Di tích lịch sử

Việt nam

Đình làng Thạc Gián

Đình làng Thạc Gián được xây dựng từ rất lâu đời, thuở ban sơ ngôi đình làng được dựng lên bằng tranh tre, vào đời Minh Mạng, đình làng được làm lại bằng gỗ, mái lợp tranh. Theo nhiều tài liệu ghi chép, Làng Thạc Gián vốn ban đầu có tên là Thạc Giản và nhiều cách gọi khác như Thạch Giản, Thạch Gián là mảnh đất được khai phá sớm, vào khoảng nửa thế kỷ XV. Năm Tự Đức thứ bảy (1854), ngôi đình kiến tạo bằng gạch, mái lợp ngói âm dương và tiếp tục được tôn tạo vào năm Duy Tân thứ ba (1909), năm Khải Định nguyên niên (tức năm 1916) từ đóng góp của dân làng và đến năm 2009 được trùng tu một lần nữa từ nguồn ngân sách thành phố với kinh phí hơn 4 tỷ đồng. Người đầu tiên được nhân dân ghi nhận công lao dẫn đoàn người từ Bắc vào đây khai canh là ông Huỳnh Văn Phước. Sau đó, các bậc tiền nhân của các Tộc: Nguyễn, Lê, Ngô, Phạm, Trương, Trần đã tiếp tục khai canh, khai cư xây dựng nên Làng Thạc Gián ngày càng trù phú và đông đúc. Trong quá khứ, Thạc Gián là một làng rộng. Cho đến đầu thế kỷ XIX, địa giới: Đông giáp làng Hải Châu và thẳng đến Vũng Rong; Tây giáp làng Xuân Đán, vịnh Đà Nẵng và Nam giáp các làng Bình Thuận, Liên Trì (nay thuộc phường Hòa Thuận Đông, Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu). Mái đình lợp ngói âm dương, bờ nóc được trang trí hình “lưỡng long triều nguyệt” ghép bằng sành sứ, các bờ góc được trang trí hình rùa và phượng. Diềm mái hiên gắn đĩa men lam Huế. Đình có hai bộ phận kiến trúc chính là nhà chính điện và hậu tẩm nối liền phía sau. + Chính điện có mặt bằng rộng, có bốn bộ vì kèo theo kiểu thức nhà ba gian hai chái, với năm hàng chân cột, mỗi hàng sáu cột, kê bằng hai lớp đá tảng: lớp trên hình bát giác, lớp dưới hình quả bí. Hậu tẩm được xây dựng bằng gạch, vôi vữa theo lối vòm cuốn tạo lâu giả vươn cao. Hậu tẩm là nời thờ thần Thành hoàng làng và Phi vận tướng quân Nguyễn Phục. Đáng chú ý ở trước sân đình, hai bên bình phong có cặp voi phục được xây bằng gạch, vôi vữa chầu vào chính điện. Về phía Đông Bắc của đình là miếu âm linh, phía sau đình có một nhà hồi hương được xây dựng bằng gạch, vi kèo, đòn đông bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương, nền lát gạch… Nơi đây, ngày xưa là nơi hội họp của các bậc kỳ lão, hương thân, chức sắc. Hai gian tả, hữu mọi người dự họp tùy theo thứ bậc, tuổi tác mà ngồi trước hoặc sau. Đây là nơi để các vị chủ tế, bồi tế, học trò gia lễ, các chấp sự…chuẩn bị lễ phục trước khi vào tế lễ. Sau khi tế lễ, nhà hồi hương còn được dùng làm nơi dân làng ăn cỗ. – Nhà trù: là gian nhà dùng làm bếp của đình làng. Nhà trù được xây kế tiếp về phía bên tả của nhà hồi hương. Nhà trù chỉ xây tường gạch, mái ngói. Giếng nước: giếng nước được đào bên cạnh nhà trù. Xưa kia, đây là giếng xây đầu tiên và duy nhất, rất sâu, nước giếng trong nên ngoài việc phục vụ cho đình làng thì bà con trong làng còn đến lấy nước về dùng trong các dịp lễ, tết hoặc ngày cúng kỵ của gia đình. Theo những người cao tuổi trong làng thì đây là một trong ba giếng cổ của tổng Bình Thới Hạ. Đó là các giếng Bộng (tại làng Bình Thuận – nay thuộc phường Bình Hiên, Quận Hải Châu); giếng chùa Từ Vân (nay thuộc phường Vĩnh Trung, Quận Thanh Khê). Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đình Thạc Gián là một trong số ít những ngôi đình ở Đà Nẵng còn lưu giữ được những hiện vật hết sức có giá trị: 18 sắc phong và 38 chiếu, chỉ của các triều đại Hậu Lê và Triều Nguyễn, được hình thành với những nét kiến trúc đặc thù. Trong đó, sớm nhất là sắc năm Minh Mạng thứ 7 (1826) và muộn nhất là sắc phong năm Bảo Đại thứ 10 (1935). Trong quá khứ, đình Thạc Gián là nơi tổ chức và duy trì nhiều lễ hội truyền thống của dân làng, như lễ tế Thu nhị kỳ, lễ hội vào tiét Thanh minh, lễ giỗ tiền hiền, lễ hội tết Nguyên đán, hội thi đọc khánh chúc, diễn tuồng… và nhiều sinh hoạt dân gian khác. Đình Thạc Gián được Bộ Văn hoá Thể thao công nhận Di tích cấp quốc gia vào ngày 27/8/2007. Ngày 17/4/2011 (tức mùng 10 tháng 3 âm lịch), tại đình làng Thạc Gián, lần đầu tiên lễ hội đình làng đã được phục dựng lại và tổ chức với quy mô trọng thể. Đình Thạc Gián hiện ở tại tổ 7, phường Chính Gián, Quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Nguồn: Tuổi Trẻ Phường Chính Gián

Đà Nẵng 364 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nghĩa địa I-pha-nho

Đà Nẵng có một di tích tồn tại gần 160 năm ghi dấu cuộc chiến tranh phi nghĩa của quân viễn chinh và khả năng kháng chiến của quân dân ta chống xâm lược. Di tích này là chứng tích một thời của lịch sử Đà Nẵng. Đó là nghĩa địa I-pha-nho, nơi chôn cất 32 lính Pháp và Tây Ban Nha bỏ mạng khi xâm lược Việt Nam từ 1858 đến 1860. Đến cuối đường Yết Kiêu (Quận Sơn Trà) gần khu du lịch Tiên Sa, không khó để tìm thấy khu nghĩa địa ở trên sườn đồi khá bằng phẳng, trước đây người Pháp gọi là đồi Hài cốt. Người dân ở đây quen gọi là khu Mả Tây. Khu mộ đã được dẫy cỏ, gọn ghẽ, tường đá xây dựng chắc chắn. Bên ngoài tường rào là các loại cây sứ, cau lên xanh mát. Nhà nguyện được sơn mới sáng sủa. Ngôi nhà này bề ngang 3,5m, dài 12m, cao 4m, gồm một cửa chính và hai cửa sổ. Trên bàn thờ theo nghi thức công giáo, đặt tấm phù điêu Tây Ban Nha. Có một nồi nhang nhỏ với nhiều chân nhang cắm dày. Hiện còn lại 18 ngôi mộ nhỏ và 14 ngôi mộ lớn. Trong số đó có những ngôi mộ mà bia đá còn rõ chữ để đọc như mộ Casoon Cabandon, thuộc đại đội 14 chết ngày 8-8-1859; Don Juan Romani chết trận tháng 9-1858; Labra Anton, Đại úy công binh sinh ở Lille 1820 chết ở Đà Nẵng 1858... Theo tài liệu, khi những phát đại bác đầu tiên của liên quân Pháp - Tây Ban Nha bắn vào các pháo đài phòng thủ của quân Việt Nam ở Đà Nẵng vào sáng 1-9-1858, mở đầu cuộc xâm chiếm nước ta, bọn xâm lược đã gặp phải sức kháng cự quyết liệt của quân và dân ta. Cho đến hết năm 1858, chúng vẫn không sao thực hiện được mục đích mở rộng địa bàn chiếm đóng, phá vỡ thế phòng thủ của ta, nhằm tạo một bước ngoặt cho cuộc chiến tranh. Tướng chỉ huy liên quân lúc bấy giờ là Đô đốc Rigault de Genouilly bèn quyết định chuyển hướng tiến công vào Gia Định. Đầu tháng 2-1859, chúng chỉ để lại ở Đà Nẵng một đại đội lính và vài chiến hạm, số quân còn lại được chuyển vào đánh chiếm Gia Định. Ngày 8-5-1859, Rigault de Genouilly đưa quân quay lại Đà Nẵng, mở một cuộc tấn công quy mô, hòng đảo ngược tình thế và tính cả chuyện đánh ra Huế. Nhưng ý đồ này rốt cuộc đã thất bại. Tháng 2-1860, tướng Page buộc phải cho người xin cầu hòa với ta để thực hiện kế hoãn binh. Sau đó, quân Pháp ở đây được lệnh rút đi chi viện cho chiến trường Trung Hoa. Như vậy, sau gần 19 tháng chiến tranh, quân Pháp đã thất bại trong mưu đồ đen tối của chúng ở chiến trường này, phải cuốn gói và để lại chứng tích “một tháp hài cốt chứa ngàn thánh giá”. Không có con số thống kê đầy đủ tổn thất của giặc, nhưng những nấm mồ quân viễn chinh chôn rải rác khắp chân núi bán đảo Sơn Trà thì vẫn còn đó. Năm 1895, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho dời hơn 40 mộ sĩ quan đến một gò cao và xây tại đây một nhà nguyện, có tường bao quanh. Dưới nền nhà nguyện là một hầm đào sâu để xếp các hộp sắt đựng hài cốt các binh sĩ bốc từ các nơi đưa về. Trên tấm bia đá dựng ở phía trước còn ghi dòng chữ rõ nét: “À la mémoire des Combattants Francais et Espagnols de l'Expédition Rigault de Genouilly mort en 1858, 1859, 1860, et ensevelis en ces lieux” (Để tưởng nhớ các chiến sĩ Pháp và Tây Ban Nha trong đội quân viễn chinh của Rigault de Genouilly đã chết vào những năm 1858, 1859, 1860 và được chôn tại nơi đây). Nguồn: Báo công an Đà Nẵng

Đà Nẵng 313 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Quốc Tự Tam Thai

Nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, trên ngọn Thủy Sơn, chùa Tam Thai là ngôi chùa cổ nhất tại thành phố Đà Nẵng. Chùa Tam Thai được xây dựng lần đầu tiên năm 1630 có tên chữ là Tam Thai tự. Đến thời Tây Sơn, chùa đã bị hư hại hoàn toàn. Năm 1825, thời vua Minh Mạng, chùa được xây dựng lại và dưới thời nhà Nguyễn, chùa được sắc chỉ là Quốc Tự. Diện mạo của chùa ngày hôm nay đã có sự thay đổi so với ban đầu bởi trải qua nhiều lần trùng tu trong khoảng thời gian từ năm 1907 đến năm 1995. Hiện, tại chùa vẫn còn lưu giữ được tấm biển Tam Thai Tự và tấm kim bài hình trái tim lửa khắc theo ngự bút của vua Minh Mạng với nội dung ca ngợi Phật pháp vô lượng từ bi phổ độ chúng sinh... Bởi kiến trúc đẹp và cổ kính lại nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, do vậy chùa Tam Thai hàng ngày đều có rất đông du khách tìm đến chiêm bái, dâng hương. Từ chân ngọn núi Thủy Sơn, du khách theo những bậc thang đã in dấu thời gian để lên Tam Thai. Chùa có 3 tầng: Tầng thứ nhất ở về phía Bắc gọi là Thượng Thai. Tầng thứ hai ở về phía Nam gọi là Trung Thai. Tầng thứ ba ở về phía Đông gọi là Hạ Thai. Kiến trúc chùa Tam Thai có cổng Tam Quan, chùa chính, khu vực hành cung nhà thờ tổ và các công trình nghệ thuật khác. Phía trước chùa Tam Thai là một khoảng sân rộng, có cây cao tỏa bóng mát khắp mặt sân. Cổng Tam quan được làm theo kiểu lầu chuông lợp mái trông rất cổ kính. Khi qua cổng Tam quan và tới sân trong, pho tượng phật Di Lặc sẽ là hình ảnh đầu tiên du khách nhìn thấy. Pho tượng được chạm từ đá sa thạch, kích thước khá lớn. Hai bên sân là hành cung, nơi vua Minh Mạng cho xây dựng làm chỗ nghỉ ngơi mỗi khi đến vãn cảnh chùa. Chùa chính nằm phía sau khoảng sân này. Chùa được xây bằng gạch, quay mặt về hướng Nam. Mái ngói lưu ly, nóc trang trí lưỡng long chầu nguyệt, các cột đều trang trí rồng - phụng. Hai bên vách Tiền đường tạc phù điêu Tả Phù và Hữu Bật - là hai vị thần canh giữ chùa. Chính điện chùa thờ Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Đại Thế Chí. Nhìn chung, tổng thể cảnh quan kiến trúc chùa được xây dựng theo hình chữ Vương với nhiều đường nét mang tính thẩm mỹ cao. Theo đánh giá của các nhà lịch sử, kiến trúc thì Tam Thai tự là đặc trưng của kiến trúc chùa thời nhà Nguyễn. Bên cạnh những công trình chính, chùa Tam Thai còn có tháp Vọng Giang hay còn gọi là Vọng Giang Đài. Đây là điểm cao nhất ở ngọn núi Thủy Sơn, nếu đứng từ đây, du khách có thể nhìn cả một vùng bao la rộng lớn, bao quát cảnh hùng vĩ của Ngũ Hành Sơn, xa xa là con sông Hàn, sông Cẩm Lệ quanh co. Mặc dù kiến trúc chùa hiện nay mang phong cách kiến trúc đặc trưng của Nhà Nguyễn bởi đã qua nhiều lần tu sửa, song Tam Thai tự vẫn được coi là ngôi chùa cổ tại Đà Nẵng bởi công trình tâm linh này đã được khởi công xây dựng từ năm 1630. Với giá trị lịch sử to lớn, chùa Tam Thai đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo điện tử Tổ Quốc

Đà Nẵng 327 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chợ Bến Thành

Lịch sử hình thành Chợ Bến Thành gắn liền với thăng trầm của đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, trải qua nhiều lần trùng tu, di dời mới có được diện mạo và vị thế hôm nay. Ban đầu, chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, nơi có một bến sông để quân lính và người dân ra vào thành Gia Định (Quy Thành, thành Bát Quái), vì thế nên gọi là Chợ Bến Thành. Sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Gia Định bị phá bỏ, Chợ Bến Thành cũng hoang vắng. Sau khi người Pháp tấn công Sài Gòn (tháng 2-1859), chợ bị thiêu rụi hoàn toàn. Năm 1860, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành ở địa điểm cũ. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chợ dần khang trang hơn với hệ thống cột gạch, sườn sắt, mái ngói, .. Đến đầu thế kỷ XX, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành mới tại vị trí ngày nay trong khoảng thời gian 1912-1914, cửa nam có gắn chiếc đồng hồ mang tính biểu tượng. Phía trước cửa chính (cửa nam) là Bùng binh Chợ Bến Thành, còn gọi là Công trường Diên Hồng, Quảng trường Quách Thị Trang... Đến năm 1952, khi tu sửa chợ người ta cho gắn 12 bức phù điêu của xưởng mỹ nghệ Biên Hòa ở bốn cửa chợ. Từ đó đến nay hình ảnh Chợ Bến Thành trở nên quen thuộc, gần gũi, trở thành một miền ký ức văn hóa đô thị của thành phố. Nguồn: Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 307 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Hồ Con Rùa

Hồ Con Rùa ở trung tâm TP HCM có tên chính thức là Công trường Quốc tế, là nút giao của các tuyến đường Phạm Ngọc Thạch, Trần Cao Vân và Võ Văn Tần. Xung quanh hồ tập trung rất nhiều nhà hàng, quán bar, cà phê nên khu vực này luôn nhộn nhịp từ sáng đến khuya. Nguyên thủy vị trí Hồ Con Rùa vào năm 1790 là cổng thành Khảm Khuyết của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy) được xây theo lệnh vua Gia Long. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835), vua Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái và xây một ngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng (thành Gia Định). Vị trí cửa Khảm Khuyết trở thành một điểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến sông (đường số 16 - Catinat và bây giờ là Đồng Khởi). Sau khi chiếm được Sài Gòn năm 1859, người Pháp đã cho phá hủy toàn bộ thành Gia Định. Năm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngày nay để phục vụ nhu cầu cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Đến năm 1921, tháp nước bị phá bỏ và con đường được mở rộng nối dài đến đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu). Từ đó, vị trí này trở thành giao lộ của các tuyến đường như ngày nay. Cũng tại vị trí này, người Pháp cho xây một tượng đài ba binh sĩ bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của người Pháp làm chủ Đông Dương. Do đó, người dân thường gọi nó là Công trường Ba hình. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, địa điểm Công trường Chiến sĩ trở thành vòng xoay giao thông của đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) và Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần - Trần Cao Vân). Thời điểm xây Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác, song một số tài liệu cho là nó được xây năm 1965-1967. Người thiết kế là kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Trong những năm 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trùng tu và chỉnh trang. Trong đó có việc dựng thêm và điều chỉnh 5 cột bêtông cao có dạng năm bàn tay xòe ra giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa. Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội trên lưng bia đá lớn. Do đó, mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa. Ban đầu, khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, dù con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen cách gọi cũ thay vì tên chính thức. Do có kiến trúc khá kỳ lạ, Hồ Con Rùa được gắn với giai thoại trấn yểm long mạch của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. Theo lời thuật của tác giả Huỳnh Bá Thành trong cuốn sách Vụ án Hồ Con Rùa (Nhà xuất bản Tuổi Trẻ 1982), có giai thoại truyền miệng kể là vào năm 1967 khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã cho mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếng đến coi thế đất tại dinh Độc Lập. Ông thầy phong thủy này khen dinh được xây trên long mạch. Con rồng này có đầu nằm ngay dinh Độc Lập (vì vậy Dinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu Rồng) và đuôi rồng nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ. Tuy phát hưng vượng nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền, cần phải cúng yểm bùa bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy, mới giữ được ngôi vị tổng thống lâu dài. Vì vậy, ông Nguyễn Văn Thiệu đã nghe theo và cho xây dựng một hồ nước có hình bát giác, phỏng theo bát quái trận đồ, một biểu tượng phong thủy thường dùng để trấn yểm của người xưa, và cho đặt một con rùa lớn đúc bằng đồng ngay chính giữa hồ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng kiến trúc tháp cao giống như hình một thanh gươm hoặc một cây đinh khổng lồ đóng xuống hồ nước để giữ chặt đuôi rồng, và khuôn viên hồ nước có hình bát quái, bên giữa có hình âm dương. Nguồn: Báo tiếng Việt

TP Hồ Chí Minh 313 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Trại tạm giam Chí Hòa

Trại giam Chí Hòa, còn gọi là Khám Chí Hòa, nằm tại quận 10, TP HCM, là nhà tù được người Pháp xây dựng từ năm 1943 nhằm thay thế Khám Lớn Sài Gòn ở góc đường Lý Tự Trọng - Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Công trình được cho là do người Nhật khởi xướng sau khi đảo chính Pháp để giam tù nhân, tuy nhiên khi thi công chưa hoàn thành, họ đã rút khỏi Việt Nam. Sau đó, người Pháp tiếp tục công việc bỏ dở. Hầu như toàn bộ vật liệu như xi măng, sắt, thép đều chở từ Pháp sang. Ngày 8/3/1953, khi Khám Chí Hòa xây dựng hoàn chỉnh, Khám Lớn Sài Gòn bị phá bỏ. Ngoài một số tù nhân được phóng thích, còn lại khoảng 1.600 người cùng chiếc máy chém chuyển về Khám Chí Hòa. Với diện tích 7 hecta, Khám Chí Hòa cao 3 tầng lầu, 238 phòng. Trong đó có hai dãy nhà dành cho phạm nhân nữ. Nơi đây từng giam tù chính trị chống lại thực dân Pháp, chống chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay, nơi này được Công an TP HCM dành cho các bị can trong các vụ án trên địa bàn. Khám Chí Hòa do một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng theo thuyết ngũ hành, bát quái được đánh giá là một công trình kiến trúc đặc biệt. Vừa hòa hợp những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp: kiên cố, kín đáo, mát mẻ, vừa mang nét huyền bí âm dương ngũ hành của phương Đông. Khám có hình bát giác với 8 cạnh đều nhau, 8 góc tượng trưng cho 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Cẩn, Khảm, Đoài, Ly trong Kinh Dịch. Khám có 8 khu giam phạm nhân, xây hình bát giác vuông. Một vài tài liệu nghiên cứu lại cho rằng, Khám Chí Hòa được xây dựng dựa trên bát quái trận đồ của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. 8 quẻ tương ứng với 8 cửa trận là: Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín ở phía ngoài còn phía trong toàn song sắt và mỗi khu có 4 buồng giam. Chí Hòa chỉ có một cửa vào nên người ta gọi đó là "cửa tử". Qua cửa này là hệ thống đường hầm thiết kế theo cung vị nếu không được hướng dẫn, người đi vào sẽ bị mất phương hướng, giống như lọt vào một mê cung, không thể tự tìm đường ra được. Giữa Khám Chí Hòa là khoảng sân rộng cũng hình bát giác chia thành 8 khu tam giác nhỏ, với rất nhiều cây, bãi cỏ sạch sẽ và thoáng mát. Ở giữa là một vọng gác cao hơn 20 m, trên có bể chứa nước phình to như một cây kiếm cắm thẳng xuống. Đứng tại đây, lính canh có thể dễ dàng quan sát tất cả các phòng giam. Với kiến trúc trận đồ bát quái của Chí Hòa, phạm nhân khi đã vào đây thì khó mà vượt ngục. Lịch sử cho đến nay chỉ có 3 lần vượt ngục thành công. Trường hợp thứ nhất là các chiến sĩ cách mạng vào thời điểm Nhật đảo chính Pháp năm 1945, thứ 2 là tướng cướp Điền Khắc Kim vào năm 1972 và người thứ ba là tử tù khét tiếng Phước "Tám Ngón" năm 1995. Từ lâu, Khám Chí Hòa đã gắn với những giai thoại kỳ bí. Người ta đồn rằng, vọng gác chính giữa khám chính là thanh kiếm trấn. Những tên tội phạm dù có xảo quyệt đến đâu thì khi ở đây mọi thủ đoạn của chúng cũng bị thanh kiếm "linh" này hoá giải. Thanh kiếm này chính là "trái tim" của của toà nhà, nếu nó bị nhổ lên thì toàn bộ "trận đồ" sẽ tự vỡ. Một câu chuyện ly kỳ khác vẫn được người ta truyền miệng là do có nhiều người chết trong Khám Chí Hòa nên âm khí ở đây rất nặng nề. Vì thế, trời thường xuyên làm sấm sét đánh bể một góc để khai một cửa Sanh, cho oán khí được thoát ra, người chết được siêu thoát. Từng có thông tin cho rằng, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã rước một thầy địa lý rất cao tay về nhằm hoá giải một phần "trận đồ" này. Thực tế, một trong 8 nóc nhà của hình bát giác đã được san bằng, phá vỡ tính hoàn hảo của "bát quái", thuận theo thiên ý mở một cửa Sanh cho các linh hồn được bay đi. Trong khi đó, một số nhà khoa học thì cho rằng bên dưới của tòa nhà có thể là mỏ quặng khiến sét hay đánh trúng Khám Chí Hòa. Trong khuôn viên Khám Chí Hòa còn có một nhà thờ (ngày nay được sử dụng làm Hội trường của Trại) được Pháp xây dựng làm nơi "rửa tội" cho những tù nhân trước khi bị xử tử. Ngoài ra, để giải thoát "âm khí", năm 1954, cai ngục Khám Chí Hòa cho xây bên ngoài "bát quái trận" (nhưng vẫn nằm trong khuôn viên khám) ngôi chùa đặt tượng Phật. Sau này ngôi chùa không còn, bức tượng Phật hiện nằm trên một hồ nước nhỏ. Nguồn: Báo tiếng Việt

TP Hồ Chí Minh 318 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Trại Giam Bệnh Viện Chợ Quán

Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới) là bệnh viện xưa nhất ở Sài Gòn được xây dựng xong năm 1864. Bệnh viện chuyên điều trị các loại bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần. Do nhu cầu điều trị bệnh tâm thần nên trong bệnh viện có xây một khu riêng biệt để nhốt các bệnh nhân tâm thần. Khu nhốt bệnh nhân đó nay đã trở thành một di tích lịch sử văn hóa. Trong quá trình xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã bắt bớ, tra tấn dã man đến lâm bệnh nhiều chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước. Vì cần khai thác tin tức, nên chúng đưa tù nhân vào khu nhà nhốt bệnh nhân tâm thần của bệnh viện Chợ Quán để vừa điều trị cầm chừng vừa tiếp tục tra hỏi. Từ đó, khu nhà nhốt bệnh nhân tâm thần trở thành nơi giam giữ nững người tù bị bệnh. Năm 1931, đồng chí Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương nay là Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị thực dân Pháp giam giữ và trút hơi thở cuối cùng tại nơi đây. Ngày 18/4/1931, đồng chí Trần Phú đã bị bắt tại nhà số 66 đường Champagne (nay là đường Lý Chính Thắng) – cơ quan ấn loát của Đảng . Sau khi giam giữ và dùng nhiều cực hình tra tấn dã man đồng chí Trần Phú ở nhiều trại giam khác nhau, chúng chuyển đồng chí về Khám Lớn Sài Gòn để chuẩn bị xét xử. Lúc này, sức khỏe của đồng chí Trần Phú đã ngày càng suy kiệt. Thực dân Pháp muốn duy trì sự sống của đồng chí để khai thác những bí mật của Đảng, nên ngày 26/8/1931, chúng đưa đồng chí đến trại giam trong bệnh viện Chợ Quán để điều trị bệnh. Ngày 6/9/1931, đồng chí Trần Phú chút hơi thở cuối cùng tại đây. Thi hài của đồng chí được đặt ở phòng cá nhân. Các đồng chí trong trại giam đã làm lễ truy điệu đồng chí ở phòng này. Toàn thể tù chính trị trong trại giam đã đứng dọc theo hành lang để tiễn đưa đồng chí Trần Phú – người Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. Ngoài đồng chí Trần Phú, trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhiều chiến sĩ cách mạng khác như Trần Não, Hà Huy Tập, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Văn Trỗi cũng đã từng bị giam giữ ở khu trại giam này. Ngày nay, khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán được mở cửa để đón khách tham quan. Di tích vẫn còn in đậm dấu vết của gông cùm, xiềng xích dưới chế độ thực dân; cũng như những dấu ấn về cuộc chiến đấu kiên cường bất khuất của các chiến sĩ cách mạng với những khẩu hiệu đấu tranh bằng máu còn rõ nét trên các bức tường. Từ cổng bệnh viện đi vào khu trại giam, ở phía bên phải, mặt bằng kiến trúc của khu trại giam hình chữ U. Dãy ngang của hình chữ U dài 32m, rộng 12m. Hai dãy dọc bằng nhau, mỗi dãy dài 14m, rộng 7,5m. bên ngoài phía trước cửa trại giam có phòng gác nhỏ, lợp ngói móc. Xung quanh có tường gạch cao 2,5m bao bọc. Từ cửa trại giam đi vào, đầu tiên là phòng giam lớn, giam khoảng 20 người. Kế đến là 2 phòng giam lớn và 2 phòng giam nhỏ. Giữa lối đi có xây thêm một bức tường từ cửa ra vào đến cuối dãy nhà ngăn cách các phòng giam bên trái và bên phải. Bên trái cửa trại giam, cách 10,5m là 2 phòng giam bằng nhau, bề ngang mỗi phòng 10,75m. gần cuối dãy có 2 phòng giam cá nhân nhỏ, trên nóc phòng có giăng lưới sắt. Cuối dãy có 3 phòng vệ sinh nhỏ. Nhìn chung, khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán là một di tích lịch sử khá nguyên vẹn. Những năm gần đây, quận 5 đã đầu tư gần 700 triệu đồng để trùng tu giai đoạn một di tích, làm một trong những địa điểm sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Sau khi khánh thành, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quận 5 chịu trách nhiệm quản lý và giới thiệu, hướng dẫn khách đến tham quan di tích . Di tích có tác dụng giáo dục rất lớn đối với thế hệ trẻ, từ tấm gương sáng chói của đồng chí Trần Phú về lòng dũng cảm, tinh thần kiên định cách mạng và tình thương nhân ái đối với đồng chí, đồng đội. Di tích này sẽ mãi mãi nhắc nhở thế hệ sau lời di huấn của đồng chí Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng: “Hãy giữ vững ý chí chiến đấu”. Khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử ngày 16/11/1988. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Quận 5 Thành Phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 298 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đào Xá

Đình Đào Xá thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy; thờ Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân). Đình Đào Xá được xây dựng vào thời vua Lê Gia Tông – Niên hiệu Đức Nguyên (1674-1675), kiến trúc kiểu chữ Nhất, một tòa 3 gian 2 dĩ, quay hướng chính Nam. Ngôi đình có cách đây trên 300 năm nhưng vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn giá trị của di tích. Về kiến trúc, chủ yếu bằng gỗ và nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ trên hệ thống kẻ (12 cái kẻ được chạm trổ cả hai mặt) với các đề tài: “Long mã phụng đồ”, “Tứ linh”, “Long cuốn thủy”, “Bánh trưng”, “Bánh giày Lang Liêu”; các điển tích:”Văn vương xuất liệp”,”Cao Biền tầm địa”,”Mả táng hàm rồng”,”Mẫu long huấn tử”,”Cao đế nhập quan”,”Lý ngư võng nguyệt”…Với những giá trị kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh xảo và quý giá, đình Đào Xá đã được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 13 tháng 3 năm 1974. Đền Đào Xá (Còn gọi là đền Tam Công) cách Đình Đào Xá về hướng Đông Bắc chừng trên 400m. Theo ngọc phả của đền thì nơi đây đã từng ghi dấu công cuộc trị thủy của Đức Hùng Hải Vương và là nơi Lý Thường Kiệt từng luyện tập thủy quân chống giặc Tống và là nơi manh nha khởi nguồn bài thơ thần nổi tiếng của Lý Thường Kiệt. Đền Đào Xá có kiến trúc kiểu chữ Tam. gồm ba tòa tiền tế, trung tế và hậu cung bố cục hài hòa, cân đối tạo dáng vẻ thanh nhã và vẫn uy nghiêm, thoáng đãng, sáng sủa mà vẫn trầm mặc, u tịch. Lễ hội Đào Xá được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ngày 21 tháng 11 năm 2016. Lễ hội Đào Xá mang tính tín ngưỡng của người Việt không thể tách rời giữa đình và đền được gắn liền với sự tích thờ Đức Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân) và vợ là bà Trang Hoa và ba vị đại vương con của Hùng Hải Công. Đình và đền Đào Xá còn thờ bà Quế Hoa công chúa họ Trần có công bày trò múa hát mua vui cho bà Trang Hoa trước khi sinh hạ ba vị Tam Công. Lễ hội đình, đền Đào Xá được tổ chức vào những ngày âm lịch trong năm: Ngày mồng 3 tháng Giêng mở lễ hội múa “Xuân Ngưu” (gọi là múa trâu), là điệu múa dân gian mang tính tín ngưỡng, mô phỏng lại trò mua vui (mang tính khôi hài) của bà Quế Hoa cho phu nhân Hùng Hải; ngày 27, 28, 29 tháng Giêng là Lễ hội rước voi; tháng ba tổ chức ngày lễ kỷ niệm ngày Đức thánh Phụ hóa và lễ kết chạ với làng Dậu Dương; tháng 4 làm lễ cầu yên; ngày mồng 5 tháng 5 kỷ niệm ngày sinh đức Thánh Phụ. Đặc biệt Đào Xá có lễ hội cầu tháng 7 được tổ chức từ ngày mồng 9 đến ngày 15 có tên gọi là: “Hiến thần phù vua Lý đánh giặc Tống”, với lễ hội bơi chải vào lúc nửa đêm diễn lại cảnh quân Lý Thường Kiệt đón quân thuyền của thần linh vào đền làm lễ cầu thần đặc sắc của vùng trung du mang đậm dấu ấn thời Hùng Vương. Ngày mồng 10 tháng 12 làng mở hội tế xuân, lễ tại đền thờ bà Quế Hoa và cũng là lễ thượng điền kết thúc vụ lúa chiêm duy nhất ở làng Đào Xá. Lễ hội Đào Xá chính là môi trường bền vững để nuôi dưỡng, bảo tồn những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp; để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đời sống tâm linh, nhu cầu giải trí tinh thần của các thế hệ người dân Đào Xá cùng cộng đồng gần xa. Sự gắn bó cộng đồng trên cơ sở các giá trị văn hóa truyền thống luôn bền vững, là cội nguồn sức mạnh đoàn kết đã được minh chứng qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 350 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân

Tưởng nhớ công ơn của các bậc thủy tổ đã có công khai thiên lập quốc và nhằm quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh thời đại các vua Hùng và tưởng nhớ công ơn tổ tiên và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước, đền thờ cha Lạc Long Quân là một thiết chế văn hóa mới nằm trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng được khởi công xây dựng ngày 26-3-2007 tại đồi Sim, xã Chu Hóa (Việt Trì) và khánh thành vào ngày 29 tháng 3 năm 2009 đúng vào dịp lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm Kỷ Sửu. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, là tổ tiên của Bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp thật khó bèn từ biệt nhau chia 50 người con theo cha xuống biển, 49 người theo mẹ lên núi, suy tôn người con cả làm vua nối nghiệp là Hùng Vương. Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước làm 15 bộ. Nơi vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quan gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo. Tương truyền đã truyền cho nhau 18 đời đều gọi là Hùng Vương”. Đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đầu tư xây dựng mới đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo các văn hoa trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc... được thể hiện sinh động độc đáo đã mang lại nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền mà vẫn không mất đi sự cổ kính uy linh. Kiến trúc đền Lạc Long Quân bao gồm: Đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, tả vu, hữu vu, lầu hóa vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật với tổng diện tích đất là 13,79 ha. Đền chính: Diện tích xây dựng 210m2 kiến trúc kiểu chữ đinh, được làm bằng gỗ theo kiểu kiến chúc cổ truyền thống Tiền đường có 3 gian, 2 trái, 4 hàng chân. Hậu cung có 3 gian, 4 hàng chân, tường xây bít đốc sau, cửa bức bàn. Phía trước tiền đường là tiền tế có 1 gian 2 trái, 2 hàng chân. Cổng đền (nghi môn): Xây dựng theo kiểu kiến trúc truyền thống, cổng có 4 cột, cổng chính rộng 4,2m, cổng phụ rộng 2,05m. Cổng biểu tượng: Nằm ở phía trước phương đình, kết cấu cột bê tông cốt thép ốp đá có đục chạm khắc hoa văn. Phương đình: Nằm sau nghi môn, ở cấp sân II. Kết cấu làm bằng gỗ, mái chồng diêm, nền lát gạch Bát Tràng. Tả vu, hữu vu: Nằm ở cấp sân III, xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ truyền thống, nhà 5 gian, 2 hàng, chân diện tích xây dựng 54m2. Trụ biểu: Hai trụ nằm đối xứng hai bên trục chính, cao 9,2m. Kết cấu bằng bê tông cốt thép, ốp đá xanh được đục chạm họa tiết hoa văn chim lạc cách điệu. Lầu hóa vàng: Nằm ở hai bên phía sau đền chính. Kết cấu lầu được xây bằng đá khối, vữa xi măng, trụ bê tông cốt thép, mái dán ngói giả cổ. Đồ thờ tương tự đền Lạc Long Quân bao gồm: Cửa võng, hương án, giá chiêng, bát bửu, hoành phi, câu đối... được làm bằng chất liệu gỗ trụ, chạm khắc hoa văn, sơn son thiếp vàng. Đặc biệt phải kể đến là pho tượng thờ của Đức Tổ Lạc Long Quân. Tượng Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đúc bằng chất liệu đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá được gia công bằng đá khối có chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là 2 pho tượng tướng lĩnh hầu cận (Lạc hầu, Lạc tướng) có chiều cao 1,80m ở tư thế đứng, mỗi pho nặng 0,5 tấn. Đến Đền Hùng hôm nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ mẫu Âu Cơ - một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt. Nguồn: Báo Phú Thọ

Phú Thọ 334 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình, đền, miếu Hạ, tỉnh Phú Thọ

Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ (thường gọi Đình là đình Hạ, gọi đền Hạ là miếu Ông và miếu Hạ là miếu Bà) được xây dựng ở một vị trí bằng phẳng, thoáng đãng thuộc xã Hương Nha, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Cụm di tích thờ Nữ tướng Xuân Nương và Thập bộ Thần quan đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định giành thắng lợi. Hiện, cụm di tích còn lưu giữ cuốn ngọc phả do Nguyễn Bính phụng soạn năm 1572 ghi lại hành trạng của các vị Thần trong di tích. 1. Đình Hạ: Được xây dựng trên một khu đất rộng, quay hướng Đông - Nam, trước cửa đình là ao và cánh đồng. Đình có kiến trúc chữ Đinh, Đại bái gồm 5 gian, 2 trái (hiện nay chỉ còn 5 gian) và Hậu cung 2 gian, được kết cấu 4 hàng chân cột gỗ, hiện nay chỉ còn 16 cột trong có 8 cột cái và 8 cột quân. 2. Đền Hạ (Miếu Ông ): Được xây dựng trên một gò đất cao, quay hướng Đông - Nam, phía trước và bên phải đền là ao (gọi là hồ bán nguyệt), kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm 5 gian thờ dọc, cửa mở ở phía đầu hồi, được đắp theo kiểu táp môn có 3 cửa vòm và hai cột đồng trụ đắp hình quả dành. Đại tự trước cửa đình ghi ba chữ “Tối linh từ”. 3. Miếu Hạ (Miếu Bà): Được xây dựng trên cùng khu đất Đển Hạ, quay hướng Đông - Nam, phía trước và phía sau là ao hồ, kiến trúc kiểu 3 gian thờ dọc, dài 5,10m, rộng 4,80m, gồm có 16 cột gỗ (8 cột cái, 8 cột con). Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ là một quần thể di tích có giá trị về mặt lịch sử và nghệ thuật. Đặc biệt, cụm di tích còn lưu giữ được nhiều hiện vật quí có giá trị như: Sắc phong, ngọc phả, 3 cỗ ngai thời, 2 cỗ kiệu, sưu tập bát chén, lọ lục bình, mâm sứ và nhiều đồ thờ có giá trị. Lễ hội truyền thống được bảo tồn và duy trì tại cụm di tích vào ngày mồng 10 tháng Giêng hàng nam với nhiều trò diễn, trò chơi dân gian, đặc biệt là lễ hội cầu trâu. Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia ngày 28/12/2001. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Phú Thọ 298 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Mẫu Âu Cơ

Nằm trên vùng đất địa linh nhân kiệt (xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ), Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình lịch sử văn hoá đặc biệt, là biểu tượng của tinh thần yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc. Hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam. Khi Ngọc Nương phu nhân sinh nàng Âu Cơ thấy có mây lành che chở, hương thơm toả ngát khắp nơi, là điềm “Tiên nữ giáng trần”. Lớn lên Nàng Âu Cơ rất xinh đẹp, “So hoa hoa biết nói, so ngọc, ngọc ngát hương”, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Sau khi kết duyên, Lạc Long Quân đưa Âu Cơ từ động Lăng Sương về núi Nghĩa Lĩnh, Âu Cơ trở dạ sinh được một bọc trăm trứng nở thành một trăm người con. Khi các con lớn lên Lạc Long Quân nói với bà Âu Cơ “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khó mà hoà hợp...bèn chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển để lưu truyền được lâu dài, về sau tất cả các con đều hoá thần. Trong 50 người con theo mẹ thì người con đầu lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời vua Hùng trị vì đất nước trong 2621 năm (Từ năm Nhâm Tuất 2879 đến năm 258 TCN). Bà Âu Cơ cùng các con đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Trên con đường dài muôn dặm đó, một ngày kia Người đến trang Hiền Lương, quận Hạ Hoa, trấn Sơn Tây.Thấy phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, có núi cao đồng rộng, sông dài, có hồ nước trong xanh bát ngát, cỏ cây hoa lá tốt tươi, cá chim muông thú dồi dào. Người cho khai hoang lập ấp, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Giếng Loan, giếng Phượng, gò Thị, gò Cây Dâu...là những cái tên từ thủa xa xưa đến nay vẫn còn đọng mãi trong ký ức người dân nơi đây. Khi trang ấp đã ổn định, người lại cùng các con lên đường đến các vùng đất mới. Đến khi giang sơn đã thu về một mối, bờ cõi biên cương được mở rộng, Người lại trở về với Hiền Lương, nơi người đã chọn để gắn bó cuộc đời của mình. Tương truyền ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, bà Âu Cơ cùng bầy tiên nữ bay về trời để lại dưới gốc đa một dải yếm lụa, ở đó nhân dân đã dựng lên một ngôi miếu thờ phụng, đời đời hương khói. Để tri ơn công đức Tổ Mẫu Âu Cơ và giáo dục truyền thống dân tộc, cách đây hơn 500 năm, thế kỷ thứ XV thời hậu Lê, vua Lê Thánh Tông đã phong thần và cho xây dựng Đền Mẫu Âu Cơ tại xã Hiền Lương - huyện Hạ Hoà; Đền Mẫu Âu Cơ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1991. Ngày lễ chính của Đền Âu Cơ là ngày “Tiên giáng” mùng bảy tháng giêng, ngoài ra trong năm còn có các ngày lễ khác là ngày 10 và ngày 11 tháng 2, ngày 12 tháng 3, ngày 13 tháng 8... Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Hạ Hòa - Tỉnh Phú Thọ

Phú Thọ 294 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Rừng Khuôn Mánh

Rừng Khuôn Mánh thuộc xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, có địa hình hiểm trở, từng là nơi hoạt động của cán bộ cách mạng và du kích trong thời kỳ bí mật. Ngày 15-9-1941, tại đây đã diễn ra Lễ thành lập Đội Cứu Quốc quân II, đó là mốc son đánh dấu một thời kỳ lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lịch sử ghi lại: Ở căn cứ địa Bắc sơn- Võ Nhai, cuộc khủng bố đàn áp cách mạng của thực dân Pháp diễn ra ác liệt, Cứu Quốc quân I phải rút khỏi căn cứ để bảo toàn lực lượng, nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, phong trào cách mạng gặp khó khăn. Lúc đó Đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Trung ương Đảng, cùng Ban lãnh đạo cứ địa Bắc Sơn- Võ Nhai chủ trương khôi phục lại đội Cứu Quốc quân I để duy trì tiếng súng võ trang Bắc Sơn, cổ vũ phong trào cách mạng. Sáng 15-9-1941 tại rừng Khuôn Mánh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố thành lập Cứu Quốc quân II, giao cờ và nhiệm vụ cho Đội phải đấu tranh chống địch khủng bố, trừ gian, diệt phản động đầu sỏ, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ căn cứ địa, củng cố và phát triển các đội tự vệ, duy trì tiếng súng đấu tranh võ trang để cổ vũ phong trào cách mạng của cả nước. Ban chỉ huy của Đội được chỉ định gồm ba đồng chí: Chu Văn Tấn- Chỉ huy trưởng; Nguyễn Cao Đàm- Chính trị viên chỉ đạo; Trần Văn Phấn - Chỉ huy phó. Đội ban đầu có 36 cán bộ chiến sĩ (3 nữ), vài ngày sau quân số lên tới 46 người, biên chế thành 5 tiểu đội, trang bị vũ khí thô sơ: Súng kíp, lưỡi lê, giáo mác... Giữa vòng vây của thực dân Pháp và bộ máy cai trị của phong kiến tay sai, đội Cứu Quốc quân II được thành lập, đây là một lực lượng tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Rừng Khuôn Mánh, địa điểm thành lập Đội Cứu Quốc quân II ngày 15-9-1941 đã được Bộ Văn hóa- Thông tin (cũ) xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia, xã Tràng Xá được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp. Hiện, danh sách Đội Cứu Quốc quân II được khắc trang trọng trên bia đá hoa cương, tạc vào đại ngàn rừng Khuôn Mánh một sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Nguồn: Báo Thái Nguyên điện tử

Thái Nguyên 312 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử nhà tù Chợ Chu

Di tích Nhà tù Chợ Chu nằm ở xóm Vườn Rau, Thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1889, Chợ chu bị thực dân Pháp chiếm đóng. Năm 1894, chúng đặt cơ quan đại diện cai trị vùng này. Đến năm 1916, chúng tiến hành xây dựng nhà tù. Ban đầu nhà tù làm bằng tre, gỗ đơn sơ để giam thường phạm, sau chúng giam cầm cả các chiến sỹ yêu nước tham gia cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917) và Khởi nghĩa Yên Bái (1930). Năm 1940, Khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, chúng bắt nhiều cán bộ tham gia khởi nghĩa đưa về đây giam giữ. Năm 1942, thực dân Pháp xây dựng nhà tù kiên cố, bằng gạch ngói, xi măng có thể giam giữ 200 người một lúc, trong đó có một số tù chính trị chuyển từ Căng Bá Vân, nhà tù Sơn La đến. Tháng 8/1943, 100 tù chính trị ở Nhà tù Sơn La bị dồn về giam ở đây, trong đó có nhiều đồng chí là đảng viên Đảng Cộng sản. Từ đó, một chi bộ Đảng Cộng sản trong tù được hình thành. Do cài được người vào hàng ngũ binh lính địch, Chi bộ Nhà tù Chợ Chu thường xuyên được sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ. Trong tù, các chiến sỹ Cộng sản đã biến Nhà tù thành trường học, nghiên cứu lý luận Mac–Lênin, học tập phương thức tổ chức, lãnh đạo cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tại đây các chiến sỹ Cộng sản ở Nhà tù Chợ Chu cho ra đời Báo “Thông Ngàn” và xây dựng các màn kịch có nội dung yêu nước, tự hào dân tộc, các bài ca cách mạng để động viên các chiến sỹ cộng sản, những người yêu nước bền gan đấu tranh, chờ thời cơ thuận lợi để vượt ngục ra ngoài hoạt động. Ngày 2/10/1944, ta tổ chức cho 12 đồng chí vượt ngục thành công đã góp phần xây dựng căn cứ quan trọng ở Định Hóa, Đại Từ và Chiến khu Nguyễn Huệ. Đó là các đồng chí Song Hào, Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Hoàng Bá Sơn, Lê Trung Đình, Vũ Phong, Nhị Quý, Trần Tùng, Chu Nhữ, Nguyễn Cao và Phạm Ngọc Bổng… Di tích Nhà tù Chợ Chu là nơi ghi dấu tội ác dã man của thực dân Pháp và cũng là biểu tượng sinh động của những người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng cuộc sống, chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiều đồng chí đã nêu cao tấm gương sáng về tinh thần học tập, trưởng thành qua thực tiễn đấu tranh bất khuất, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhà tù Chợ Chu được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia ngày 25/2/1998. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Định Hóa Tỉnh Thái Nguyên

Thái Nguyên 361 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Căng Bá Vân

Căng Bá Vân nằm trên địa phận xã Bình Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên – một vùng quê giàu truyền thống cách mạng. Trước năm 1941, Căng Bá Vân là một phần của nhà tù tỉnh Thái Nguyên, được người Pháp xây trên một khu đất hẻo lánh thuộc làng Bá Vân, giao thông khó khăn, dân cư thưa thớt, ngăn cách với bên ngoài bởi dòng sông Công. Nhà tù này được đề xuất xây dựng từ năm 1902, nhưng vì nhiều lý do mãi đến năm 1913 mới được bắt đầu khởi công. Ban đầu, nhà tù tỉnh Thái Nguyên có quy mô nhỏ, các nhà giam làm bằng tre, gỗ, lợp lá đơn sơ để giam thường phạm. Nhận thấy nhà tù này nằm trong chốn “rừng thiêng, nước độc”, nhốt tù ở đây là an toàn nhất, chính quyền Pháp đã cho cải tạo và mở rộng nhà tù, xây kiên cố hơn để có thể tiếp quản nhiều tù nhân hơn. Xung quanh nhà tù có tường rào chắc chắn, bốn góc có bốn vọng gác canh giữ, liền nhà giam là nhà của cai ngục và lính, có một vọng gác riêng cho cai ngục. Ngày 29 tháng 9 năm 1936, Tổng thống Pháp đã ra Sắc lệnh ân xá toàn phần cho các tù nhân trên toàn cõi Đông Dương. Rất nhiều tù chính trị – là những chiến sĩ cộng sản yêu nước sau khi được tha bổng đã trở lại hoạt động, móc nối với lãnh đạo phong trào yêu nước từ Bắc tới Nam để đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Trước sự bùng nổ của những cuộc bãi công, biểu tình, bãi chợ, bãi khóa, các cuộc đấu tranh đòi khất thuế, chống nạn cường hào áp bức,… diễn ra từ thành thị đến nông thôn, ngày 21 tháng 1 năm 1940, Chính phủ Pháp đã ra Sắc lệnh quản thúc hay trục xuất khỏi nơi cư trú hoặc giam giữ trong các trại tập trung những “phần tử nguy hiểm” cho việc phòng vệ quốc gia và cho an ninh chung, thực chất là để quản thúc các cựu tù chính trị đã được tha bổng trong thời kỳ trước. Thi hành Sắc lệnh này, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam đã cho lập các trại “lao động đặc biệt” (camp spécial des travailleurs) để giam giữ tù chính trị đã được tha bổng những năm trước, trong đó có căng Bá Vân được thành lập theo Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ ngày 28 tháng 10 năm 1941. Căng Bá Vân được duy trì đến tháng 10 năm 1944 và trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến 1944 đã có khoảng 200 tù nhân được đưa về đây giam giữ. Sau khi Căng Bá Vân bị xóa bỏ, thực dân Pháp đã đưa các tù chính trị về giam tại căng Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái được thành lập năm 1944. Tháng 12 năm 1994, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra Quyết định công nhận di tích lịch sử Căng Bá Vân là di tích cấp quốc gia. Những dấu tích của Căng Bá Vân đến nay đã không còn nữa, bởi xưa trại giam chỉ là những dãy nhà làm từ tre nứa, hàng rào cao 5 mét được dựng nên từ những thanh tre được vót nhọn. Nơi đây đã trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, với những trang trại ngựa lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Những chú ngựa mạnh khỏe, lông mượt sẵn sàng tung vó chạy nước đại sẽ tạo nhiều thích thú cho người tham quan đặc biệt là các em bé. Cảm giác như khách tham quan đang ở thảo nguyên Mông Cổ xa xôi chứ không phải ở Thái Nguyên. Nguồn: Báo Thái Nguyên điện tử

Thái Nguyên 355 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm thành lập Đội Thanh niên xung phong

Di tích lịch sử Địa điểm thành lập Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương (15/7/1950) nằm tại đồi Gò Thờ, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Sự kiện thành lập của Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương là mốc son đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đã ghi dấu những hoạt động và sự cống hiến của nhiều thế hệ cán bộ, thanh niên trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp. Hiện tại, địa điểm là nơi diễn ra các hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần của cán bộ, nhân dân huyện Đại Từ và của các cán bộ, thanh niên Việt Nam. Khu di tích hiện đã được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đầu tư xây dựng năm 2002 nhân kỷ niệm 52 năm Ngày truyền thống Thanh niên xung phong. Khu di tích có 5 hạng mục công trình, tượng đài, nhà lưu niệm, bia ghi dấu sự kiện, gồm: - Khu tượng đài Thanh niên xung phong: nằm ở vị trí trung tâm, cao nhất của Khu di tích. Cụm tượng là hình tượng hai Thanh niên xung phong trong tư thế sát cánh của người chiến thắng, biểu tượng ý chí bất khuất anh hùng trên bệ đá nguyên khối. Tượng cao khoảng gần 5m, bệ đá cao 2,5m, rộng khoảng gần 2m. - Khu vực hệ thống tượng: Gồm 8 pho tượng làm bằng đá nguyên khối tạc các anh hùng đại diện cho Thanh niên Việt Nam: Lý Tự Trọng (1931), Kim Đồng (1943), Trần Văn Ơn (1950), Võ Thị Sáu (1952),Nguyễn Văn Trỗi (1964), Nguyễn Viết Xuân (1964), Đoàn Thị Liên (1966), Kpă Klong (1975). - Khu Nhà truyền thống: Nhà truyền thống có tổng diện tích 516 m², khu chính giữa lòng nhà có dựng tấm bia cao 1,5m, rộng 0,8m trán bia tạc hình bán cung, mặt trước ốp đá granit màu đỏ khắc hàng chữ nhũ vàng: “Thanh niên ta đã lập nhiều thành tích tốt xứng đáng là Thanh niên Anh hùng của một dân tộc Anh hùng”. - Cổng chính di tích và hệ thống tường rào: Gồm cổng chính và tuyến tường rào thoáng phía trước di tích. Tại cổng chính có biển tên di tích làm bằng đá nguyên khối chất liệu đá granit. Địa điểm di tích có giá trị lịch sử, là nơi khởi nguồn đầu tiên về nơi ra đời của lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam tại tỉnh Thái Nguyên kết nối với các địa danh lịch sử khác liên quan đến TNXP ở vùng Việt Bắc và cả nước. Với giá trị tiêu biểu trên, Địa điểm thành lập Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương (15/7/1950), tỉnh Thái Nguyên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia ngày 24/02/2023. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Thái Nguyên 280 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cột cờ Hà Nội

Kỳ đài, “Cột cờ Hà Nội” nằm trên đường Điện Biên Phủ, thuộc quận Ba Đình, Hà Nội, được xây dựng năm 1812, dưới thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long, nơi xây tòa thành Tam Môn của Hoàng thành Thăng Long thời Lê. Đây là điểm chuẩn, đánh dấu sự khởi nguyên ở đầu phía nam trục chính tâm của tòa thành, từ đây theo đường “ngư đạo”, qua Đoan Môn rồi tới điểm quan trọng nhất, điểm trung tâm của Hoàng thành là điện Kính Thiên. Cột cờ Hà Nội nay là công trình còn nguyên vẹn và hoành tráng nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long. Cột Cờ được xây dựng bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Tầng một mỗi chiều dài 42,5m; cao 3,1m có hai thang gạch dẫn lên. Tầng hai, mỗi chiều dài 27m; cao 3,7m có 4 cửa, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ “Nghênh Húc” (đón ánh sáng ban mai), cửa Tây với hai chữ “Hồi Quang” (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với hai chữ “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không có chữ đề. Tầng ba, mỗi chiều dài 12,8m; cao 5,1m có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Trên tầng này là thân Cột Cờ, cao 18,2m; hình trụ tám cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân có cầu thang 54 bậc xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình dẻ quạt. Đỉnh Cột Cờ được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3m có 8 cửa sổ tương ứng với tám cạnh. Giữa lầu là một hình trụ tròn, đường kính 40cm cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cán cờ cao 8m). Toàn bộ Cột Cờ cao 33,4m, nếu kể cả cán cờ thì là 41,4m. “Cột cờ Hà Nội” là một trong số ít những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn thoát khỏi sự phá hủy do chính quyền đô hộ Pháp tiến hành trong ba năm 1894-1897. Ngày 10/10/1954, lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” và được công nhận là di tích lịch sử năm 1989. Ngày 10/10/1954, cả Hà Nội tưng bừng rạo rực chào đón ngày hội lớn, ngày Hội chiến thắng, Thủ đô Hà Nội hoàn Tòan giải phóng. Cả Hà Nội dồn về “Cột cờ Hà Nội” chờ đón giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Đúng 15 giờ, ngày 10/10/1954, còi nhà hát Thành phố nổi lên một hồi dài. Đoàn quân nhạc cử Quốc thiều theo sự điều khiển của đồng chí Đinh Ngọc Liên, Lá cờ tổ quốc được kéo lên từ từ theo nhịp khúc quân hành. Lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Từ ngày xây dựng đến nay, “Cột cờ Hà Nội” đã gần hai trăm năm tuổi. Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, hình ảnh của “Cột cờ Hà Nội” đã được in trang trọng trên đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành lần đầu tiên. Hơn nửa thế kỷ qua, gắn trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh tung bay lồng lộng trên nền trời của Thủ đô Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến, mãi mãi là biểu tượng vinh quang, là niềm tự hào của dân tộc, đất nước Việt Nam độc lập, tự do. Theo tài liệu nghiên cứu, từ năm 1986, một lá cờ đỏ sao vàng kích cỡ 24 m2 vuông luôn tung bay trên Cột cờ Hà Nội. Cột cờ Hà Nội ngày nay nằm bên đường Điện Biên Phủ, với những cây xà cừ cổ thụ mọc xung quanh và dưới chân là một vườn nhãn um tùm. Theo một số tài liệu nghiên cứu, trong một bức ảnh được chụp vào năm 1890 bởi Louis Sadoul, một sĩ quan quân y Pháp, khu vực vườn hoa Tượng đài Lênin dưới chân cột cờ ngày nay còn là hồ Voi vì là nơi tắm voi của triều đình nhà Nguyễn. Còn các rặng cây cổ thụ ngày nay khi đó còn chưa được trồng. Trong ảnh, còn có thể thấy quân Pháp đã dựng doanh trại bán kiên cố trên các vòng thành của Cột cờ để đóng quân. Cũng trong thời kỳ này, Cột cờ Hà Nội còn được quân Pháp dùng để làm đài quan sát. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, Cột cờ cũng là đài quan sát của bộ đội phòng không Hà Nội. Khi đó, từ đỉnh cột cờ có thể nhìn thấy cả Hà Nội và vùng ngoại ô. Điều đặc biệt là giữa những ngày nóng nhất của Hà Nội, nhiệt độ bên trong của Cột cờ luôn mát mẻ như có máy lạnh. Kết cấu các cửa lên xuống của Cột cờ cũng khoa học đến mức mưa lớn đến đâu nước cũng không chảy vào trong lòng tháp. Nguồn: Trung Tâm Bảo Tồn Di Sản Thăng Long - Hà Nội

Hà Nội 333 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà tù Hỏa Lò

Nhà tù Hỏa Lò được xây dựng vào năm 1896, ban đầu có tên là Prison Centrale (Nhà tù trung ương), song để tránh sự tò mò và kích động của dân chúng nên đổi thành Maison Centrale (Ngôi nhà Trung ương) và hiện tên vẫn còn trên cánh cổng chính dẫn vào di tích. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngoại ô thành phố với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ. Nơi đây giam giữ chủ yếu là các tù nhân chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Được mệnh danh là địa ngục trần gian, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn. Điển hình nhất là cỗ máy chém đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại nhằm bảo tồn để trở thành khu di tích. Cũng do được xây trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương (cũ) là làng nghề chuyên sản xuất đồ gốm, ngày đêm rực lửa lò nung vì thế làng còn có tên là Hỏa Lò. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu A, B, C, D. Trong đó: - Khu A, B: Dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. - Khu C: Dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. - Khu D: Dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình Nhà tù Hỏa Lò được mệnh danh là Địa ngục trần gian với thiết kế xây dựng của trại giam cho phép Hỏa Lò chứa khoảng 500 tù nhân. Các nhà giam đều được thiết kế với chế độ giam giữ, ép cung hà khắc và cực kỳ dã man tàn bạo. Từ một làng nghề thủ công làm đồ gốm có tiếng, thực dân Pháp đã biến mảnh đất Hỏa Lò thành nơi giam cầm và đày ải về thể xác và tinh thần của hàng ngàn chiến sĩ yêu nước. Sống trong ngục tù đế quốc với chế độ giam cầm hà khắc, đọa đày nhưng các chiến sĩ vẫn giữ vững khí tiết, biến nhà tù thành trường học, nơi phổ biến lý luận cách mạng. Một vài dụng cụ tra tấn điển hình như những chiếc máy chém, máy quay điện, ba toong… Thực dân Pháp rất chú trọng trong việc xây dựng nên tất cả các thiết kế cửa, khóa, gông cùm ở đây đều là các thiết kế chuyên biệt mang từ bên Pháp sang, được quản lý vô cùng chặt chẽ. Ngay từ khi chưa hoàn thành, tháng 1/1899, nhà tù Hỏa Lò đã đảm nhận việc giam người. Theo thiết kế ban đầu, nơi đây chỉ đủ giam giữ 500 tù nhân nhưng nhà tù đã nhiều lần được mở rộng để có thêm chỗ giam. Vào những năm 1950- 1953, Hỏa Lò giam cầm tới 2.000 người tù. Trở thành địa ngục trần gian không ai muốn bước vào. Ngục tối được xem như nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với bất kì tù nhân nào với những cái tát nảy lửa, những trận đòn, bị gông, bị cùm, ăn ở, ngủ hay vệ sinh đều chỉ trong một không gian chật hẹp tăm tối. Hầu hết những ai khi bị nhốt vào đây một thời gian sau sẽ bị phù nề, ghẻ lở do thiếu vệ sinh và ánh nắng mặt trời. Bao quanh nhà tù là bức tường bằng đá, cốt thép được gia cố bởi hệ thống dây thép gai có dòng điện cao thế chạy qua. Bốn góc là những tháp canh có khả năng quan sát nhất cử nhất động toàn bộ trại giam. Riêng hệ thống cửa sắt và khóa được mang từ Pháp sang. Các phòng giam, phòng tối, xà lim chật chội, thiếu không khí cùng những tên cai ngục khét tiếng, có thâm niên cai quản nhà tù sẵn sàng đàn áp, thậm chí cướp đi sinh mạng của tù nhân. Ngày 18/6/1997, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công nhận nhà tù hoả lò là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 325 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Thành Cổ Loa

Di tích thành Cổ Loa thuộc địa phận huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tại địa điểm này đã có dấu tích của văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, cách đây khoảng 20.000 năm đến 11.000 năm. Khoảng 4.000 năm trước, những cư dân thuộc văn hóa Phùng Nguyên cũng đã định cư trên mảnh đất này. Vào khoảng năm 208 trước Công nguyên, sau khi thống nhất hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn vùng đất này để lập kinh đô, xây thành Cổ Loa (thành Ốc, Tư Long thành, Loa thành)… Hiện nay, di tích có phạm vi quy hoạch bảo tồn là 830 ha. Theo thống kê, trong khu vực Cổ Loa hiện có khoảng 60 di tích (trong đó có 07 di tích cấp quốc gia), bao gồm các loại hình: di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, cách mạng, di chỉ khảo cổ học. Di tích Cổ Loa cũng là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật, gắn với các giai đoạn văn hóa khảo cổ của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi, đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực... Tại khu vực này, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí và vũ khí bằng đồng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ An Dương Vương và lịch sử vùng đất này. Thành Cổ Loa: có diện tích gần 46ha, gồm 3 vòng thành (thành Nội, thành Trung, thành Ngoại) khép kín, đắp bằng đất, với tổng chiều dài là 15,820km. Thành được đắp dựa theo địa hình tự nhiên - nối những gò, đống và những dải đất cao dọc theo sông; bao quanh thành là các hào nước thông với sông Hoàng, trên mặt thành có các ụ đất nhô ra ngoài, gọi là “hỏa hồi”; vòng thành có chỗ xẻ làm cửa, phía trên xây miếu thờ thần. Đền Thượng (đền thờ An Dương Vương): dựng trên khu đất rộng 19.138,6m2. Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc. Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên. Các đề tài trang trí trên kiến trúc này mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 17 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu. Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu): toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung. Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn tự): được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bố cục mặt bằng nền theo dạng “nội Công, ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu cung, gác chuông, tháp mộ, cổng hậu, nhà Tổ, nhà ni, nhà khách. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được 132 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc. Chùa Mạch Tràng (Quang Linh tự): được dựng vào thời Hậu Lê, trên diện tích rộng 4.922,4m2. Chùa quay hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Tam bảo, tiền đường, thượng điện, nhà Mẫu, giải vũ, hành lang... Đình Mạch Tràng: tọa lạc trên một khu đất cao, có diện tích 6.198,4m2, gồm các hạng mục tiền tế, đại đình và hậu cung. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Thành Cổ Loa là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hà Nội 324 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Khuyến Lương

Đình Khuyến Lương trước thuộc xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Khuyến Lương là một ngôi làng cổ rất nổi tiếng ở phía đông nam của kinh thành Thăng Long. Cuối thời Trần, Khuyến Lương nằm trong thái ấp của danh thần Trần Khát Chân, một gương mặt lịch sử lớn của vương triều Trần, người có công đập tan quân Chiêm Thành, giết vua Chế Bồng Nga sang xâm phạm bờ cõi nước ta. Vẻ đẹp của vùng đất mà Thượng tướng Trần Khát Chân chọn xây thành điền trang thái ấp đã được Nguyễn Trãi ca ngợi: Vùng ấy, đất thì đỏ chín cùng sắc xanh đen, ruộng thì vào hạng thượng thượng, hơn nữa dòng sông Kim Ngưu như một dải lụa vắt ngang đã là một món quà của thiên nhiên tặng cho vùng này. Năm 1399, tướng Trần Khát Chân bị sát hại sau khi kế hoạch giết Hồ Quý Ly không thành, thái ấp cũng bị tàn phá, tiêu vong. Trung thần Trần Khát Chân tuy chỉ gắn bó với vùng đất này trong một thời gian ngắn, song công đức và sự nghiệp của ông đã in đậm dấu ấn trong đời sống văn hoá của nhân dân trong vùng. Để tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn ông, các làng trong khu vực thái ấp xưa, trong đó có làng Khuyến Lương đều thờ Trần Khát Chân làm Thần hoàng làng bảo vệ cho cuộc sống cộng đồng. Nằm trong một vùng quê giàu truyền thống lịch sử, di tích đình Khuyến Lương có bề dày tồn tại lâu đời theo thời gian. Đình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Lúc sinh thời, Trần Khát Chân đã xây dựng nên điền trang thái ấp ở khu vực này. Trong quy hoạch điền trang, Khuyến Lương được quy hoạch thành vùng trồng dâu nuôi tằm, nghề cổ truyền đó gắn bó với dân làng mãi về sau. Hình ảnh và sự nghiệp của danh tướng họ Trần luôn in đậm trong hồi ức, tâm linh của các thế hệ dân làng Khuyến Lương. Theo thời gian, đình Khuyến Lương từng là cơ sở cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 6 năm 1945, tại đình Khuyến Lương đã thành lập 2 lớp học truyền bá quốc ngữ. Ngày 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, 2 lớp học này là nhân tố nòng cốt lật đổ chính quyền cũ, lập ra chính quyền mới của dân và lập ra Đội tự vệ, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ để tham gia chiến đấu bảo vệ chính quyền. Đến tháng 6 năm 1946, tại ngôi đình đã mở lớp đào tạo cán bộ đầu tiên của Công đoàn Việt Nam. Năm 1947, nhân dân thôn Khuyến Lương xây dựng cơ sở tại vùng địch, đình là nơi vận động nhân dân mua công phiếu công trái kháng chiến, vận động nhân dân che giấu cán bộ, bộ đội và dân quân du kích. Từ năm 1948 đến năm 1949, phong trào cách mạng rất mạnh, địch luôn khủng bố cướp bóc của dân, địch đưa Tây đóng bốt tại nhà thờ Khuyến Lương nhằm đàn áp phong trào cách mạng tại đây. Tại cổng đình ngày 21/10/1949, chúng bắn chết đồng chí Nguyễn Văn Kháng là du kích quân. Đến tháng 6/1950, chúng đóng bốt ngay tại đầu làng, vây ráp, lùng sục chống phá phong trào cách mạng của địa phương. Mặc dù vậy, nhân dân vẫn đoàn kết một lòng chiến đấu, bảo vệ cán bộ, bảo vệ quê hương. Năm 1961, làm tốt chăn nuôi, trở thành lá cờ đầu của phong trào nông nghiệp Thủ đô, nên nhân dân Khuyến Lương đã vinh dự được đón Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hoàng thân Xuphanuvông và Bác Tôn Đức Thắng về thăm. Năm 1964, khi Mỹ leo thang đánh chiếm miền Bắc, đình Khuyến Lương là nơi chứa hàng quân dụng (xoong, chảo, thực phẩm khô và thuốc men) phục vụ chiến đấu. Đặc biệt, đình là nơi chứa đạn pháo cao xạ của hai trận địa pháo và 1 trận địa tên lửa để bảo vệ cầu phà sông Hồng. Đình Khuyến Lương đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1996. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 314 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Kim Liên

Đình và đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn) là trấn phía nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía bắc kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía nam kinh thành). So với ba ngôi đền kia thì đền Kim Liên được xây dựng muộn hơn (khoảng thế kỷ 16 - 17). Đền Kim Liên thờ Cao Sơn Đại Vương. Tại di tích có tấm bia đá với bài tựa "Cao Sơn đại vương thần từ bi minh" do sử thần Lê Tung soạn năm 1510, nói về công lao của thần Cao Sơn. Nội dung cho biết: Khi vua Lê Tương Dực cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt. Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay là di tích đền Láo, xã Văn Phương, Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn đại vương". Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn ở Phụng Hóa. Sau vì nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn ở Đông Đô, năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long thời bấy giờ (nay là Kim Liên). Sau này, dân làng Kim Liên đã xây thêm cổng tam quan ở phía trước cổng đền, ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiến trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình Kim Liên còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu, và thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đình được xây dựng trên một gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Kiến trúc của đình bao gồm hai phần: phần phía trước gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kích thước lớn thời Lê Trung Hưng nối hai bộ phận kiến trúc trên. Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái và Cung cấm. Nghi môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết trang trí được thể hiện sinh động, công phu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Nhà Đại bái gồm 5 gian mới được thành phố tôn tạo trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Hậu cung là một nếp nhà ba gian dọc, gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa). Đình được sửa sang, tu bổ năm 2009. Di vật quan trọng tại đình Kim Liên ngoài tấm bia đá "Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh" còn có 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có 26 đạo thời Lê Trung Hưng, 13 đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620). Hội đền và đình Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vào dịp lễ hội, không khí ở đây rất tưng bừng. Trong lễ hội đình và đền Kim Liên còn có nhiều trò chơi truyền thống như: chọi chim, cờ người, bóng bàn, thi đấu võ thuật thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài vùng tham gia. Năm 1990 đình và đền Kim Liên đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Sở du lịch Hà Nội

Hà Nội 304 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bạch Mã

Đền Bạch Mã ở phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay ở số 76 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền thờ thần Long Đỗ, hiệu Quảng Lợi Bạch Mã đại vương (thần Long Đỗ tức thần núi Long Đỗ cũng gọi là núi Nùng, nơi tiếp nhận khí thiêng của sông núi kinh thành Thăng Long). Tương truyền thời nước ta bị nhà Đường phương Bắc đô hộ, Cao Biền sai quân lính đắp thành Đại La, bỗng thấy trời đất tối tăm mù mịt, một vị thần cưỡi con rồng đỏ, ngồi trên đám mây ngũ sắc, bay lượn trên mặt thành. Cao Biền sợ hãi, định dùng bùa phép trấn yểm. Đêm ấy, Biền chiêm bao thấy vị thần đó hiện lên bảo rằng: Ta là tinh anh đất Long Đỗ, nghe nói ông sai đắp thành, cớ sao lại định dùng bùa phép trấn yểm. Biền tỉnh dậy sợ hãi nhưng vẫn đem đồng và sắt chôn xuống các lỗ long mạch để trấn yểm. Tức thì đêm đó mưa to gió lớn sấm sét nổ đùng đùng. Sáng dậy, Cao Biền đi xem các nơi đã trấn yểm, thấy đồng và sắt đã bị đánh nát vụn. Cao Biền thấy đó là vị thần thiêng của nước Nam, Biền không làm gì nổi, bèn sai lập đền thờ để xin được phù hộ. Lại tương truyền khi Lý Công Uẩn dời đô ra thành Đại La, cho xây thành nhưng trầy trật mãi không xong. Vua sai người đến đền Bạch Mã cầu thần thì thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra một vòng từ đông sang tây, đi đến đâu để lại dấu vết đến đó, rồi trở lại đền và biến mất. Vua sai quân lính theo vết chân ngựa mà đắp thành, quả nhiên xây được thành. Vua Lý Thái Tổ bèn cho sửa lại đền thờ, phong vị thần Long Đỗ là Quảng Lợi Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần. Vén tấm màn thần linh, thấy vua quan nhà Lý khi dời đô ra Đại La đã quy hoạch kinh thành phía đông là đền Bạch Mã, phía tây là đền Voi Phục, phía bắc là đền Trấn Võ, phía nam là đền Cao Sơn (đình Kim Liên ngày nay). Đó là “Thăng Long tứ trấn”. Người xưa đã thần thánh hoá đất kinh thành và việc làm của vua, đất thánh do thần thánh quy định với “đường tròn ma thuật” vốn là tín ngưỡng từ thời bộ lạc lưu lại. Đền đã được sửa chữa nhiều lần. Hệ thống bia đá hiện còn tại di tích cho biết đền được mở rộng vào niên hiệu Chính Hoà thời Lê (1680 - 1705). Cuối thế kỷ XIX được tôn thêm nền cũ và mở rộng thêm, năm 1781, chúa Trịnh chuẩn y cho 3 giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ, phường Hà Khẩu xung quanh đền Bạch Mã được làm dân “tạo lệ” (sắm lễ vật tế lễ, không phải sưu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, lại sửa chữa thêm tráng lệ. Năm 1839 dựng thêm văn chỉ ở bên trái đền, dựng phương đình (đình hình vuông) để làm nơi cúng lễ các tuần tiết. Khuôn viên đền đã bị thu hẹp. Nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội (2000), di tích được tu bổ lớn trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng kiến trúc cũ. Đền quay mặt về hướng nam, hiện nay gồm Tam quan, Phương đình, Đại bái, Thiêu hương, Cung cấm và Nhà hội đồng ở phía sau. Phương đình mới được xây dựng năm 1839 dưới thời Nguyễn nên mang đậm phong cách kiến trúc thời nay. Những con nghê trên xà ngang và những lồng đèn hình hoa sen trên đầu 4 xà nách gần gũi với kiến trúc phương đình ở Hội An. Từ phương đình vào đại bái có mái vòm hình “vỏ cua”. “Vỏ cua” nối liền các nhà, tạo ra một không gian rộng rãi. Đại bái có bộ khung gỗ bốn hàng chân, có bộ vì kèo được kết cấu theo lối “chồng rường, giá chiêng”, mái phân theo kiểu “thượng tam, hạ tứ”. Trên các cốn gỗ, xà nách, các vì chồng rường, có nhiều mảng chạm khắc. Đề tài trang trí là mây lửa, hoa lá. Nối đại bái với nhà thiêu hương là mái vòm “vỏ cua” hình bán nguyệt, trang trí hoa lá. Trong Cung cấm có một sàn gỗ cao, ván bưng ba mặt để làm nơi toạ lạc của thần Bạch Mã. Tượng thần Bạch Mã (Long Đỗ) ngồi trong khám, luôn được bưng kín. Cả tượng và khám là sản phẩm dưới thời Nguyễn. Đền còn lưu giữ được 15 bia. Nội dung các bia đề cập đến sự tích của đền và thần, nghi lễ cúng thần, các lần trùng tu tôn tạo. Đền có các đồ thờ như đồ lễ bộ gồm các vũ khí thời cổ như kích, đao, thương, câu liêm... được sơn son thếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Trong đền, ngoài các lư hương đồng, bình đồng, lượng người, lại có cả tượng Phật. Chi tiết này thể hiện quan niệm của dân gian là “tam giáo đồng tôn”. Đền còn có một đôi hạc chân cao, cổ cao và đôi phỗng trong tư thế đứng trang nghiêm. Trong các di tích thuộc “Tứ trấn”, đền Bạch Mã trấn phía đông, được xây dựng sớm hơn cả. Tồn tại trong lòng phố cổ với nhiều màu sắc, yếu tố nghệ thuật kiến trúc cùng một hệ truyền thuyết đầy tính lịch sử và triết học về vị thần được thờ, đền Bạch Mã mãi mãi giữ nguyên giá trị về một mốc giới thiêng của kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến. Đền đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1986. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 306 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phú Cường (Đình Bà Lụa)

Đình Phú Cường tọa lạc ở phường Phú Thọ, TP Thủ Dầu Một, là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh được xếp hạng ngày 02/06/2004. Đình Phú Cường còn gọi là Đình Bà Lụa được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, khá nổi tiếng về quy mô và kiến trúc độc đáo. Chánh điện được xây dựng trên một nền cao, kiến trúc theo kiểu truyền thống xưa với ba gian nhà liền mái theo kiểu chữ Tam; kèo, cột, xuyên, trính, đều được đúc bằng xi măng. Gian trong cùng của Chánh điện gọi là Chánh tẩm hay Hậu cung để thờ vị Chánh thần, tức thần Thành Hoàng. Hai bên là khám thờ tả bang, hữu bang. Đối diện với bàn thờ thần là hương án. Ở gian chính còn có những tấm hoành phi, câu đối tạo sự trang nghiêm cho nơi thờ phụng. Gian giữa là gian tiền tế, để lễ vật lên cúng thần và là nơi vị đọc chúc sẽ đọc văn tế trong dịp tế lễ… Gian tiền tế còn có cặp đài bằng gỗ chạm hình tứ linh do ông Phó Tổng Bình Điền cúng vào năm Giáp Thìn (1904). Gian ngoài cùng gọi là Hội đồng ngoại có am thờ Tiền hiền, Hậu hiền. Hai bên Chánh điện có Đông lang dành cho bá tánh nam nữ hội họp và khu nhà kho. Trước sân đình là bình phong long hổ, bàn thờ thần Nông. Hai bên thờ tả hộ vệ, hữu hộ vệ. Nơi đây còn lưu giữ rất nhiều binh khí cổ, đồ gỗ đẹp và quý hiếm. Hằng năm, đình có hai kỳ tế lễ: Lễ Kỳ Yên (Rằm tháng Giêng) và Lễ Thu Tế (mùng 1 tháng 10 Âm lịch) thu hút rất đông du khách đến tham gia lễ hội. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

Bình Dương 316 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Căn Cứ Vùng Bưng 6 Xã

Vùng bưng 6 xã huyện Thủ Đức là vùng đất ven Thành phố Sài Gòn, có hệ thống giao thông đường thủy và đường bộ quan trọng, kết nối Thành phố Sài Gòn với Thủ Đức và các vùng xung quanh. Nơi đây có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng tại vùng bưng sẽ nối liền với căn cứ địa của các huyện vùng ven Thành phố Sài Gòn, từ các nơi này lực lượng ta có thể bất ngờ tiến công vào trung tâm đầu não của quân đội thực dân và đế quốc. Tháng 10 năm 1946, Tỉnh ủy Gia Định chỉ đạo thành lập huyện ủy lâm thời huyện Thủ Đức do đồng chí Dương Văn Sửu làm Bí thư. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy đề ra nhiệm vụ và phương hướng hoạt động của huyện là đẩy mạnh trừ gian, diệt ác, mở rộng hoạt động xuống vùng bưng, xây dựng chính quyền, mặt trận đoàn thể ở các xã vùng bưng. Tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng căn cứ Khu B và căn cứ khu C của huyện tại vùng bưng, thành lập Mặt trận Việt Minh và chính quyền các xã Long Phước, Phú Hữu, Tam Đa, Phước Trường. Căn cứ khu B là Long Phước thôn được thành lập năm 1947. Căn cứ khu C (tiền thân của Căn cứ Vùng bưng 6 xã được thành lập vào cuối năm 1947 đầu năm 1948 khi mới thành lập chỉ có 3 xã là Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh, sau đó được mở rộng thêm là xã Phú Hữu và đến khi hoàn chỉnh thì bao gồm 8 xã là Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh, Phú Hữu, Phước Long, Tăng Nhơn Phú, Bình Trưng, An Phú. Sau này 3 xã Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh sáp nhập thành xã Long Trường do vậy còn lại 6 xã: Long trường, Phú Hữu, Phước Long, Tăng Nhơn Phú, Bình Trưng, An Phú được gọi là Căn cứ Vùng Bưng 6 xã. Căn cứ Vùng bưng 6 xã là địa bàn cơ động chiến lược vô cùng quan trọng của các lực lượng vũ trang từ xã, huyện đến tỉnh, quân khu và miền để uy hiếp và đánh vào cơ quan đầu não địch một cách táo bạo nhất, bất ngờ nhất, trong thời gian nhanh nhất, với khoảng cách ngắn nhất (cách trung tâm thành phố chỉ 5 km theo đường chim bay) đặc biệt là nơi xuất phát của lực lượng vũ trang tiến công vào Thành phố Sài Gòn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và đại thắng mùa xuân 1975. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, các lực lượng vũ trang và Nhân dân Vùng bưng 6 xã đã đoàn kết một lòng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, kiên cường bám trụ xây dựng căn cứ, bảo vệ an toàn căn cứ và chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Với những giá trị tiêu biểu về mặt lịch sử nêu trên, ngày 10/10/2008 Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã công nhận căn cứ Vùng bưng 6 xã là di tích lịch sử. Hiện nay, nhà truyền thống căn cứ Vùng bưng 6 xã trưng bày các hình ảnh, hiện vật và tài liệu nhằm giới thiệu truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân Vùng bưng sáu xã trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Được đưa vào hoạt động từ tháng 8 năm 2011, đã thu hút hàng nghìn lượt khách đến tham quan và học tập mỗi năm. Nhà truyền thống di tích lịch sử – văn hóa căn cứ Vùng bưng 6 xã tọa lạc trên đường Lã Xuân Oai, khu phố Phước Hiệp, phường Long Trường, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh). Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa Tp Thủ Đức

TP Thủ Đức 450 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Di tích Hồng Anh Thư Quán

Cà Mau mảnh đất cực Nam tổ quốc có một di tích lịch sử cách mạng hết sức giá trị đó là Hồng Anh Thư quán, tọa lạc tại số 43, đường Phạm Văn Ký, phường 2, thành phố Cà Mau. Trải qua thời gian dài với chiến tranh ác liệt nhưng đến nay di tích vẫn giữ nguyên kiến trúc của ngôi nhà gốc, được trùng tu, tôn tạo, gìn giữ nguyên giá trị. Tháng 1/1929, Chi hội Việt Nam thanh niên cách mạng thị trấn Cà Mau được thành lập, với nhiệm vụ quan trọng là tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, giáo dục ý thức cách mạng trong nông dân, công nhân, học sinh, trí thức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ. Trong phong trào đấu tranh đó, Chi hội mở hiệu sách “Hồng Anh Thư Quán” bán các loại sách báo tiến bộ đương thời được xuất bản tại Sài Gòn. Thực chất đây là bình phong cho phong trào dân chủ, là điểm hội họp của nhiều người yêu nước, nơi hoạt động của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội thị trấn Cà Mau – tổ chức chính trị có nhiệm vụ giác ngộ thanh niên yêu nước, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin… Ngôi nhà với diện tích xây dựng 74m² (ngang 3,7m, dài 20m) mặt quay về hướng Đông Bắc, giáp chợ Cà Mau, trên bờ kinh Xáng, là một căn phố trong dãy phố lầu 2 tầng được thực dân Pháp xây dựng khoảng năm 1900, được gọi là nhà ngủ Á Châu (còn gọi là phố ông Sơn). Sau một thời gian hoạt động tích cực, Hồng Anh Thư Quán đã gây ảnh hưởng tư tưởng sâu rộng trong các tầng lớp Nhân dân, tạo tiền đề chính trị cho sự ra đời của các cơ sở Đảng Cộng sản sau này. Với ý nghĩa là ngọn cờ tiên phong trong phong trào cách mạng tại Cà Mau, Hồng Anh Thư Quán đã được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 4/8/1992. Trên cơ sở kế thừa những yêu tố truyền thống, tầng trệt di tích được phục dựng quán cà phê Tâm Đồng theo hình thức xã hội hóa, được bày trí nhiều cổ vật, hiện vật. Trở thành một địa điểm du lịch Cà Mau lý tưởng cho du khách đam mê tìm hiểu về văn hoá, lịch sử vùng đất Cà Mau và là “địa chỉ đỏ” để giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Nguồn: Du lịch Cà Mau

Cà Mau 316 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm Nhạc sĩ Cao Văn Lầu

Tọa lạc tại Phường 2, Tp Bạc Liêu, Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã được UBND tỉnh Bạc Liêu công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1997. Đến năm 2014, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Diện tích gần 12.500m2 với tổng mức đầu tư trên 70 tỷ đồng, đây là nơi yên nghỉ của gia đình cố nhạc sĩ lừng danh Cao Văn Lầu. Ngoài ra, khu di tích còn có các hạng mục công trình như , Nhà trưng bày nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và cải lương, nhà trưng bày nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bản Dạ cổ Hoài Lang, Nhà biểu diễn Đờn ca tài tử Nam bộ, Vườn nhạc cụ, Hồ Sen bán nguyệt… Đi qua cổng chính, du khách sẽ bắt gặp “Đài Nguyệt Cầm” sừng sững ngay giữa khuôn viên. Cầu thang đi lên Đài với 32 bậc thang tượng trưng cho sự phát triển của bản Dạ Cổ Hoài Lang từ nhịp 2 lên bản Vọng cổ nhịp 4, 8, 16, 32, 64. Phía trên Đài cao nhất là biểu tượng chiếc Đàn kìm cách điệu – biểu tượng của đờn ca tài tử Nam bộ gắn liền với hình ảnh nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Đàn kìm được cách điệu từ đốt tre, phần đàn kìm được đục lõm tạo sự huyền bí, thiêng liêng, gợi lên sự hoài niệm và tưởng nhớ về những người đã khuất. Trên Đài Nguyệt Cầm có 21 chậu kiểng đại diện cho 21 tỉnh, thành phố, nơi phát triển mạnh về đờn ca tài tử. Ngay sau Đài Nguyệt Cầm là tượng nhạc sĩ Cao Văn Lầu đang ngồi ôm cây đàn Kìm, sau lưng là bản Dạ Cổ Hoài Lang – đây là tác phẩm bất hủ của ông, được mệnh danh là “bài ca Vua” của sân khấu cải lương Nam bộ cho đến nay. Cạnh đó Vườn nhạc cụ với 12 loại nhạc cụ dân tộc được khắc bằng đá xanh. Qua Vườn nhạc cụ đi thẳng vào là Nhà trưng bày nghệ thuật “Đờn ca tài tử và sân khấu cải lương Nam Bộ”. Du khách sẽ được xem và tìm hiểu nhiều tư liệu quý, hình ảnh và hiện vật liên quan đến sự hình thành và phát triển nghệ thuật Đờn ca tài tử và sân khấu cải lương Nam bộ. Nơi lưu chân du khách nhất chính là Nhà trưng bày về nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Nơi đây lưu trữ rất nhiều hiện vật như sách, báo, tài liệu, hình ảnh về cuộc đời và sự nghiệp nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Đặc biệt, tại đây du khách sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng sáp cố nhạc sĩ được làm bằng silicon rất giống với người thật. Ngoài những hạng mục công trình kể trên, tại khu lưu niệm cố nhạc sĩ không thể không nhắc tới, đó chính là khu mộ của gia đình cố nhạc sĩ, ngoài ra còn có Nhà sân khấu biểu diễn loại hình đờn ca tài tử, Nhà bán hàng lưu niệm...đã thực sự thu hút du khách khi đặt chân đến mảnh đất này. Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu thật sự là điểm tham quan hấp dẫn nhất Bạc Liêu. Nếu có dịp ghé thăm tỉnh Bạc Liêu, bạn đừng quên tham quan khu lưu niệm nhé. Nguồn: cổng thông tin điện tử liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh bạc liêu

Bạc Liêu 318 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật