Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Di tích lịch sử Xưởng Đội Cấn – Nhà máy Quân giới k77 (1947-1954) ở xóm Đồng Làn, xã Đồng Thịnh, ATK Định Hóa. Ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký chỉ thị thành lập Phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc Phòng, với nhiệm vụ: thu thập, mua sắm và tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí để trang bị cho quân đội. Xưởng Đội Cấn (Nhà máy Quân giới K77) thuộc Cục Quân giới Quân đội Nhân dân Việt Nam là Nhà máy chủ lực sản xuất đạn dược, vũ khí, đóng góp to lớn vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954), xây dựng nền tảng ngành Quân giới Việt Nam (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) góp phần cùng quân dân cả nước giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xưởng Đội Cấn cùng các xưởng Quân giới các liên khu kháng chiến chống thực dân Pháp trên toàn quốc góp sức làm nên thành quả to lớn của ngành Quân giới Việt Nam. Cục Quân giới ( nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, Huân chương sao vàng, hai Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, hàng trăm Huân chương Chiến công, Huân chương Lao động. 17 tập thể và 58 cá nhân được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, trong đó có 3 nhà máy Z111, Z121, Z113 được tuyên dương Anh hùng hai lần… Di tích Xưởng Đội Cấn được Cục Quân giới và Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng đầu tư, tôn tạo xây dựng khuôn viên, hàng rào với Tổ hợp phù điêu gốm nghệ thuật “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công nhân Quân giới” Nhà trưng bày bổ sung di tích– thư viện phục vụ nhân dân xã Đồng Thịnh và khách tham quan di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, Thái Nguyên. Xác định là Cội nguồn của Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng ở Căn cứ địa Việt Bắc . Các điểm di tích lịch sử trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa và.trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh. Để phát huy tốt tiềm năng giá trị di tích lịch sử và thực hiện chức năng nhiệm vụ Ban quản lý Khu di tích Lịch sử – Sinh thái ATK Định Hóa, Thái Nguyên nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học dựa trên giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học của di tích trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày 9/3/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện đã ký quyết định số 814/QUYẾT ĐỊNH BỘ VĂN HÓA xếp hạng di tích quốc gia đối với địa điểm di tích lịch sử Cơ quan Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam và nơi ở, làm việc của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái (1949 – 1954) và quyết định số 813/QUYẾT ĐỊNH BỘ VĂN HÓA THỂ THAO DU LỊCH di tích lịch sử Xưởng Đội Cấn – Nhà máy Quân giới k77 (1947-1954). NGUỒN: Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hoá, Thái Nguyên
Thái Nguyên 142 lượt xem
Khu di tích lịch sử cơ quan Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1949- 1954) gồm hai điểm chính là nơi ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiêm văn phòng Quân ủy ở đồi Đỏn Mỵ (là đồi mít ) và văn phòng Bộ tổng Tư lệnh trên đồi Khau Cuổi (là rừng chuối ) thuộc thôn Bảo Biên, xã Bảo Linh, huyện Định Hóa. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1947- 1954), Bảo Biên được chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta chọn làm một trong những điểm trung tâm của căn cứ địa Trung ương (An toàn khu- gọi là ATK). Tại đây từng có các đồng chí lãnh đạo chỉ huy của Bộ Quốc phòng ở và làm việc như đồng chí Tạ Quang Bửu – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Hoàng Văn Thái – tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam ở đình bản Khen. Sau ngày kháng chiến thành công Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần viết thư thăm hỏi và động viên đồng bào các dân tộc ở đây, mùa xuân năm 1989 và 12/ 8/ 1998 Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Bảo Biên, đã đến thăm nơi ở, làm việc năm xưa và văn phòng Bộ tổng Tư lệnh trong kháng chiến chống Pháp. Nơi ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và văn phòng quận uỷ nằm trên đồi Đỏn Mỵ, nhìn ra phía trước theo hướng Đông – Nam là cánh đồng Bảo Biên, có đường ô tô chạy qua, cắt ngang phía trước ngay sát di tích là con đường làng mới mở, bên phải, bên trái là nhà dân. Phía sau là dãy núi Lai Liệp nối liền với dải núi Hồng hùng vĩ, hiện nay qua khảo sát còn thấy 5 nền nhà to, nhỏ khác nhau được cây cối che phủ. Căn cứ vào kích thước, vị trí và lời kể của nhân chứng thì nền nhà lớn trên đỉnh đồi, giữa có một cửa hầm là nơi hội họp và làm việc. Phía trước là nhà gác, sau là bếp, bên trái là nhà ở của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và văn phòng Quân ủy cùng với nhân viên phục vụ, dưới chân đồi phía sau có một cái ao lau sậy um tùm xung quanh là ruộng của dân. Khu vực văn phòng Bộ tổng Tư lệnh nằm trên dải đồi thấp, đối diện phía trước cách nơi ở của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khoảng 700m về hướng Đông – Nam, xung quanh bên phải, bên trái, phía sau là rừng cọ, vào, phía trước nhìn lên hướng Tây – Bắc là cánh đồng Bảo Biên. Qua khảo sát thấy có hai nền nhà liền nhau còn rõ dấu tích, đó là hội trường lớn và văn phòng làm việc của Bộ tổng Tư lệnh, ngoài ra còn nhiều nền nhà to, nhỏ khác nhau nằm rải rác trên đồi Khau Cuổi, đó là nơi ở của bộ đội ta để bảo vệ khu căn cứ Bảo Biên. Toàn bộ khu di tích lịch sử Bảo Biên nằm trong một thung lũng nhỏ hẹp, bao quanh là rừng núi rất kín đáo, tiện lợi cho việc giữ gìn bí mật, nhưng cũng rất thuận lợi cho việc liên lạc đi các hướng. Từ đây có thể ra Chợ Chu, xuống Thái Nguyên, lên Chợ Đồn – Bắc Kạn, sang Sơn Dương – Tuyên Quang một cách dễ dàng. Bảo Biên là trung tâm đầu não quân sự của Đảng ta, tại đây Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với quân ủy và Bộ tổng Tư lệnh xây dựng các kế hoạch quân sự quan trọng trình lên thường vụ Trung ương Đảng, Hồ Chủ Tịch phê duyệt, chỉ huy, chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn, trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Bảo Biên có một vị trí quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Cùng với thời gian, do tác động của thiên nhiên cũng như con người nên di tích bị xuống cấp nhiều. Nơi ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Văn phòng quân ủy và văn phòng Bộ tổng Tư lệnh trước đây được làm bằng tre, nứa, gỗ, không còn nữa, dấu tích nền nhà còn tương đối nguyên vẹn. Nhờ ý thức bảo vệ di tích của đồng bào, cả hai địa điểm của khu di tích không bị phá hại xâm lấn, đầu năm 1996 theo dự án đầu tư xây dựng vùng ATK của nhà nước, đường ô tô đã mở qua phía trước trung tâm khu di tích, làm đường xây bậc lên bằng gạch, xi măng vào nơi ở của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và văn phòng Quân ủy, đường điện lưới quốc gia cũng đang được xây dựng. Cuối năm 1996 nhân dân địa phương huy động làm đường ô tô vào điểm di tích văn phòng Bộ tổng Tư lệnh. Cùng với các di tích trong vùng ATK Định Hóa như nơi hợp nhất đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với đội Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân (15/ 5/ 1945) tại Định Biên. Di tích chủ tịch Hồ Chí Minh ở Tỉn Keo xã Phú Đình, vượt qua Đèo De núi Hồng là khu di tích lịch sử Tân Trào (Tuyên Quang)… tạo thành một quần thể di tích cách mạng và kháng chiến, thuận tiện cho việc tham quan du lịch. Để phát huy tốt giá trị của di tích, cần tạo một môi trường tốt về đời sống vật chất, tinh thần, phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí trong vùng, phục hồi lại một vài điểm di tích quan trọng, xây dựng nhà bia ghi dấu sự kiện, dựng biển hướng dẫn để đón khách vào tham quan thường xuyên. Địa điểm di tích cơ quan Bộ tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1949 – 1954) tại Bảo Biên được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số: 43/1999-QĐ-BVHTT, ngày 12/07/1999, quân dân xã Bảo Linh được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống thực dân Pháp. NGUỒN: Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hoá, Thái Nguyên
Thái Nguyên 139 lượt xem
Địa điểm di tích Tổng Bí thư Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng ở làm việc tại Nà Mòn, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946), thực hiện đường lối “kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” bảo vệ độc lập dân tộc, Tổng Bí thư Trường Chinh cùng Văn phòng Trung ương Đảng di chuyển từ Hà Nội lên Phú Thọ, qua Tuyên Quang, Đèo Khế, Minh Tiến (huyện Đại Từ)…Điểm dừng chân đầu tiên của Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng chí Lê Văn Lương cùng anh Lê Đức Thọ… tại An toàn khu (ATK) Định Hóa là ở nhà sàn của dân xã Quảng Nạp nay là xã Bình Thành, nơi giáp ranh với xã Minh Tiến, huyện Đại Từ, cửa ngõ vào ATK, có chợ quê kháng chiến, một thị tứ khá đông đúc đầu năm 1947 của chiến khu Việt Bắc. Cùng di chuyển, đặt cơ quan làm việc với đồng chí Trường Chinh, ngoài Văn phòng Trung ương Đảng còn có bộ phận biên tập, phóng viên báo Sự Thật của Đảng, Ban Tổ chức Trung ương chủ yếu di chuyển quanh dưới chân dãy núi Hồng từ xã Điềm Mặc lên xã Phú Đình… (Theo lời kể của Bà Nguyễn Thị Bích Thuận nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh vệ, vợ cố ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Văn Lương cùng con gái thăm lại chốn xưa ở ATK Định Hóa năm 2006) Dừng chân ở Quảng Nạp vài tháng, Tổng Bí thư cùng Văn phòng Trung ương di chuyển lên đồi Khuổi Khê, địa bàn xóm Phụng Hiển (Thanh Định, nay là xã Điềm Mặc), sau đó lại di dời lên xóm Na Mòn (xã Phú Đình), ở chân núi Hồng, gần dân, có đồng ruộng trải rộng phía trước. Từ đây đến đồi Thẩm Khen nơi Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm việc (1950 - 1953) khoảng 1km, cách cơ quan Phủ Chủ tịch Bác Hồ ở Tỉn Keo 2,5km. Có thể theo đường ngựa đi vượt Đèo De núi Hồng sang Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) có 6 – 7 km. Trong thời kỳ kháng chiến, đồng chí Trường Chinh cùng Văn phòng Trung ương Đảng di chuyển cùng các cơ quan Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Định Hóa sang Võ Nhai, lên Chợ Đồn (Bắc Kạn), sang Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang)…rồi lại quay về ở, làm việc, sống cùng đồng bào Tày, Nùng xóm Nà Mòn dưới chân núi Hồng, xã Phú Đình lâu nhất từ 1948 đến đầu năm 1954. Văn phòng Trung ương Đảng tại Nà Mòn là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Tổng Bí thư Trường Chinh, nhận các chỉ thị, báo cáo từ Đảng bộ các tỉnh, các liên khu và là nơi phát đi chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo, lãnh đạo ra toàn quốc. Tại đây thông qua nhiều chỉ thị, chủ trương, nghị quyết quan trọng, mở các chiến dịch lớn như hạ quyết tâm giải phóng, khai thông biên giới với nước bạn Trung Quốc (1950), chiến dịch Trung Du, chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc… Cũng tại đây đã chuẩn bị báo cáo chính trị, dự kiến nhân sự, tổ chức chuẩn bị văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II diễn ra tại Kim Bình, Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang năm 1951… NGUỒN: Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hoá, Thái Nguyên
Thái Nguyên 137 lượt xem
Trong không khí phấn khởi toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, chiều ngày 09/12/2024, tại xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Bộ tư lệnh Quan khu I phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã long trọng tổ chức khánh thành, bàn giao công trình tu bổ, tôn tạo Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn, thuộc Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, Thái Nguyên. Dự án tu bổ, tôn tạo Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn được khởi công xây dựng từ tháng 01/2024, với diện tích 3,32ha gồm các hạng mục: Cổng nghi môn; khối đá tên công trình; nhà đón tiếp; nhà bia di tích; nhà tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp; bình phong đá; cột cờ cùng các hạng mục phụ trợ khác. Sau hơn 10 tháng thi công việc tu bổ, tôn tạo đã hoàn tất và đưa vào sử dụng để phục vụ du khách trong và ngoài tỉnh tham quan. Sau khi khánh thành đưa vào sử dụng Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn cùng với các di tích khác thuộc Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK sẽ là địa chỉ đỏ để cán bộ, chiến sỹ toàn quân về nguồn giáo dục truyền thống cách mạng, góp phần nâng cao công tác quảng bá, giới thiệu về tiềm năng, thế mạnh của mảnh đất, con người ATK Định Hóa, Thái Nguyên./. NGUỒN: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 135 lượt xem
Ngày 20/1/1948 tại Phủ Chủ tịch – mái lá cọ đơn sơ ở Khuôn Tát (xã Phú Đình), Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ lãnh đạo - chỉ huy quân đội, quân hàm Đại tướng: Võ Nguyên Giáp, quân hàm Trung tướng: Nguyễn Bình, quân hàm Thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình. Trong một căn nhà dựng bên suối lớn, dựa một bên núi, cây cối chen phủ kín, ở ngoài trông vào rất khó thấy mà máy bay cũng khó lòng sục sạo. Một phòng trưng bày đặc biệt. Có bàn thờ Tổ quốc, chung quanh băng đỏ ghi các khẩu hiệu: “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Thống nhất độc lập nhất định thành công“… trông đơn giản mà trang nghiêm. Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, lên đứng 2 bên bàn thờ, toàn thể nhân viên Chính phủ đứng xếp hàng trước bàn thờ (ông Cù Huy Cận – thư ký Hội đồng Chính phủ, Phan Mỹ – Chánh văn phòng Chính phủ)… Chủ tịch Hồ Chí Minh tay cầm sắc lệnh gọi Võ Nguyên Giáp lên trước bàn thờ, rồi Cụ nín lặng, sụt sùi rơi nước mắt… Một phút vô cùng cảm động, mọi người đều rớm nước mắt. Giây lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới cất được tiếng mà tuyên bố: Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều binh khiển sĩ làm trọn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận sắc lệnh. Cụ Trưởng ban Thường trực nhân danh Quốc hội tuyên bố mấy lời. Ông Phan Anh thay mặt Chính phủ nói mấy câu chúc mùng. Tạ Quang Bửu – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhân danh bộ đội tỏ lời mừng của toàn thể bộ đội và nêu cao tinh thần phấn đấu anh dũng dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau cùng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng lên cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội và Chính phủ, tuyên bố sẽ tiếp tục nỗ lực làm tròn nhiệm vụ để đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước, Võ Nguyên Giáp lần lượt bắt tay tất cả mọi người. Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố bế mạc cuộc lễ. Ghi dấu sự kiện này, “Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên 1941-1954” khắc ghi. “Từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 5-1948 bảo vệ Bác trở lại Nà Lọm, xã Phú Đình, ở ngay trại thiếu nhi Bác Hồ bên suối Nà Lọm, cách đồi cũ chừng 200m. Tại đây Bác Hồ cùng Chính phủ phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp”... Ban quản lý di tích và danh thắng Thái Nguyên đã lập hồ sơ khoa học trình Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho địa điểm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng đầu tiên của quân đội ta, nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự tiến lên chính quy, hiện đại của quân đội ta và sự quan tâm đào tạo, rèn luyện, cất nhắc các tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo quân đội đánh thắng kẻ thù xâm lược bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Thái Nguyên 138 lượt xem
Cầu Gia Bảy được xây dựng khoảng những năm 1928-1930. Trước đây, cầu nằm trên Quốc lộ 1B, con đường huyết mạch nối từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên. Vào thời kỳ Chiến tranh Đông Dương, cầu từng bị binh lính và người dân Việt Nam phá sập vào năm 1947. Đến năm 1965, cầu bị máy bay Hoa Kỳ ném trúng ba quả bom và hư hỏng nặng. Năm 1991, cầu được xây mới tại vị trí cũ, có chiều dài gần 100m, chiều rộng khống chế 9m. Cầu Gia Bảy là nơi ghi nhiều dấu ấn lịch sử, nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Lịch sử đã ghi lại: Ngày 17/10/1965, giặc Mỹ huy động 29 lần chiếc máy bay, ném 116 quả bom phá xuống cầu Gia Bảy và nhiều loạt đoạn tên lửa xuống trận địa pháo cao xạ của Trung đoàn 210, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của chúng vào Thái Nguyên. Sức tàn phá quá lớn của trận bom đã khiến cầu Gia Bảy bị hỏng hai mố, dầm chủ và dầm bên thượng lưu, hạ lưu bị đứt khiến giao thông hoàn toàn ngưng trệ. Bom Mỹ làm 147 người chết và bị thương; 45 ngôi nhà ở hai bên đầu cầu bị cháy, đổ; 32 cán bộ chiến sĩ trong Đại đội tự vệ khu phố Hoàng Văn Thụ thương vong. NGUỒN: Sở ngoại vụ Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 130 lượt xem
Cách đây 105 năm, khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo đã làm rung chuyển chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Đây được xem là cuộc khởi nghĩa vũ trang hào hùng vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc ta đầu thế kỷ XX. Ngược dòng lịch sử, trong những năm đầu thế kỷ XX, Nhân dân trong tỉnh Thái Nguyên cũng như cả nước chịu muôn vàn thống khổ bởi sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai. Trong tình cảnh đó, những người con của quê hương Thái Nguyên có tinh thần yêu nước đã dựng cờ khởi nghĩa, đứng đầu là Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến. Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào tối 30/8/1917, các ông Đội Trường, Ba Chén và một số binh lính giác ngộ đã tới diệt tên giám binh Nô-en (Noel) và những tên tay sai đắc lực của giặc. Ông Đội Giá và đồng đội tới giết hai vợ chồng tên Lô-ét (Loet) - một tên giám ngục rất độc ác, mở cửa nhà lao phá xiềng xích, giải thoát cho trên 200 tù chính trị và tù thường phạm. Ông Lương Ngọc Quyến bị liệt nửa người, được anh em cõng ra ngoài. Tiếp đó ông Đội Giá cho mở kho quân lương, lấy quần áo, đạn dược trang bị cho nghĩa quân rồi chiếm tiếp dinh Công sứ, tòa án, nhà đoan, kho rượu, kho đạn... Với tinh thần chiến đấu ngoan cường, nghĩa quân đã làm chủ tỉnh lị trong vòng 1 tuần. Ngày 5/9/1917, mặt trận của nghĩa quân tại thị xã Thái Nguyên bị phá vỡ, buộc phải rút lui khỏi Thái Nguyên. Ông Lương Ngọc Quyến bị thương nặng và hy sinh anh dũng. Tuy thất bại sau đó nhưng khởi nghĩa đã để lại một dấu mốc đặc biệt. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa diễn ra, giành được chính quyền tại một tỉnh, có tuyên ngôn, tuyên bố nền độc lập, có quốc kỳ, quốc hiệu, thành lập quân đội riêng. Cụm di tích khởi nghĩa Thái Nguyên đã được xếp hạng Quốc gia năm 1997, gồm các di tích: Trại lính khố xanh, dinh công sứ Pháp, nhà lao Thái Nguyên, đền thờ Đội Cấn. NGUỒN: Sở ngoại vụ Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 133 lượt xem
Nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên hơn 10km, khu du lịch sinh thái Thái Hải thuộc xóm Mỹ Hào, xã Thịnh Đức, thành phố Thái Nguyên là một khu du lịch trải nghiệm phong tục tập quán dân tộc Tày, từ nhiều năm nay. Khu du lịch sinh thái, bảo tồn văn hóa dân tộc Tày Thái Hải hiện nay có khoảng 30 ngôi nhà sàn được dựng theo nguyên bản từ nhà sàn của người Tày Định Hóa Thái Nguyên nơi bạn có thể được thưởng thức văn hóa người Tày vô cùng đặc sắc Nơi đây, dưới những nếp nhà sàn quần tụ trong không gian xanh mướt của những tán cọ, rừng keo, rừng vầu trong núi đồi bảo tồn các hiện vật và văn hóa dân gian truyền thống của đồng bào Tày, Nùng Việt Bắc.Làng nhà sàn Thái Hải được chia làm nhiều khu với những chức năng riêng, gồm có khu bảo tồn, khu ẩm thực, khu vui chơi giải trí, tổ chức sự kiện…là điểm đến hấp dẫn thu hút du khách trong và ngoài nước.
Thái Nguyên 159 lượt xem
Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam có địa chỉ tại số 1 Đội Cấn, Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên (tỉnh Thái Nguyên), được thành lập vào năm 1960 với tên gọi ban đầu là Bảo tàng Việt Bắc, đến năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Với diện tích gần 40.000m2, đây là công trình hội tụ, lưu giữ, trưng bày và giới thiệu những tư liệu quan trọng về lịch sử, bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt I, năm 2006. Trong đó, các dân tộc anh em tại các khu vực như vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ… được tái hiện qua gần 50.000 hiện vật trong không gian bảo tàng. Trong đó, bản sắc văn hóa về phong tục, tập quán lao động, sản xuất, các nghi lễ, lễ hội, trang phục, ẩm thực, kiến trúc, nghề thủ công… được tái hiện sinh động qua hệ thống tư liệu, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Thái Nguyên 135 lượt xem
Di tích rừng Khuân Mánh Rừng Khuân Mánh là khu rừng thuộc xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía Đông Bắc. Đây là nơi ra đời của Trung ương đảng về bảo toàn và tiếp tục củng cố lực lượng, ngày 15/9/1941, thay mặt thường vụ trung ương Đảng, ông Hoàng Quốc Việt đã đến căn cứ chứng kiến lễ thành lập và trao nhiệm vụ cho đội cứu quốc quân II, ông Chu Văn Tấn là chỉ huy trưởng, ông Nguyễn Văn Phấn làm chỉ huy phó. Lúc đầu trung đội có 36 người, trong đó có 3 nữ, sau tăng lên 46 người, trang bị vũ khí thô sơ, chỉ có súng kíp và giáo mác. Sau lễ thành lập, trung đội bắt tay vào xây dựng cơ sở chính trị trong nhân dân, đẩy mạnh hoạt động du kích ở Tràng Xá, Đình Cả, gây nhiều tổn thất cho địch. Tháng 11/1944, nhiều trận chiến đấu ác liệt giữa đội cứu quốc quân II, (có sự tham dự của nhân dân địa phương) với quân đội Pháp tại cầu Đồng Thu, đèo Khê, gốc đa La Hán, núi Đá Đỏ, hang Mỏ gà... các địa danh này lưu dấu chiến công oanh liệt của quân dân Võ Nhai thời đó. NGUỒN: Du Lịch Thế Giới
Thái Nguyên 127 lượt xem
Chùa Đông Cao hay chùa Đôi Cao, được xây dựng từ thời nhà Lý, tọa lạc trên quả đồi thuộc thôn Phúc Duyên, xã Tân Hương. Trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi chùa bị tàn phá. Đến năm 1999, xã Tân Hương đã tổ chức trùng tu lại chùa và xây dựng gác chuông. Năm 2002, bà con trong xã và các nhà hảo tâm đã vận động quyên góp hơn 120 triệu đồng để tu bổ chùa. Hiện, chùa đã được đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp, có nhà Tam Bảo, nhà thờ Mẫu, nhà thờ Bác Hồ, phía trước mặt là gác chuông 3 tầng. Chùa Đông Cao đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh năm 2004. Hàng năm, cứ vào ngày 14, 15 tháng Giêng, bà con trong xã và du khách thập phương lại tới chùa làm lễ cầu nguyện năm mới an lành, cây cối đâm chồi nảy lộc, vạn vật tốt tươi. Lễ hội còn diễn ra các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ (ảnh) và các trò chơi dân gian thu hút đông đảo người dân tham gia như: Đấu vật, cờ tướng, chọi gà… Chùa thường được gọi là chùa Đông Cao, chùa Cao, tọa lạc trên một ngọn đồi thuộc xã Tân Hương, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Từ Hà Nội đến địa phận tỉnh Thái Nguyên, đi 16km nữa thì đến chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào thời Hậu Lê. Ngôi chùa ngày nay do Sư cụ Thích Đàm Hinh tổ chức xây cất vào ngày 17 tháng 5 năm 1992, hoàn thành ngày 21 tháng 7 năm 1992. Chùa còn giữ được các ngôi tháp, bia, cột đá thời Hậu Lê, như tấm bia cổ có khắc niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 (1697). NGUỒN: Viet Architect Group
Thái Nguyên 136 lượt xem
Sáng ngày 06/01, Đảng ủy, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập đã tổ chức Lễ đón nhận Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh cho đình Minh Lý. Đình Minh Lý thuộc xóm Minh Lý, xã Minh Lập là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong xã. Đình thờ vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, người có đóng góp to lớn trong việc duy trì, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc đánh đuổi giặc ngoại xâm, được nhân dân tôn kính và lập đền thờ Thành hoàng làng. Ngôi đình đã có từ rất lâu, song do biến thiên của lịch sử, thiên tai tàn phá khiến Đình Minh Lý bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, nhân dân 4 xóm Ao Sơn, Đoàn Kết, Làng Chu và Theo Cày đã cùng nhau công đức xây dựng lại ngôi đình trên nền cũ. Đình gồm có tiền tế và hậu cung, tổng diện tích đất xây dựng là 1.903 m. Hằng năm tại đình có 2 kỳ lễ chính vào ngày 09/1 và ngày 20/11 âm lịch, ngoài ra còn có các ngày lễ khác như lễ hạ điền và thượng điền. Lễ vật dâng lên thành hoàng làng chủ yếu là các nông sản tại địa phương với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa,cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, nhân dân các dân tộc trên địa bàn được ấm no hạnh phúc. Với những giá trị về lịch sử và văn hóa, UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định công nhận đình Minh Lý là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đây là niềm vui của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập nói riêng và huyện Đồng Hỷ nói chung. Việc được công nhận là di tích lịch sử góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân trên địa bàn./. NGUỒN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN ĐỒNG HỶ
Thái Nguyên 191 lượt xem
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đã có nhiều cơ quan được thành lập, đóng và làm việc tại ATK Định Hóa. Trong số này có cơ quan Cục Thông tin, Bộ Quốc phòng. Ngày 31/7/1949, Bộ trưởng Bộ quốc phòng ban hành Nghị định số 123/NĐ thành lập Cục Thông tin thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia và Dân quân, tự vệ Việt Nam. Cơ quan thành lập trên cơ sở Phòng Thông tin liên lạc quân sự do đồng chí Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng. Theo Nghị định, Cục Thông tin là cơ quan tham mưu cho Bộ Tổng tư lệnh về mặt thông tin liên lạc; tổ chức, giữ vững thông tin liên lạc từ Bộ Tổng Tham mưu đến các chiến trường, các đơn vị chỉ đạo nghiệp vụ; trang bị vật chất kỹ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc trực thuộc Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh; thống nhất tất cả các lực lượng thông tin liên lạc ở cơ quan Bộ Quốc phòng, Sở Vô tuyến điện Việt Nam và đưa về nằm trong đội hình Cục Thông tin. Trong giai đoạn 1952-1953, cơ quan Cục Thông tin ở và làm việc ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ (Định Hóa). Địa điểm này đã được khảo sát, xác định vị trí nhưng được xây bia di tích. Ông Hoàng Văn Chức, sinh năm 1942, ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ xác nhận: Khu vực Cục Thông tin làm việc nằm ở trên lưng chừng đồi, san gạt nền tương đối rộng. Sau khi chuyển đi thì nơi này vẫn còn giấu khá nhiều máy móc và điện đàm nhưng nay không còn và gần như mất dấu. Tháng 5-1953, Cục Thông tin chuyển địa điểm đến xóm Khuân Giàng, xã Trung Hội (từ năm 1953 đến nay thuộc xã Trung Lương, Định Hóa). Tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đội ngũ cán bộ đơn vị đã xác định quyết tâm trong thời gian 6 tháng phải hoàn thành những công việc: Hình thành tổ chức cơ quan và đơn vị thuộc Cục; mở lớp đào tạo sĩ quan tham mưu, thông tin liên lạc và cán bộ kỹ thuật sửa chữa vô tuyến điện, điện thoại, máy phát điện; dự thảo trình Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh duyệt và ban hành phương án tổ chức hệ thống thông tin liên lạc trong toàn quân; sắm và sửa chữa các phương tiện khí tài thông tin liên lạc để sớm trang bị cho các đơn vị, đồng thời nhanh chóng biên soạn tài liệu “Thông tin liên lạc sơ lược” để huấn luyện trong toàn quân. Cũng tại Khuân Giàng, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã dành nhiều thời gian đến làm việc và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ của Cục Thông tin. Ông nhấn mạnh: “Thông tin liên lạc cần nắm chắc những nhiệm vụ cốt yếu nhất, trong đó hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có đủ trình độ đảm nhận nhiệm vụ, bảo đảm chỉ huy bộ đội trong điều kiện tác chiến vận động với quy mô lớn hơn. Phương hướng tự lực là đúng nhưng Cục Thông tin cần tăng cường phương tiện vật chất - kỹ thuật cho cấp chiến dịch, chiến thuật để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ…”. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Cục Thông tin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo đảm thông tin liên lạc cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp phối hợp giữa các chiến trường; góp phần xây dựng các đại đoàn chủ lực, bảo đảm cho chỉ huy tác chiến của ba thứ quân, cho đấu tranh chính trị, ngoại giao…phục vụ đắc lực cho lực lượng vũ trang đấu tranh giành thắng lợi trong các chiến dịch, đặc biệt là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954) mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Với ý nghĩa lịch sự quan trọng như vậy, địa điểm đóng quân của Cục Thông tin (1953-1954) tại Khuân Giàng, xã Trung Lương đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào tháng 8-2017. NGUỒN: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên 123 lượt xem
Ngày 25-8, tại xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương), huyện Phú Lương đã long trọng tổ chức Lễ đón nhận và động thổ công trình ghi dấu tích địa điểm an táng nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến cấp tỉnh. Nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến sinh năm 1885, 19 tuổi tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc; 29 tuổi, bị thực dân Pháp bắt giữ, kết án chung thân cấm cố qua nhiều nhà tù. Ngày 25-7-1916, chúng chuyển ông lên giam ở Nhà tù Thái Nguyên. Tại đây, ông đã giác ngộ lòng yêu nước, ý chí đấu tranh cho các bạn tù và binh lính khố xanh, trong đó có Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn). Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên nổ ra đêm 30-8-1917, đến ngày 4-9-1917, ông bị trúng đạn pháo của địch, hy sinh. Nghĩa quân chôn cất ông ở phía Đông Nam đồi Gò Mu, xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương). Ngày 23-12-2001, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn, các hậu duệ đã lấy di cốt ông mang về quê nhà, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín (Hà Tây) truy điệu, an táng. Nơi ông yên nghỉ (1917-2001) được tỉnh Thái Nguyên xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh (Quyết định số 2386/QĐ-UBND, ngày 10-8-2017). Diện tích đất khoanh vùng bảo vệ di tích rộng 1.281m2, trong đó khu vực an táng rộng 335 m2; khu vực cảnh quan tiếp giáp và khu vực phụ cận rộng 946 m2. Cùng ngày, các đại biểu đã tham gia Lễ động thổ công trình; UBND xã Vô Tranh cũng đã công bố quyết định thành lập Ban Quản lý Di tích, gồm 11 người. NGUỒN: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên 215 lượt xem
Đình Vân Hán thuộc xóm Vân Hán, xã Văn Hán; đình có từ xa xưa, nằm trên một gò đồi với diện tích trên 1 ha, thuộc loại hình Kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử kháng chiến. Đình thờ Đức thánh cả Cao Sơn Quý Minh Đại Vương - một danh tướng chống giặc Tống thời Lý và con gái của ông. Năm 1951 tại Đình Vân Hán có mở Hội nghị trù bị ban chính sách thuế nông nghiệp do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Đình trước kia được xây dựng theo kiểu nhà sàn, gồm một gian, 2 trái, quay hướng Tây Nam; mái Đình lợp bằng ngói vẩy, trong Đình có nhiều cột to đường kính từ 50 60 cm; trải qua thời gian và các biến cố lịch sử, Đình đã được xây dựng lại 5 lần, lần làm lại cuối cùng năm 2015, gồm 03 gian lợp ngói đỏ. Hiện trong Đình còn giữ được nhiều hiện vật cổ như: 1 Bộ kiệu rước, trạm trổ nổi hình rồng; 1 Nhan án trạm trổ nổi hình con hạc, con rồng; 1 bát hương cổ bằng xứ, trạm trổ hình rồng phượng; 1 Bức tượng ông Cao Sơn Quy Minh, hai góc bên dưới bức tượng khắc 2 mặt của Ngọc Rong và Đoan Trinh là 2 cô con gái của ông; 3 sắc phong do vua: Tự Đức, Duy Tân và Khải Định ban. Ngày 28/2/2012, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Quyết định số 596/QĐ-UBND xếp hạng Đình Văn Hán là di tích cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đồng Hỷ , tỉnh Thái Nguyên.
Thái Nguyên 561 lượt xem
Đình Thịnh Đức thuộc xóm Thịnh Đức, xã Văn Hán, là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân. Đình được xây dựng từ lâu, vào năm nào không ai nhớ rõ. Trước đây đình gồm năm gian, cột đình bằng gỗ táu, mái lợp gianh, có hạ sàn hai bên làm chỗ ngồi cho các quan viên và khách đến thăm đình. Trước năm 1945, Đình Thịnh Đức còn có tên gọi là Đình Làng Đẫu, được xây dựng trên gò Na Làng thuộc đất đình của Thịnh Đức, khu đất đình bằng phẳng, không khí thoáng mát; Đình quay hướng Tây Nam xuống cánh đồng của xóm; trước cửa đình còn hai cây đa to, bóng mát toả kín sân đình. Về phong tục, lễ hội hàng năm của Đình, dân làng thờ cúng 5 kỳ trong năm vào các ngày 7 tháng giêng , 23 tháng 3, 10 tháng 3, 15 tháng 8 và 23 tháng 1 (âm lịch); vào ngày lễ hội, làng tổ chức nhiều trò chơi như múa lân , tung còn, hát ví, đánh vật. Ngày nay dân bản vẫn duy trì hương khói vào các ngày trên, nhưng các ngày hội không còn được duy trì nữa. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta (giai đoạn 1946- 1954) tại Đình Thịnh Đức nơi đã diễn ra nhiều cuộc họp bí mật của liên Khu Việt Bắc. Đáng chú ý nhất là năm 1953 thực hiện phong trào cải cách ruộng đất, giảm tô của Đảng và nhà nước. Đình Thịnh Đức được chọn làm nơi họp bàn phong trào cải cách ruộng đất, giảm tô của Đảng và nhà nước. Trong cuộc họp có đồng chí Nông Quốc Chấn đại diện cho liên khu uỷ Việt Bắc về dự. Đình còn giữ được nhiều hiện vật quý như: 1nhan án công đồng, 1 ngai sơn son thếp vàng, 1 bát hương cổ, 4 cờ đuôi nheo, 1 chiêng bằng đồng, 1 cồng bằng đồng, 2 bộ cánh cửa, 2 thang gỗ, 2 con Nghê bằng gỗ, 4 chân nến bằng gỗ, 2 ống hương bằng gỗ, 3 sắc phong vua ban (cùng chung với đình Vân Hán), 1 cột đình bằng gỗ táu. Ngày 21/7/2014, UBND tỉnh Thái Nguyên ra quyết định số 1574/QĐ-UBND xếp hạng Đình Thịnh Đức là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đồng Hỷ , tỉnh Thái Nguyên.
Thái Nguyên 478 lượt xem
Phú Bình là địa phương có số lượng các di tích đình, đền, chùa và lễ hội lớn nhất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Vào dịp đầu xuân, các điểm du lịch tâm linh trên địa bàn huyện như: Cụm di tích Đình - Đền - Chùa Cầu Muối; đình Phương Độ; chùa Khánh Long; chùa Mai Sơn… thu hút khá đông du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, bái lễ. Trong đó không thể không kể đến quần thể di tích Đình - Chùa Hộ Lệnh nằm ở xóm Trung, xã Điềm Thụy, huyện Phú Bình. Chùa Hộ Lệnh tên chữ là “Linh Quang tự”, xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII. Chùa nằm trên địa thế cao, chính diện quay theo hướng Đông Nam. Ban đầu chùa có bố cục gồm: Tam quan, tiền đường, hậu cung, nhà tổ... Trải qua thời gian ngôi chùa đã bị xuống cấp. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và sự ủng hộ quyên góp của tăng ni phật tử và người dân trong làng, chùa đã được trùng tu, tôn tạo trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng và mở rộng thêm khu giảng đường, nhà thờ vong… để phục vụ quý phật tử thập phương và tổ chức các ngày đại lễ. Chùa Hộ Lệnh đã được UBND tỉnh xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh năm 2010. Đình Hộ Lệnh được xây dựng vào triều Lê, năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738). Đình Hộ Lệnh thờ các vị thành hoàng làng gồm: Cao Sơn, Quý Minh và Tam Giang là những vị tướng phò vua Hùng đánh giặc giữ nước và Dương Tự Minh, một danh tướng tài giỏi dưới triều Lý. Đình gồm 3 gian, 2 chái, dài 21m, rộng 9m, được kết cấu bởi 48 cột gỗ lim. Các bộ vì kèo đều được trang trí đề tài “tứ linh”. Đình Hộ Lệnh được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia vào năm 2001. Hằng năm lễ hội Đình - Chùa Hộ Lệnh được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng giêng, thu hút hàng nghìn lượt khách thập phương đến tham quan, bái lễ. Trải qua thời gian, cụm di tích Đình - Chùa Hộ Lệnh vẫn bảo lưu dáng vẻ kiến trúc uy nghi cổ kính, là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của người dân địa phương, là điểm du lịch tâm linh thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham quan và cầu may. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phú Bình , tỉnh Thái Nguyên.
Thái Nguyên 511 lượt xem
Rừng Khuôn Mánh thuộc xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, có địa hình hiểm trở, từng là nơi hoạt động của cán bộ cách mạng và du kích trong thời kỳ bí mật. Ngày 15-9-1941, tại đây đã diễn ra Lễ thành lập Đội Cứu Quốc quân II, đó là mốc son đánh dấu một thời kỳ lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lịch sử ghi lại: Ở căn cứ địa Bắc sơn- Võ Nhai, cuộc khủng bố đàn áp cách mạng của thực dân Pháp diễn ra ác liệt, Cứu Quốc quân I phải rút khỏi căn cứ để bảo toàn lực lượng, nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, phong trào cách mạng gặp khó khăn. Lúc đó Đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Trung ương Đảng, cùng Ban lãnh đạo cứ địa Bắc Sơn- Võ Nhai chủ trương khôi phục lại đội Cứu Quốc quân I để duy trì tiếng súng võ trang Bắc Sơn, cổ vũ phong trào cách mạng. Sáng 15-9-1941 tại rừng Khuôn Mánh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố thành lập Cứu Quốc quân II, giao cờ và nhiệm vụ cho Đội phải đấu tranh chống địch khủng bố, trừ gian, diệt phản động đầu sỏ, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ căn cứ địa, củng cố và phát triển các đội tự vệ, duy trì tiếng súng đấu tranh võ trang để cổ vũ phong trào cách mạng của cả nước. Ban chỉ huy của Đội được chỉ định gồm ba đồng chí: Chu Văn Tấn- Chỉ huy trưởng; Nguyễn Cao Đàm- Chính trị viên chỉ đạo; Trần Văn Phấn - Chỉ huy phó. Đội ban đầu có 36 cán bộ chiến sĩ (3 nữ), vài ngày sau quân số lên tới 46 người, biên chế thành 5 tiểu đội, trang bị vũ khí thô sơ: Súng kíp, lưỡi lê, giáo mác... Giữa vòng vây của thực dân Pháp và bộ máy cai trị của phong kiến tay sai, đội Cứu Quốc quân II được thành lập, đây là một lực lượng tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Rừng Khuôn Mánh, địa điểm thành lập Đội Cứu Quốc quân II ngày 15-9-1941 đã được Bộ Văn hóa- Thông tin (cũ) xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia, xã Tràng Xá được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp. Hiện, danh sách Đội Cứu Quốc quân II được khắc trang trọng trên bia đá hoa cương, tạc vào đại ngàn rừng Khuôn Mánh một sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Nguồn: Báo Thái Nguyên điện tử
Thái Nguyên 828 lượt xem
Di tích Nhà tù Chợ Chu nằm ở xóm Vườn Rau, Thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1889, Chợ chu bị thực dân Pháp chiếm đóng. Năm 1894, chúng đặt cơ quan đại diện cai trị vùng này. Đến năm 1916, chúng tiến hành xây dựng nhà tù. Ban đầu nhà tù làm bằng tre, gỗ đơn sơ để giam thường phạm, sau chúng giam cầm cả các chiến sỹ yêu nước tham gia cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917) và Khởi nghĩa Yên Bái (1930). Năm 1940, Khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, chúng bắt nhiều cán bộ tham gia khởi nghĩa đưa về đây giam giữ. Năm 1942, thực dân Pháp xây dựng nhà tù kiên cố, bằng gạch ngói, xi măng có thể giam giữ 200 người một lúc, trong đó có một số tù chính trị chuyển từ Căng Bá Vân, nhà tù Sơn La đến. Tháng 8/1943, 100 tù chính trị ở Nhà tù Sơn La bị dồn về giam ở đây, trong đó có nhiều đồng chí là đảng viên Đảng Cộng sản. Từ đó, một chi bộ Đảng Cộng sản trong tù được hình thành. Do cài được người vào hàng ngũ binh lính địch, Chi bộ Nhà tù Chợ Chu thường xuyên được sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ. Trong tù, các chiến sỹ Cộng sản đã biến Nhà tù thành trường học, nghiên cứu lý luận Mac–Lênin, học tập phương thức tổ chức, lãnh đạo cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tại đây các chiến sỹ Cộng sản ở Nhà tù Chợ Chu cho ra đời Báo “Thông Ngàn” và xây dựng các màn kịch có nội dung yêu nước, tự hào dân tộc, các bài ca cách mạng để động viên các chiến sỹ cộng sản, những người yêu nước bền gan đấu tranh, chờ thời cơ thuận lợi để vượt ngục ra ngoài hoạt động. Ngày 2/10/1944, ta tổ chức cho 12 đồng chí vượt ngục thành công đã góp phần xây dựng căn cứ quan trọng ở Định Hóa, Đại Từ và Chiến khu Nguyễn Huệ. Đó là các đồng chí Song Hào, Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Hoàng Bá Sơn, Lê Trung Đình, Vũ Phong, Nhị Quý, Trần Tùng, Chu Nhữ, Nguyễn Cao và Phạm Ngọc Bổng… Di tích Nhà tù Chợ Chu là nơi ghi dấu tội ác dã man của thực dân Pháp và cũng là biểu tượng sinh động của những người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng cuộc sống, chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiều đồng chí đã nêu cao tấm gương sáng về tinh thần học tập, trưởng thành qua thực tiễn đấu tranh bất khuất, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhà tù Chợ Chu được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia ngày 25/2/1998. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Định Hóa Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 948 lượt xem
Căng Bá Vân nằm trên địa phận xã Bình Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên – một vùng quê giàu truyền thống cách mạng. Trước năm 1941, Căng Bá Vân là một phần của nhà tù tỉnh Thái Nguyên, được người Pháp xây trên một khu đất hẻo lánh thuộc làng Bá Vân, giao thông khó khăn, dân cư thưa thớt, ngăn cách với bên ngoài bởi dòng sông Công. Nhà tù này được đề xuất xây dựng từ năm 1902, nhưng vì nhiều lý do mãi đến năm 1913 mới được bắt đầu khởi công. Ban đầu, nhà tù tỉnh Thái Nguyên có quy mô nhỏ, các nhà giam làm bằng tre, gỗ, lợp lá đơn sơ để giam thường phạm. Nhận thấy nhà tù này nằm trong chốn “rừng thiêng, nước độc”, nhốt tù ở đây là an toàn nhất, chính quyền Pháp đã cho cải tạo và mở rộng nhà tù, xây kiên cố hơn để có thể tiếp quản nhiều tù nhân hơn. Xung quanh nhà tù có tường rào chắc chắn, bốn góc có bốn vọng gác canh giữ, liền nhà giam là nhà của cai ngục và lính, có một vọng gác riêng cho cai ngục. Ngày 29 tháng 9 năm 1936, Tổng thống Pháp đã ra Sắc lệnh ân xá toàn phần cho các tù nhân trên toàn cõi Đông Dương. Rất nhiều tù chính trị – là những chiến sĩ cộng sản yêu nước sau khi được tha bổng đã trở lại hoạt động, móc nối với lãnh đạo phong trào yêu nước từ Bắc tới Nam để đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Trước sự bùng nổ của những cuộc bãi công, biểu tình, bãi chợ, bãi khóa, các cuộc đấu tranh đòi khất thuế, chống nạn cường hào áp bức,… diễn ra từ thành thị đến nông thôn, ngày 21 tháng 1 năm 1940, Chính phủ Pháp đã ra Sắc lệnh quản thúc hay trục xuất khỏi nơi cư trú hoặc giam giữ trong các trại tập trung những “phần tử nguy hiểm” cho việc phòng vệ quốc gia và cho an ninh chung, thực chất là để quản thúc các cựu tù chính trị đã được tha bổng trong thời kỳ trước. Thi hành Sắc lệnh này, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam đã cho lập các trại “lao động đặc biệt” (camp spécial des travailleurs) để giam giữ tù chính trị đã được tha bổng những năm trước, trong đó có căng Bá Vân được thành lập theo Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ ngày 28 tháng 10 năm 1941. Căng Bá Vân được duy trì đến tháng 10 năm 1944 và trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến 1944 đã có khoảng 200 tù nhân được đưa về đây giam giữ. Sau khi Căng Bá Vân bị xóa bỏ, thực dân Pháp đã đưa các tù chính trị về giam tại căng Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái được thành lập năm 1944. Tháng 12 năm 1994, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra Quyết định công nhận di tích lịch sử Căng Bá Vân là di tích cấp quốc gia. Những dấu tích của Căng Bá Vân đến nay đã không còn nữa, bởi xưa trại giam chỉ là những dãy nhà làm từ tre nứa, hàng rào cao 5 mét được dựng nên từ những thanh tre được vót nhọn. Nơi đây đã trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, với những trang trại ngựa lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Những chú ngựa mạnh khỏe, lông mượt sẵn sàng tung vó chạy nước đại sẽ tạo nhiều thích thú cho người tham quan đặc biệt là các em bé. Cảm giác như khách tham quan đang ở thảo nguyên Mông Cổ xa xôi chứ không phải ở Thái Nguyên. Nguồn: Báo Thái Nguyên điện tử
Thái Nguyên 1011 lượt xem
Di tích lịch sử Địa điểm thành lập Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương (15/7/1950) nằm tại đồi Gò Thờ, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Sự kiện thành lập của Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương là mốc son đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đã ghi dấu những hoạt động và sự cống hiến của nhiều thế hệ cán bộ, thanh niên trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp. Hiện tại, địa điểm là nơi diễn ra các hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần của cán bộ, nhân dân huyện Đại Từ và của các cán bộ, thanh niên Việt Nam. Khu di tích hiện đã được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đầu tư xây dựng năm 2002 nhân kỷ niệm 52 năm Ngày truyền thống Thanh niên xung phong. Khu di tích có 5 hạng mục công trình, tượng đài, nhà lưu niệm, bia ghi dấu sự kiện, gồm: - Khu tượng đài Thanh niên xung phong: nằm ở vị trí trung tâm, cao nhất của Khu di tích. Cụm tượng là hình tượng hai Thanh niên xung phong trong tư thế sát cánh của người chiến thắng, biểu tượng ý chí bất khuất anh hùng trên bệ đá nguyên khối. Tượng cao khoảng gần 5m, bệ đá cao 2,5m, rộng khoảng gần 2m. - Khu vực hệ thống tượng: Gồm 8 pho tượng làm bằng đá nguyên khối tạc các anh hùng đại diện cho Thanh niên Việt Nam: Lý Tự Trọng (1931), Kim Đồng (1943), Trần Văn Ơn (1950), Võ Thị Sáu (1952),Nguyễn Văn Trỗi (1964), Nguyễn Viết Xuân (1964), Đoàn Thị Liên (1966), Kpă Klong (1975). - Khu Nhà truyền thống: Nhà truyền thống có tổng diện tích 516 m², khu chính giữa lòng nhà có dựng tấm bia cao 1,5m, rộng 0,8m trán bia tạc hình bán cung, mặt trước ốp đá granit màu đỏ khắc hàng chữ nhũ vàng: “Thanh niên ta đã lập nhiều thành tích tốt xứng đáng là Thanh niên Anh hùng của một dân tộc Anh hùng”. - Cổng chính di tích và hệ thống tường rào: Gồm cổng chính và tuyến tường rào thoáng phía trước di tích. Tại cổng chính có biển tên di tích làm bằng đá nguyên khối chất liệu đá granit. Địa điểm di tích có giá trị lịch sử, là nơi khởi nguồn đầu tiên về nơi ra đời của lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam tại tỉnh Thái Nguyên kết nối với các địa danh lịch sử khác liên quan đến TNXP ở vùng Việt Bắc và cả nước. Với giá trị tiêu biểu trên, Địa điểm thành lập Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương (15/7/1950), tỉnh Thái Nguyên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia ngày 24/02/2023. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thái Nguyên 778 lượt xem
Đền Lục Giáp còn được gọi là Miếu Vật, nằm bên bờ tả ngạn Sông Công, thuộc xã Đắc Sơn, Thị xã Phổ Yên, cách huyện lỵ Phổ Yên 4 km về phía tây và cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 35 km về phía nam. Hằng năm, đền mở hội chính vào ngày 15 tháng 3 (âm lịch) để tưởng niệm các danh nhân Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú, Đỗ Cận. Thời xa xưa đền chỉ là một ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của dân làng vùng Sơn Cốt. Đến thế kỷ XII (thời nhà Lý) để tưởng nhớ và ghi nhận công lao của vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh nhân dân ở đây đã lập đền thờ ông. Sang thế kỷ XV (thời Lê) Đỗ Cận người làng Thống Thượng xã Minh Đức ngày nay đỗ tiến sỹ và được bổ làm quan bố chánh phủ Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay). Ông cho thợ giỏi dùng gỗ tốt để đục đẽo, trạm khắc thành khung nhà hoàn chỉnh tại Thanh Hóa rồi mang về dựng ở đây thay thế cho ngôi đền nhỏ cũ. Từ đấy, nhân dân trong 6 giáp vùng làng Sơn Cốt thờ cúng và đền Lục Giáp mang tên từ đó. Đền Lục Giáp còn có tên Miếu Vật gắn liền một sự kiện lịch sử là vào thế kỷ XV (thời nhà Lê), một tướng của Lê Lợi là Lưu Nhân Chú đến vùng này tuyển mộ nghĩa quân. Trong thời gian tuyển mộ nghĩa binh ở đây, ông đã tổ chức thi đấu vật (Hội vật) tại bãi đền Lục Giáp. Sau này, khi chiến thắng quân Minh đã có lần Lưu Nhân Chú trở lại thăm và ghi lưu niệm tại đền. Nhưng rất tiếc là do thời gian và chiến tranh, hiện nay chưa tìm được dấu tích gì về Lưu Nhân Chú, chỉ còn tên Miếu Vật là gắn liền với tên tuổi và sự kiện của ông ở vùng này vẫn lưu truyền đến ngày nay. Khu vực chính của đền Lục Giáp rộng 1.360 m2 gồm nhà tiền tế và hậu cung liền nhau, trước đền có sân rộng, giữa sân có bệ để cắm hương hoa, ngôi đền được che phủ bởi tán lá cây đa cổ thụ gốc lớn 6 đến 7 người ôm không xuể. Đền Lục Giáp là công trình kiến trúc cổ thời Lê. Các cột đều làm bằng gỗ lim qua nhiểu thế kỷ vẫn giữ được màu đen bóng. Tất cả các đấu trụ, câu đầu, ván lát phía trước hậu cung đều chạm khắc nổi tinh tế, công phu với các hình Long, Ly, Quy, Phượng. Đặc biệt hai cánh cửa chính vào hậu cung được chạm nổi lưỡng Long chầu nguyệt của thời Lê rất đẹp, đạt trình độ mỹ thuật truyền thống tinh xảo. Các đồ thờ ở đây như: bệ, điện, tượng, đồ tế lễ... đều được sơn son thiếp vàng, uy nghi trang trọng. Đến nay đền vẫn còn giữ được một số hiện vật quý của thời nhà Nguyễn như: quả chuông, hai án hưong bằng đồng, một số bát to cổ thờ bằng sứ, số hiện vật tại đền còn lại đến nay rất ít ỏi nhưng có giá trị về nghệ thuật và lịch sử. Với những giá trị đó, đền Lục Giáp đã được xếp hạng di tích lịch sử - nghệ thuật cấp quốc gia ngày 21/6/1993. Lễ hội Đền Lục Giáp được tổ chức cính vào ngày 15/3 âm lịch hằng năm, gồm phần lễ và phần hội được nhân dân địa phương tổ chức trọng thể. Đã từ nhiều năm nay, lễ hội Đền Lục Giáp là điểm đến văn hóa thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương tham dự. Phần lễ có các hoạt động đặc trưng về tín ngưỡng tâm linh như: tế thần, hầu đồng, dâng hương, rước cỗ... Phần hội tái hiện các trò chơi dân gian như: vật cổ truyền, hát ví giao duyên, kéo co, chọi gà... Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa Và Truyền Thông Thành Phố Thái Nguyên
Thái Nguyên 1057 lượt xem
Hang Sa Khao là địa điểm khảo cổ nổi tiếng nằm trong dãy núi đá vôi phía Tây Bắc thuộc thông Nà Kháo, xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Hang Sa Khao dài ước chừng khoảng 30km, xuyên qua 5-6 quả núi, nằm cách trung tâm thị trấn Đình Cả, huyện Võ Nhai khoảng 2km. Bước vào hang Sa Khao, du khách sẽ choáng ngợp bởi vẻ đẹp của những khối thạch nhũ muôn hình vạn trạng, với những dấu tích được khắc tạc bởi dòng chảy thời gian. Vòm hang cao và rộng, phía dưới là dòng suối trong vắt luồn lách đổ nước róc rách, tạo lên một bức tranh thủy mặc với hàng nghìn sợi tơ đá bám vào thành hang rủ xuống phía dưới, vân đá uốn lượn do sự bào mòn của nước xếp chồng lên nhau từ trần hang xuống. Trần hang cao khoảng 20m, phía dưới là nền cát rộng mênh mông. Điều đặc biệt là ở đây có những loại nấm dạng hình cây và nấm cọ mọc khắp lối đi cùng nhiều loài động vật lạ. Trong suốt chiều dài lịch sử, trải qua hai cuộc chiến khốc liệt là kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hang Sa Khao là nơi đã diễn ra những cuộc họp quan trọng của các đồng chí cán bộ hoạt động cách mạng. Các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Lê Dục Tôn, Chu Quốc Hưng…đã từng trú ẩn và làm việc tại nơi này. Hang Sa Khao còn là nơi sơ tán an toàn cho cán bộ và nhân dân Huyện Võ Nhai. Từ năm 1965 đến năm 1972 nhiều thế hệ học sinh cấp I xã Phú Thượng đã được học tập tại hang Sa Khao. Các cơ quan của Huyện Võ Nhai đã sơ tán về đây dựng lán bên cửa hang để làm việc. Không những thế, trong Hang Sa Khao còn có hội trường để hội họp, có sân khấu để biểu diễn văn nghệ. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ khốc liệt nhất, tại nơi này nhân dân Huyện Võ Nhai còn được thưởng thức những ca khúc cách mạng nổi tiếng với tinh thần“ Tiếng hát át tiếng bom” của ca sĩ Thu Hiền, Quốc Hương,... Với vẻ đẹp hùng vĩ và núi non nên thơ, gắn liền với những sự kiện lịch sử về đấu tranh cách mạng của các đồng chí hoạt động cách mạng, cũng như của nhân dân huyện Võ Nhai qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, năm 2010, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng hang Sa Khao là di tích tích lịch sử cấp quốc gia, là điểm khám phá không thể thiếu trong tuyến du lịch sinh thái, khám phá hang động và cũng là hành trình về nguồn, nơi giáo dục truyền thống cách mạng của tỉnh Thái Nguyên. Nguồn: Du Lịch Thái Nguyên
Thái Nguyên 1012 lượt xem
Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, là nơi ở, làm việc và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Tại đây cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc. Đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa được đánh giá “Là một quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20”. Là địa chỉ đỏ nơi giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng cho thế hệ trẻ người Việt Nam hành hương về nguồn, xứng đáng là điểm du lịch sinh thái ý nghĩa trong chiến lược thu hút hàng triệu lượt khách trong nước và quốc tế đến dâng hương tại Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và tham quan các điểm di tích. Đó là minh chứng sinh động cho những nỗ lực nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị riêng có của mảnh đất cách mạng. Di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Định Hóa thuộc địa phận các xã Phú Đình, Điềm Mặc, Thanh Định, Định Biên, Bảo Linh, Đồng Thịnh, Quy Kỳ, Kim Phượng, Bình Thành và thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, với tổng diện tích quy hoạch bảo tồn trên 5.200km2. Đây cũng là địa bàn giáp danh giữa các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Bắc Kạn. Năm 1981, Khu di tích đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia, gồm 13 di tích thành phần: 1. Nhà tù Chợ Chu (thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa) 2. Địa điểm thành lập Việt Nam Giải phóng quân (xã Định Biên, huyện Định Hóa) 3. Địa điểm Bác ở và làm việc tại đồi Khau Tý năm 1947 (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 4. Địa điểm Bác ở và làm việc tại đồi Tỉn Keo (1948 - 1954), xã Phú Đình, huyện Định Hóa 5. Cụm di tích Bác ở Khuôn Tát: Cây đa, Đoạn suối Khuôn Tát - nơi Bác tắm, giặt và câu cá, Nhà sàn và hầm Bác ở đồi Nà Đình (xã Phú Đình, huyện Định Hóa) 6. Địa điểm Tổng Bí thư Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng làm việc tại Phụng Hiển (1947 - 1949), xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa 7. Địa điểm Cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1949 - 1954) tại xã Bảo Linh, huyện Định Hóa 8. Thắng cảnh thác 7 tầng Khuôn Tát (xã Phú Bình, huyện Định Hóa) 9. Địa điểm thành lập Hội Nhà báo Việt Nam (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 10. Địa điểm thành lập Ủy ban hòa bình Việt Nam (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 11. Địa điểm thành lập Ủy ban Kiểm tra Trung ương (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 12. Địa điểm Báo Quân đội nhân dân ra số đầu (20/10/1950) xã Định Biên, huyện Định Hóa 13. Địa điểm đồi Pụ Đồn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp (1948) (xã Phú Đình, huyện Định Hóa) An Toàn Khu (ATK) Định Hóa thực sự là một quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX, một Thủ đô kháng chiến với các vùng di tích trọng điểm: Pác Bó (Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên Quang), ATK Định Hóa, Chợ Đồn, Chiêm Hóa, Sơn Dương, Yên Sơn (Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang) có ý nghĩa và giá trị trên nhiều mặt. Đặc biệt, ATK Định Hóa là nơi khởi phát, tổ chức chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương… Nguồn: Cục di sản văn hoá
Thái Nguyên 1701 lượt xem
Đền Đuổm tọa lạc dưới chân núi Đuổm thuộc xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 25km về phía Tây - Bắc. Đền Đuổm thờ Dương Tự Minh - một thủ lĩnh người Tày và là vị quan dưới triều Lý được giao cai quản phủ Phú Lương xưa (gồm các châu nay là đất thuộc các tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn). Ông cũng là một danh tướng có công lớn trong việc giành lại phần đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống, bảo vệ vững chắc vùng biên cương phía bắc Đại Việt. Ông còn có công khai khẩn điền địa, phát triển kinh tế, giữ vững mối đoàn kết dân tộc, được nhà Lý phong sắc “Uy viễn đôn Cao Sơn quảng độ chi thần”. Các triều đại về sau đều có sắc phong ông là “Cao Sơn quý minh thượng đẳng thần”. Với những công lao đóng góp cho đất nước dưới triều nhà Lý, ông được vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) gả con gái là công chúa Diên Bình vào năm 1127 và được vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) gả cho con gái là công chúa Thiều Dung vào năm 1144. Như vậy, ông là phò mã của hai đời vua nhà Lý. Sử sách không ghi rõ năm sinh, năm mất của Dương Tự Minh, chỉ biết ông sống vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII. Sau khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông ở núi Đuổm - tương truyền là nơi ông thác, và suy tôn ông là Thánh Đuổm. Đền Đuổm được xây dựng từ thế kỷ XII, đến nay đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính của kiến trúc truyền thống. Ngôi đền tọa lạc dưới chân núi Đuổm, có tam quan hướng ra quốc lộ. Các hạng mục chính gồm lầu chuông, đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, được bố trí dựa vào sườn núi theo thứ tự từ thấp lên cao. Đền Hạ là nơi thờ hai công chúa Diên Bình và Thiều Dung; đền Trung là nơi thờ danh nhân Dương Tự Minh, và đền Thượng là nơi thờ thân mẫu của ông. Phía trước đền là một không gian rộng lớn với cánh đồng, đồi cọ, đồi chè và con sông Cầu uốn khúc chảy qua. Tuy quy mô không lớn nhưng đền Đuổm là một quần thể kiến trúc đẹp, uy nghiêm, là danh thắng hàng đầu của vùng đất trung du Thái Nguyên. Đền Đuổm đã được xếp hạng Di tích quốc gia từ năm 1993. Hằng năm, từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Giêng, huyện Phú Lương lại tổ chức Lễ hội đền Đuổm để tưởng nhớ công lao của Dương Tự Minh. Hiện nay, đền Đuổm là điểm sáng về du lịch của huyện Phú Lương và tỉnh Thái Nguyên. Nguồn: Trang thông tin điện tử Thái Nguyên
Thái Nguyên 1524 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 5132 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4175 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3453 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2979 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2920 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2896 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2754 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2653 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2593 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2562 lượt xem