Di tích lịch sử

Việt nam

Đình Triệu Đà

Đình thờ Triệu Đà (thời Triệu Vũ Đế), thôn 10, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang. Đình được xây dựng từ lâu, trùng tu thời Nguyễn niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871). Hiện nay còn lưu giữ hiện vật như: Kiệu, bia đá, ngai, tượng thờ. Lễ hội hằng năm từ ngày 14 đến 16 tháng 2 âm lịch. Đình Triệu Đà xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên có tên là “Nam Việt Linh từ”, đến thời Lý Anh Tông mới đổi tên là đình Long Hưng. Đình Triệu Đà mang đậm nét kiến trúc của thế kỷ 17 – 18. Khuôn viên đình rộng rãi, thoáng đãng với diện tích vào khoảng 13000m. Đình được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, các hạng mục công trình nằm trên một trục đường thẳng trải dài từ cổng đình vào đến hậu cung. Các hạng mục chính của di tích gồm có: cổng ngoài, Nghi Môn, đại bái, hậu cung hạ, hậu cung thượng và hai dãy giải vũ. Mặt tiền đình quay hướng Nam, đó là hướng của trí tuệ, của sự sống. Nghi môn ở đình Triệu Đà khác hẳn so với Nghi môn của rất nhiều tích khác. Nghi môn được làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, các đao đắp đầu rồng và đầu con sô ngẩng cao, mái lợp ngói mũi, đường bờ lóc lưỡng long chầu phật. Phần cổ diêm đắp ba chữ Hán: “Long Hưng Điện” (Điện Long Hưng). Kết cấu kiến trúc Nghi môn kiểu chồng rường đấu sen, bào trơn đóng bén, hai gian bên cạnh đặt hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng nghiêm trang của người đứng gác. Hai bên Nghi môn còn có hai cổng phụ làm theo kiểu hai tầng tám mái, phía bên trong cổng phụ là con đường nhỏ đi vào khu nội tự. Đình Triệu Đà xây một cổng chính và hai cổng phụ như ngày nay có thể nơi đây xưa kia Vua quan trong triều thường về đây tế lễ, cầu đảo điều linh ứng. Qua sân là đến khu nội tự, công trình đầu tiên là tòa đại bái với 3 gian 2 dĩ được xây theo kiểu chông diêm 2 tầng 8 mái. Các đao mái hình đầu rồng ngẩng cao. Đầu bờ nóc đắp hai con sô chầu mặt nhật ở giữa nóc. Đại bái được làm kiểu thông phong, hai đầu hồi bít đốc, mặt dưới và sau để trống tạo lên sự thông thoáng cho di tích. Các bộ vì đại bái được kết cấu kiểu chồng rường đấu sen, các con rường, đầu 7 đều được chạm hoa lá cách điệu. Gian giữa đại bái đặt nhan áng thờ công đồng, nhang án làm bằng gỗ và được chạm khắc tứ linh, tứ quý. Trên nhang án để các đồ thờ cúng như: bát hương, bộ đỉnh đồng, đôi lục bình…Hậu cung đình Triệu Đà bao gồm ba gian hai dĩ, mái lợp ngói mũi. Ở gian giữa phía hè hiên được dựng nhô về phía trước tạo thành một gian. Gian này được làm kiểu tứ trụ với hai tầng tám mái. Nơi đay đặt cỗ điệu bát cống. Hai bên hồi hiên đắp hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), Tượng tạo tác tư thế đứng thẳng vẻ mặt nghiêm trang. Ngăn cách giữa hè hiên và bên trong là hệ thống của bức bàn, mỗi cách cửa được trạm khắc một chủ đề như: phượng cưỡi mây, long mã cuốn may….rất tinh sảo theo phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Kết cấu các bộ vì hạ cung kiểu giá chiêng đơn giản được bào trơn đóng bén. Nâng đỡ mái là hệ thống hai hàng cột cái và hai hàng cột quân. Tại trung tâm gian giữa đặt bàn thờ, bên trên để ngai bài vị Thành Hoàng Làng Triệu Vũ Đế. Ngai, bài vị cao 2,1m; dài 0,73m; sâu 0,7m. Đế ngai được làm kiểu chân quỳ dạ cá, mặt hổ phù. Bài vị; phần chán hình quả cầu lửa, bên trong trạm 6 con rồng nằm cuộn tròn; phần thân trang chí tứ linh đường riềm làm thành hình đao lửa; trên thân bài vị khắc bài văn bằng chữ Hán ca ngợi công đức của thần. Ngoài ra trên bàn còn bài trí một số đồ thờ tự như: chóe, đôi chân nến, …đặc biệt là một bát hương cổ mầu me ngọc có đường kính 0,3m; cao 0,32m được trang trí hoa văn sơn thủy hai bên bàn thờ đặt hai pho tượng Thái Giám cao 1,76m; ngang vai 0,5m. Tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng. Hai bên dĩ hạ cung đặt bàn thờ; gian bên trái thờ con, cháu của Triệu Đà; Gian bên phải thờ hoàng hậu và hai công chúa, Trưởng Trang và thứ công chúa. Tiếp nối với tòa hạ cung là ba gian thượng cung với kết cấu kiến trúc kiến trúc các vì kiểu vì kèo trụ chốn, bào trơn đóng bén. Các mảng trạm khắc ở tòa này tập trung chủ yếu ở mặt trước cửa ra vào với các đề tài: hoa lá cách điệu, lưỡng long chầu nguyệt, đao lửa, phượng ngậm hoa sen…, được bàn tai nghệ nhân trạm trổ rất tài tình và đầy chất sáng tạo. Ngoài ra, ở hai bên khu nội tự còn có hai dãy giải vũ, mỗi dãy có 10 gian, kết cấu kiến trúc đơn giản, được sử dụng làm nơi tiếp khách và hội họp. Đình được xếp hạng "Kiến trúc nghệ thuật" theo Quyết định số 49/2007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao, ngày 3/8/2007. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang , tỉnh Hưng Yên

Hưng Yên lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Chưa mở cửa

Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương

Đồng chí Lê Văn Lương - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế hệ đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, với 83 năm tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ghi nhận những công lao, cống hiến to lớn đó, đồng chí Lê Văn Lương đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương được xây dựng năm 2003 thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Đây là công trình được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên cùng con cháu dòng họ Nguyễn xây dựng nhằm ghi nhớ tới những công lao, cống hiến to lớn của đồng chí với cách mạng Việt Nam. Đây cũng là nơi trưng bày các tư liệu, hình ảnh cũng như tôn thờ đồng chí Lê Văn Lương - Nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, của cách mạng, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Nhà tưởng niệm có kết cấu kiểu chữ Đinh (丁), gồm hai tòa Tiền tế, Hậu cung và các hạng mục khác như: cổng, nhà tiếp khách, nhà thờ họ Nguyễn, lầu bia... Các hạng mục kiến trúc được làm theo phong cách cổ truyền còn tương đối đồng bộ vững chắc. Tiền tế là nơi trưng bày và giới thiệu gần 100 tài liệu, hình ảnh, hiện vật tiêu biểu về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng cùng những đóng góp to lớn của đồng chí Lê Văn Lương với quê hương, đất nước. Nối với Tiền tế là một gian Hậu cung kiến trúc đơn giản kiểu kèo cầu quá giang không trang trí hoa văn. Hậu cung là nơi linh thiêng, trang trọng nhất đặt ban thờ đồng chí Lê văn Lương, trên ban thờ đặt pho tượng chân dung đồng chí Lê Văn Lương được đúc bằng do Thủ tướng Phan Văn Khải tặng nhân dịp khánh thành nhà tưởng niệm năm 2003 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng chí. Cùng trong khuôn viên Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương là Nhà thờ dòng họ Nguyễn được đồng chí Nguyễn Thị Bích Thuận (vợ đồng chí Lê Văn Lương) xây dựng năm 2005. Nhà thờ đơn sơ nhưng trang trọng, trên ban thờ đặt ngai và bài vị đề “Nguyễn gia Liệt Tổ”. Bên cạnh nhà thờ dòng họ Nguyễn là lầu bia được dựng kiểu tứ trụ với bốn mái cong xoắn chôn ốc. Bên trong đặt tấm bia đá khắc ghi những lời ca ngợi công đức và tấm lòng son sắt vì Đảng vì dân của đồng chí Lê Văn Lương và phu nhân Nguyễn Thị Bích Thuận. Hàng năm, ngày giỗ đồng chí Lê Văn Lương được chính quyền địa phương cùng con cháu dòng họ tổ chức vào ngày 26/3 âm lịch (ngày mất của đồng chí). Đây cũng là dịp mọi người cùng quây quần gặp mặt để tưởng nhớ tới công ơn của các bậc tiền bối đã hy sinh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của con cháu hôm nay và mai sau. Để tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Văn Lương đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời khẳng định giá trị văn hóa, lịch sử của Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 673/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 24/3/2022 công nhận xếp hạng Địa điểm lưu niệm đồng chí Lê Văn Lương là “Di tích lịch sử” cấp Quốc gia./. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Làng Đa Ngưu

Đình Đa Ngưu ở làng Đa Ngưu, xã Tân Tiến, huyện Văn Giang (Hưng Yên) cho biết, căn cứ vào dấu tích lăng Bà Chúa cũng như sắc phong của các triều đại (trong đó có sắc phong của Vua Quang Trung năm xưa để lại, đình Đa Ngưu được xây dựng từ rất sớm. Năm 1520, hai anh em ông Cống Cả, Cống Hai đã đứng lên tổ chức xây dựng đình. Khi khởi dựng, các bô lão trong làng đã mua 101 cây lim và sử dụng 100 cây lim làm cột, 1 cây chẻ ra làm cán đục và không sử dụng bất cứ một đinh sắt nào. Hiếm có một ngôi đình, đền nào tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc hiên với hàng cột bao quanh như đình Đa Ngưu. Theo truyền ngôn của người xưa: “Đa Ngưu như ngưu ngọa, thất thập nhị tinh phong” (nghĩa là: “Làng Đa Ngưu có dáng trâu nằm, có 72 ông thần đất”), chính nơi giữa làng có địa thế cao đẹp, thoáng mát đó đã xây dựng nên ngôi đình có 100 cột. Ngôi đình gồm 3 tòa là: Tiền đình, trung đình và hậu cung. Mặt trước đình nhìn ra hướng Tây Bắc. Gian trung tâm có nhiều bức đại tự lớn chạm trổ hoa lá long quần. Tòa hai có các hàng cửa võng chạm rồng phượng lộng lẫy cùng bức đại tự “Thánh cung vạn tuế”. Các bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, khảm trai được treo ở các cột và trước ban thờ ca ngợi công đức của ba vị thần thờ ở hậu cung là: Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân công chúa. Trước và sau đình có hai giếng Ngọc trồng sen. Những ngày hè hương sen tỏa thơm ngát. Vào ngày hội làng hằng năm (từ ngày 10 đến ngày 12/2 âm lịch), các vị bô lão thường làm lễ tắm rửa cho các ngai trong điện thờ ở hai giếng Ngọc. Phía đông đình là nhà tiên lão-nơi thờ cúng những người có công với nước, phía tây là Khánh Vân Tự. Nghi môn của đình Đa Ngưu được xây dựng theo lối truyền thống của đình, đền vùng đồng bằng Bắc Bộ, gồm 4 trụ biểu tạo thành tam quan. Trụ biểu xây bằng gạch. Hai trụ biểu tại giữa cao, to; hai trụ biểu hai bên nhỏ, thấp. Cả 4 trụ biểu có đỉnh trụ trang trí tứ phượng, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, giữa là ô trang trí câu đối, đế thắt dạng cổ bồng. Giữa hai trụ biểu cao là cổng chính vào đình. Hai bên cổng chính là hai cổng phụ, phía trên có mái che, dạng 4 mái. Xung quanh đình có tường bao. Sân đình rộng 20m, dài 32m, lát gạch Bát Tràng. Giữa sân có một con đường tạo bởi gạch lát cao hơn so với nền sân xung quanh. Bên trái sân có một tòa Tả vu, là nơi đặt các đồ tế lễ. Đại đình gồm 2 tòa Tiền điện, Chính điện đặt song song với nhau. Tiền điện dài 20m, rộng 7,7m, gồm 5 gian, 4 mái, có hành lang rộng 1,4m bao quanh 3 phía. Tiền điện có cấu trúc của một ngôi đình. Gian chính giữa có sàn thấp gọi là gian lòng thuyền, là nơi tế lễ. 4 gian hai bên đều có sàn cao, là nơi hội họp. Tiền điện có 40 cột, cột cái cao 4,2m, đường kính rộng 0,45m, cột quân cao 3,1m, đường kính rộng 0,35m. Chính hệ thống cột bố trí dọc theo hành lang làm cho đình có số cột nhiều hơn so với các ngôi đình truyền thống khác. Phía trước và hai đầu hồi tòa tiền điện đều có cửa bức bàn cao 2,25m, trên lắp chấn song. Đình Đa Ngưu còn là chứng nhân của những sự kiện lịch sử. Phó Đức Chính (1907 -1930) – một trong những lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng đã đem tổ chức của mình về đây gây dựng cơ sở chuẩn bị chống Pháp. Năm 1929 – 1930, đình Đa Ngưu là nơi diễn ra các cuộc họp để nghe cán bộ Việt Minh tuyên truyền về Cách mạng Tháng Mười Nga… Với những giá trị to lớn về lịch sử văn hóa và kiến trúc, đình Đa Ngưu đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia từ năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 14 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đồn Hố Chuối

Xây dựng tinh thần chiến đấu quả cảm, gan dạ, không sợ hy sinh, quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương, đất nước. Đây là nhân tố cốt lõi, quan trọng nhất, quyết định đến thắng lợi trong trận Hố Chuối của Nghĩa quân. Đặc biệt, trong bối cảnh những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Nghĩa quân với vũ khí, trang bị thô sơ phải đương đầu với Đội quân Viễn chinh Pháp – một đội quân nhà nghề được trang bị vũ khí, trang bị và phương tiện chiến tranh hiện đại, nên việc xây dựng yếu tố chính trị tinh thần, quyết tâm chiến đấu cho Nghĩa quân có ý nghĩa quyết định. Nhận thức rõ điều đó, Đề Thám và các lãnh tụ Nghĩa quân đã giáo dục, bồi đắp tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc cho Nghĩa binh. Theo đó, trên nền tảng của một cuộc chiến tranh chính nghĩa, Đề Thám đã truyền thụ về nỗi thống khổ của người dân mất nước; chỉ rõ nguyên nhân khổ đau đều do sự tàn bạo của đế quốc Pháp xâm lược. Bằng thực tiễn, Ông chỉ cho mọi người thấy rõ bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của quân giặc; rằng chính quân Pháp đã bắn giết dân lành, đốt phá nhà cửa, ruộng vườn. Muốn cứu nước, cứu nhà phải nổi dậy đánh Pháp và Nghĩa quân của Ông thề giết giặc để bảo vệ nhân dân. Chính vì vậy mà cuộc khởi nghĩa Yên Thế nói chung, trận Hố Chuối nói riêng Nghĩa binh đã thể hiện tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm mãnh liệt mà địch không ngờ tới. Đó là khi địch bắn phá ác liệt vào đồn, nhưng các Nghĩa binh không nao núng, chờ giặc đến thật gần mới nổ súng tiêu diệt, khiến địch hoảng loạn, tháo chạy. Thậm chí, đợt tiến công thứ 3 (ngày 22-12-1890) địch hối thúc các toán quân Âu Phi dùng lưỡi lê xông vào công sự của ta, các nghĩa binh vẫn bình tĩnh, làm chủ trận đánh, vùng lên diệt địch khiến chúng bất lực, tổn thất nặng nề, buộc phải rút lui. Không chỉ bồi đắp lòng yêu nước, ý chí quyết tâm một cách thường xuyên, mà khi xảy ra các tình huống nguy hiểm, Đề Thám còn chủ động, bình tĩnh động viên Nghĩa binh chiến đấu. Điển hình là trận chiến đấu ngày 09-01-1891 khi đồn Hố Chuối bị hỏa lực địch bắn cháy, Đề Thám đã bắt loa động viên: “Hỡi những người lính trong quân đội trung nghĩa, trong đội quân bất khuất, trong đội quân tất thắng. Ta rất hài lòng về các ngươi! Cố gắng mà kháng cự. Quân tiếp viện đang đến. Các ngươi là vô địch”1. Liều thuốc tinh thần đó đã kịp thời động viên, cổ vũ Nghĩa quân trong đồn bình tĩnh hăng hái, kiên quyết chống giữ, còn lực lượng ở các pháo đài bất chấp cuộc pháo kích kéo dài nhiều giờ, cũng vẫn trụ lại vị trí chiến đấu; khi thời cơ đến (lúc bộ binh địch tiến gần), nhất tề xung phong ra khỏi công sự chiến đấu dũng mãnh, tiêu diệt phần lớn lực lượng địch, giữ vững trận địa. Sau này các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tại Hố Chuối, quân Pháp đã đối đầu với một đối thủ có quyết tâm chiến đấu cao đến bất ngờ.2. Tạo lập thế trận hiểm hóc, liên hoàn, vững chắc, bảo đảm cho phòng thủ, tiến công thuận lợi. Qua nhiều lần giao chiến với quân Pháp, Nghĩa quân đã nắm vững quy luật hoạt động, thủ đoạn tác chiến cùng những điểm mạnh, yếu của địch. Đó là, sợ đánh gần, nhất là khó xoay chuyển trong địa hình hiểm trở; dựa vào hoả lực pháo binh và khi thương vong tinh thần dễ sa sút, v.v. Nắm chắc điểm yếu chí tử đó, Bộ Chỉ huy tối cao Nghĩa quân chủ trương tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc tại khu vực rừng núi Yên Thế. Theo đó, tại một vùng trũng thấp của khu rừng Hữu Thượng bạt ngàn chuối dại, Nghĩa quân xây đồn Hố Chuối như một công sự nửa nổi, nửa chìm (nhằm hạn chế hỏa lực, phi pháo của địch) làm đại bản doanh. Để hỗ trợ cho đồn chính, Nghĩa quân còn thiết lập hai pháo đài phòng thủ (Bắc và Nam) cách Hố Chuối khoảng 100m tạo thế chân vạc, bảo vệ, hỗ trợ nhau rất linh hoạt. Ngoài ra, Đề Thám còn cử người thiết lập hệ thống đồn phòng thủ xung quanh Hố Chuối, như: đồn Hom, Hang Sọ, làng Nứa, làng Vàng,… cơ sở hậu cần ở Vòng Dông cùng hệ thống làng chiến đấu (Dương Sặt, Thế Lộc, Luộc Hạ, Cao Thượng) với nhiều chướng ngại vật hiểm trở. Nhờ có thế trận vững chắc, Nghĩa quân có thể phát hiện, đánh địch từ xa đến gần, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch trước khi chúng đến được mục tiêu chủ yếu. Đặc biệt, tại Hố Chuối, với thế trận độc đáo, hiểm hóc, rừng đã trở thành vật cản cả hỏa lực và hạn chế tầm nhìn của địch; trường hợp áp sát chân đồn thì bị bắn trả từ các lỗ châu mai hiểm hóc, v.v. Nét độc đáo của thế trận này còn được thể hiện bởi hệ thống giao thông hào chìm (không có bờ) nối liền các điểm với nhau và thông ra suối Gồ về phía sau, tạo thế cơ động linh hoạt, vừa có thể đánh địch ở chính diện, vừa có thể tiến công vào bên sườn, phía sau đội hình của chúng. Điều này đã giải thích vì sao địch tập trung quân đông, tinh nhuệ, với nhiều vũ khí hiện đại, tiến công từ nhiều hướng, nhiều ngày, nhưng cả 04 cuộc tiến công đều không thành công. NGUỒN: Tạp chí Quốc phòng toàn dân

Bắc Giang 16 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đồn Phồn Xương

Đồn Phồn Xương nằm ở trung tâm thị trấn Cầu Gồ. Nơi đây Đề Thám và bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở lâu nhất chỉ đạo đường lối chiến lược chiến thuật của nghĩa quân Yên Thế. Đồn Phồn Xương cách tỉnh lỵ Bắc Giang 30 km về phía Tây; từ thành phố Bắc Giang, xuôi theo trục đường quốc lộ 1A (cũ) qua cầu sông Thương, rẽ phải theo tỉnh lộ 398 tuyến Bắc Giang-Cầu Gồ. Đồn Phồn Xương còn có tên gọi Đồn Gồ, Đồn Cụ nằm ở phía Nam của quả đồi cao gần 20m cách suối Gồ gần 800m về phía Nam. Nay quả đồi này gọi là đồi Phồn Xương hay đồi Bà Ba thuộc thị trấn Cầu Gồ. Đây là một căn cứ có quy mô lớn, cấu trúc khác với đồn Hố Chuối và các đồn khác. Đồn có bình đồ kiến trúc gần giống hình chữ nhật nằm chạy dọc theo hướng Bắc Nam, có diện tích chừng hơn một mẫu Bắc Bộ gồm hai vòng thành. Vòng thành ngoại bắt đầu từ sườn đồi phía Đông chạy vòng ôm lấy chân đồi lên tới đỉnh đồi phía Bắc thành hình vòng cung bảo vệ cho thành nội dài 140m, dày 0,80m và cao 4m. Dãy tường thành nội nằm trên đỉnh ngọn đồi gần giống hình chữ nhật. Tường thành nội mặt Đông dài 71m, mặt Bắc dài 85m. Tường đắp bằng đất nện, chân dày 2m, cao 3m và trên mặt còn rộng 1m. Bên trong tường thành có 3 cấp khác nhau có thể đứng hoặc quỳ đều bắn được. Xung quanh tường đều có lỗ châu mai. Mặt tường phía ngoài đắp dốc thoai thoải như mái nhà. Đồn Phồn Xương có 3 cổng: Cổng chính trông về hướng Đông còn hai cổng phụ ở phía Nam và phía Bắc. Hai cổng phụ đều thông ra với những cánh rừng rậm xung quanh. Đặc biệt cổng phía Bắc nối liền với cánh rừng của nửa đồi còn lại. Hai cổng phụ rộng 1,50m hiện nay không còn nguyên vẹn, cổng chính cách bờ tường phía Bắc là 15m, rộng 2m có 4 bậc lên xuống. Bên trong cổng chính còn một trạm gác nằm ở sườn tường phía Bắc hình vuông mỗi cạnh 2m. Bên trong cửa chính có hai lớp tường đất bảo vệ và chọc nhiều lỗ châu mai. Các cổng đều có hai lượt cửa, bên ngoài cổng cánh, bên trong cổng và đều làm bằng gỗ lim. Đồn được bố trí ngoài cùng là các bốt gác, tiếp theo là các đồn phụ, hệ thống giao thông hào rồi lại đến vòng thành bao bọc. Khoảng cách giữa hai vòng thành chỗ rộng nhất là 20m, hẹp nhất là 10m. Trong vòng thành là một không gian rộng bao gồm hệ thống nhà ở, nhà khách, nhà kho… tất cả đều là nhà tranh vách đất trộn rơm. Chỉ trừ chiếc nhà vuông tiếp khách là được xây bằng gạch. Lần lượt từ phía Bắc xuống phía Nam thành là nhà ở của Hoàng Hoa Thám và Bà Ba, nhà có 5 gian chạy theo hướng Tây Đông. Nhà thứ hai hình vuông bốn mặt để trống dùng làm nơi họp bàn của Hoàng Hoa Thám với tướng lĩnh và tiếp khách. Nhà tiếp theo gồm hai dãy nằm sát hai cạnh Tây Đông của thành, là nhà ở của nghĩa quân. Tiếp theo gồm 8 gian nhà bếp và chuồng ngựa nằm sát ở cạnh phía Nam của thành chạy theo hướng Đông Tây, tiếp nữa là cột đèn và cột cờ. Kiến trúc đồn Phồn Xương là một kiểu kiến trúc đặc biệt. Nó không những đáp ứng được yêu cầu là một đồn lũy thành trì mà nó còn giải quyết linh hoạt việc cơ động chiến đấu và đáp ứng được cả yêu cầu là một sở chỉ huy, nơi giao dịch nghĩa quân. Trải qua thời gian mưa nắng, hệ thống thành lũy và các công trình nhà ở trong thành được đắp bằng đất nện cũng dễ bị bào mòn. Nay những công trình nhà ở trong thành không còn, phần tường thành cũng không còn giữ được nguyên vẹn như xưa. Riêng đoạn mặt tường thành phía Đông còn giữ được nhiều nét kiến trúc cũ. Trên tường thành còn những vết đạn lỗ châu mai khá rõ. Trong thành hiện xây đền thờ Bà Ba. Hằng năm, vào các ngày 16 tháng 3 dương lịch lễ hội Yên Thế lại diễn ra trên quần thể di tích này. Khoảng cuối những năm 80 của thế kỷ XX, con gái của cụ Hoàng Hoa Thám là bà Hoàng Thị Thế có về đây và khi mất, bà được chôn cất tại đây, trên tấm bia mộ chỉ ghi dòng chữ thật giản dị: "Bà Hoàng Thị Thế, sinh năm 1901, mất 9.12.1988". Có thể nói Phồn Xương chính là thủ phủ của cuộc khởi nghĩa, nơi bắt đầu để mở mang phong trào ra các địa phương. Tại đây nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc tiến công trên quy mô lớn của thực dân Pháp do đại tá Vát-tay chỉ huy ngày 29-1-1909. Với những giá trị lịch sử, văn hóa đó, đồn Phồn Xương là một trong 23 điểm di tích được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 Thủ tướng Chính phủ. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 17 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Vồng

Nói đến Song Vân phải nói đến khu di tích đình Vồng với lễ hội dân gian truyền thống điển hình của vùng đất Tân Yên. Khu di tích đình Vồng gồm một quần thể di tích cổ với đầy đủ các loại hình, như đình Vồng, chùa Vồng, đền Vồng, nghè Vồng, ngòi Vồng và cầu Vồng. Ngày 15 tháng giêng này hội Đình Vồng lại diễn ra. Sau đây là bài giới thiệu về khu di tích này cùng Lễ hội truyền thống hàng năm. Song Vân là vùng đất cổ đã ghi dấu ấn vang dội trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Đình Vồng xưa thuộc xã Vân Cầu, tổng Vân Cầu, phủ Yên Thế. Ngày nay, khu di tích này nằm trên phần đất của thôn Ngò, xã Song Vân, huyện Tân Yên. Theo các tài liệu còn ghi lại ở địa phương cho biết, Cầu Vồng xưa được xếp vào loại cầu đẹp, cầu hai nhịp uốn cong như cầu vồng, toàn bộ được làm bằng lim, kiến trúc theo kiểu “Thượng gia hạ kiều” trên có mái và sơn đỏ toàn bộ. Cây cầu được dựng từ thời Mạc thế kỷ 16 nhưng nó đã bị tàn phá chỉ còn lại 2 mố cầu và con người cổ đã đi vào lịch sử với câu phương ngôn “ Trai cầu Vồng Yên Thế ”. Nó như một biểu tượng chung cho cả vùng Yên Thế Hạ nổi tiếng vũ dũng và thượng võ. Đình Vồng xưa có quy mô lớn, kiến trúc điêu khắc tinh xảo, tọa lạc trên một khu đất cao thoáng ở gần ngòi Vồng, và cầu Vồng. Đình gồm 5 gian xây dựng toàn bằng gỗ lim với hai hàng cột cái cao to, phần kết cấu gỗ như kẻ, xà trở lên đều được soi, chạm khắc với nhiều đề tài hoa văn phong phú. Trên bờ nóc đình là đôi rồng chầu mặt nguyệt, 4 bờ góc được đắp 4 con ly hoá, cuối bờ góc là 4 đao cong vút làm cho công trình vừa bề thế, vừa bớt phần thô cứng. Đình ngoảnh mặt nhìn về hướng Nam, phía sau là rừng Vồng với nhiều cây cổ thụ, trước đây khu vực này là rừng nguyên sinh. Phía trước cửa đình là cơn ngòi Vồng uốn khúc, nước chảy quanh năm. Theo luật phong thuỷ, đình nằm trên một thế đất đẹp, nơi hội tụ được những linh khí của đất trời sông núi. Chùa Vồng được dựng cùng hướng với đình Vồng, kiến trúc theo kiểu chữ công gồm tiền đường 5 gian 2 chái, 4 mái đao cong. Thiêu hương 4 gian nối với phật điện 3 gian 2 chái cũng 4 mái đao cong. Chùa Vồng dựng sau ngôi đình Vồng tạo nên bố cục “ Tiền thần hậu Phật ”. Chùa được khởi dựng từ thời Lê và được tự dựng vào thời Nguyễn. Phía trước chùa Vồng có cây hương đá và cây thị cổ thụ có tuổi cùng với thời gian khởi tạo ngôi chùa Vồng tạo nên khung cảnh thâm nghiêm cổ kính. Đền Vồng cũng nhìn ra con ngòi Vồng và Cầu Vồng gồm 1 gian 2 chái 4 mái đao cong. Bên trong đền có khám thờ, ngai thờ, bài vị cùng các đồ tế khí khác. Nghè Vồng ngày nay chỉ còn 1 hậu cung nhỏ 2 gian giáp ngọ và cầu Vồng. Nghề được nhân dân dựng lên để thờ 18 vị quận công họ Dương - những người có nhiều công lao với dân với nước cùng được thờ ở đình Vồng. Lễ hội đình Vồng là một lễ hội có truyền thống lâu đời. Nơi đây còn bảo lưu được nhiều nét văn hoá dân gian độc đáo. Trung tâm lễ hội xưa được tổ chức tại khu di tích đình Vồng với quy mô lớn, lực lượng chính là 4 xã Song Vân, Việt Ngọc, Ngọc Vân, Lam Cốt. Xưa hội đình Vồng được tổ chức vào ngày 15 tháng giêng và ngày 9,10,11 tháng 9 âm lịch. Trong ngày hội, người ta tổ chức tế lễ, rước sách và các môn thi, các trò chơi dân gian. Đám rước trong hội đình Vồng được diễn ra với nghi thức trọng thể. Ngày 15 tổ chức rước 17 đạo sắc từ nhà để sắc ở làng Vân Cầu về đình. Đi đầu đoàn rước là một người đóng tướng. Người này phải được lựa chọn kỹ theo từng năm. Khi rước sắc về đến đình thì tổ chức tế lễ long trọng. Trong hội đình Vòng xưa có tục tế ngựa rất uy nghiêm, có nhiều trò chơi, nhiều môn thi đấu thể thao dân gian giàu tính thượng võ như: Múa võ, vật, đua ngựa, bắn cung, bắn nỏ, bắn phết và nhiều trò chơi dân gian chọi gà, thi thả diều, thi thổi cơm, chạy chữ...Hội đình Vồng được tổ chức long trọng, vui vẻ trong ba bốn ngày đêm. Ở hội đình Vồng ngoài việc diễn các tích trò còn tổ chức thi hát đối đáp giữa các gánh hát trong vùng và các nơi khác đến biểu diễn khiến không khí lễ hội càng thêm hấp dẫn. Lễ hội đình Vồng còn góp phần không nhỏ trong việc giáo dục các thế hệ con cháu hôm nay phải biết giữ gìn đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của các bậc tiền nhân để lại. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Giang 21 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Mễ Sở.

Chùa Mễ Sở tọa lạc ở thôn Mễ Sở, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa Mễ Sở nằm cạnh đê sông Hồng, nằm giữa một vùng quê trù phú từ lâu đã nổi tiếng với pho tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Chùa được dựng từ thời Hậu Lê và đã được tu sửa nhiều lần, các dấu tích hiện còn chủ yếu được trùng tu vào cuối thế kỷ XIX. Duy chỉ có bức tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, còn giữ được tương đối nguyên vẹn. Quan Âm hay Quan Thế Âm có nghĩa là nghe tiếng kêu đau khổ của chúng sinh trong cuộc đời để cứu vớt. Quan Âm có thể hóa hiện thành muôn nghìn hình khác nhau để thích ứng với mọi hoàn cảnh nhằm cứu độ mọi trường hợp đau khổ. Với một pháp lực và quyền năng vô biên, cùng sự minh triết tuyệt đối với thiên thủ thiên nhãn, người cứu độ hết thảy. Tượng được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền với kích thước khá lớn. Từ chỏm tới mặt ngồi cao 1,4m, bệ cao 0,53m, tòa sen cao 0,23m, với khuôn mặt thanh thoát, thuần hậu, thân hình thon thả, tạo nên một pho tượng đẹp cả về nội dung và hình thức thể hiện. Tượng có hai đôi tay chính, đôi thứ nhất chắp trước ngực, mang ấn “chuẩn đề“, đôi tay còn lại đưa lên phía trên đỡ các đài sen và tượng Phật nhỏ. Các đôi tay lớn ít nhiều có nét mềm mại uyển chuyển, các cánh tay tròn lẳn, đế trần được chắp vào ờ hai cạnh sườn trong tư thế cao thấp khác nhau. Độ mở của các cánh tay vừa đủ cao mà không che khuất pho tượng. Ngay sát phía sau tay lớn là hệ thống tay nhỏ với hàng trăm tay mắt được kết thành 10 lớp mọc theo từng cặp cân xứng. Mười lớp tay mắt này lại được chia làm 3 phần lớn, tạo cảm giác như có ánh hào quang tỏa ra từ đầu tượng. Phía trên đầu tượng ở mũi hào quang chạm nổi hình đám mây với những cánh tay nhỏ đan đều như những cánh chim trong tư thế bay xuống. Con chim này đã tránh cho vầng hào quang nét “vô duyên” của tạo hình, gợi mở cho người xem trí tò mò về Phật pháp. Các tay nhỏ của tượng được thể hiện với những cánh tay dài thon thả, các mắt được đặt trong lòng bàn tay kết ấn cam lộ, các cánh tay này dài ngắn khác nhau theo độ mở dần lấy đầu tượng làm trung tâm, khiến chúng như mang một chức năng kết hợp tạo thành hào quang… Cùng với phần đài sen, bệ tượng, tất cả tạo nên một pho tượng hoàn chỉnh với những đường nét điêu luyện tỉ mỉ. Quan niệm vẻ đẹp đương thời đã được các nghệ nhân gửi gắm vào pho tượng với những đường nét thanh thoát, phúc hậu cho khuôn mặt và dáng tượng. Đây là một trong những pho tượng gỗ tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỳ XIX. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Mễ Sở là niềm tự hào của điêu khắc tượng Việt, mang nhiều nét sáng tạo mà vẫn phản ánh được tinh thần nhân ái của đạo Phật và tâm hồn Việt Nam. Chùa Mễ Sở được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 16 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đầu và Đền Ngò

Đền Ngò thờ Hai Bà Trưng, Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập cho nước nhà. Đền được ông cha ta kiến tạo ngay đầu làng trong một khuôn viên thoáng rộng, đón gió bốn phương, cảnh sắc hài hoà, thâm nghiêm, tráng lệ. Mặt trước đền có hồ sen hình bán nguyệt, in hình bức bình phong lớn có dáng cuốn thư lượn hình cờ kiếm và long, ly, qui phượng. Trước cổng đền là hai cột trụ to, cao vuông vức khắc ghi hai hàng câu đối: - Phong Quận cựu binh uy vạn cổ anh thanh kinh Bắc địa. - Hương viên lưu hiển tích thiên thu linh ứng trần Nam bang. Đại ý là: (Chiến công của nghĩa quân Châu Phong vang trời đất Tiếng thơm của Hai Bà lừng lẫy đến muôn đời) Tiếp đó là hai lầu tượng, trong đó tạc hình đôi voi chiến - Hai Bà cưỡi voi ra trận. Bên trong Đền có hoành phi, câu đối, bài vị, đồ tế tự… đều sơn son thếp vàng choáng ngợp sắc mầu. Hậu cung có hai ngai thờ cổ, tượng Hai Đức Vua Bà ngự trong khám lớn. Tượng cao chừng hơn một mét, đường nét điêu khắc tinh xảo, độc đáo. Với tư thế vươn nên phía trước, hai cánh tay tượng giơ cao ngang tầm mắt, dấu hiệu của chữ Tràng Khoát, dụ trước ba quân, giữ vững sơn hà. Tượng Hai Bà lồng lẫy trong bộ lễ phục màu hồng, toả ánh hào quang lung linh đèn nến. Đền Ngò hiện còn lưu giữ được 18 sắc phong qua các triều đại từ thời Lê Cảnh Hưng. Đó là những văn liệu vô cùng quý giá. Tháng 8-1945, Đền Ngò là nơi diễn ra cuộc mít tinh lớn sau khi cướp chính quyền huyện Văn Giang tuyên bố chấm dứt chế độ cũ, chính quyền mới về tay nhân dân. Nhiều năm tháng trôi qua, sau bao lần trùng tu, tôn tạo, đền Ngò vẫn giữ được vẻ cổ kính năm xưa. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp công nhận Đền Ngò là di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia, được Nhà nước bảo vệ. Địa danh lịch sử Đền Ngò mãi mãi gắn liền với địa danh lịch sử Đồng Chầu, Giếng Da, Bãi Yến. Những địa danh đó đã đánh đấu những kỳ tích lớn lao của một thời kỳ lịch sử, ghi nhận công sức của người Phụng Công theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Đình Đầu được xây dựng cùng thời với Đền Ngò và đồng thờ phụng Hai Bà Trưng - Người anh hùng dân tộc. Đình Đầu to, đẹp, lộng gió đồng quê, cổ kính, rêu phong, trải sắc mầu năm tháng. Cổng đình lồng đèn thao rủ, hai hàng câu đối nhắc nhở hậu thế trân trọng nếp nề. Đao đình uốn lượn cong lên hướng về tam sơn theo kiểu tứ linh chầu nguyệt bao trùm khu tiền lễ và hậu cung. Gian giữa khu tiền lễ bầy hương án, có đỉnh hạc, lư hương… Trên cao treo cửa võng sơn son thếp vàng. Bốn bức hoành phi rộng khắp các gian đình, mang 4 hàng chữ: Trưng Thánh Vương điện Vạn cổ anh linh Thăng long định đỉnh Chính khí quang minh Tất cả đã khái quát vẻ thiêng liêng thành kính của ngôi đình. Hai bên khu tiền lễ là hai hàng Bát bửu, gươm vàng uy nghi, trang trọng. Hậu cung có tượng Hai Đức Vua Bà tạc bằng đá quý theo mẫu hình Quốc gia ở đền Đồng Nhân – Hà Nội. Quanh đình có nhiều cây cổ thụ tràn trăm năm tuổi, toả bóng mát cùng ngôi đình trầm mặc ghi dấu ấn thời gian. Những năm đầu hoà bình lập lại và những năm chống Mỹ, đình Đầu là địa điểm tổ chức nhiều kỳ Đại hội Đảng bộ cấp xã, nhiều Hội nghị quan trọng của huyện Văn Giang. Năm 1970 cũng tại đình Đầu, Bộ y tế nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã tổ chức Hội nghị cán bộ lãnh đạo ngành Y toàn miền Bắc do Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch chủ trì quyết sách những chủ trương lớn về y học trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Đình Đầu có 18 sắc phong qua các triều đại và cũng bắt đầu từ thời nhà Lê. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp bằng xếp hạng công nhận đình Đầu là di tích lịch sử, văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 26 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phú Thị ( Hưng Phúc Tự)

Chùa Phú Thị tọa lạc trên một khuôn viên rộng, nằm phía ngoài và sát ngay chân đê sông Hồng, thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh” (丁), cửa nhìn về hướng Tây Nam và có tên Hán là Hưng Phúc Tự. Chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê và theo hệ phái Bắc Tông. Chùa đã được trùng tu nhiều lần và lần gần đây nhất là vào năm 1991. Bước chân vào thăm chùa, đầu tiên du khách sẽ đi qua tam quan - cổng phía ngoài chùa. Nhìn bên ngoài tam quan như 3 kiến trúc riêng biệt với ba cửa. Cửa giữa cao to, được xây hai tầng, mặt bằng hình vuông. Tầng trên và tầng dưới bằng nhau. Trên nóc tầng hai lợp ngói mũi hài với bốn đầu đao tỏa ra bốn hướng. Hai bên tả hữu là hai cửa nhỏ đối xứng. Ngay sau hai cửa nhỏ này là các bậc dẫn lên tầng hai của cửa giữa. Đi qua tam quan là tiền đường (Thượng điện). Nhìn bên ngoài, tiền đường được xây dựng theo kiểu chồng diêm với hai gác chuông và trống ở nóc mái nhà. Chuông chùa (Đại hồng chung) được đúc vào thời vua Minh Mạng. Vào bên trong, du khách sẽ thấy tiền đường gồm năm gian với không gian rộng và thoáng. Bốn hàng cột lim đều đặn được phân bổ ở giữa tiền đường. Trên xà ngang trung tâm tiền đường được bài trí một của võng chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt và được sơn son thếp vàng. Giáp tường phía trong đặt 6 pho tượng là tượng Khuyến Thiện, tượng Trừng Ác, tượng hai thánh Tăng, tượng hai Thị Giả. Những bức tượng này làm tăng thêm vẻ uy linh của tiền đường. Bên cạnh đó chùa có nhiều pho tượng cổ bằng gỗ hoặc đất nung phủ sơn, như tượng Chuẩn Đề, tượng Địa Tạng (cao 1,08m); bộ tượng Thập Điện Minh Vương (cao 0,90m), tượng Cấp Cô Độc (cao 1,07m). Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Theo quyết định số 14 ngày 4 tháng 4 năm 1984. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 31 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám

Làng Trũng, thuộc xã Ngọc Châu, huyện Tân Yên là một làng cổ gắn liền với biết bao kỷ niệm về người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành. Nơi đây, xưa kia từng là nơi đánh trận giả chơi trốn tìm của Hoàng Hoa Thám, nay lại là nơi tôn thờ, tưởng niệm ông- người có công lớn với quê hương Bắc Giang, với đất nước Việt Nam. Mỗi khi nói đến làng Trũng, người ta thường nhắc đến khu di tích lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám. Khu di tích cách thành phố Bắc Giang khoảng 20km về phía tây-bắc. Đây là quần thể di tích bao gồm các công trình như: đình, đền, chùa, điếm, nơi ở và khu mộ thân tộc Hoàng Hoa Thám. Theo truyền miệng của các cụ địa phương được biết: Đình Trũng khi xưa được cụ Hoàng Hoa Thám xây dựng ban đầu ở Tân Châu (Trũng Ngoài). Sau đó cụ Thống Luận đã di chuyển đình về Trũng Trong, liền kề phía trước chùa Trũng. Đình xưa bao gồm toà tiền đình ba gian nối với hậu cung một gian tạo thành bố cục hình chữ đinh (J). Đình Trũng xưa có 2 đạo sắc do các đời vua nhà Nguyễn phong cho Thành hoàng làng là Cao Sơn và Quý Minh Đại Vương. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, để tỏ lòng thành kính và trân trọng đối với người anh hùng dân tộc, nhân dân địa phương đã tôn thờ ông ở trong đình cùng với Thành hoàng làng. Trải qua thời gian và chiến tranh, đình Trũng bị xuống cấp hư hỏng nặng. Nay chỉ còn nền móng ở phía trước chùa Trũng. Sau khi Hoàng Hoa Thám bị sát hại, để tỏ lòng biết ơn và thành kính đối với vị tướng tài ba, nhân dân làng Trũng đã xây dựng ngôi đền làm nơi tưởng niệm, ở gần kề bên khu di tích đình, chùa làng Trũng. Từ khi xây dựng cho tới nay, đền thờ được nhân dân thường xuyên quan tâm, tu sửa, mua sắm các đồ thờ, tạc tượng Đề Thám… để lưu truyền hậu thế. Đền thờ Hoàng Hoa Thám hiện nay ở phía trước khu di tích đình, chùa Trũng, ngoảnh nhìn hướng Đông Nam. Đền thờ Hoàng Hoa Thám gồm ba gian theo bố cục hình chữ nhất. Bên trong gian chính giữa bài trí một pho tượng Hoàng Hoa Thám được đúc bằng đồng cao 150cm, bên tường hồi trái treo một bức tranh của gia đình cụ Đề Thám và các con tại đồn Phồn Xương. Theo các nguồn tư liệu lịch sử cho biết: Hoàng Hoa Thám hay còn có tên gọi là Đề Thám. Cha là Trương Văn Thân, quê gốc ở làng Dị Chế, xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho có truyền thống thượng võ và yêu nước. Cả cha và mẹ đều tham gia vào cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn nên bị nhà Nguyễn sát hại. Lúc này, ông cải họ là họ Đoàn, tên Nghĩa và được ông chú nuôi dưỡng đem đi trốn khỏi sự truy lùng của triều đình và cải tên là Thiện. Quanh quẩn ở vùng Sơn Tây sợ không thoát được nên chú cõng cháu chạy về làng Trũng, xã Ngọc Châu, phủ Yên Thế ở. Một lần nữa cải họ là họ Hoàng và đặt tên mình là Quát, tên cháu là Thám. Từ đó dân làng Trũng vẫn cho là hai bố con chứ không ai biết đó là hai chú cháu. Vì nhà nghèo nên ông Quát phải cho cháu vào làm con nuôi nhà ông Lý trong làng, còn mình làm nghề thợ thêu kiếm sống. Mặc dù vậy nhưng quãng đời niên thiếu cho đến khi trưởng thành, Hoàng Hoa Thám đã gắn liền với những kỷ niệm của làng Trũng và vùng Yên Thế. Sinh ra trong bối cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm, sống trong một địa phương có nhiều thủ lĩnh nổi lên chống giặc và đóng giữ những nơi hiểm yếu đã ảnh hưởng không ít đến cuộc đời của Hoàng Hoa Thám. Chính vì thế mà dân trong vùng Yên Thế cho đến nay vẫn còn nhớ và kể khá rõ từng mẩu chuyện về thời niên thiếu cũng như lúc trưởng thành của Hoàng Hoa Thám. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 36 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Gốc Khế

Trong hệ thống Di tích quốc gia đặc biệt của huyện Tân Yên, Đền Gốc Khế là một trong những di tích tiêu biểu. Di tích nằm gần ngã tư Nhã Nam, phía sau là Đồi Phủ nó liên quan mật thiết trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Di tích này xuất hiện muộn, chừng những năm đầu của thế kỷ XX. Khi mới được xây dựng, đền có quy mô vừa phải gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ tứ thiết chắc khỏe. Theo thời gian trước sự tàn phá của thiên tai, chiến tranh, ngôi đền xuống cấp và được tu sửa, tôn tạo nhiều lần. Đền Gốc Khế có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh gồm 1 tòa tiền tế 3 gian và 1 gian hậu cung, kết cấu khung mái bằng gỗ, lợp ngói mũi, kèo kìm trốn cột, quá giang gác tường. Trong đền còn bảo lưu được một số đồ thờ tự như: Bát hương, mâm đài, cây đèn, hộp đựng trầu thờ bằng gỗ. Hệ thống tượng thờ trong đền là những pho tượng cổ bằng gỗ với lối tạo tác đặc trưng tượng thời Nguyễn. Do nằm ngay cạnh đình chùa Nam Thiên và trong khu vực Đồi Phủ nên trong cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, ngôi đền này lưu giữ nhiều sự kiện lịch sử trên vùng đất thượng du của Yên Thế xưa và Tân Yên ngày nay. Giai đoạn 1892-1894, đền Gốc Khế từng là địa điểm để tổ chức nhiều cuộc họp giữa những tướng lĩnh của Hoàng Hoa Thám như: Đề Công (Tạ Văn Công), Đề Nguyên (Tạ Văn Nguyên), Đề cần (Tạ Văn Cần), Thống Ngò (Tạ Văn Khấu), Quản Khối (Giáp Văn Khối). Qua những cuộc họp này đã đi đến thống nhất đưa ra những sách lược, chiến lược quan trọng, mang tính quyết định nhằm đi đến một mục tiêu duy nhất là đánh đuổi thực dân Pháp. Hàng năm, vào ngày 15, 16 tháng Giêng, nhân dân Nhã Nam tổ chức lễ hội tôn vinh Thánh Mẫu, và ghi nhớ công lao của Trần triều Đại vương Trần Quốc Tuấn. Đồng thời, lễ hội còn là hoạt động để tri ân các vị tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã anh dũng hy sinh thân mình để bảo vệ sự bình yên của nhân dân. Trong những ngày lễ hội có tổ chức tế lễ, rước sách cùng các trò chơi dân gian độc đáo và những hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian phong phú, thu hút nhân dân ở khắp các vùng nô nức kéo về dự hội. Đền Gốc Khế, cái tên rất dân giã. Quy mô không lớn nhưng ẩn chứa nhiều điều thú vị và là chứng tích quan trọng trong một thời đoạn lịch sử của Nhã Nam. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Giang 40 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Nghĩa địa Pháp

Từ năm 1885 trở đi, phong trào Khởi nghĩa Yên Thế phát triển mạnh nên thực dân Pháp lập một hệ thống đồn bốt để chống lại phong trào khởi nghĩa do Lương Văn Nắm, sau đó là Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Chúng đã lập các đồn Nhã Nam, Bỉ Nội, Cao Thượng, Bố Hạ... từ đó tổ chức các cuộc hành binh càn quét đàn áp nghĩa hành quân của Pháp đã đụng độ với nghĩa quân Yên Thế ở nhiều làng xã và nhiều khu căn cứ như trận làng Mạc (1885), trận làng Sặt (1889), trận Cao Thượng (1890), trận Hố Chuối (1890- 1891), các trận dọc bờ sông Sỏi thuộc các khu: Đồn Hom, Khám Nghè, Đề Trung, Đề Truật, Thống Phức, Đề Lâm (1892) Phồn Xương, Đồn Đền, Rừng Phe (1909), Ngàn Ván (1911)... Trong các trận đó, chúng đã phải chịu nhiều thất bại, nhiều tên giặc bị tiêu diệt mà vẫn không dập nổi phong trào. Những tên sỹ quan, binh lính Pháp, Việt bị chết trong các chiến dịch bởi các lối đánh của nghĩa quân đã được đem về chôn tại các nghĩa địa ở Vôi (Lạng Giang), Bố Hạ (Yên Thế), Nhã Nam (Tân Yên)... Nghĩa địa của Pháp ở Nhã Nam là một trong những nghĩa địa được hình thành như vậy. Nghĩa địa Pháp hiện nay thuộc xã Nhã Nam, huyện Tân Yên, cách thành phố Bắc Giang khoảng 23km về phía Tây Bắc. Từ năm 1885 trở đi, phong trào Khởi nghĩa Yên Thế phát triển mạnh nên thực dân Pháp lập một hệ thống đồn bốt để chống lại phong trào khởi nghĩa do Lương Văn Nắm sau đó là Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Chúng đã lập các đồn Nhã Nam, Bỉ Nội, Cao Thượng, Bố Hạ... từ đó tổ chức các cuộc hành binh càn quét đàn áp nghĩa hành quân của Pháp đã đụng độ với nghĩa quân Yên Thế ở nhiều làng xã và nhiều khu căn cứ như trận làng Mạc (1885), trận làng Sặt (1889), trận Cao Thượng (1890), trận Hố Chuối (1890- 1891), các trận dọc bờ sông Sỏi thuộc các khu: Đồn Hom, Khám Nghè, Đề Trung, Đề Truật, Thống Phức, Đề Lâm (1892) Phồn Xương, Đồn Đền, Rừng Phe (1909), Ngàn Ván (1911)... Trong các trận đó, chúng đã phải chịu nhiều thất bại, nhiều tên giặc bị tiêu diệt mà vẫn không dập nổi phong trào. Những tên sỹ quan, binh lính Pháp, Việt bị chết trong các chiến dịch bởi các lối đánh của nghĩa quân đã được đem về chôn tại các nghĩa địa ở Vôi (Lạng Giang), Bố Hạ (Yên Thế), Nhã Nam (Tân Yên)... Nghĩa địa của Pháp ở Nhã Nam là một trong những nghĩa địa được hình thành như vậy. Nghĩa địa Pháp hiện nay thuộc xã Nhã Nam, huyện Tân Yên, cách thành phố Bắc Giang khoảng 23 km về phía Tây Bắc. Nghĩa địa Pháp được đặt trên một sườn đồi nhỏ xưa kia thuộc đất làng Lã ở Nhã Nam. Làng này đã bị quân Cờ Đen tàn phá phiêu dạt hết. Trong khu đất của nghĩa địa có nhiều mộ và được chia làm hai loại: Loại thứ nhất là mộ xây bằng đá khối vuông và chữ nhật. Đây là loại mộ dành cho sỹ quan. Loại thứ hai là mộ binh lính đắp đất có bia đá. Trong số các mộ sĩ quan Pháp đó có hai ngôi mộ được xếp bằng các phiến đá xanh vuông và các phiến đá chữ nhật trên đó có khắc chữ Pháp. Tất cả các ngôi mộ của nghĩa địa này nay đã bị san phẳng không còn dấu tích mộ. Chỉ còn các phiến đá to nặng vương vãi trong làng bên đồi. Ớ Bảo tàng Bắc Giang đã sưu tầm được một tấm bia ghi rõ người chôn ở đây là Nguyễn Văn Tố bị chết ở Hố Chuối (1890-1891), tấm bia nhỏ này cho biết đó là binh lính Việt được chôn đắp mộ đất. Những khối đá xanh ốp mộ rất lớn và nhiều kích cỡ. Có hai khối đá vuông trên đó người ta đã tạc hai vòng tròn ở hai bên tượng trưng cho cành ô liu được bó bằng một băng lụa. Đó là biểu tượng của người Pháp dành cho người đã chết vì đất nước Pháp. Mặt chính diện có khắc nhiều chữ ghi tên tuổi, lý do của kẻ chết trận ở Yên Thế. Nghĩa địa Pháp, đồi Phủ trở thành địa điểm ghi dấu những sự kiện mà trong lịch sử Yên Thế - Tân Yên ngày nay không thể không nhắc tới. Nó là một bằng chứng góp phần làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu thêm về phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo và hiểu về thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nơi đây chính quyền địa phương đã cho dựng bia ghi dấu sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở bên đồi Phủ để giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Giang 36 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Làng Mai Viên

Đình Mai Viên thuộc thôn Mai Viên, xã Song Mai - một xã có địa bàn rộng, đông dân cư và phát triển trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội của huyện Kim Động. Mai Viên được hiểu trong đó “Mai” làng đẹp như một vườn mai, “ Viên” làng có nhiều quan chức, viên chức. Theo thần tích và sắc phong và truyền ngôn lại trong dân, đình thôn Mai Viên được khởi dựng khá sớm vào thời Hậu Lê với quy mô còn nhỏ bé. Đình tọa lạc trên một gò đống cao ráo thoáng mát,cảnh quan đẹp, thuận tiện cho việc sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Mặt tiền quay về hướng Đông Nam, phía trước đình là cây đa giếng nước cổ kính có niên đại hàng trăm năm, sân đình được bao phủ bởi tán cây bàng, nhãn mát mẻ. nhìn toàn bộ bên ngoài cho ta cảm thấy dự uy nghi và tôn kính bởi vẻ đồ sộ và cổ kính của ngôi đình làng. Di tích đình Mai Viên được xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ I (chữ công) nhưng mất phần hậu cung và 2 nhà chè. Nay di tích còn lại một nhà tiền tế đồ sộ vừa được nhân dân sửa chữa, mái lợp ngói mũi phẳng, đầu hồi 2 bên nóc đình được đắp hai đầu kìm đội lân. Trải dài phần nóc nghệ nhân đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt uốn thành 3 khúc khỏe mạnh và uy nghi. Kiến trúc đình Mai Viên cao ráo bề thế, kết cấu vì kèo nóc từ đầu đến phần mái theo kiểu chồng rường đấu xen, hệ thống con gường đỡ hoành chạm nổi hình lá lật cách điệu. Do những biến động của lịch sử và xã hội, kiến trúc đình không còn đồng bộ và phải tu bổ nhiều lần vào thời Nguyễn, vì vậy nghệ thuật kiến trúc mang đậm nét thời Nguyễn. Cũng như những ngôi đình ở các xã khác, đình Mai Viên vừa được coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vừa là nơi thờ thần hoàng. Theo sắc phong và thần tích thì đình thờ 5 vị thành hoàng làng và 3 vị đức thánh tổ như: Trung Thành Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Cao Mang Đại Vương, Đổng Vĩnh Đại Vương và vị Đức thành tổ có công với dân, dạy dân làng làm nghề nung vôi, đóng gạch, làm nghề thợ xây. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, đình Mai Viên là cơ sở tụ họp của các đồng chí lão thành cách mạng. Năm 1942 phong trào cách mạng phát triển, các cán bộ cách mạng đã về đây để tạo dựng cơ sở. Đình còn là nơi hậu đóng quân của bộ đội huyện cơ sở in ấn tài liệu kháng chiến, đào hầm bí mật ở hậu cung để bảo vệ bộ đội du kích. Trong những năm chống Mỹ, cơ sở còn khó khăn UBND xã Song Mai tạm mượn đình Mai Viên để họp hành tại đây. Đến năm 1988 mới trả cho thôn. Ngày nay, đình Mai Viên còn lưu giữ các hiện vật quý có giá trị lịch sử, văn hóa như: tại đình hiện có một ngai vàng thờ thời Nguyễn, 3 bát hương thời Nguyễn, 2 hòm sắc, 1 giá chúc với 27 sắc phong qua các triều đại, ống hưởng, đài gỗ và một số đồ thờ khác có niên đại muộn, đỉnh đồng 2 chiếc, nến đồng 2 đôi, lục bình một đôi. Năm 1998 đình làng Mai Viên được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhân dân địa phương không chỉ coi đây là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng mà còn là nơi để mọi người tổ chức ôn lại truyền thống cha ông, các thuần phong mỹ tục, nếp sống cộng đồng. thông qua đó là sự giao lưu văn hóa giữa các vùng, giữa các thành viên trong cùng một cộng đồng để tạo nên mối gắn kết nhân ái, tình làng nghĩa xóm. Ngôi đình là niềm tự hào của nhân dân trong thôn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 43 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Bà Chúa Mụa

Bà Chúa Mụa (1580 – 1648)bà tên thật là Trần Thị Cư, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580) tại làng Mụa, tổng Thiên Thi, phủ Khoái Châu xưa, nay thuộc thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Truyền thuyết kể rằng, vào một ngày kia, chúa Trịnh Tráng xa giá đi qua vùng này, rộn ràng nào ngai, nào kiệu, cờ xí rợp trời, kèn trống vang lừng, dân làng náo nức đi xem. Một cô gái cắt cỏ cạnh đường cái quan vẫn cứ mặc như không hay biết gì. Khi kiệu đi qua, cô không hề nhìn lên, đôi tay thoăn thoắt giật liềm vơ cỏ, miệng hát véo von, trong trẻo: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Một trăm thức cỏ lai hàng tay ta Quân lính ngạc nhiên, tiếng hát càng véo von và kiệu chúa từ từ dừng lại. Chúa kéo rèm lên nhác thấy có cô gái có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, đối đáp thông minh, biết đây là kỳ nữ. Chúa truyền rước cô về kinh thành Thăng Long rồi ban quốc tính, đổi tên là Trịnh Thị Ngọc Am. Bà giúp chúa trông nom việc học tập trong phủ của các cung tần, mỹ nữ, củng cố mối đoàn kết giữa chúa với triều đình nhà Lê. Bà sinh được một người con gái là Trịnh Thị Minh, được chúa ban cho 4 đĩa vàng và 1 đĩa bạc. Chẳng bao lâu công chúa Thụy Minh qua đời, quá đau buồn, bà xin về tu ở chùa làng. Chúa rất quý mến người vợ tài sắc của mình, cho khai con sông nhánh từ sông Cửu An chạy qua làng Mụa để vận chuyển các loại đồ quý về xây tháp. Hàng ngày, bà lên tháp tưởng vọng về phủ chúa ở Thăng Long. Bà đã bỏ tiền ra giúp dân khai khẩn ruộng đất, khai sông dẫn thủy nhập điền. Bà giàu lòng nhân đức hay giúp đỡ mọi người và cầu Phật ban phúc lành cho dân chúng. Tự bà xin lập và tu sửa các chùa chiền quanh vùng và phổ biến lễ cúng Phật. Bà chẳng những có công lớn đại trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bà Trịnh Thị Ngọc Am mất vào tuổi 68, nhân dân tôn bà làm thần và lập đền thờ ngay tại quê hương. Đền Mụa dựng vào thế kỷ thứ 17, trùng tu vào thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chữ “Nhị”. Cổng Tam quan khá đồ sộ, có hai hàng câu đối: Tài sắc song toàn nơi phủ chúa Nghĩa tình trọn vẹn với quê hương Cạnh đó có tòa thư điện nhỏ đặt pho tượng phỗng tạc đá xanh, dáng dấp bụng phệ được thờ bằng bát hương cũng bằng đá xanh chạm chân quỳ, có 3 tai mặt hổ phù. Trước cửa đền đặt tấm bia dựng năm 1634 có ghi: Bà chúa Mụa Trịnh Thị Ngọc Am đệ nhất cung tần vương phủ chúa Trịnh Tráng. Tấm bia thứ hai dựng năm 1650 ghi nhận công lao của bà với dân làng trong việc dựng chùa, đình, đền, miếu… Tại gian trung tâm tòa đại bái có nhang án bằng đá, chạm khắc nổi thành ba bức phù điêu: bức giữa chạm nổi hình trong, hai bên chạm “Long cuồn thủy”, xung quanh chạm hoa văn sóng nước cách điệu, mang phong cách Hậu Lê. Trên hai cột cái tòa đại bái có hai hàng câu đối ca ngợi tài đức của Bà: Tài cao nghĩa trọng, uy thế trấn sơn hà Tích đức tu nhân, chúa cung sùng đạo Phật Gian hậu cung đặt tượng bà chúa Mụa. Năm 1634, chúa Trịnh Tráng cho tạc tượng bà bằng đá khi đang sống. Tượng to bằng người thật ngồi trên tòa sen, đầu đội vương miện, chạm nổi hình Phật Tổ Như Lai, tai đeo bông hoa to, chân xếp bằng kiểu người ngồi thiền. Phía trước tượng bà chúa là tượng Quận Công bằng đá, ngồi xếp bằng tròn, mặc áo bào. Hai tòa hai bên thờ tượng Thị Vệ và Kim Đồng chầu bà chúa, thân chạm nổi áo gấp. Sau hậu cung là tòa Cửu phẩm liên hoa, đặt nậm đá đế hoa sen, dưới chạm tượng bà chúa lúc về già. Ngày 08/6/1963 trong khi làm thủy lợi sông cầu Ngàng dân công đã đào được 4 đĩa vàng, 1 đĩa bạc của Chúa Trịnh Tráng ban thưởng cho con gái, ở đáy một đĩa có dòng chữ. “Thụy Minh công chúa kim phụ lai bát tinh công chúa” (chén bạc của cha ban cho con, Thụy Minh công chúa). Từ những giá trị trên, đền Bà Chúa Mụa được Bộ văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích “Nghệ thuật” cấp Quốc gia số 2233-Quyết Định/Bộ Văn hóa Thể Thao ngày 26/6/1995. Đặc biệt, ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2283/Quyết Định - Thủ Tướng, công nhận Sưu tập đĩa vàng hoa sen Cộng Vũ (đền Mụa, xã Vũ Xá) có niên đại thế kỷ XI – XII là Bảo vật Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 38 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Đào Xá

Thôn Đào Xá cùng với hai thôn Ngô Xá và Vĩnh Hậu hợp thành xã Vĩnh Xá. Đào Xá là một thôn lớn có cả đình, chùa, miếu, đền do cư dân theo đạo Phật và một nhà thờ của đạo Thiên chúa giáo. Đền Đào Xá có tên xưa là đền Sướng Thiện, là Tam Giáo Động, được xây dựng ở đầu thôn trên một khu đất cao, thoáng mát từ thập niên đầu thế kỷ XIX. Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại, khoảng năm 1896, cụ Từ trông coi đèn nhang đã sang đền Bạch Mã thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông cũ xin tên hèm để thờ, đặt tên cho đền là Sướng Thiện. Từ đó nhân dân trong vùng tìm đến đây lễ bái cầu phúc, hướng thiện và xin thuốc nam về chữa bệnh. Đền được xây dựng theo kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn có vòm cuốn bê tông và hình khối nội công ngoại quốc. Đến năm 1929 , nhân dân lại đóng góp công sức và tiền của tu tạo lại đền cho bề thế, khang trang hơn. Khi hội Tam Thánh ra đời, đền thờ Phật – Tiên – Thánh, 3 vị giáo tổ và thờ vọng những vị anh hùng dân tộc đã có công cầm quân chống ngoại xâm như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão. Tên đền Sướng Thiện hay Tam Giác Động nói lên ý tưởng và tâm nguyện về điều thiện, hành động theo điều thiện. Sau này, tên đền được gọi theo tên thôn: Đền Đào Xá. Chữ Đào chính là tên một dòng họ có người đến khai phá vùng đất này sớm nhất và cũng là họ phát triển đông đúc nhất thời ấy. Thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta vận động đấu tranh cách mạng trong sự khủng bố, lùng sục gắt gao của chính quyền thực dân, đền Đào Xá là một trong những cơ sở cất giấu tài liệu của Đảng bộ Hưng Yên. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, nhiều cuộc mít tinh hội họp lớn của xã đã được tổ chức tại đền. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt, vùng đất này từng có thời gian bị địch chiếm đóng, đền Đào Xá lại là nơi cán bộ ta đặt chân an toàn để phát triển phong trào, khi thì đóng vai người đến đền cúng lễ, khi lại là người lên đền xin lá thuốc về chữa bệnh cho người nhà. Trong đền có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Hòn Non bộ đắp nổi giữa hồ nước trong khuôn viên với mục đích cất giấu tài liệu nên được tạo dáng nhiều hang lạch ăn sâu vào giữa khối đá giả sơn trông lạ mắt mà kín đáo. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân khu III đã về đây mở Hội nghị Quân chính bàn việc chống chiến tranh phá hoại của địch và các chủ trương biện pháp chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Y tế lại chọn đền Đào Xá làm địa điểm sơ tán cho xí nghiệp Dược phẩm. Đền Đào Xá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, ngoài Hòn Non bộ xây đắp công phu, phải kể đến 24 pho tượng mỗi pho đều có vẻ hấp dẫn riêng. Nhiều đồ tế tự có giá trị điêu khắc như pho kiệu Ngọc Bộ, ngai, cửa võng, câu đối cùng với nhiều cổ vật quý hiếm nh lọ độc bình, lọ hoa, choé, bát hương… Đền Đào Xá, xã Vĩnh Xá được Nhà nước xếp hạng di tích “Lịch sử và nghệ thuật” cấp Quốc gia theo Quyết định số 570, tháng 9/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 61 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Thanh Sầm

Đình Thanh Sầm toạ lạc trên khu đất cao ráo, thoáng đãng tại thôn Thanh Sầm, xã Đồng Thanh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Theo thuyết phong thuỷ, đình toạ lạc trên thế đất hình “đầu rồng”, phía trước là một hồ nước lớn, bao bọc quanh đình là con đường lớn tựa “lưng con xà”, tạo nên nét đẹp không gian cho ngôi đình cổ. Với địa thế đó, đình Thanh Sầm được xem như đặt trong thế “đắc địa”, con cháu được hưởng phúc lộc dài lâu. Đình Thanh Sầm là nơi tôn thờ Nhị vị Thành hoàng làng: Hướng Thiện Ninh Quốc Đại vương (Phạm Thiện) và Đạo Quang Vĩnh Yên Đại vương (Phạm Quang) thời vua Hùng Vương. Hai vị có công giúp các vua, các tướng dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Không chỉ vậy, đình Thanh Sầm cùng những di vật còn lưu giữ được tại di tích là nguồn sử liệu vô cùng quý giá trong việc nghiên cứ sự hình thành và phát triển của làng Thanh Sầm. Đình Thanh Sầm có bố cục mặt bằng tổng thể kiểu “Tiền Nhất hậu Đinh” gồm: 05 gian Đại bái, 05 gian Trung từ và 02 gian Hậu cung. Các cấu kiện kiến trúc đều được làm hoàn toàn từ vật liệu gỗ tứ thiết còn đồng bộ, chắc khỏe, bền vững với nhiều mảng chạm khắc đẹp, mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Nguyễn. Các mảng chạm thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: Tứ linh, tứ qúy, tùng lộc, chim trĩ, lá lật, vân xoắn, cá chép... Tất cả đã phản ánh được tính mỹ thuật cao, tài năng sáng tạo của người nghệ nhân đương thời. Tại đình còn bảo lưu được một số di vật tiêu biểu có giá trị như: Sắc phong (thời Nguyễn), thần tích, đại tự, câu đối, ngai và bài vị, kiệu thờ,... Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật đình Thanh Sầm đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (tại Quyết định số 887/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 15 tháng 4 năm 2022). Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 47 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Chuông

Đình làng Chuông là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lớn của làng Chuông xưa, nay là thôn Tiến Phan, thị trấn Nhã Nam. Theo các tài liệu, hiện vật còn lại trong di tích, các nhà nghiên cứu đã xác định đình làng Chuông là một ngôi đình cổ được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII). Ngôi đình tọa lạc trên khuôn viên đất rộng, cao thoáng ở trung tâm làng Chuông. Bố cục mặt bằng di tích được làm theo lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 7 gian tiền đình và hai gian hậu cung, ngoảnh hướng Nam. Đình tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Trấn Giang Đô Thống. Ngoài ra đình cũng thờ Nàng Giã Đại Thần - một vị nữ tướng của hai Bà Trưng. Sau này vào thời Nguyễn, đình còn thờ một vị phúc Thần là người con của quê hương Nhã Nam, đó là ông Nguyễn Đức Hiên đã công đức tiền của tu sửa đình. Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, bàn việc tổ chức những trận đánh lớn chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai tại đình làng Chuông. Làng Chuông còn là nơi sinh ra Dương Văn Truật còn gọi là Đề Hậu - một trong những vị tướng tài giỏi, giữ vai trò chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Ông có tài bắn cung bách phát - bách trúng khiến bọn giặc Cờ Đen do Ngô Côn cầm đầu và sau này là thực dân Pháp và bè lũ tay sai phải kinh hoàng, khiếp sợ khi nhắc đến tên ông. Khi Lương Văn Nắm (Đề Nắm) - người làng Hả giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Dương Văn Truật gia nhập nghĩa quân, trở thành một trong những vị tướng giỏi giúp Đề Nắm và sau này là Đề Thám tổ chức nhiều trận đánh, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất. Đình làng Chuông vừa được trùng tu và khánh thành vào ngày 26.10.2023. Bố cục hình chữ đinh, với kết cấu tiền đạo hậu đốc, đại bái 5 gian, hậu cung 3 gian cùng các hạng mục phụ trợ khác. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Giang 49 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Dương Lâm

Đình Dương Lâm được xây dựng trên một khu đất ráo đẹp đẽ của làng Dương Lâm, xã An Dương, huyện Tân Yên. Đây là ngôi đình cổ thời Lê, xưa tọa lạc ở khu đất Bãi Đình. Vì lý do giặc giã nhiều, nên Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế đã bàn với dân làng di chuyển đình về khu đất giữa làng như hiện nay, để tiện trông nom và cũng dễ bề hoạt động. Dương Lâm cũng là quê hương Quận công Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc thời Lê - Mạc, Lê Trung hưng và thời Nguyễn. Trong đó Dương Đình Cúc dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, ngay tại đình làng mình. Ông kéo quân lên xây dựng căn cứ khởi nghĩa ở núi Hàm Rồng thuộc Đức Lân, huyện Phú Bình (Thái Nguyên) vào năm 1826. Nghĩa quân đã hoạt động khắp các huyện Yên Thế, Hữu Lũng, Võ Nhai, Phú Bình, tổ chức nhiều cuộc đánh du kích làm quân triều đình khốn đốn. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 20 năm. Mùa xuân năm 1846 Đề Cúc và các tướng lĩnh về dự hội làng Lềnh ở chân núi Hàm Rồng thị bị quân triều đình phục kích, hai bên đánh nhau quyết liệt hai tướng của Dương Đình Cúc bị chết, ông bị thương, chạy đến đầu làng Lan Thượng thì bị chết. Dân làng thương tiếc an táng ông về lập miếu thờ gọi là Dương Đình Cúc. Sau đời Dương Đình Cúc khởi nghĩa, làng Dương Lâm nổi lên ông Dương Văn Hậu (còn gọi là cụ Cai Hậu) là người giúp Hoàng Hoa Thám rất đắc lực từ 1885-1895. Truyền tích về cụ Cai Hậu còn rất nhiều ở Dương Lâm. Để đảm bảo an toàn cho các tướng lĩnh và nghĩa quân Yên Thế, cụ Cai Hậu đã cho đào một hầm bí mật từ hậu cung đình Dương Lâm xuyên ra bờ ao rồi đi nơi khác. Đến nay dấu vết vẫn còn. Suốt trong cuộc Khởi nghĩa Nông dân Yên Thế chống thực dân Pháp kéo dài 30 năm trời, nhiều trai làng Dương Lâm đã ra nhập nghĩa quân Yên Thế như: Dương Văn Cảnh, Dương Văn Hành, Dương Văn Đôi, Dương Văn Vạn... lập nhiều chiến công ở trận Trại Cốt (Yên Thế) Yên Phụ (Yên Phong) Đông Lỗ (Hiệp Hoà) Hố Chuối, Đồn Hom (Yên Thế)... Trong những năm tháng ấy, đình Dương Lâm là nơi đi về của nghĩa quân. Làng Dương Lâm vẫn là pháo đài vững chắc của nghĩa quân Yên Thế ngay trước dinh phủ của Pháp và tay sai ở Nhã Nam. Cũng trong thời gian ấy, Đề Thám đã gửi con trai cả của mình đến Dương Lâm học cụ Cai Hậu. Điều đó chứng tỏ tình cảm rất thân thiết giữa nghĩa quân với làng Dương Lâm. Từ khi đình chuyển về giữa làng, Đề Thám lại cùng cụ Cai Hậu đã trồng cây Dã Hương ở trước sân đình làm kỷ niệm. Cây Dã Hương sau này trở thành cây cổ thụ tỏa bóng mát che nắng cho dân làng và ru mãi những bài ca đẹp về lịch sử làng Dương Lâm. Đáng tiếc là nó đã không còn trong năm gần đây. Do không làm gì nổi nghĩa quân Yên Thế, thực dân Pháp và tay sai kéo về Dương Lâm tra khảo cụ Cai Hậu. Song vốn là người gan góc nhất làng và hết lòng vì nghĩa quân Yên Thế, chúng đã không khuất phục được con người của cụ Cai Hậu. Thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai với thực dân Pháp (1897-1909) cụ Đề Thám thường về thăm Dương Lâm, thăm đình Dương Lâm với một tình cảm đặc biệt. Đình Dương Lâm chứa đựng những giá trị văn hoá, giá trị lịch sử đáng trân trọng là biểu tượng đẹp đẽ của Dương Lâm và là nơi tưởng niệm các anh linh đã vì mảnh đất này mà gây dựng, mà chiến đấu. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Giang 51 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Nam Thiên

Nhân lễ hội Đình Phố, thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên (Bắc Giang) vừa tổ chức lễ đón nhận Bằng công nhận chùa Nam Thiên là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt. Đây là di tích nằm trong hệ thống di tích cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Chùa Nam Thiên (còn gọi là chùa Phố) xây dựng năm 1882 (nay thuộc thị trấn Nhã Nam ). Cổ xưa chùa thuộc làng Cầu. Khi làng Cầu bị giặc Cờ Đen triệt hạ cuối thế kỷ XIX, chùa do làng Chuông kiêm quản. Từ năm 1885 thực dân Pháp lập đồn Nhã Nam và đặt phủ lỵ tại đây thì chùa chuyển về phố. Chùa Phố - Nam Thiên tự nằm bên Đồi Phủ, chứng kiến những sự kiện quan trọng liên quan tới phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Tháng 1-1989 di tích chùa Phố - Nam Thiên tự được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Ngày 10-5-2012, Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Di tích chùa Phố - Nam Thiên tự là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt. Trong khuôn khổ lễ hội còn diễn ra nhiều hoạt động văn hóa thể thao như: thi nấu cơm, thi đấu cầu lông, trò chơi dân gian, tết trồng cây... thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân tham gia./. NGUỒN: INET

Bắc Giang 58 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Nội

Đình Nội thuộc xã Việt Lập. Di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Đình được xây dựng từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719) trên gò đất nổi thuộc cánh đồng trung tâm làng. Đình do dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của Làng Nội xây dựng nên dân gọi là Đình Nội. Hiện này Đình Nội, thuộc làng Nội Hạc, xã Việt Lập. Đình được xây dựng từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719) trên gò đất nổi thuộc cánh đồng trung tâm làng. Đình do dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của Làng Nội xây dựng nên dân gọi là Đình Nội. Đình Nội được xây dựng ở một gò đất cao thuộc đất giáp Trong giữa làng Lý và làng Nội hiện nay. Đình do dân ba giáp: Tây, Mỹ, Trong của làng Nội xây dựng nên dân cũng gọi là đình Nội. Khi đình làm xong dân đặt tên là "Tiên Đình" hai chữ ấy được viết ra chữ Hán rồi xây biển trên bờ nóc cho khắc đắp nổi để ai cũng nhìn thấy. Thông thường ở các nơi, cứ khi làm xong đình thì dân cho khắc bia ghi chép việc xây dựng đình để lại cho đời sau biết việc tiền nhân đã làm. Thế nhưng ở làng Nội xưa các cụ lại không làm thế mà căn cứ những ai đóng góp gì thì cho thợ mộc đục ngay lên gỗ ấy - bất di bất dịch - Thế là đình Nội có một bản lai lịch rõ tới từng chi tiết mà không đình nào có được. Đình Nội làm nên để thờ Thánh Cao Sơn – Quý Minh, khoảng thế kỷ XIX trong vùng có giặc Cờ Đen – quân Cờ Đen kéo về quấy phá tàn sát nhiều làng, xã ở Yên Thế. Làng Nội bị chúng đánh phá, dân làng chống lại không nổi nhưng cũng hạ được nhiều tướng Tàu ở ngay cạnh đình. Dân làng nội bị bắt đi, bị mất tích..làng xóm tiêu điều sơ xác. Ngôi đình không bị tàn phá nhưng đã chứng kiến những sự kiện tàn sát đó. Tình hình đó kéo dài đến cuối thế kỷ XIX dân làng không hiểu cho rằng tại hướng đình nên trong làng lục đục mất đoàn kết. Đến khi Hoàng Hoa Thám đứng lên cầm quân chống pháp, có quan hệ mật thiết với làng Nội, nghĩa quân thường qua lại nơi đây họp bàn với các Cụ Đốc Tuân (làng Lý), Chánh Hạch (Làng Nội), Tổng Lò (Văn Miếu)…biết chuyện hướng đình, Đề Thám với uy tín của mình đứng ra xoay lại hướng đình cho làng Nội. Đình Nội là một trong những ngôi đình lớn của huyện, hiện vẫn giữ được dáng vẻ và kiến trúc cổ xưa. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Giang 64 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đông Trước

Đình Đông Trước thuộc địa phận thôn Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang) có nhiều nét độc đáo, được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia năm 2014. Đình Đông Trước là công trình tín ngưỡng của nhân dân thôn Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa. Đình Đông Trước có niên đại khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII) và được trùng tu vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đây là công trình tín ngưỡng tiêu biểu của nhân dân địa phương được dựng lên làm nơi thờ các vị Thành hoàng làng Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương và Bạch Tượng. Hai vị Cao Sơn, Quý Minh vốn là thuộc tướng thời vua Hùng Vương thứ 18, có công giúp vua Hùng Duệ Vương (thế kỷ III TCN) phá tan giặc Thục Phán đến xâm lăng. Bạch Tượng có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân (thế kỷ X) thống nhất đất nước. Đình Đông Trước có bố cục theo lối “tiền nhất hậu công” gồm tòa tiền đình, tòa đại đình, dải ống muống và hậu cung. Di tích là công trình có giá trị kiến trúc nghệ thuật cao, mang nét đặc trưng của hai nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng-Nguyễn. Trong di tích hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý như: 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn (bia Hậu Thần được lập sớm nhất tại đình vào năm 1722 niên đại Bảo Thái thứ 3, muộn nhất vào năm 1916 niên đại Khải Định); kiệu thờ, bản văn, 4 ngai thờ thời Nguyễn, chấp kích, đài thờ, mâm bồng, nhang án, chiêng đồng, bát hương... Trong đó, 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn khắc văn tự Hán với nội dung ghi về việc lập Hậu Thần, việc công đức tu sửa đình... có ý nghĩa tích cực trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử di tích và một thời kỳ đã qua của nhân dân trong vùng nói riêng và của dân tộc nói chung. Đình Đông Trước là nơi thờ các vị Đức thánh Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương, Bạch Tượng làm Thành Hoàng làng. Hai vị Cao Sơn, Quý Minh vốn là thuộc tướng thời vua Hùng Vương thứ 18, có công giúp Hùng Duệ Vương (thế kỷ III TCN) phá tan giặc Thục Phán đến xâm lăng, mang lại bình yên cho đất nước. Công lao của các ngài được các sử thần xưa biên ghi trong quốc sử, ngọc phả, thần tích, sắc cho nhân dân nhiều nơi lập đình, đền thờ phụng, trong đó có đình Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa. Bạch Tượng vốn là người ở châu Hoan (tỉnh Nghệ An ngày nay). Vào thế kỷ X, khi Đinh Bộ Lĩnh dấy quân ở Hoa Lư, ông đem quân đến giúp sức dẹp được loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, về già ông đem quân về Động Phỉ rồi qua đời ở đó. Vì có công với dân, với nước nên ông được tôn thờ trong các đình làng. Đình Đông Trước là công trình kiến trúc cổ kính được khởi tạo vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), trùng tu lớn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Trải qua hơn 200 năm, nhiều mảng chạm trổ, điêu khắc điển hình cho nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng, thời Nguyễn hiện vẫn còn được bảo lưu tại di tích. Chính quyền cùng nhân dân địa phương luôn quan tâm, ý thức ghi giữ, tu sửa tôn tạo ngôi đình thêm khang trang, tố hảo nhưng vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính, uy linh. Trong di tích hiện nay còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý rất có giá trị: 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn, ngai thờ, bảng văn, sắc phong, chấp kích, kiệu thờ, bát hương, nhang án... Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi đình hiện vẫn là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của người dân thôn Đông Trước. Trong ngày hội tổ chức nhiều trò chơi dân gian cổ truyền mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc: Chọi gà, đánh đu, kéo co... Bên cạnh đó vào những ngày rằm, mồng một và khi làng diễn ra sự kiện trọng đại thì người dân đều đến ngôi đình làng thắp nén hương thơm thành tâm dâng lên Thành Hoàng làng cầu cho vạn vật tốt tươi, người người khỏe mạnh, bình an. NGUỒN: Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa

Bắc Giang 58 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình thôn Nguyễn

Đình thôn Nguyễn: được khởi tạo thời Lê. Đình nhìn về hướng Nam, thờ thánh Tam Giang và Quận công Nguyễn Đình Chính. Vị trí đình và chùa gần nhau, theo lối đình trước chùa sau “Tiền Thánh, hậu Phật”. Đình có bố" cục hình chữ Đinh (T) với 3 gian tiền tế, 2 gian chái, 3 gian hậu cung - kiểu thượng con chồng đấu kê trụ giá chiêng, hạ con chồng cốn kê. Các bức cốn, kẻ hiên, đầu dư trên cột được chạm khắc tinh xảo. Trong đình có đồ thờ: kiệu bát cống, kiệu song hành, tàn lọng, chấp kích, bát bửu, chiêng chông, long ngai, bài vị, ngọc phả, bia đá... Ngày 31/10/2013, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 3825/QĐ-BVHTTDL xếp hạng đình Nguyễn là di tích Lịch sử - văn hóa. NGUỒN: TRAVEL NEWS

Bắc Giang 64 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Chợ Vân

Đình Chợ Vân xưa thuộc tổng Hoàng Vân, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, nay thuộc thôn Hoàng Liên, xã Hoàng An (Hiệp Hòa). Đình được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) và được tu sửa ở thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đình chợ Vân được hạ giải vào năm 1984. Thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại đình Chợ Vân diễn ra nhiều cuộc mít tinh, tuyên truyền lớn do cán bộ cách mạng tổ chức và chỉ đạo thực hiện. Trên đà thắng lợi ở Xuân Biều (xã Xuân Cẩm) và Trung Định (xã Mai Trung), nhân dân vô cùng phấn khởi, khí thế cách mạng sục sôi, uy thế của Mặt trận Việt Minh ngày càng nâng cao. Tại đình Chợ Vân, ngày 15/3/1945, đồng chí Lê Thanh Nghị, khi ấy là Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ và đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, Bí thư Ban cán sự tỉnh chỉ đạo Chi bộ Hoàng Vân và Mặt trận Việt Minh địa phương tổ chức cuộc tuyên truyền vào ngày chợ phiên nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Nội dung cuộc diễn thuyết nêu rõ tinh thần cơ bản của Nghị quyết hội nghị Ban Thường vụ Trung ương (9/3/1945). Các đồng chí đã phân tích tình hình thế giới, trong nước, chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân ta trước mắt lúc này là phát xít Nhật và phát động quần chúng phá kho thóc của Nhật, Pháp giải quyết nạn đói. Tiếp đó, để biểu dương lực lượng, ngày 16/3/1945, Ban cán sự tỉnh tổ chức cuộc mít tinh lớn tại đình Chợ Vân. Sau cuộc mít tinh, tự vệ chiến đấu, nhân dân kéo đi phá kho thóc đồn điền. Sự kiện này tác động mạnh mẽ tới phong trào cách mạng ở các vùng xung quanh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Theo các bậc cao niên và lãnh đạo địa phương, gần 60 năm trước, ngôi đình là điểm dạy, học của thôn, xã. Năm 1965, 1966, trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, ngôi đình là nơi chứa các linh kiện máy móc của lực lượng phòng không không quân. Ngày 10 tháng Giêng hằng năm, địa phương tổ chức hội đình Chợ Vân. Trong ngày hội có nhiều hoạt động như hát quan họ, các trò chơi dân gian, thi đấu bóng chuyền hơi, cờ tướng, kéo co… Ngoài ra, vào ngày 10 tháng 4 âm lịch hằng năm có lễ cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân làng khỏe mạnh. Các nghi lễ này được khôi phục từ năm 2012 đến nay, sau 66 năm bị gián đoạn. Trải qua thời gian dài, song chợ Vân vẫn giữ được giá trị văn hóa truyền thống, trở thành nơi mua bán hàng hóa của người dân. Ngoài chiêm ngưỡng hệ thống di tích lịch sử, đến chợ Vân du khách bị cuốn hút bởi nhiều đặc sản của địa phương như trám đen Hoàng Vân, bánh chưng. Chợ họp vào các ngày 2, 4, 7, 9 âm lịch. Những năm qua, tại đình Chợ Vân diễn ra nhiều hoạt động báo công dâng Bác, kết nạp đoàn viên, đội viên, phát động lễ ra quân của đoàn thanh niên, các nhà trường... Qua đó giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, lòng yêu nước, niềm tự hào cho thế hệ trẻ. NGUỒN: Cổng thông tin điện tử UBND Xã Mai Đình

Bắc Giang 67 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Vân Xuyên

(BGĐT) - Tọa lạc tại xóm Trung, làng Vân Xuyên, xã Hoàng Vân (Hiệp Hòa), đình Vân Xuyên là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, tôn thờ người có công với dân, với nước đồng thời có ý nghĩa lịch sử quan trọng thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là một trong 8 điểm thuộc Di tích An toàn khu II (ATK II) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Đình Vân Xuyên được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII-XVIII). Hiện nay, đình còn bảo lưu được nhiều nét kiến trúc cổ, mang nét đặc trưng của ngôi đình vùng châu thổ Bắc Bộ với nhiều các hạng mục: Nghi môn, tả hữu vu, sân vườn và khu đình chính có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ đinh (Đại đình và Hậu cung). Tòa Đại đình được tạo bởi 3 gian 2 chái với 4 mái đao cong. Bờ nóc, bờ dải xây gạch phủ vữa, chính giữa bờ nóc đắp đề tài lưỡng long chầu nhật, bốn xung quanh đình được bưng ván gỗ. Gian giữa đình tạo lòng giếng, hai bên còn lại có ván sàn gỗ. Hệ thống khung gỗ của đình được tạo bởi 6 vì, kết cấu các vì được liên kết theo lối truyền thống kiểu thượng con chồng giá chiêng, hạ con chồng đấu kê, tiền kẻ hậu bẩy, với các mảng chạm khắc mang đặc trưng phong cách thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII- XVIII). Tòa Hậu cung có 2 gian nối vuông góc với Đại đình. Hậu cung được ngăn cách bởi lớp cửa bức bàn và thượng song hạ bản. Trong Hậu cung bài trí khám thờ, hương án, sập thờ, bài vị được chạm khắc tinh xảo, sơn thếp công phu. Thời kỳ tiền khởi nghĩa, đình Vân Xuyên là địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng: Ngày 25/2/1945, đội tự vệ làng Vân Xuyên được thành lập; ngày 15/3/1945, các đồng chí Lê Thanh Nghị, Nguyễn Trọng Tỉnh đã chỉ đạo Chi bộ Đảng và Mặt trận Việt Minh ở Hoàng Vân tổ chức mít tinh tuyên truyền xung phong, tuyên bố thủ tiêu chính quyền địch, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Vân Xuyên với sự tham gia của hàng trăm người với sự bảo vệ của các đội tự vệ chiến đấu ở Hoàng Vân, Ngọc Thành và ấp Ba Huyện; ngày 1/6/1945, tự vệ tổng Hoàng Vân cùng lực lượng vũ trang tỉnh Bắc Giang đã tập trung ở đình Vân Xuyên tiến vào huyện lỵ cướp chính quyền, thành lập chính quyền cách mạng. Với giá trị lịch sử tiêu biểu, năm 1994, đình Vân Xuyên được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng di tích quốc gia năm 1994; đến năm 2020, được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ATK II. NGUỒN: Báo Bắc Giang.

Bắc Giang 63 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Xuân Biều

Đình Xuân Biều là ngôi đình cổ được xây dựng lâu đời, tọa lạc bên bờ Bắc Sông Cầu thuộc thôn Xuân Biều, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa. Đình là nơi thờ Cao Sơn - Quý Minh và đức thánh Tam Giang có công đánh giặc cứu nước. Không chỉ là một ngôi đình có kiến trúc cổ, đình Xuân Biều còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý có giá trị nghiên cứu lịch sử, văn hóa. Trong đó giá trị đặc biệt của đình là giá trị về lịch sử, tại đình cách đây 77 năm diễn ra cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cấp cơ sở đầu tiên trong cả nước theo tinh thần Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945 do đồng chí Lê Thanh Nghị, Chính trị viên chỉ đạo phong trào chống Nhật tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Bắc Giang tổ chức. Năm 1994, đình được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia ATKII. Năm 2020, đình được nâng từ cấp Quốc gia lên cấp Quốc gia đặc biệt ATKII Hiệp Hòa. Do đình được xây dựng lâu đời, cùng với thời gian đã bị xuống cấp không đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, văn hoá của nhân dân địa phương cũng như công tác giáo dục truyền thống. Xuất phát từ nhu cầu đó, được sự chấp thuận của các cấp có thẩm quyền, ngày 10/12/2021, đình Xuân Biều được khởi công tu bổ, tôn tạo với tổng kinh phí đầu tư hơn 11,1 tỷ đồng. Sau gần 1 năm thi công, ngày 7/9/2022, đình đã hoàn thành và được Sở Xây dựng tỉnh Bắc Giang nghiệm thu bàn giao, đưa vào sử dụng. Đình hoàn thành tu bổ, tôn tạo vẫn giữ được nét kiến trúc xưa, phục vụ tốt hơn nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa của nhân dân địa phương, đồng thời cũng là nơi giáo dục truyền thống. Cùng đó, việc bảo tồn, tôn tạo các di tích đã và đang được các cấp ủy, chính quyền quan tâm. Di tích Quốc gia đặc biệt đình Xuân Biều được tu bổ, tôn tạo khánh thành cùng với điểm lưu niệm Bác Hồ về thôn Cẩm Xuyên được xây dựng trước đó trở thành những địa chỉ đỏ có giá trị giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng quê hương giàu mạnh. Tại buổi lễ, các đại biểu đã cắt băng khánh thành đình Xuân Biều. Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện trao Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đình Xuân Biều cho đại diện lãnh đạo xã, thôn. NGUỒN: Báo Bắc Giang

Bắc Giang 59 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật