Hang Chùa còn có tên là: Văn Quang Động, Chùa Hang là tên thường gọi của ngôi chùa được xây dựng trong động Văn Quang, xưa kia chùa có tên chữ là: Thanh Lam Tự. Gọi là Hang chùa vì tại 4 động ở núi này thì có tới 2 động có chùa ở trong đó. Núi Chùa Hang nằm giữa cánh đồng thuộc thôn Đồng Mai, núi Đọc và thôn Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình. Chùa Hang- Hang Chùa là di tích lịch sử - văn hoá, kiến trúc nghệ thuật, tôn giáo và danh lam thắng cảnh. Chùa hang 1: được xây dựng có kết cấu hình chữ nhất (-), có chiều dài 3m; chiều rộng 3,14m; cao 4,10m, với cấu trúc cột cái, cột quân, cửa bức bàn phía trước, phía sau và ván bưng xung quanh chùa đều bằng gỗ. Chùa được xây dựng từ lâu đời và được tôn tạo lại vào thời nhà Nguyễn ở trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ: “Hoàng triều Khải Định Nhâm tuất niên” (Khải Định năm Nhâm Tuất 1892). Chùa hang 2: với kiến trúc hình chữ nhất (-), gồm có bốn hàng cột cái cao 2,81m; cột quân cao 2,38m, ngôi chùa đứng án ngữ trước cửa hang thứ 3. Chùa hang 2 cũng có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, kể cả mái lợp. Theo nhân dân địa phương Chùa Hang 2 được xây dựng từ lâu và được trùng tu tôn tạo lại vào năm thời nhà Nguyễn. Hiện trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ năm trùng tu: “Đại Nam Bảo Đại thập nhị niên, tuế thứ Đinh sửu thập nhị nguyệt, thập nhị nhật lương thời thụ trụ, thượng lương đại cát lượng”. Nghĩa là chùa được tu bổ vào năm Bảo Đại thứ 12, tháng 12, ngày 12 năm Đinh sửu (năm 1937). Chùa Hang được xây dựng trong hang thứ 2, có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, trong chùa có hệ thống tượng phật được tạc từ thế kỷ 18, đây là một di sản độc đáo đối với di tích tỉnh Hoà Bình, trên những bức cốn là những đường nét hoa văn được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Hang chùa: Chùa có 4 chữ Hán được khắc trên vách núi: “Lăng tiêu tiếu bích” nghĩa là: Ngọn núi biếc cao vút, sương phủ mờ ảo. Theo các nhà khảo cổ học thì Hang Chùa cũng là nơi phát hiện ra dấu vết khảo cổ học thuộc nền “Văn hoá Hoà Bình”. Trong hang 2 và hang 3 người ta đã tìm thấy các trầm tích hoá thạch thức ăn của người xưa như vỏ ốc, vỏ sò, mảnh công cụ... Vào thời Trung đại dấu tích văn hoá cũng để lại ở đây khá đậm nét đó là quả chuông đồng được đúc vào năm Cảnh Hưng thứ 44 (năm 1783). Người xưa cũng để lại ở đây 2 dòng chữ đại tự, 1 bài thơ, 2 bài ký, một bia đá. Đó là những văn tự thành văn rất hiếm hoi ở các di tích hang động của tỉnh Hoà Bình hiện nay. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử
Hòa Bình 1016 lượt xem
Di tích ghi dấu chiến công diệt xe tăng của Cù Chính Lan hiện nằm ở dốc Giang Mỗ cạnh đường 6A (cũ) thuộc địa phận xóm Giang Mỗ, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình. Anh hùng liệt sỹ Cù Chính Lan (tên thật là Cù Văn Mấu), sinh năm 1930 trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1946, quân Pháp trở lại xâm lược nước ta, anh Cù Chính Lan khi đó mới 16 tuổi đã xin gia nhập Vệ quốc đoàn, tình nguyện lên đường đánh giặc. Tháng 11/1951, thực dân Pháp mở rộng cuộc tấn công ra vùng tự do của ta ở Hòa Bình với âm mưu nối lại "hành lang Đông - Tây” nhằm cắt đứt liên lạc của ta giữa Việt Bắc và Khu 3, Khu 4 để giành lại quyền chủ động trên chiến trường chính. Ở Hòa Bình, chúng thực hiện âm mưu thành lập "Xứ Mường tự trị” để phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Ngày 24/11/1951, Tổng Quân ủy quyết định mở chiến dịch Hòa Bình. Trong trận đánh ngày 13/12/1951, khi quân Pháp lọt vào trận địa, cả đơn vị đã nổ súng quyết liệt, diệt gọn 1 đại đội địch, lúc chuẩn bị rút thì xe tăng địch tới tiếp viện bắn dữ dội vào đội hình của ta, chặn đường rút và làm nhiều chiến sỹ thương vong. Anh Cù Chính Lan đã nhanh chóng nhảy lên xe tăng, kề tiểu liên vào khe hở trên tháp xe bóp cò, nhưng không may tiểu liên bị hóc, chiếc xe tăng vẫn vừa chạy vừa bắn. Anh hô đồng đội tập trung lựu đạn đến cho mình rồi tiếp tục nhảy lên xe, giật nắp quăng lựu đạn vào trong xe, giặc nhặt lựu đạn ném trả lại và lái xe tăng chuyển hướng. Thời cơ diệt xe tăng địch ngay trước mắt, anh Cù Chính Lan táo bạo mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra vài giây rồi mới ném vào buồng lái. Lựu đạn nổ, những tên giặc trong xe chết đè lên nhau. Chiếc xe tăng mang nhãn hiệu "B2885498 USA”, dừng ngay tại chỗ, trận đánh kết thúc thắng lợi. Chiến thắng oanh liệt tại dốc Giang Mỗ với tinh thần anh dũng của Anh hùng Cù Chính Lan và các chiến sỹ Tiểu đoàn 353, Trung đoàn 66 diệt xe tăng của bọn xâm lược Pháp do đế quốc Mỹ trang bị đã mở đầu phong trào đánh xe tăng chiến đấu hiện đại của địch bằng vũ khí thông thường. Ngày 29/12/1951, khi tham gia trận đánh ác liệt trên đường 6 đoạn Lương Sơn - Hòa Bình. Mặc dù bị thương rất nặng nhưng anh Cù Chính Lan vẫn không rời trận địa, chỉ huy tiểu đội liên tiếp phá mở những lớp hàng rào dây thép gai vào lô cốt địch, dọn đường cho đồng đội lên tiêu diệt quân thù. Khi đồn Cô Tô của địch bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn cũng là lúc anh trút hơi thở cuối cùng. Anh hy sinh khi vừa 21 tuổi. Ngày 19/5/1952, tại Đại hội Chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, liệt sỹ Cù Chính Lan là 1 trong 7 người đầu tiên trên toàn quốc được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân . Để ghi nhớ chiến công của Anh hùng Cù Chính Lan, năm 1993, Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định công nhận địa điểm ghi dấu chiến công diệt xe tăng Pháp của Cù Chính Lan là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Năm 1994 khởi công xây dựng khu di tích, dựng Tượng đài Anh hùng diệt xe tăng. Nguồn : Báo Hòa Bình Điện Tử
Hòa Bình 1192 lượt xem
Tượng đài Triệu Phúc Lịch tại dốc Tra, xã Toàn Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình. Tượng đài được xây dựng năm 1979, do họa sỹ Nắng Mai thể hiện. Tượng đài có chiều cao hơn 3m, nằm ở sườn đồi bên phải đường lên thị trấn Đà Bắc, được Bộ Văn Hoá –Thể Thao công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1996. Có lẽ người dân xã Toàn Sơn không ai không biết đến đội trưởng Triệu Phúc Lịch xưa kia luôn dũng cảm, mưu trí chỉ huy đội du kích chiến đấu chặn đánh nhiều cuộc càn quét của giặc Pháp vào quê hương. Đặc biệt là sự kiện ngày 10/9/1947 mãi được các thế hệ lưu truyền. Đó là khi được tin giặc Pháp ở đồn xóm Cháu (xã Tu Lý trước đây) huy động một trung đội lính lê dương trên 20 tên và lính dõng đi càn quét ở khu vực xã Toàn Sơn. Đội du kích xã do Triệu Phúc Lịch chỉ huy gồm 30 người đã nhanh chóng triển khai phương án mai phục đánh địch. Vũ khí thô sơ của các đội viên là nỏ, cung tên tẩm thuốc độc, bẫy đá, cần bật bằng bương, tre, bàn chông tre và súng trường, lựu đạn cướp được của giặc. Gần trưa bọn địch ồ ạt kéo đến. Chờ cho chúng lọt vào trận địa mai phục, Triệu Phúc Lịch hạ lệnh tiến công. Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ giòn giã, hàng loạt mũi tên tẩm thuốc độc bay tới tấp vào quân thù; bẫy đá từ lưng chừng núi đổ xuống đội hình giặc làm cho chúng hốt hoảng, chạy tán loạn. Trong trận này, đội du kích xã Toàn Sơn đã tiêu diệt 14 tên địch, bắt sống 4 tên và thu được 7 khẩu súng... Sử sách viết: Bị đánh bất ngờ, tiến không xong, rút lui thì bị chặn, quân địch tìm cách tháo chạy theo đường mòn qua suối Sâu để rút về Tu Lý. Mưu trí biết được ý đồ của giặc, Triệu Phúc Lịch đã cho du kích truy đuổi với quyết tâm tiêu diệt sạch trung đội giặc. Bản thân người đội trưởng tay không rượt đuổi theo tên giặc chỉ huy, rồi quật ngã tên lính lê dương ấy và nhanh chóng cướp được khẩu tiểu liên. Liền sau đó, anh phát hiện ra hướng rút lui của quân giặc chính là khu căn cứ của ta. Để đảm bảo bí mật cho khu căn cứ và an toàn cho lực lượng của đội du kích, Triệu Phúc Lịch đã nhanh chóng đánh lạc hướng địch bằng cách chạy ngược lên nương lúa. Bọn giặc phát hiện liền đuổi theo và bắn anh bị thương nặng. Mặc dù vậy, anh vẫn cố sức rút dao găm đâm tên lính đứng sát gần. Điên cuồng trước hành động quả cảm của Triệu Phúc Lịch, quân giặc đã xả cả băng đạn vào anh, người con ưu tú của đồng bào Dao xã Toàn Sơn đã anh dũng hy sinh. Hành động của Triệu Phúc Lịch tay không cướp súng giặc, chiến đấu ngoan cường, hy sinh anh dũng đã thắp sáng thêm lòng yêu nước, căm thù giặc và cổ vũ tinh thần chiến đấu, chiến thắng giặc Pháp của đồng bào Dao nói riêng và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh nói chung. Liệt sỹ Triệu Phúc Lịch được Nhà nước truy tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất. Ngày 11/6/1999, Triệu Phúc Lịch được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Để tưởng nhớ công lao to lớn của anh và đội du kích xã Toàn Sơn, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ mai sau, UBND tỉnh đã chỉ đạo xây dựng Đài chiến công Đội du kích Toàn Sơn và được khánh thành ngày 2/9/1991, nhân kỷ niệm 46 năm ngày Quốc khánh. Đài tưởng niệm được xây dựng chính nơi năm xưa, anh hùng Triệu Phúc Lịch đã ngã xuống. Phần mộ của anh được đặt ở vị trí cao nhất trong khuôn viên Đài tưởng niệm. Ngày nay, vào dịp lễ, Tết, cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã Toàn Sơn lại thành kính dâng hương, hoa tưởng nhớ những người con ưu tú và có thêm quyết tâm chung sức, đồng lòng xây dựng quê hương ngày một đổi mới. Nguồn : Báo Hòa Bình Điện Tử
Hòa Bình 1209 lượt xem
Nhà tù Hoà Bình nằm bên suối Đúng, khu vực bờ trái sông Đà, thuộc phường Tân Thịnh (TP Hòa Bình). Nhà tù được xây dựng năm 1896 để giam giữ thường phạm. Năm 1943, thực dân Pháp chuyển một số tù chính trị từ Nhà tù Sơn La về đây giam giữ. Di tích Nhà tù Hòa Bình có diện tích 1.500m2, được tỉnh trùng tu từ nhiều năm trước và được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2000. Những dấu tích còn lại của nhà tù hầu như không còn nhiều ngoài một chòi canh tròn bằng bê tông, được lính Pháp xây dựng tại triền đê Đà Giang vẫn hiện hữu. Theo lịch sử ghi lại, nhà tù Hoà Bình được xây dựng ban đầu trên diện tích đất hình chữ nhật, phía ngoài bao quanh bằng 4 bức tường cao 3 thước, trên tường chăng dây thép gai, 4 góc tường là 4 chòi canh. Tháng 3/1943, thực dân Pháp chuyển một số tù chính trị từ nhà tù Sơn La về giam giữ ở nhà tù Hoà Bình để giảm bớt số lượng, đồng thời chờ điều kiện thuận lợi để chuyển bớt, di lý một số tù nhân ra giam giữ tại Côn Đảo. Những năm 1943 và 1945, phong trào hoạt động của chi bộ nhà tù Hoà Bình, do đồng chí Lê Đức Thọ làm Bí thư phát triển mạnh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng ở tỉnh Hoà Bình. Năm 1943, chi bộ nhà tù có kế hoạch kết nạp đảng viên mới, đây là lớp đảng viên đầu tiên chi bộ phát triển được ở nhà tù Hoà Bình. Tháng 3/1945, chớp thời cơ Nhật đảo chính Pháp, được sự chỉ đạo của Trung Ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, chi bộ nhà tù đã phát động và tổ chức thành công cuộc đấu tranh đòi thả tù chính trị. Trong 1 tuần, phần lớn tù chính trị tại nhà tù được thả tự do, được cán bộ và quần chúng cách mạng thị xã Hòa Bình tích cực giúp đỡ. Các đảng viên của chi bộ đã trở về bắt liên lạc với Trung Ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ. Một số đồng chí được bổ sung cho lực lượng cách mạng của tỉnh… Tháng 8/1945, hòa chung khí thế tiến công của cả nước, những người con đất Mường đồng loạt rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Những chiến sỹ cộng sản trong nhà tù Hòa Bình ngày ấy cũng là nhân tố quan trọng góp phần tạo đà cho ngày cách mạng quật khởi. Nhà tù Hoà Bình là chứng tích công cụ đàn áp, nói lên tội ác của thực dân Pháp, là nơi giam giữ, tra tấn các chiến sỹ cách mạng. Đồng thời chính nơi này đã bồi dưỡng, rèn luyện những chiến sỹ cộng sản kiên cường, bất khuất, giữ trọn khí tiết cách mạng, đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Hàng năm có nhiều đoàn thăm quan trong và ngoài tỉnh đến tìm hiểu về truyền thống cách mạng tại nhà tù Hoà Bình. Di tích Nhà tù Hoà Bình được xây dựng lại không chỉ góp phần soi sáng lịch sử, mà còn thể hiện sự tri ân sâu sắc của Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà đối với các thế hệ cha anh đi trước; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, giúp mỗi người dân nhận thức sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc, từ đó biết trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử dân tộc trong thời đại mới. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử
Hòa Bình 1273 lượt xem
Thác Bờ là tên gọi từ xa xưa của đoạn sông Đà khi chảy qua địa bàn khu vực chợ Bờ, xã Hào Tráng. Hiện tại thì nó đã được tách ra thành hai xã, Thung Nai Hòa Bình của huyện Cao Phong và xã Vầy Nưa của huyện Đà Bắc. Từ thời xa xưa nơi đây đã là mảnh đất trù phú nơi người Mường sinh sống. Tương truyền, đền bà Chúa Thác Bờ thờ hai vị nữ tướng là bà Đinh Thị Vân, người dân tộc Mường và một bà (không rõ tên) người dân tộc Dao. Dưới thời vua Lê Lợi, hai bà đã có công giúp dân và quân vận chuyển lương thực, thuyền bè qua Thác Bờ lên Mường Lễ (Sơn La) dẹp loạn. Sau khi mất, hai bà thường hiển linh giúp người dân an toàn vượt qua con thác nổi tiếng hiểm trở, khắc nghiệt khi sông Đà chưa ngăn dòng. Nhân dân biết ơn nên lập đền thờ hai bà nhằm tỏ lòng thành kính và mong muốn hai bà sẽ phù hộ, che chở cho họ khỏi nguy hiểm khi đi qua dòng nước. Được xây dựng theo thế nhìn sông, tựa núi với phong cảnh hữu tình, khu di tích đền Thác Bờ được chia làm 2 khu vực, đền bà Chúa Thác Bờ phía tả ngạn nằm trên đỉnh đồi Hang Thần, thuộc xã Vầy Nưa và đền Thác Bờ phía hữu ngạn nằm ở chân Thác Bờ, ngay cạnh sông Đà. Trải qua một số lần trùng tu, xây dựng lại, đền vẫn giữ được những nét độc đáo, đặc trưng. Đền phía tả ngạn có kiến trúc mặt bằng hình chữ đinh, gồm nhà đại bái và nhà hậu cung. Phía trước đền có 5 cửa được lợp bằng mái ngói vảy cá. Cửa chính treo bức đại tự viết bằng chữ Hán. Trên nóc có đắp nổi mặt rồng chầu. Đền phía hữu ngạn gồm 3 gian thờ chính và hậu cung, được xây 2 tầng tựa vào núi. Tầng 1 làm nơi nghỉ trọ cho khách hành hương, tầng 2 là nơi thờ tự các vị thần linh. Trong đền không chỉ thờ bà Chúa Thác Bờ mà còn thờ các vị thần thánh khác như công đồng quan lớn, ngũ vị tôn ông, bà chúa Sơn Trang, tứ phủ Thánh Cô, tứ phủ Thánh Cậu, Đức Đại vương Trần Quốc Tuấn, tứ phủ Chầu Bà. Lễ hội đền diễn ra từ ngày mồng 7 tháng Giêng, kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch. Mỗi năm, Di tích lịch sử quốc gia đền Thác Bờ thu hút hàng vạn du khách đến vãn cảnh, hành lễ. Nơi đây không chỉ là địa chỉ tín ngưỡng linh thiêng cầu bình an, may mắn mà còn là được lựa chọn cho sự khởi đầu thuận lợi cho hành trình du xuân, khám phá vẻ đẹp thiên nhiên ấn tượng trên hồ Hòa Bình. Nguồn: Cục du lịch Quốc Gia Việt Nam
Hòa Bình 1064 lượt xem
Đền Thắm thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn với nhiều huyền sử, huyền tích đã đi vào tâm thức các cư dân vùng núi nơi đây. Đền nằm ngay cạnh con đường rải nhựa cấp phối dẫn đến xã Quảng Chu, cách quốc lộ 3 chưa đầy 4km cách thành phố Bắc Kạn 45km về phía Nam. Đền thờ vị nữ tướng có tên là Thắm - người có công lớn trong công cuộc chống giặc Cờ Đen vào nửa cuối thế kỷ XIX. Trước đây đền là nơi thờ Sơn thần, Thuỷ thần để cầu cho thuyền bè được qua lại bình yên. Cho đến cuối thế kỷ XIX đền được tu bổ để thờ phụng vị nữ tướng có công lớn đánh giặc Cờ Đen là cô Thắm. Chuyện kể rằng, có hai cha con ông lão đánh cá mưu sinh bên khúc sông Tràng Cổ. Một năm thiên tai, lụt lội, con nước hung dữ đã cuốn trôi thuyền, lưới của ông lão nghèo khổ. Sau khi nước rút, ông lão mang chài ra sông. Đến khi chiều xuống ông mới cất được một mẻ nặng trịch nhưng buồn thay chỉ là một tảng đá. Những lần tiếp theo, vẫn chỉ có tảng đá đó vào lưới. Ông bỏ sang khúc sông khác, vẫn cất lên tảng đá kỳ lạ kia. Ông toan vứt bỏ thì có tiếng vọng từ trong lòng đá: “Ông lão, hãy mang tôi về”. Thấy lạ, ông mang theo tảng đá biết nói về nhà. Đến nơi, mệt bã người ông quăng tảng đá xuống đất, nó va phải một tảng đá khác, vỡ ra. Kỳ lạ thay, rực một màu vàng trong bụng đá. Đó là những thỏi vàng, nghĩ rằng Giàng (Trời) cho làng để bù đắp tai ương lụt lội, ông đem vàng chia cho khắp người dân quanh vùng. Có vàng nhưng hai cha con ông lão vẫn làm lụng kiếm sống bên khúc sông Tràng Cổ. Biết ơn, người dân nơi đây đã lập đền thờ hai hòn đá Sơn thần, Thủy thần để thuyền bè qua lại bình an. Cô Thắm con ông lão đánh cá nết na hiền thục lại xinh đẹp có tiếng, trai khắp mường trên, mường dưới đều mơ ước được kết tóc xe duyên cùng nàng. Đương tuổi xuân thì, nàng bị tay Chúa mường dùng quyền lực bắt về làm vợ. Nàng sống trong cảnh vàng son mà tủi nhục trăm bề, nhất là khi lũ giặc Cờ Đen kéo sang nhũng nhiễu, tên Chúa mường chẳng những không chống giặc mà còn làm tay sai cho chúng. Nàng đã tìm mọi cách thoát ra khỏi nhà tên Chúa mường, tập hợp dân nghèo vùng lên đánh giặc. Tên Chúa mường uất hận và muốn lập công đã dẫn giặc đến đánh. Vị nữ tướng cầm quân kiên cường đánh trả. Tại khúc sông Tràng Cổ đã diễn ra một trận kịch chiến, máu chảy thành sông mà quân sĩ Cô Thắm vẫn không hề nao núng. Chẳng may, nữ tướng trúng phải tên độc mà mất, quân sĩ tức giận quyết chiến để rửa thù. Giặc khiếp sợ tháo chạy tán loạn, tên Chúa mường bị bắt sống và bị xử tử để tế vị chủ tướng. Để tưởng nhớ vị nữ tướng can trường, người dân đã lập đền thờ cô Thắm. Quần thể đền Thắm gồm đền chính, miếu cô Thắm và miếu Sơn thần. Đền chính được chia làm ba gian, thờ: Ngũ vị tôn ông, Bách Linh, Đức thánh Trần Hưng Đạo, mẫu Thượng Thiên, Phật Quan âm. Miếu thờ cô Thắm nằm kề ngay bên đền chính, về phía trái có kiến trúc bê tông cuốn vòm, trên bệ thờ là tượng cô Thắm mặc áo xanh, dưới bệ có đôi chim phượng tạc bằng đá. Hàng năm, du khách thập phương về đền Thắm lễ bái, cầu nguyện rất đông, nhất là dịp giêng hai. Sau nhiều năm tôn dựng và tu sửa, năm 2012 ngôi đền được xếp hạng cấp tỉnh là di tích lịch sử - văn hóa, nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Bắc Kạn 1075 lượt xem
Di tích lịch sử Khuổi Linh (thuộc xã Nghĩa Tá, huyện Chợ Đồn) là nơi ở và làm việc của đồng chí Trường Chinh, nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng và văn phòng Trung ương từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1950. Nơi ở của đồng chí Trường Chinh nằm trên sườn đồi, chỗ làm việc nằm trên đỉnh một mỏm đồi kê sát nơi ở thuộc chân núi Khau Bon. Khu vực văn phòng Trung ương Đảng nằm trên một quả đồi gần nơi ở của đồng chí Trường Chinh. Khu di tích Khuổi Linh ở vào vị trí rất hiểm trở nhưng giao thông lại rất thuận lợi cho việc liên lạc đi các hướng. Ngày 18/3/1996, Khuổi Linh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm 2000, xã Nghĩa Tá được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Di tích lịch sử Đồi Khau Mạ thuộc bản Vèn, xã Lương Bằng (Chợ Đồn) là nơi đồng chí Phạm Văn Đồng - nguyên Thủ tướng Chính phủ cùng cơ quan Văn Phòng Chính phủ ở và làm việc từ đầu năm 1950 đến mùa hè năm1951. Tại nơi này, đồng chí Phạm Văn Đồng đã cùng với Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân Dân Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Chủ Tịch Hồ Chí Minh tổ chức họp bàn mở chiến dịch biên giới năm 1950, mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam. Có thể nói, trong thời kì ở chiến khu Việt Bắc, đặc biệt là thời kì sống và làm việc ở Khau Mạ - Bản Vèn (Lương Bằng), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhiều hoạt động tích cực cùng với Trung ương Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1996, nhân dân xã Lương Bằng đã vinh dự đón nhận Bằng di tích lịch sử do Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1290 lượt xem
Chùa Thạch Long (Rồng đá) thuộc xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Nơi đây được mệnh danh là “chùa thiêng trong hang đá”. Ngôi chùa chứa trong mình nhiều sự tích, huyền sử đẹp. Chùa Thạch Long thu hút hàng ngàn khách thập phương tới dự hội và dâng hương cầu phúc, cầu tài mỗi dịp xuân về. Nhiều người nói rằng, đi khắp Bắc chí Nam chưa thấy chùa nào nằm trong hang núi đá rộng, sạch mà thoáng như chùa Thạch Long. Tăng ni Phật tử tới dự hội có thể vào hang lễ Phật tới hàng ngàn người. Chuyện kể rằng, ngày xưa, người dân xã Vi Hương - Bạch Thông xuôi dòng sông Cầu rước tượng Phật Thích Ca về thờ ở làng mình là Hoa Sơn, trên đỉnh dãy núi Phja Bjoóc. Tượng Phật bằng vàng rất nặng nên khi ngược lên Vi Hương phải kéo bằng mảng. Đến vằng Bó Mi thuộc xã Cao Kỳ ngày nay, mảng cứ xoay tròn không sao đi được. Trời đã tối, đêm ấy, người đi rước tượng phải căng lều ngủ tại vằng Bó Mi để hôm sau tính tiếp. Sáng hôm sau tỉnh dậy, họ hốt hoảng không thấy Đức Phật đâu. Người đi rước tượng đành thắp một bó nhang to và khấn: “Nếu ngài muốn ở đây thì con đành thuận theo ý ngài, nhưng ngài hãy cho con biết nơi ngài đang thượng tọa để con cháu đời sau thờ phụng hương khói”. Dứt lời, bó nhang cuộn khói bay sang bên kia bờ sông, luồn mãi vào trong núi. Người rước tượng cứ đi theo khói nhang ấy và phát hiện ra một hang động tuyệt đẹp, rộng thênh thang. Đức Phật Thích Ca đã ngự tọa ở chốn cao nhất. Biết hang đá thiêng, từ đó dân làng lập chùa ngay tại hang đá này. Chùa có tên Thạch Long (con rồng đá) là vì hang động nằm trong núi đá, cổng hang có hình miệng con rồng đang há. Chùa có hai phần chính. Phần thứ nhất là chùa Thiên. Chùa này nằm ở trên cao, có một bậc đá xếp từ chân núi dẫn thẳng lên tới cửa động. Gian cao nhất thờ Đức Phật Thích Ca. Ở gian trung, trên bệ cao nhất có ảnh thờ Bác Hồ. Phần thứ hai của chùa là chùa Âm, đường đến chùa Âm phải đi vòng quanh sườn núi. Cửa vào chùa Âm hẹp hơn chùa Thiên một chút. Lòng hang cũng không rộng bằng chùa Thiên. Ước chừng cao khoảng 6m, rộng 6m và có ngách ăn sâu vào bên trong. Cả chùa Thiên và chùa Âm đều có nhiều tượng thiên tạo hình các Chư Phật. Trong lòng chùa Thiên, vách đá tự chia thành từng múi như những chiếc lọng cao và sang trọng che cho các vị Chư Phật ngồi dưới. Không chỉ chứa trong mình nhiều huyền tích, chùa Thạch Long còn là một di tích lịch sử, là niềm tự hào của bà con xã Cao Kỳ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã 3 lần đến đây. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chùa trở thành trạm vận chuyển vũ khí và là kho vũ khí bí mật của quân đội ta. Hoà bình lập lại, chùa lại được bà con thờ tự như xưa. Hội chùa Thạch Long được tổ chức vào mùng 7 tháng Giêng hằng năm, thu hút rất nhiều du khách thập phương, họ đến để dâng hương cầu may mắn, hạnh phúc cho gia đình và người thân. Chùa Thạch Long không những là thắng cảnh đẹp của Bắc Kạn, mà còn là một di tích lịch sử. Di tích này đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm, bảo vệ, tôn tạo để trở thành điểm du lịch văn hoá hấp dẫn của tỉnh Bắc Kạn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1235 lượt xem
Địa danh Nà Pậu - xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Cùng với di tích lịch sử Bản Ca, Khuổi Linh, Đồi Pù Cọ, Khau Mạ, Nà Quân và Nà Pậu là nơi Bác Hồ đã sống và làm việc đầu năm 1951. Đầu năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến làm việc tại Nà Pậu, thuộc bản Thít, xã Lương Bằng (Chợ Đồn). Trên quả đồi này, Trung ương Đảng đã cho làm hầm, dựng lán để Người làm việc. Nà Pậu - nơi Người ở và làm việc có địa thế rất thuận tiện cho hoạt động cũng như khi di chuyển để tránh tai mắt kẻ thù. Phía trước đồi Nà Pậu là một đám ruộng rộng, có khả năng quan sát phía xa, bên cạnh là một con suối trong vắt cung cấp nguồn nước, phía sau liền với cánh rừng đại ngàn mà khi có động, Người và các đồng chí trong cơ quan có thể rút thẳng sang xã Phong Huân, Nghĩa Tá hoặc sang thẳng Chiêm Hóa (Tuyên Quang) rất an toàn. Từ Km 18, đường 254 Chợ Đồn - Thái Nguyên, men theo con đường mòn của bản Thít khoảng 150m là đến đồi Nà Pậu. Nhà của Người có hai gian, một gian để làm việc, một gian để nghỉ ngơi và một nhà khoảng 6 gian để cho anh em cơ quan (đơn vị 41) ở”. Cách nền nhà khoảng 70m đi về hướng Tây là căn hầm trú ẩn của Hồ Chủ tịch. Căn hầm có hình chữ T, chiều cao cửa hầm là 1,5m, đi sâu vào 4m thì chia làm 2 ngách cân đối. Tuy thời gian đã lâu, mưa xói đất lấp mất một chút cửa hầm nhưng căn hầm vẫn như còn được giữ nguyên vẹn. Từ hầm của Hồ Chủ tịch đi ra phía trước khoảng 5 - 6m có một cây cổ thụ khá lớn, có tuổi khoảng 90 - 100 năm, dân địa phương gọi là cây Phay. Trước cửa hầm là một khu đất bằng phẳng, nơi trước đây Người thường tăng gia trồng rau… Trước đồi Nà Pậu là suối Nà Pậu, bên cạnh có 2 cây đại thụ đan chéo nhau, dưới tán cây có tảng đá to, nơi Người thường câu cá, tắm giặt. Tại Nà Pậu, Người đã viết nhiều bức thư và điện mừng gửi tới các cơ quan, đoàn thể trong và ngoài nước. Ngày 20/1/1951, Người ký quyết định khen thưởng các đơn vị bộ đội đã chiến thắng trong chiến dịch Trung Du và Đông Bắc, đồng thời gửi 4 lá cờ danh dự để trao tặng cho các đơn vị bộ đội đạt nhiều thành tích và lập nhiều chiến công xuất sắc. Cũng trong thời gian này, Người đã ký nhiều quyết định quan trọng góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi. Người còn đi thăm một số cơ quan của Trung ương Đảng, quân đội đóng trên địa bàn Chợ Đồn, động viên tinh thần cán bộ, chiến sỹ, đồng bào hăng hái thi đua giết giặc và lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Chiều ngày 27/2/1951, Hồ Chủ tịch rời Nà Pậu - Lương Bằng lên đường đi dự Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Ngày 28/6/1996, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận và xếp hạng Di tích Đồi Nà Pậu xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1195 lượt xem
Di tích lịch sử Bản Ca, xã Bình Trung, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Đây là nơi Bác Hồ từng sống và làm việc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người đã ở Bản Ca từ ngày 7/12/1947 đến cuối tháng 12/1947. Ban đầu Người cho dựng lán trại ở đầu suối Bản Ca, sau đó cho dựng thêm một lán nữa ở đồi Khau Phay gần dân trong bản. Hai lán này cách nhau 800m, bên cạnh có lán đặt máy chữ để in ấn và soạn thảo tài liệu, máy soạn thảo văn bản và lán của các chiến sĩ bảo vệ. Theo người dân nơi đây kể lại, trong thời gian sống và làm việc tại đây, Người sống rất giản dị và gần gũi với nhân dân, cũng mặc áo nâu, đeo túi vải như người dân. Người làm việc có giờ giấc, sau giờ làm việc, Người thường tập thể dục và tham gia trồng rau xanh cùng cán bộ trong Phủ Chủ tịch. Người thường xuyên đến thăm các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng khác ở Chợ Đồn nhưng thỉnh thoảng mới đi ngựa còn lại là đi bộ. Trong thời gian ở đây, Bác Hồ đã từng ra nhiều sắc lệnh, chỉ thị, thư từ như: Người kí sắc lệnh khen thưởng các chủ tịch kiêm hành chính xã nhân kỷ niệm một năm ngày toàn quốc kháng chiến. Ngày 8/12/1947, Người đã viết thư gửi giám mục Lê Hữu Từ nhân dịp lễ giáng sinh. Ngày 12/12/1947, Người viết thư gửi Chính phủ Cao Miên giải phóng (Cam-pu-chia) hoan nghênh việc thành lập Ủy ban giải phóng Việt-Miên-Lào. Ngày 19/12/1947, Người ra lời kêu gọi đồng bào thi đua giết giặc lập công nhân ngày toàn quốc kháng chiến, và kí thông tư gửi các Bộ về việc “cử các nhân viên làm việc đắc lực để khen thưởng”. Nhân kỉ niệm 3 năm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam, Người đã viết bài về quá trình phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân, và mong muốn lực lượng vũ trang của ta không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Ngày 24/12/1947, Người viết thư gửi đồng bào công giáo, mong muốn đồng bào công giáo sát cánh cùng đồng bào chiến sĩ cả nước đánh đuổi thực dân xâm lược. Ngoài ra, Người còn viết rất nhiều bài báo cổ vũ động viên đồng bào cả nước tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược… Hiện nay, chứng tích còn lại của khu vực lán Bác Hồ tại bản Ca chỉ còn lại dấu tích của nền lán cạnh cây cọ già. Hai hiện vật là kiềng nấu ăn cho Bác Hồ và chiếc áo dạ đen Người tặng cho gia đình cụ Bàn Văn Trai (cụ Nhuôi). Đầu năm 1990, gia đình cụ Trai đã tặng lại hai hiện vật này cho bảo tàng Bắc Thái (cũ). Hiện nay hai hiện vật này vẫn được lưu giữ tại bảo tàng Thái Nguyên. Ngày 28/6/1996, Bản Ca đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1114 lượt xem
Đồn Phủ Thông nằm trên địa bàn thị trấn Phủ Thông, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Toàn bộ khu vực này là núi đất với độ cao trung bình trên 350m. Đồn được xây dựng trên một mỏm nhỏ nhô ra của núi Nà Cọt, độ cao gần 200m, cách ngã ba Phủ Thông 300m. Ngày 7/10/1947, binh đoàn đổ bộ đường không của quân viễn chinh Pháp với gần 1.200 tên đã nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, ngày 15/10 chúng tiến quân lên chiếm đóng Đồn Phủ Thông. Đồn dài 100m, rộng 50m; tường đắp bằng đất dày 1m, cao 2m, trong và ngoài tường ghép gỗ, bên ngoài có cọc chống, bốn phía có nhiều lỗ châu mai, bốn góc đồn có 4 lô cốt mẹ, có đài quan sát. Nhà chỉ huy ở chính giữa đồn, địch đào hầm từ nhà chỉ huy, nhà lính thông đến các lô cốt. Ngoài bờ tường có 3 lớp hàng rào tre nứa. Trong những năm 1947 - 1948, khi địch mới chiếm đóng Đồn Phủ Thông liên tiếp gặp phải các trận công đồn của quân ta, khiến cho chúng tinh thần hoang mang. Trong đó, trận tập kích lần thứ nhất đêm 30/11/1947 đã tiêu diệt và hạ thương 50 tên địch, thu 2 súng máy, 1 súng trường. Đây là lần đầu tiên quân địch bị tiêu diệt ngay tại sào huyệt có công sự kiên cố. Ta thực hiện một phần nhiệm vụ đề ra, góp phần vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm tiền đề cho trận đánh tiếp theo. Đêm 12/3/1948, quân ta mở trận tập kích thứ hai vào Đồn Phủ Thông. Trận này, quân ta phá sập phần lớn công sự và doanh trại trong cứ điểm, làm thương vong gần 70 tên địch. Sau trận này, quân ta liên tiếp nắm thế chủ động trên mặt trận đường số 3. Ngày 25/7/1948, Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở trận công đồn lần thứ 3 vào Đồn Phủ Thông. Khoảng 18 giờ ngày 25/7/1948, pháo binh của Tiểu đoàn 410 nổ súng, phá sập một phần khu thông tin, phá hủy đường rào giao thông hào bao quanh điểm. Tiểu đoàn 11 chia làm hai mũi tiến công vào Đồn. Quân ta cắt hàng rào dây thép gai, phá hàng rào tre nứa, bắc thang phên trèo qua tường tiến công vào Đồn. Địch hoảng sợ, rút xuống hầm ngầm, quân ta làm chủ chiến trường, thu vũ khí, chiến lợi phẩm. Sau ít phút đầu hoang mang, địch phục hồi lại thế phòng ngự, chống trả quyết liệt, tập trung hoả lực súng máy, súng cối ngăn chặn các đơn vị vào sau, quân ta có một số chiến sỹ hy sinh, bị thương. Trận đánh kéo dài đến 23 giờ đêm. Ta rút khỏi Đồn, tuy không chiếm được cứ điểm nhưng đã tiêu diệt, làm bị thương 3 phần 4 quân số trong đồn, phá hủy nặng nề hệ thống công sự, vật cản, nhà ở trong đồn; thu được 5 trung liên, 4 tiểu liên, 10 súng trường, một số đạn, lựu đạn. Tuy không giành thắng lợi hoàn toàn, song trận đánh Đồn Phủ Thông ngày 25/7/1948 có ý nghĩa to lớn. Sau trận công Đồn Phủ Thông, quân địch ở các cứ điểm không dám càn quét, sạo sục các vùng xung quanh, quân ta giành được chủ động trên địa bàn Bắc Bạch Thông. Trận Phủ Thông được Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy biểu dương. Ngày 27/3/1998, Đồn Phủ Thông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày 01/6/1999 nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân thị trấn Phủ Thông vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1303 lượt xem
Đèo Giàng nằm trên Quốc lộ 3, giáp ranh giữa hai huyện Bạch Thông và Ngân Sơn. Nơi đây trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng vang dội và đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Đây là trận đánh có quy mô lớn nhất so với các trận phục kích đánh địch khác ở khu vực Đèo Giàng. Từ trận đánh này, ta đã rút được nhiều kinh nghiệm về chiến thuật phục kích cấp tiểu đoàn cho các trận phục kích địch trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Trận đánh này gắn liền với trận đánh đồn Phủ Thông, đã gây tiếng vang lớn, có tác dụng mạnh mẽ, cổ vũ, động viên lực lượng vũ trang trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh bại mọi âm mưu phá hoại của thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc. 9 giờ sáng ngày 12/12/1947, tại km số 187 -188 Đèo Giàng - thuộc xã Lãng Ngâm (Ngân Sơn) có 1 đoàn xe cơ giới của địch gồm 22 chiếc xe tăng, xe thiết giáp, ô tô tải, xe jíp chở lính lọt vào trận địa phục kích của trung đoàn 165 (Trung đoàn Thủ đô). Trận phục kích là đoạn đường hiểm trở, một bên là núi cao, một bên là vực sâu. Ngay từ loạt đạn đầu của bộ đội ta, 1 xe ô tô của địch đã bị phá hủy, nhiều tên lính địch bị tiêu diệt. Sau ít phút dùng hỏa lực mạnh bắn thẳng vào đội hình địch, bộ đội ta ào ạt xung phong xuống mặt đường tiêu diệt địch. Kết quả trận đánh: Diệt tại chỗ 60 tên (trong đó có hai tên trung úy), phá hủy, đốt 17 xe cơ giới, thu 2 triệu đồng tiền Đông Dương và nhiều vũ khí quân trang, quân dụng. Từ trận đánh vang dội này, Đèo Giàng đã trở thành địa danh lịch sử gắn liền với những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong chiến dịch phản công Việt Bắc - Thu Đông năm 1947. Di tích lịch sử Đèo Giàng trở thành niềm tự hào của quân đội nhân dân Việt Nam và quân dân Bắc Kạn. Ngày 12/7/2001, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận và xếp hạng di tích lịch sử Chiến thắng Đèo Giàng xã Lãng Ngâm, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, đoạn đường tại khu di tích Đèo Giàng đã thay đổi nhiều, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã xây dựng một nhà bia kỉ niệm chiến thắng Đèo Giàng. Nhà bia được xây sát vách núi trên một khu đất rộng, có cửa sắt, tường rào bảo vệ. Nhà bia được xây dựng bằng bê tông cốt thép, mái làm theo kiểu cổ (Bốn mái đao, dán ngói mũi hài) trên bốn cột bê tông sơn màu giả gỗ, để trống bốn mặt. Bên trong có đặt bia kỉ niệm ghi lại chiến thắng Đèo Giàng năm 1947. Bia được làm bằng đá, mặt bia hướng ra đường quốc lộ 3. Nền nhà bia được xây bằng gạch, vữa xi măng, lát đá và trồng hoa trang trí. Đường lên nhà bia được xây bậc thang bằng gạch trát xi măng. Đối diện với nhà bia là công trình phù điêu lớn ghi dấu chiến công của quân và dân đã có công trong trận đánh tại Đèo Giàng, có khắc hình Ban Chỉ huy, quân và dân chuẩn bị cho trận chiến cùng với toàn cảnh trận chiến đấu ác liệt diễn ra tại Đèo Giàng. Bia dẫn tích và các hạng mục công trình phụ trợ kèm theo, kè xung quanh nền, trồng cây xanh tạo cảnh quan công trình. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1099 lượt xem
Nà Tu là một di tích lịch sử cách mạng thuộc xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông (Bắc Kạn) nằm dọc bên Quốc lộ 3, cách thị xã Bắc Kạn 10 km về phía Bắc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp đây là nơi Tổng đội thanh niên xung phong đóng quân, thực hiện nhiệm vụ đảm bảo giao thông vận tải phục vụ kháng chiến. Trong chiến tranh giặc Pháp luôn tăng cường máy bay bắn phá các tuyến giao thông, trong đó trọng điểm nhất là đoạn Quốc lộ 3 đi qua Bắc Kạn. Do vậy lúc này việc đảm bảo giao thông vận tải đã trở thành nhiệm vụ trọng yếu của quân và dân Bắc Kạn. Ngay từ năm 1950, Trung ương Đảng đã chủ chương cho sửa chữa, khôi phục lại quốc lộ 3 đoạn từ Thái Nguyên đi Cao Bằng nhằm phục vụ cho kháng chiến. Cũng tại thời điểm này Chính phủ đã phát động chiến dịch 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên đồng thời tăng cường cho Bắc Kạn nhiều liên phân đội thanh niên xung phong. Tổng đội thanh niên xung phong đã chọn Nà Tu để đóng quân. Mặc dù còn thiếu thốn nhiều thứ, lại phải lao động nặng nhọc mà thời gian máy bay địch bắn phá thì nhiều, thanh niên xung phong phải làm việc ngày đêm rất nguy hiểm nhưng họ đã cùng quân và dân Bắc Kạn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thật vinh dự thay trong lúc khó khăn vất vả, ác liệt đó ngày 28/3/1951 trong một chuyến đi công tác Bác Hồ đã đến Nà Tu để thăm hỏi sức khoẻ, động viên thanh niên và nhân dân ở đây. Bác nhắc nhở Ban chỉ huy công trường, cán bộ phải tổ chức lao động thật khoa học, đoàn kết yêu thương lẫn nhau. Trước khi ra về Bác đã đọc tặng lực lượng thanh niên xung phong 4 câu thơ: Không có việc gì khó, Chỉ sợ lòng không bền, Đào núi và lấp biển, Quyết chí ắt làm nên. Như vậy tại địa danh Nà Tu đã là nơi ra đời 4 câu thơ bất hủ của Bác, và Nà Tu ngày nay đã trở thành khu di tích lịch sử. Từ đó cùng với nhịp độ phát triển của cách mạng, lời dạy của Bác trong 4 câu thơ trở thành nguồn động viên cho các thế hệ trẻ, củng cố lòng quyết tâm đạp bằng mọi trở lực làm nên chiến thắng. Cho đến hôm nay khi đã được sống trong hoà bình tự do nhân dân thôn Nà Tu - Cẩm Giàng vẫn không thể nào quên những lời dạy sâu sắc của Bác và coi đây là kim chỉ nam cho mọi hành động. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1187 lượt xem
Khu di tích An toàn khu (ATK) Chợ Đồn, thuộc địa bàn 3 xã: Bình Trung, Nghĩa Tá, Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. ATK Chợ Đồn thuộc quần thể di tích Chiến khu Việt Bắc (bao gồm ATK Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và ATK Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang), là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). Di tích ATK Chợ Đồn là căn cứ địa chiến lược, chứng kiến và ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954); gắn với sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh… Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ đã hoạch định đường lối kháng chiến, đưa ra những quyết sách mang tầm chiến lược, quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai đoạn lịch sử đấu tranh gian khổ, lãnh đạo toàn dân, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nằm trên địa bàn 3 xã phía Nam huyện Chợ Đồn, nơi có địa hình rừng núi hiểm trở, độ cao trung bình là 600m, hệ thống sông, suối, khe, ngòi khá dày đặc, lớn nhất là sông Phó Đáy, Khu ATK Chợ Đồn, bao gồm 25 di tích, trong đó có: 6 di tích đã được xếp hạng quốc gia, 3 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, 16 di tích đưa vào danh mục kiểm kê. 1. Di tích Đồi Pù Cọ (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi hai đoàn quân Nam tiến và Bắc tiến gặp nhau tháng 10/1943) 2. Di tích Lán đồng chí Võ Nguyên Giáp (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và hoạt động cách mạng của đồng chí Võ Nguyên Giáp, sau khi con đường Nam tiến được khai thông năm 1943). 3. Di tích Khuổi Khít (thôn Nà Cà, xã Nghĩa Tá - nơi tổ chức triển lãm biểu dương lực lượng Đồng Minh thời kỳ trước năm 1945). 4. Di tích Nhà ông Triệu Phú Dương (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi các đồng chí lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh hội họp trong suốt thời kỳ tiền khởi nghĩa 1945). 5. Di tích Nà Pay (thôn Nà Kiến, xã Nghĩa Tá - Nơi Bác Hồ dừng chân nghỉ trên đường từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 17, 18, và 19/5/1945. 6. Di tích L-sao L-sô đỗ (Khe Nứa) (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi lực lượng Việt Minh đặt cơ sở sửa chữa và tự chế vũ khí thô sơ phục vụ trực tiếp cho hai đoàn quân Bắc tiến, Nam tiến, năm 1943 – 1945). 7. Di tích Bản Ca (thôn Bản Ca, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ tháng 12/1947) 8. Di tích Nà Kiến (thôn Nà Kiến, xã Nghĩa Tá - Nơi tổ chức Lễ Bế giảng Khóa 2, Khóa 3 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào ngày 28/10/1947. 9. Di tích Khuổi Đăm (thôn Nà Khằn, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của Báo Sự thật từ năm 1948 đến năm 1953), nằm ở một thung lũng nhỏ, nơi giao nhau giữa 2 con suối nhỏ, xung quanh là đồi núi cao, cây cối rậm rạp, thuộc phạm vi khoanh vùng bảo vệ khu vực II, chia thành 3 khu vực: 10. Di tích Đồi Bản Tảng (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Hoàng Văn Thái từ năm 1947 - 1954). 11. Di tích Nền lán Chuyên gia (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của chuyên gia từ năm 1947 - 1954) 12. Di tích Nà Đon (thôn Đon Liên, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Hậu cần Bộ Quốc phòng từ năm 1948 - 1951). 13. Di tích Khuổi Đó (thôn Nà Tông, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của cơ quan cơ khí Thăng Long từ năm 1948 - 1950) 14. Di tích Khuổi Tói (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ năm 1948). 15. Di tích Khuổi Dân (thôn 8 Vằng Quân, xã Bình Trung - Nơi Nhà máy giấy Minh Khai đặt cơ sở sản xuất giấy từ năm 1948 - 1952), chia làm 2 khu: 16. Di tích Nhà ông Ma Văn Chương (thôn Nà Phầy, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ năm 1948 – 1952) 17. Di tích Nà Chang (thôn Nà Chang, xã Nghĩa Tá - Nơi đặt khu Giao tế (Nhà khách Chính phủ) từ năm 1948 – 1953) 18. Di tích Nà Săm (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Võ Nguyên Giáp năm 1948- 1953) 19. Di tích Khuổi Chang (thôn Bản Pèo, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ từ ngày 12 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6 năm 1949. 20. Di tích Khuổi Áng (thôn Khuổi Áng, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Báo Cứu Quốc năm 1949). 21. Di tích Khuổi Linh (thôn Nà Đeng, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của đồng chí Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng từ năm 1950 – 1951) 22. Di tích Đồi Khau Mạ (thôn Bản Vèn, xã Lương Bằng - Nơi ở và làm việc của đồng chí Phạm Văn Đồng và Văn phòng Chính phủ năm 1950 - 1951). 23. Di tích Nà Quân (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi đặt Hội trường Trung ương Đảng từ năm 1948 – 1952). 24. Di tích Nhà ông Trần Văn Lý (thôn Nà Phầy, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Bộ Quốc phòng từ năm 1950 – 1953). 25. Di tích Nà Pậu (thôn Bản Thít, xã Lương Bằng - Nơi Bác Hồ ở và làm việc từ năm 1950 – 1951), nằm trên một khu đất rộng: Ngày nay, khu di tích ATK Chợ Đồn trở thành địa chỉ đỏ khơi dậy niềm tự hào dân tộc; tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng của các thế hệ cha anh đi trước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Chợ Đồn (huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bắc Kạn 1199 lượt xem
Đây là địa điểm nơi Bác Hồ dừng chân trên đường từ Pác Bó về Tân Trào tháng 5 năm 1945 tại thôn Hoàng Phài xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Mới đây, di tích lịch sử Hoàng Phài đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đây là một địa chỉ đỏ đánh dấu chặng đường lịch sử cách mạng của ông cha ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 1945 chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Trong nước, Nhật đảo chính Pháp. Nhận thấy đây là cơ hội ngàn năm có một, tình thế lúc này đòi hỏi ta phải hành động kiên quyết, linh hoạt, mau lẹ, kịp thời. Bác Hồ quyết định nhanh chóng chuyển địa điểm từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Tân Trào (Tuyên Quang) để thuận lợi cho việc lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trong thời gian này tại xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn phong trào cách mạng của các tổ chức quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Việt Minh phát triển mạnh. Chiều ngày 9/5/1945, Bác Hồ và đoàn đến thôn Hoàng Phài. Thời gian lưu lại tại thôn Hoàng Phài của Bác Hồ và đoàn cán bộ đã để lại những tình cảm tốt đẹp, mãi mãi khắc sâu trong ký ức của nhân dân các dân tộc địa phương. Tại đây, Bác đã đến lớp bình dân học vụ thăm hỏi tình hình học tập của các học viên. Trước lúc ra về, Bác đã dặn nam nữ thanh niên cố gắng rèn luyện, chăm chỉ học hành để sau này trở thành chủ nhân của nước Việt Nam độc lập. Sáng 10/05/1945, Bác cùng đoàn cán bộ tiếp tục cuộc hành trình về Tân Trào (Tuyên Quang), tại khu vực Hoàng Phài, Ban Việt Minh, các đoàn thể xã cùng nhân dân đã lưu luyến tiễn Bác và đoàn công tác trước khi lên đường. Để ghi dấu sự kiện quan trọng này, đồng thời xây dựng một điểm di tích xứng tầm với ý nghĩa lịch sử của nó nhằm phát huy giá trị di sản văn hóa, giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau, ngày 31/10/2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận và xếp hạng di tích lịch sử, Địa điểm Lưu niệm nơi Bác Hồ dừng chân trên đường từ Pác Bó về Tân Trào, tháng 5 năm 1945 tại thôn Hoàng Phài xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đó là niềm tự hào không chỉ của Đảng bộ và nhân dân xã Cốc Đán nói riêng mà là của tỉnh Bắc Kạn nói chung. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Ngân Sơn Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 1222 lượt xem
Chùa Sắc Tứ nằm trên vùng đồi phía tây nam làng Ái Tử thuộc địa phận thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ban đầu có tên là Am Tịnh Độ, được xây dựng từ những năm đầu thời Lê (1735 - 1739) . Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hựu thứ 5 (1739, đời vua Lê Ý Tông) chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) trong một dịp ngự giá ra Quảng Trị, cảm khái với cảnh trí chốn Phật đường và tiếng tăm của chùa trong dân chúng nên đã thân hành ngự bút viết 5 chữ "Sắc Tứ Tịnh Quang Tự" rồi cho làm bảng sơn son thếp vàng để tặng cho chùa. Từ đó Am Tịnh Độ đổi thành chùa Tịnh Quang và dân chúng cũng từ đó quen gọi chùa bằng cái tên là chùa Sắc Tứ (chùa được nhà nước sắc phong), còn nhà Phật thì quen dùng tổ hợp: Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Chùa có cấu trúc gồm một ngôi nhà rường truyền thống có mái chồng diêm, nguyên liệu chủ yếu được sử dụng là xi măng, cốt thép với tổng diện tích là 837m2. Bộ mái trang trí công phu bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép mảnh sành sứ. Bờ nóc của chùa thẳng, trang trí hoa văn hình rồng. Trong khuôn viên chùa có đài Quan Thế Âm Bồ Tát (xây dựng năm 1976) cùng một số tháp là phần mộ của các vị sư trụ trì đã quá cố. Cổng tam quan xây hai tầng mái, tầng trên tôn trí tượng Hộ Pháp hướng mặt vào chùa. Sau tam quan có chiếc cầu bắc qua hồ sen để đi vào sân trước chùa và chánh điện. Ngôi chánh điện có chiều sâu 31m, rộng 27m, cao gần 15m, kiến trúc mái chồng diêm, phần nóc trang trí tứ linh; mặt trước, giữa hai mái có 5 bức phù điêu về cuộc đời đức Phật: Đản sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp và nhập niết bàn. Chính điện chùa Sắc Tứ ở gian giữa, lớp trên thờ bộ tượng Tam Thế, kế tiếp là Thích Ca tọa thiền cùng tả, hữu là A Nan Đà và Ca Diếp đang đứng. Ngoài cùng là Di Lặc, Thích Ca sơ sinh. Gian bên tả thờ tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Phía trước có tượng Phổ Hiền Bồ Tát đang ngồi trên mình lân. Gian hữu thờ tượng địa tạng Bồ Tát, phía trước là tượng Văn Thù Bồ Tát đang cưỡi long mã. Hậu điện thờ tượng Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Chí Khả- người dựng nên chùa Sắc Tứ cùng hai vị hòa thượng là Tuyết Phong và Bửu Ngạn- những người thuộc thế hệ đầu tiên trụ trì ở chùa. Chùa có pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng nặng 2700 kg, đúc năm 1997 và chiếc trống lớn bằng da trâu, đường kính mặt trống là 165 cm. Trong khuôn viên chùa có đài Bồ tát Quan Thế Âm. Chùa Sắc tứ Tịnh Quang là ngôi tổ đình danh tiếng của Phật giáo xứ Đàng Trong, là nơi từng bồi dưỡng và đào tạo nhiều danh tăng thạc đức. Lễ hội giỗ Tổ chùa hằng năm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch, tổ chức rất quy mô với sự tham dự của hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử ở Quảng Trị, các tỉnh lân cận và khách hành hương khắp nơi. Ngày 15/11/1991 chùa được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Nguồn: Báo Quảng Trị
Quảng Trị 1274 lượt xem
Khu di tích lịch sử Chiến Thắng Đông Khê (Chiến dịch Biên giới 1950) nằm tại Nà Lạn, xã Đức Long, huyện Thạch An, cách thành phố Cao Bằng. Đây là một khu di tích gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với chiến thắng Chiến dịch Biên giới năm 1950, do Bộ Tư lệnh Quân khu, Quân khu 1, Quân khu II và tỉnh Cao Bằng phối hợp xây dựng. Khu di tích được đưa vào sử dụng ngày 19/05/2004, thể hiện đạo lý cao cả "Uống nước nhớ nguồn " đối với vị lãnh tụ thiên tài, vị cha già kính yêu của dân tộc và ghi lại dấu ấn oanh liệt, hào hùng của một chiến thắng mang ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Khu di tích gồm 2 phần: Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông. Nhà tưởng niệm được thiết kế theo kiểu kiến trúc sàn hiện đại, trưng bày những hình ảnh, hiện vật liên quan đến hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi quan sát trận đánh trên núi Báo Đông. Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông làm bằng vật liệu compozit giả đồng, cao 2,8m, nặng 418 kg, cột bê tông cốt thép, toàn bộ bức tượng đặt trên bệ đá ốp gạch lát hoa. Để đến Đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông đi qua 846 bậc đá, được chia thành 79 cung bậc, tượng trưng cho 79 mùa xuân của Bác. Những bậc đá hôm nay chính là con đường năm xưa, ngày 13/9/1950, Bác rời Sở Chỉ huy Chiến dịch đến Sở Chỉ huy tiền phương ở Nà Lạn, lên núi Báo Đông quan sát trận đánh Đông Khê. Sáng sớm 16/9/1950, từ vị trí quan sát đặt trên núi Báo Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm chú quan sát, theo dõi chặt chẽ diễn biến trận Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới năm 1950, tạo tiền đề cho cuộc kháng chiến thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngày 16/9/1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu Chiến dịch bằng trận đánh vào cứ điểm Đông Khê. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng rút về; đồng thời, cho quân đánh lên Thái Nguyên để thu hút chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên đường số 4 khiến cho 2 cánh quân này không gặp được nhau. Đến lượt Thất Khê bị uy hiếp, ngày 8/10/1950, quân Pháp phải rút về Na Sầm; ngày 13/10/1950, Pháp rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh, quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, ngày 22/10/1950, đường số 4 được giải phóng. Ngày 3/10/1950, tỉnh Cao Bằng được giải phóng, ghi dấu mốc quan trọng trong lịch sử, trở thành ngày kỷ niệm lớn của Cao Bằng hằng năm. Chiến dịch Biên giới kết thúc, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.300 tên địch, giải phóng toàn tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, với diện tích rộng 4.500 km2 ; chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và Pháp, tạo bước chuyển biến mới về chiến lược tiến công, phản công, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến tới đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng 1267 lượt xem
Di tích lịch sử Pác Bó nằm trên địa bàn xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đây là địa điểm từng gắn với hoạt động của Bác trong giai đoạn đầu trở về Tổ quốc lãnh đạo Cách mạng (1941 - 1945). Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc cùng 5 đồng chí đã về nước và ở tại nhà ông Lý Quốc Súng, sau đó chuyển vào hang Cốc Bó, hang Lũng Lạn và lán Khuổi Nặm. Tại đây, từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, đã diễn ra Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Và, cũng tại lán Khuổi Nặm II, Bác đã thành lập Báo Việt Nam độc lập, kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh kẻ thù chung là thực dân Pháp, phát xít Nhật và Việt gian, giành độc lập, tự do. Theo “Quy hoạch tổng thể di tích” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, di tích Pác Bó bao gồm: 1. Cụm di tích khu vực đầu nguồn - Hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là “đầu nguồn”) rộng khoảng 80m2, cửa hang chỉ một người đi vừa. Đây là nơi Bác và các đồng chí cán bộ cách mạng ở từ ngày 08/02/1941 đến trung tuần tháng 3 năm 1941. - Nền nhà ông Lý Quốc Súng: là ngôi nhà Bác Hồ đã ở khi mới trở về Tổ quốc chỉ đạo cách mạng (từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 07/02/1941). - Hang Lũng Lạn: là nơi Bác ở và làm việc trong khoảng cuối tháng 3 năm 1941. - Hang Ngườm Vài: tại đây, năm 1941, Bác trực tiếp hướng dẫn và kết nạp Đảng cho đồng chí Nông Thị Trưng. - Suối Lê Nin: thời gian ở Pác Bó, Bác thường ngồi câu cá ở suối này. - Nền nhà ông La Thanh: là cơ sở cách mạng quan trọng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đây là nơi đón tiếp các đại biểu toàn quốc về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. - Cột mốc 108: nay là cột mốc số 675, là một trong 314 cột mốc biên giới Việt - Trung. - Khu ruộng Goọc Mu: Năm 1940, nhân dân thôn Pác Bó đã từng vào đây cắt máu ăn thề, nguyện suốt đời đi theo cách mạng. 2. Các điểm lưu niệm tại khu trung tâm - Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và sân quảng trường: được xây dựng theo mô hình nhà sàn dân tộc, nằm trên dãy Linh Sơn, thuộc khu di tích Pác Bó. - Khu ruộng Nà Chang: Là nơi mít tinh đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với nhân dân Pác Bó ngày 20/2/1961. - Các công trình: nhà trưng bày, nhà đón tiếp. 3. Cụm di tích Bó Bẩm - Nhà ông Dương Văn Đình: là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nói chuyện, tuyên truyền về cách mạng. - Núi Các Mác, suối Lê Nin, hang Đầu Hổ: là nơi nhân dân Cao Bằng đã tổ chức lễ truy điệu Bác (tháng 9 năm 1969). 4. Cụm di tích Khuổi Nặm - Lán Khuổi Nặm: là nơi Bác ở lâu nhất. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn cho Bác, các đồng chí cán bộ đã làm thêm cho Người hai lán nữa (lán Khuổi Nặm II và III). - Hang Slí Điếng và hang Diêm Tiêu: là địa điểm được Bác sử dụng làm hòm thư bí mật, giai đoạn 1941 - 1945. Ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Pác Bó là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Cao Bằng 1138 lượt xem
Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo nằm dưới chân núi Slam Cao thuộc địa bàn 2 xã Tam Kim, Hoa Thám (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đây là nơi lưu giữ một hệ thống các di tích gắn liền với giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo là nơi ghi dấu sự thành lập và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khu di tích gồm 5 điểm quan trọng: Cụm di tích rừng Trần Hưng Đạo (gồm Địa điểm thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Lán nghỉ và bếp ăn, mỏ nước phục vụ nước sinh hoạt, Đỉnh Slam Cao); Hang Thẳm Khẩu (xã Tam Kim) - từng được sử dụng làm trạm liên lạc, đưa cơm phục vụ cho các đồng chí hoạt động cách mạng; Đồn Phai Khắt (xã Tam Kim) - nơi diễn ra trận đầu ra quân của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (25/12/1944); Đồn Nà Ngần (xã Hoa Thám) - nơi ghi dấu trận đánh thứ 2 giành thắng lợi của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (26/12/1944); di tích Vạ Phá (xã Tam Kim). Với những giá trị lịch sử này, năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là di tích quốc gia đặc biệt. Nhà trưng bày tại khu di tích sau khi được hoàn thành, đưa vào sử dụng đã góp phần tôn vinh và tri ân thế hệ đi trước, đồng thời bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích. Các hiện vật tại đây được trưng bày tập trung, đảm bảo tính khoa học và giá trị lịch sử chân thực theo 3 chủ đề: Cao Bằng - Đất nước, con người và truyền thống; Quá trình hình thành, ra đời và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; Quân đội anh hùng truyền thống vẻ vang. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo, không chỉ là một địa chỉ đỏ về truyền thống lịch sử vẻ vang với nhiều điểm di tích mà còn là một khu rừng nguyên sinh. Với diện tích rộng trên 201,7 ha, rừng Trần Hưng Đạo mang một vẻ đẹp hoang sơ với bầu không khí trong lành. Nằm sâu dưới những tán cây cổ thụ là nhà bia 34 chiến sĩ của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, lán nghỉ và bếp ăn mô phỏng lại cuộc sống đời thường giản dị của các chiến sĩ. Men theo con dốc nhỏ chừng 50m là mỏ nước tự nhiên, cũng là điểm lấy nước sinh hoạt của các chiến sĩ, trải qua nhiều năm vẫn cho ra những dòng nước mát lạnh và trong vắt. Cũng tại rừng Trần Hưng Đạo, cây sấu cổ thụ 300 năm tuổi từng gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã được công nhận là Cây di sản Việt Nam. Trải qua 75 năm, những dấu tích từ thuở đầu thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân luôn được đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng trân trọng và gìn giữ, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng cho các thế hệ trẻ sau này. Khu rừng nguyên sinh rộng lớn xòe từng tán cây, bao bọc những di tích thiêng liêng trong tháng ngày hoạt động cách mạng gian khó của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Cao Bằng 1309 lượt xem
Để tưởng nhớ người Đội trưởng Đội Nhi đồng cứu quốc anh dũng hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ bảo vệ cách mạng, Đảng, Nhà nước xây dựng Khu Di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng tại làng Nà Mạ, xã Trường Hà (huyện Hà Quảng) tỉnh Cao Bằng. Ngày 15/5/1941, mãi mãi sáng chói trong trang vàng lịch sử truyền thống của Đội TNTP Hồ Chí Minh. Ngày ấy ở gần hang Cốc Bó, xuôi dòng suối Lê-nin, dưới chân núi Thoong Mạ, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng, 5 thiếu niên gồm: Nông Văn Dền (bí danh Kim Đồng), Nông Văn Thàn (Cao Sơn), Lý Văn Tịnh (Thanh Minh), Lý Thị Nì (Thủy Tiên) và Lý Thị Xậu (Thanh Thủy), được anh Đức Thanh và các anh cán bộ cách mạng giác ngộ, thử thách, tập hợp để lập thành Đội Nhi đồng cứu quốc theo quyết định của Đảng; trong đó Nông Văn Dền được bầu làm Đội trưởng. Đội Nhi đồng cứu quốc có mục đích tham gia đánh Tây, đuổi Nhật, giành độc lập cho nước nhà, với nhiệm vụ giao thông liên lạc, đưa đón, bảo vệ cán bộ, canh gác các cuộc họp của Đảng... Từ sau tháng 5/1941, các đội thiếu nhi cứu quốc được thành lập ở mọi nơi để tham gia cách mạng, nhiều đội thiếu niên đã lập công xuất sắc làm sáng ngời trang sử vàng của Đội thiếu nhi, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 8/1942, Kim Đồng vinh dự được gặp Bác Hồ tại hang Nộc Én ở trên núi sau làng Nà Mạ. Bác khen ngợi Đội trưởng Kim Đồng mưu trí, nhanh nhẹn, dũng cảm. Bác khuyên Kim Đồng cùng các đội viên hãy giúp đỡ, tích cực bảo vệ cách mạng, vừa hoạt động vừa học văn hoá, chính trị để sau này nước nhà giành được độc lập, góp phần xây dựng đất nước. 5 giờ sáng ngày 15/2/1943, trong lúc đang làm nhiệm vụ canh gác cuộc họp của ban Việt Minh, khi phát hiện giặc lùng sục đến gần, Kim Đồng đã nhanh trí đánh lạc hướng để bảo vệ cán bộ cách mạng, địch nổ súng, Kim Đồng bị trúng đạn và đã hy sinh, khi đó vừa tròn 14 tuổi. Năm 1997, Kim Đồng được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Khu Di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng được xây dựng ngay trên quê hương anh tại Làng Nà Mạ, xã Trường Hà (Hà Quảng). Khu di tích gồm có Mộ anh Kim Đồng và Tượng anh khang trang tại chân rặng núi đá cao đồ sộ, bên cạnh cây nghiến xanh biếc, luôn toả bóng mát. Tượng anh Kim Đồng với bộ quần áo Nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư. Nơi đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và nhi đồng của tỉnh và cả nước thường tụ hội về đây tổ chức kết nạp đội viên mới, cắm trại, vui chơi, các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến với người đội trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, núi Các Mác và hang Pác Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng 1240 lượt xem
Đền Kỳ Sầm tọa lạc trên một quả đồi thấp, sát chân núi Khau Sầm thuộc thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang (Thành phố). Ngôi đền thờ nhân vật lịch sử, danh tướng Nùng Trí Cao (1025 - 1053), dưới triều vua Lý Thái Tông. Đền được xây dựng trên một khuôn viên rộng, kiến trúc hình chữ “nhị”, mang dáng dấp phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn, có nhà bái đường và hậu cung. Tại nhà bái đường có một ban thờ. Phía trong hậu cung có ba ban thờ, chính giữa thờ Nùng Trí Cao, bên trái thờ mẹ A Nùng, bên phải thờ ba người vợ: Vương Lan Anh, Đoàn Hồng Ngọc, Trần Thị Cẩm. Nùng Trí Cao sinh năm 1025, là con của Nùng Tồn Phúc, thủ lĩnh châu Thảng Do. Ngay từ thuở thiếu thời, Nùng Trí Cao là một cậu bé khỏe mạnh, đẹp trai, hiếu động, thông minh lạ thường, học giỏi chữ nghĩa, võ nghệ như bẩm sinh. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc chiếm hai châu Vũ Lặc và Quảng Nguyên, lập nên nước Trường Sinh, tự xưng là Chiêu thánh Hoàng đế, lập vợ A Nùng làm Minh Đức Hoàng hậu, cát cứ một phương, án ngữ một vùng biên viễn rộng lớn phía Đông Bắc nước ta. Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh dẫn đại quân đi dẹp nước Trường Sinh, Nùng Tồn Phúc và con trưởng Nùng Trí Thông bị bắt về kinh đô xử tử. A Nùng và con thứ Nùng Trí Cao chạy đến động Lôi Hỏa, thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Tại đây, hai mẹ con khẩn trương tập hợp quân sĩ, ngày đêm rèn luyện võ nghệ, xây dựng lực lượng binh đao, ngựa chiến. Năm 1041, khi đó Nùng Trí Cao 16 tuổi đã cùng mẹ A Nùng dẫn binh từ động Lôi Hỏa chiếm lại châu Thảng Do, lập nên nước Đại Lịch. Triều Lý cử đại quân lên đánh và bắt được Nùng Trí Cao dẫn về kinh đô. Sau khi xem xét, nhận định tình thế, cần trấn yên vùng biên, bảo vệ lãnh địa quốc gia, vua nhà Lý miễn tội cho Nùng Trí Cao và tiếp tục cho quản lý châu Thảng Do; đồng thời, ban cho thẩm quyền cai quản thêm một vùng rộng lớn, gồm các động: Lôi Hỏa, Bình, Bà và châu Tư Lang, sắc phong Nùng Trí Cao làm châu mục Quảng Nguyên. Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai người đến châu Quảng Nguyên ban sắc phong cho Nùng Trí Cao chức Thái Bảo, một trong ba tước quan cao cấp nhất triều đình và giao cả đô ấn. Năm 1048, Nùng Trí Cao khởi binh ở động Vật Ác, đánh chiếm châu An Đức, thuộc đất nhà Tống (Trung Quốc) làm căn cứ địa. Hai năm sau (1050), thừa thế binh hùng tướng mạnh, Nùng Trí Cao đánh chiếm động Vật Dương (thuộc đất Tống), rồi xưng vương, lập Nam Thiên Quốc, lấy niên hiệu là Cảnh Thụy. Chiến công kế tiếp chiến công, cương vực bờ cõi rộng mở nhanh chóng. Tuy vậy, Trí Cao vẫn có ý giảng hòa với nhà Tống, năm 1051 cho người đem châu báu, vàng bạc, ngà voi đến biếu cống nhưng bị triều đình Tống khước từ. Trước tình thế đó, năm 1052, Nùng Trí Cao dẫn 5.000 quân tiến đánh thành Ung Châu và Quảng Châu. Sau khi làm chủ Ung Châu, Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng đế; đổi niên hiệu là Khải Lịch, quốc hiệu là Đại Nam. Trí Cao ra lệnh phá nhà tù, đại xá tù nhân, mở các kho hậu cần, lương thực của quân Tống phân phát cho dân nghèo. Do đó, lực lượng của Trí Cao phát triển mạnh mẽ. Năm 1053, nhà Tống cử Địch Thanh - một viên tướng nổi tiếng triều đình dẫn đầu đại quân hùng hổ đi đánh quân Nùng Trí Cao. Lần này, Trí Cao bại trận phải chạy đến vùng đất Đại Lý, thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) ngày nay. Nùng Trí Cao sai Lương Châu về kinh đô cầu viện nhà Lý nhưng không thể cứu vãn nổi tình thế. Để tưởng nhớ ơn đức của Nùng Trí Cao, nhân dân nhiều nơi lập miếu thờ phụng. Nhà Lý đặc chiếu sắc phong Trí Cao là Khau Sầm Đại Vương và lập đền thờ tại thôn Bản Ngần, xã Tượng Lặc, châu Thạch Lâm (nay là thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng). Đền thờ được nhà Lý phong Thượng Đẳng thần. Đền thờ Nùng Trí Cao được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 1180 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2391 lượt xem
Đền Vua Lê nằm ở làng Đền, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cách trung tâm thành phố Cao Bằng 11km. Đền thờ Vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi Cao Hoàng Đế). Đền Vua Lê dựng trên gò Long (tức gò rồng), một gò đất cao phía Bắc thành Na Lữ. Trong thành có 4 gò đất nổi lên được đặt tương ứng với 4 tên: Long, Ly, Quy, Phượng. Theo truyền thuyết và những tư liệu lịch sử ghi lại, Đền Vua Lê vốn là cung điện trong thành Na Lữ. Thành do Cao Biền xây dựng. Đến thế kỷ XI, Nùng Tồn Phúc (cha của Nùng Trí Cao), thủ lĩnh châu Quảng Nguyên tiếp tục xây dựng. Thời Lý Thái Tông niên hiệu Thông Thụy, năm thứ 6, tức năm 1039, Nùng Tồn Phúc tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng đế, đổi tên châu Quảng Nguyên làm nước Trường Sinh; rồi cho xây thành, xây cung điện tại Na Lữ. Tháng 3/1039, Nùng Tồn Phúc bị triều đình nhà Lý tiêu diệt. Năm 1414, giặc Minh cai trị nước ta, ở Cao Bằng, chúng đặt quan Thái thú cho đóng quân ở gò Đống Lân, thành Na Lữ, bắt nhân dân đóng sưu thuế nặng, đàn áp và hà hiếp, cuộc sống của nhân dân vô cùng cực khổ. Trước tình hình đó, Bế Khắc Thiệu - một hào trưởng giàu có ở Cao Bằng đã chiêu quân đứng lên khởi nghĩa, đồng thời liên kết với Nông Đắc Thái tổ chức đánh giặc, đã giành được thắng lợi sau trận kịch chiến ở Nà Khuổi (tháng 9/1426). Bế Khắc Thiệu xưng là Bế Đại vương, phong cho Nông Đắc Thái là Nông Nguyên soái, đóng ở thành Na Lữ, cho quân tu sửa lập lại cung điện năm 1430. Năm 1592, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, Mạc Kính Cung chiếm lấy thành Na Lữ lập cung điện. Sau ba đời sinh sống ở Cao Bằng, đến thời Mạc Kính Vũ bị quân Lê - Trịnh đánh bại. Nhà Mạc bỏ cung điện và thành Na Lữ chạy sang Trung Quốc. Năm Chính Hòa thứ 3 đời Vua Lê Hy Tông, tức năm 1682, quan trấn thủ Cao Bằng là Lê Văn Hải đã tâu xin Vua Lê cho sửa chữa thành Na Lữ cũ làm đền thờ Vua Lê Thái Tổ (Đền Vua Lê hiện nay); lấy áo bào và thanh kiếm thờ ở chỗ ngai vàng. Trước Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền vua Lê là một di tích lịch sử gắn liền với những hoạt động của Đảng trong thời kỳ vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Tại đây, năm 1936, đồng chí Hoàng Đình Giong đã đứng ra thành lập “Đoàn thanh niên phản đế”. Đền xây theo kiểu hình chữ tam gồm 3 nhà, 7 gian, tường xây bằng gạch vồ, mái lợp ngói máng, cột kèo, hoành phi bằng gỗ. Xung quanh đền xây tường thành dài 600m, trước mặt đền có hai sân rộng khoảng 1.000m2. Đền là nơi tổ chức lễ hội, tập trung sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân trong vùng. Hội đền Vua Lê được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Ngoài phần lễ được tiến hành ngay từ sáng sớm dưới sự có mặt đông đảo nhân dân trong vùng, phần hội bao gồm các hoạt động văn hóa văn nghệ, trò chơi dân gian như cờ tướng, cờ người, đẩy gậy, kéo co… thu hút đông đảo người dân tham gia. Đền Vua Lê là di tích có giá trị về mặt lịch sử, giáo dục truyền thống đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân ta, đồng thời là di sản văn hóa có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật của dân tộc. Đây cũng là nơi khẳng định giá trị tinh hoa văn hóa, niềm tự hào về trang sử truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng. Ngày 20/4/1995, đền Vua Lê được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn: Cục Du Lịch Quốc Gia Việt Nam
Cao Bằng 1218 lượt xem
Khu lưu niệm đồng chí Hoàng Đình Giong được xây dựng tại xóm Nà Toàn, phường Đề Thám, Thành phố Cao Bằng. Khu lưu niệm được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1988. Khu lưu niệm nằm trên một khu đất rộng gồm các hạng mục: Khuôn viên, tượng đồng chí Hoàng Đình Giong, nhà tưởng niệm. Đồng chí Hoàng Đình Giong (tức Hoàng, Nam Bình, Văn Tư, Võ Văn Đức, Vũ Đức, Lê Minh), sinh ngày 1/6/1904, tại làng Nà Toàn, xã Xuân Phách, Châu Hòa An (nay là phường Đề Thám, Thành phố Cao Bằng). Ngay từ nhỏ, Hoàng Đình Giong là một học sinh thông minh, hăng say học tập, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng yêu nước, chống thực dân Pháp của ông nội là cụ Hoàng A Cả. Những năm 1923 – 1924, đồng chí bí mật tuyên truyền tư tưởng yêu nước trong học sinh các trường tiểu học ở Thị xã, Hòa An và Hà Quảng. Cuối năm 1925, đầu năm 1926, đồng chí học ở Trường Bách Nghệ, Hà Nội, tích cực tham gia các phong trào bãi khoá của học sinh Hà Nội, tham gia tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Sau một thời gian hoạt động ở Hà Nội, đồng chí trở về Cao Bằng, vận động một số thanh niên và học sinh ở châu Hòa An vào Hội Thanh niên yêu nước. Năm 1927, Hoàng Đình Giong sang Trung Quốc tham gia hoạt động cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tham gia tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Tháng 12/1929, đồng chí được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Chi bộ Đảng ở Long Châu (Trung Quốc) được thành lập, đồng chí Hoàng Đình Giong được bầu làm Bí thư chi bộ, được Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ đạo việc tổ chức, gây dựng và phát triển phong trào cách mạng ở Cao Bằng - Lạng Sơn và các tỉnh vùng Đông bắc. Ngày 1/4/1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng được thành lập, mở ra bước ngoặt mới cho phong trào cách mạng Cao Bằng. Đồng chí Hoàng Đình Giong đã xây dựng Cao Bằng thành cầu nối giữa Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng với phong trào cách mạng trong nước. Đảng bộ Cao Bằng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kỳ vận động cách mạng 1930 - 1935, cũng như các thời kỳ sau này. Với những thành tích xuất sắc, đồng chí Hoàng Đình Giong được cử làm trưởng đoàn đại biểu Xứ ủy Bắc kỳ đi dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Ma Cao (Trung Quốc) tháng 3/1935; đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng khóa I. Tháng Tám năm 1945, đồng chí là Trưởng ban Khởi nghĩa tỉnh, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền ở Cao Bằng. Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được Bác Hồ đặt tên là Võ Văn Đức, giao nhiệm vụ Chỉ huy đoàn quân Nam tiến vào Nam bộ chiến đấu, chống thực dân Pháp. Với những cống hiến và công lao đóng góp to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, năm 1998, Đảng và Nhà nước đã truy tặng đồng chí Hoàng Đình Giong Huân chương cao quý - Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 2009, Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng đồng chí Hoàng Đình Giong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn: Báo Cao Bằng
Cao Bằng 1249 lượt xem
Địa điểm Đài tiếng nói Việt Nam tại hang Ngườm Chiêng (1966 - 1978), thuộc thị trấn Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Hang Ngườm Chiêng với địa hình hiểm trở và địa thế vững chắc, được chọn làm nơi lập đài dự phòng của Đài Tiếng nói Việt Nam (gọi là Điện Đài A3). Trạm phát sóng điện đài A3 là nơi sơ tán của Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứ nước giai đoạn từ 1966 - 1978. Đây là một trong những “cứ điểm” quan trọng có nhiệm vụ tiếp âm, phát sóng, phát thanh đi Phần Lan và các nước Bắc Âu, góp phần đảm bảo làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam được duy trì và thông suốt, truyền đi tiếng nói của Đảng và Chính phủ, tiếng nói của nhân dân Việt Nam kiên cường và kiêu hãnh trên tuyến đầu chống Mỹ, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Hơn 10 năm hoạt động (từ ngày đầu phát sóng 24/4/1966 đến năm 1978), Đài A3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử, ghi dấu bao kỷ niệm của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ và hào hùng, đặc biệt là của những người làm phát thanh với bản lĩnh và nhiệt tình cách mạng cháy bỏng. Điện Đài A3 khi bắt đầu xây dựng gọi là Công trường 50, thời gian hai năm xây dựng có thời điểm đã phải huy động đến 300 dân công để mở đường, khai phá khu vực xung quanh để đảm bảo cho việc phát sóng, phát thanh được nhanh nhất có thể. Khi được chọn làm nơi lập đài dự phòng của Đài Tiếng nói Việt Nam, Ngườm Chiêng được mở rộng thêm lòng hang xuyên qua núi rất rộng và sâu. Trước cửa hang bên trái được xây một nhà thông gió bằng đá kiên cố. Phía trong hang được xây dựng 3 nhà để đặt máy phát và nhà kho. Phía cuối hang cũng là khoảng trống và cuối cùng là con đường đi lên cửa hậu được xây bằng 124 bậc thang dẫn ra ngoài hang phía sau núi và cũng là nơi đặt hệ thống máy thu. Đứng ở đây quan sát được con đường Quốc lộ 4A đi Thác Bản Giốc và khu vực xung quanh. Ngoài hang chính còn có một hang phụ với lòng hang hẹp hơn để đặt hệ thống máy nổ. Phía trước hang là dãy nhà cơ khí nằm ở bên phải, xa hơn về phía bên trái là nhà của lực lượng bảo vệ và nhà ăn. Tất cả những dãy nhà này đều được xây bằng đá rất kiên cố, chắc chắn. Khoảng đất trống và bằng hơn ở phía dưới trước cửa hang là nơi đặt hệ thống Ăng ten thu phát. Trải qua thời gian dài cùng với tác động của tự nhiên và con người, hiện nay những gian nhà được xây dựng ở trong hang Ngườm Chiêng để đặt máy phát sóng, phát thanh đã bị phá hủy chỉ còn lại nền nhà lát gạch hoa và hệ thống móng nhà, phía cuối hang vẫn còn nguyên 124 bậc thang dẫn ra cửa hậu là nơi đặt máy thu. Hang nhỏ bên phải để đặt hệ thống máy nổ hiện nay vẫn còn lại bệ xi măng đá và cốt thép. Trước cửa hang những dãy nhà cơ khí, nhà của lực lượng bảo vệ, nhà ăn và bể nước vẫn còn nguyên, hiện nay chỉ hỏng phần mái. Tất cả các dãy nhà đều được xây bằng xi măng, đá kiên cố và chắc chắn. Khu vực đất để đặt các cột Ăng ten hiện nay là ruộng lúa cùa bà con xóm Bó Đa, thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh. Di tích hang Ngườm Chiêng có diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ 1 là 6.616,7m2 và khu vực khoanh vùng bảo vệ 2 là 42.016,6m2. Với giá trị tiêu biểu trên, Địa điểm Đài tiếng nói Việt Nam tại hang Ngườm Chiêng (1966 - 1978), đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 29/6/2021. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Cao Bằng 1202 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3881 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3144 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2904 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2602 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2467 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2391 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2294 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2222 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2217 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2183 lượt xem