỗ, vừa trồng cây thuốc, vừa nghiên cứu ra loại thuốc sốt rét. Cho đến những ngày tháng cuối cùng, ông để lại di chúc với mong muốn được chôn cất ở Suối Dầu. Tất cả tài sản của mình, ông xin dành tặng hết cho viện Pasteur Nha Trang. Ngày 1/3/1943 ông mất, đám tang được diễn ra rất giản dị, rất nhiều người đã đến đưa tiễn ông, nối theo nhau từ Nha Trang đến tận Suối Dầu. Theo di chúc, khi khâm liệm người ta đặt ông nằm sấp, đầu quay về biển để ông mãi mãi ôm mảnh đất quê hương của mình. Ngôi mộ của ông được xây hình chữ nhật bằng xi-măng, sơn màu xanh, trên bề mặt có chữ Alexan drơ Yersin (1863. 1943). Nguồn: Cổng thông tin du lịch Nha Trang

Khánh Hòa 75 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Bảo Đại 1

Đà Lạt nổi tiếng với 3 dinh thự thời vua Bảo Đại là Dinh 1, Dinh 2, Dinh 3 gắn liền với những nốt lịch sử thăng trầm của đất nước ta. Năm 1940, một người triệu phú Pháp tên Robert Clément Bourgery đã cho xây dựng Dinh 1. Năm 1949 thì cha vợ của vua Bảo Đại đã góp tiền để vua mua lại căn dinh thự này. Vua Bảo Đại đã đặt Tổng Hành Dinh tại đây để làm việc trong suốt những năm làm Quốc Trưởng giai đoạn 1949 – 1954. Ngoài Đà Lạt, vua Bảo Đại còn sở hữu một dinh thự rất nổi tiếng khác ở Vũng Tàu đó chính là Bạch Dinh. Năm 1956, Dinh 1 đã chuyển sang cho Ngô Đình Diệm dùng. Sau đó nhiều năm thì nơi này trở thành nơi nghỉ ngơi của các nguyên thủ quốc gia tới năm 1975. Vào năm 2014, chính quyền địa phương đã đầu tư khôi phục, tu sửa Dinh 1, đưa nơi này vào hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng tại Đà Lạt. Dinh 1 Đà Lạt (Dinh Bảo Đại) đã trải qua nhiều lần tu sửa. Khuôn viên bên ngoài được thiết kế rộng rãi và được bố trí sẵn các bàn ghế rất sang trọng. Bước qua cánh cổng vào khuôn viên có hàng trăm loài hoa đua hương khoe sắc, khung vườn cờ khổng lồ, dải bậc tam cấp 7 màu, hàng trăm chiếc đèn lồng treo lủng lẳng... Đài phun nước mang đậm nét Châu Âu cũng thu hút rất nhiều du khách. Bước lên lầu 1, ngoài khu vực sảnh chính thì hai bên của dinh là 2 phòng khách lớn, phía sau là 4 căn phòng lớn nhỏ khác nhau. Lúc trước, những căn phòng này được dùng làm phòng chuyển tiếp, phòng văn thư, phòng bếp và phòng WC. Cuối lầu 1 là một phòng chụp hình rất hoành tráng và nguy nga. Trong đó có cả ngai vàng, võng lọng sơn son thiết vàng... Khi bước lên lầu 2 của Dinh 1 Bảo Đại, bạn sẽ thấy 3 căn phòng ngủ khác nhau. Căn thứ nhất là phòng ngủ của mẹ vua Bảo Đại (bà Từ Cung). Phòng thứ 2 là phòng ngủ của vua Bảo Đại. Kế tiếp là phòng ngủ của Nam Phương hoàng hậu, nằm đối diện với dãy hành lang của dinh. Có thể nói, căn phòng thứ 2 là quan trọng nhất trong dinh 1 của vua Bảo Đại. Đây là nơi chuyên diễn ra những buổi hội họp quan trọng dưới thời của vua Bảo Đại từ năm 1949 cho đến năm 1954. Đây cũng là nơi bàn về các chiến dịch, chiến sự vào năm 1955 đến năm 1963. Đến chính quyền của Ngô Đình Diệm, ông mới sửa sang lại phòng của vua Bảo Đại và đào đường hầm bí mật tại đây. Lối đi xuống đường hầm được ngụy trang y hệt một giá sách bên phải giường ngủ. Lối thoát này dẫn ra bãi trực thăng phía sau đồi của dinh 1. Đặc biệt ở khu dinh thự này là những công trình xây dựng đậm chất quân sự, bạn sẽ không khỏi bất ngờ và choáng ngợp trước vẻ đặc sắc của nó. Đầu tiên là một sân rộng đáp trực thăng, kho xăng, lối đi thoát hiểm (đường hầm). Cánh cửa hầm được lắp thêm kim loại có sức nặng vài trăm kilogam, pháo, kính chống đạn... Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 59 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Căn Cứ Kháng Chiến Khu 6 Cát Tiên

Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến khu VI Cát Tiên có tổng diện tích gần 50 hecta, ở địa bàn thôn 5, xã Đức Phổ, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Đây là một địa chỉ lý tưởng thu hút nhân dân và du khách yêu thiên nhiên, ưa khám phá và tìm hiểu lịch sử, truyền thống cách mạng dân tộc đến tham quan. Di tích Khu VI, Cát Tiên là công trình có ý nghĩa lịch sử quan trọng, ghi lại những công lao và chiến tích của các thế hệ cha anh trong công cuộc đấu tranh chống giặc Mỹ xâm lược, giai đoạn 1963 - 1966. Khuôn viên di tích Khu VI, Cát Tiên được thiết kế hài hòa, khoa học và đẹp mắt, phù hợp với không gian cảnh quan, với hệ thống đường nội bộ trải bê tông sạch đẹp uốn lượn quanh các ao hồ trong xanh thoáng mát; Tượng đài uy nghi tọa lạc trên đỉnh đồi trung tâm đã tạo nên điểm nhấn thu hút sự chú ý của nhân dân và du khách khi đến tham quan di tích Khu VI, Cát Tiên. Cách đồi Tượng đài không xa là nhà trưng bày với 108 hiện vật đã sưu tầm được và một số loại vũ khí thô sơ được phục chế phục vụ cho công tác trưng bày và thuyết minh. Rải rác trên những sườn đồi xanh rợp bóng mát của các loại cây rừng là công trình các lán trại, hầm trú ẩn tái hiện không gian làm việc, sinh hoạt của “Các cơ quan Khu ủy, Quân khu” với tổng số 23 hạng mục, trong đó, cơ quan Khu ủy có 12 hạng mục và cơ quan Quân khu là 11 hạng mục. Theo tư liệu lịch sử, trong giai đoạn từ năm 1963 - 1966 Khu ủy, khu VI Cát Tiên đã có những đóng góp quan trọng đánh dấu sự phát triển lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng nước ta. Thời gian đầu, Khu VI là nơi tập trung củng cố và chuẩn bị những điều kiện cần thiết nhằm phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ, vùng giải phóng, tạo thế và lực để phong trào cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi to lớn. Đặc biệt trong Đông - Xuân năm 1964 - 1965, phong trào cách mạng ở Khu VI đã có bước phát triển nhảy vọt cả chiều rộng lẫn chiều sâu; quân và dân Khu VI đã chủ động tích cực phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch trong chiến dịch Đồng Xoài mùa Hè năm 1965, góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Mùa khô năm 1965 - 1966, quân và dân Khu VI đã đánh thắng cuộc phản công lần thứ nhất của địch ở chiến trường Khu VI. Từ đây, quân và dân Khu VI liên tục làm thất bại kế hoạch bình định, tìm diệt của địch trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966 - 1967), đến mùa khô 1967 - 1968, quân và dân Khu VI đã đẩy mạnh các cuộc tiến công và giành được những thắng lợi to lớn. Từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1968, Đảng bộ, quân và dân Khu VI đã phối hợp với toàn miền đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Chiến công của quân và dân Khu VI - Cát Tiên thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Trong đó, cộng đồng các dân tộc Khu VI đã đoàn kết, anh dũng, bất khuất, làm nên những chiến công vang dội, thể hiện sự chói sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với lòng yêu nước nồng nàn đã giúp quân và dân Khu VI vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Việc xây dựng, tôn tạo Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến Khu VI, Cát Tiên đã thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, vinh danh, phát huy những giá trị lịch sử to lớn của quân và dân Khu VI, đồng thời đây chính là nơi giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng truyền thống cách mạng cho các thế hệ con cháu mai sau. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Cát Tiên

Lâm Đồng 78 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu di tích thác nước Datanla

Khu Du lịch di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia Thác Đa tang la, hay còn được gọi là Da tan la, là một thác nước nổi tiếng tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Nằm trong khu du lịch Đa tan la, thác cách thác Prenn 8 km và trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 10 km. Thác Da tang la được xem là một trong những điểm đến lý tưởng cho những du khách muốn tham quan và trải nghiệm phiêu lưu mạo hiểm. Tên gọi “Đa tang la” hay “Đa tang la” được lấy từ tiếng K’Ho, được hợp thành từ “Đạ-Tam-N’ha”, có ý nghĩa là “dưới lá có nước”. Tên gọi này có nguồn gốc từ cuộc xung đột lịch sử giữa các dân tộc Chăm – Lạch – Chil trong thế kỷ XV. đến thế kỷ XVII. Thác Da tang la có lượng nước dồi dào nhờ vào nguồn nước ổn định từ thượng nguồn. Không ồn ào như một số thác khác, Da tang la chảy qua nhiều thềm đá và đổ từ ghềnh cao khoảng 20m. Phần dưới của thác tạo thành khu vực nước rất trong, được gọi là Suối Tiên, trong khi phần trên có một vực sâu gọi là Vực Tử Thần. Theo truyền thuyết, vì vực sâu này nằm giữa một vùng đồi núi, nên đã từng là nơi lánh nạn cho một cánh quân của dân tộc bản địa trong cuộc chiến tranh với người Chăm hàng trăm năm trước. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của thác Đa tang la. Một trong số đó kể về cuộc gặp gỡ của dũng sĩ K`Lang và nàng sơn cước Hơbilang tại đây. Một số truyền thuyết khác về thác Đa tang la cho rằng thác là nơi mà các nàng tiên thường tắm, hoặc câu chuyện về cuộc chiến tranh giữa người Lạt và người Chăm, trong đó thác đóng vai trò quan trọng trong chiến lược chiến đấu của họ. Với những giá trị văn hóa đó mà vào năm 1998, thác Đa tang la đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 79 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Thác Cam Ly Đà Lạt

Thác Cam Ly nằm cách thành phố Đà Lạt 2km về phía Tây. Đây được xem là thác nằm gần trung tâm thành phố nhất. Thác Cam Ly nằm cạnh dòng suối Cẩm Lệ, thác được hình thành từ một phần dòng nước chảy vào từ hồ Xuân Hương và một dòng suối khác là suối Cam Ly cũng chảy vào đây. Thác Cam Ly là một trong những con thác được nói về sự tưởng nhớ, sự biết ơn, sự kính trọng của người dân nơi đây đối với người có công trong thời kỳ đó. Truyền thuyết kể rằng, thác Cam Ly có nguồn gốc từ tiếng K’Ho. Người dân trong bộ tộc Lạch (Lạt) gọi thác Cam Ly là Liêng Tô Sra - ranh giới của dòng suối Cẩm Lệ đến sông Đạ Đờng. Người dân trong buôn làng mới lấy tên của vị tù trưởng của bộ tộc Lạch (Lạt) lúc đó là K'Mly để tưởng nhớ, thể hiện sự biết ơn của dân làng đối với vị tù trưởng này. Vị tù trưởng này đã lo bữa ăn giấc ngủ của cả bộ tộc, sống chan hoà với các người dân, lo lắng cuộc sống của người dân trong làng trở nên ấm no, sung túc, đầy đủ. Nên tên của vị tù trưởng này được đặt cho con thác là K’MLy sau này đọc chạy (đọc trại) là Cam Ly. Còn theo nguồn gốc của tiếng Hán Việt thì Cam Ly có nghĩa là dòng suối có nước ngọt (Cam là ngọt, Ly là thấm vào). Thác Cam Ly sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, đặc biệt vào mùa mưa khi nước chảy cuồn cuộn, tạo ra những khối nước khổng lồ đổ xuống dữ dội. Với vị trí thuận tiện gần trung tâm thành phố, thác Cam Ly thu hút đông đảo du khách ghé thăm hàng năm . Dưới chân thác Cam Ly là một vườn hoa nhỏ, góp phần tạo nên một phong cảnh hài hòa và đẹp mắt. Ngoài ra, trong khu vực thác còn có lăng Nguyễn Hữu Hào, được xây dựng với nhiều kiến trúc độc đáo. Vào năm 1998, Thác Cam Ly đã được nhà nước ta xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 65 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Hồ Xuân Hương

Khi nhắc đến Đà Lạt, không ai là không biết đến Hồ Xuân Hương, một hồ nước tuyệt đẹp nằm ngay tại Trung tâm thành phố Đà Lạt. Hồ Xuân Hương là một hồ nước nhân tạo, có chu vi khoảng 5km và rộng 25ha. Hồ có hình dáng của mặt trăng lưỡi liềm, kéo dài hơn 2 km và đi qua nhiều điểm du lịch nổi tiếng của Đà Lạt như Vườn hoa thành phố, Công viên Yersin, Đồi Cù và Quảng trường Lâm Viên. Theo người dân nơi đây thì nguồn gốc cái tên Hồ Xuân Hương đến từ 2 truyền thuyết khác nhau. Truyền thuyết đầu tiên cho rằng, cứ vào mùa xuân, xung quanh hồ lại có một mùi hương thơm thoang thoảng, ngây ngất lòng người. Chính vì vậy mà người dân đã đặt cho hồ cái tên là Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, truyền thuyết thứ 2 cho rằng, Hồ Xuân Hương được đặt theo tên của một nữ thi sĩ người Việt vào thế kỉ 19 có tên là Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương là tác giả của một số bài thơ nổi tiếng như Bánh trôi nước, cái kiếp tu hành, cái nợ chồng con,…. Hồ Xuân Hương ban đầu là một thung lũng rộng lớn, và có dòng suối Cam Ly chảy qua. Năm 1919, kỹ sư Lab-bê đã ngăn dòng suối này để nước tích tụ và tạo thành hồ. Sau đó, vào năm 1923, các kỹ sư người Pháp đã cho xây dựng một đập được xây dưới đáy hồ, nhưng bị vỡ sau một cơn bão vào năm 1932. Kỹ sư Trần Đăng Khoa sau đó đã cho xây dựng lại một đập mới bằng đá. Vào năm 1989, Hồ Xuân Hương đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 59 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật