Di tích lịch sử

Việt nam

Côn Sơn-Kiếp Bạc

Di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc thuộc địa bàn thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt năm 2012. Nơi đây gồm quần thể các di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm nhấn của khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc. Chùa Côn Sơn thuộc phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh, là một trong những trung tâm Phật giáo của dòng thiền phái Trúc Lâm Đại Việt được Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ở thế kỷ XIII. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Đền thờ Nguyễn Trãi, khởi công xây dựng ngày 14-12-2000, trên khuôn viên đất rộng gần 10.000 mét vuông, tại chân núi Ngũ Nhạc, nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa từng có đền thờ bà Trần Thị Thái, thân mẫu của Nguyễn Trãi. Phía bên phải là dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy khu Đền. Ngôi đền chính tựa lưng vào Tổ Sơn, hai bên tì vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân là tả Thanh long và hữu Bạch hổ. Phía trước có hồ nước rộng, tiếp theo là núi Trúc Thôn đối diện với núi Phượng Hoàng. Xa xa là dãy núi An Lạc. Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thành phố Chí Linh, là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Kiếp Bạc là tên ghép của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Đây là di tích quan trọng thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc. Khu vực đền Kiếp Bạc là một thung lũng trù phú ba phía có dãy núi Rồng bao bọc, một phía là Lục Đầu Giang. Núi tạo thành thế rồng chầu, hổ phục, sông tạo thành minh đường rộng rãi. Phía trước đền có cổng lớn có ba cửa ra vào nguy nga, đồ sộ. Trên trán cổng mặt ngoài có bốn chữ "Hưng thiên vô cực", dưới có 5 chữ "Trần Hưng Đạo Vương từ". Vào thế kỷ XIII, đây là nơi Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Sang thế kỷ XIV, đền thờ ông được xây dựng tại nơi đây và là nơi tổ chức các lễ hội hàng năm để dâng hương tưởng niệm vị anh hùng của dân tộc Việt, người có công lớn với đất nước và được dân gian tôn sùng là Đức Thánh Trần. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hải Dương

Hải Dương 867 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Hoa Dương

Chùa Hoa Dương ở xã Tuân Lộ, tổng Tuân Lộ, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. Nay là thôn Thượng, xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường. Chùa được xây dựng vào năm Chính Hoà thứ nhất (Canh Thân 1680), đời vua Lê Hy Tông Duy Hiệp. Chùa Hoa Dương được xây dựng thời Hậu Lê, năm 1680, còn lại cho đến ngày nay là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy nga, mặt bằng hình chữ “công” gồm 3 toà chính: Tiền đường (7 gian), thượng điện (4 gian) và nhà tổ (5 gian), tổng diện tích 262m2 cùng 2 nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích 196m2, phía trước sân còn cây Bồ Đề cổ thụ trăm năm tuổi và các loài cây: Đại, Ngâu, Lan, Sấu tạo nên không khí thâm nghiêm, u tịch nơi cửa thiền. Về kiến trúc: Kết cấu bộ vì theo kiểu thức “chồng rường giá chiêng”, hệ thống cột chịu lực đều bằng gỗ lim to, chu vi cột 1,5m và đều được kê trên chân đá tảng vuông, to mỗi chiều 75cm để chống mối và chống ẩm. Về mỹ thuật: Giá trị nổi bật của chùa Hoa Dương là nghệ thuật điêu khắc, được biểu hiện ở hệ thống tượng tròn và các tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối). Đó là các lớp tượng cơ bản, đại diện chung cho hệ thống tượng được bài trí trong một ngôi chùa thờ phật theo phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam, gồm các lớp: Bộ tượng Tam thế phật, Di Đà tam tôn phật, Thích ca cửu long, tứ Bồ tát, tứ Thiên vương, tượng Đức ông, Thánh hiền, Hộ pháp phật và tượng phật Tổ. Tất cả các pho tượng phật đều được tạo từ gỗ mít già, nguyên lõi, kỹ thuật công phu, tỉ mỉ, nghệ thuật sáng tạo, điêu luyện, thể hiện khả năng tư duy thẩm mỹ nghệ thuật cao và hoà nhuyễn trong nhận thức giá trị tuyệt đối “không” của phật pháp. Giá trị chân, thiện, mỹ của đạo phật bắt nguồn từ những chân lý giản đơn của cuộc sống thường nhật qua hàng nghìn năm tu luyện, bồi dưỡng, lưu truyền đã trở thành một bộ phận cơ bản của tâm hồn Việt Nam, tâm hồn nghệ sỹ khi thổi hồn cho các pho tượng hoặc từ gỗ, đá, hay đất mà trở nên lung linh, huyền ảo nhưng rất thực trước mỗi người khi bước chân vào chùa chiêm bái phật. Các tác phẩm điêu khắc gỗ có: 8 bức y môn (biển hoành) đều chung kích thước (dài 3,0m rộng 0,6m) được chạm nổi, sơn son thếp vàng các đề tài thiên nhiên: Hoa lá, vân mây, cổ thụ, chim muông vô cùng gần gũi, tự nhiên và sống động, chính giữa đục các “đại tự” mang ý nghĩa tụng ca, răn dạy, đan xen giữa phật pháp và triết lý Nho học. 8 bức “tranh Kệ” khắc các bài kệ bằng chữ Hán với nội dung về phong cảnh thiên nhiên và những đề tài liên quan đến việc hoằng dương phật pháp, là những thi ca tuyệt hảo lồng trong tác phẩm điêu khắc tài ba, trên nền của kỹ thuật chạm khắc, trang trí phóng khoáng, bố cục hài hoà, sơn thếp đẹp, xứng đáng là di sản cho muôn đời hậu thế chiêm ngưỡng và ngẫm suy. 8 bộ hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, câu chữ chuẩn chỉnh, ngay ngắn, ý tứ sâu xa, ngữ nghĩa bao trùm, chân tâm, chân thiện. Cùng với các di vật cổ: Chuông đồng, cây hương, bia đá,.đồng thời là những tư liệu văn tự cổ trên đá lưu mãi để muôn đời hậu thế, thập phương du khách, tăng ni phật tử tìm cơ hội đến chiêm bái nơi cảnh thiền ẩn lặng dấu quê. Chùa Hoa Dương có lịch sử trên 300 năm tuổi. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12/12/1994. Nguồn: Cổng thông tin giao tiếp điện tử Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc 1314 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Cói

Chùa Cói, xưa thuộc làng Cói xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, nay thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên. Di tích chùa Cói là một tổ hợp đầy đủ của một Phật đường bao gồm: Tam quan, chùa và tháp. Tam quan chùa Cói với kiến trúc gồm 3 gian nhỏ, gọn, có hệ thống chịu lực chính là 10 cột đá xanh nguyên khối được đẽo gọt công phu, đường kính 0,25m, cao 2,0m, có 3 hàng chân cột, trong đó 2 cột cái gian chính giữa sử dụng cột gỗ lim kéo dài vượt lên làm cột chung cho 2 vì nóc theo lối kiến trúc kiểu chồng rường, thay cho hàng con rường dưới ngoài cùng là đầu bẩy gỗ đua ra đỡ lấy tàu mái, 4 góc mái là các đầu đao cong vút, uyển chuyển ẩn hiện trong vòm lá xanh hữu cảnh đa tình. Trên 2 cột đá gian chính giữa được vát phẳng một mặt, lần lượt có ghi lạc khoản, tuy qua năm tháng đã phai mờ nhưng quan sát kỹ còn nhận đọc được “Canh Tý, mạnh xuân, cát nhật”. Theo tư liệu của Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam thì tam quan chùa Cói được xây dựng cùng với chùa Cói vào thế kỷ XIII. Chùa Cói nguyên gốc không còn, nay chỉ còn 12 pho tượng cổ được lưu giữ tại ngôi chùa được xây dựng lại vào năm cuối thế kỷ XX, gồm: 3 pho tam thế Phật, bộ Di đà Tam Tôn ( A Di đà, Quan thế âm và Đại thế chí Bồ tát), tượng A Nan Đà Tôn Giả và Phật Tổ Thích Ca thuyết pháp, tất cả đều bằng gỗ, sơn son thếp vàng, phong cách điêu khắc tượng tròn cuối thế kỷ XVIII. Tháp: Một loại hình kiến trúc Phật Giáo, một trong những đặc trưng của đạo phật, tháp có thể là nơi chứa đựng Xá Lị, tranh, tượng hoặc có ý nghĩa tượng trưng, ví như: 4 bậc thang lên tháp thể hiện khái niệm là từ – bi – hỉ – xả hay 10 bậc là tượng cho thập địa,…Các tầng tháp thể hiện các phương tiện hoằng hoá phật pháp. Nếu là tháp mộ thì tượng cho mộ tăng hay ni, hoa sen 5 cánh tượng trưng cho “Ngũ Phật”. Tháp Cói có 7 tầng, cao 7,70m, thu dần từ đế lên đỉnh, cứ mỗi tầng thu rút 20cm cả mỗi cạnh vuông và chiều cao (1 cạnh vuông chân đế dài 1,70m) – gạch xây tháp là gạch Bát Tràng, loại gạch bìa vuông, dày 3cm, các viên gạch ở 4 góc tháp đều được tạo vát lên làm cho cây Tháp có dáng cong thanh thoát nhẹ nhàng, vữa kết dính được chế từ vôi vỏ sò trộn mật mía – thân tháp được trát kín một lớp vữa bảo vệ. Tương truyền. tháp Cói được xây dựng khoảng giữa thế kỷ XVIII, có liên quan tới sự kiện về cuộc khởi nghĩa của Quận Hẻo (Nguyễn Danh Phương, 1740 – 1751) rằng: Chỉ qua một đêm, Nguyễn Danh Phương cho quân xây xong cây tháp và cả quán Tiên, nhằm gây thanh thế và thu phục nhân tâm chống lại triều đình Lê Trịnh, qua hàng trăm năm, một màu rêu phong cổ kính bao trùm toàn bộ cây tháp càng tăng thêm sự gợi mở mong muốn tìm hiểu về một loại hình kiến trúc phật giáo ở Vĩnh Phúc. Như vậy, chùa Cói được xây dựng từ thế kỷ XIII, đến thế kỷ XVIII sau khi dựng 2 cây tháp (nay chỉ còn một, do chiến tranh huỷ hoại) trở thành một tổng thể kiến trúc có giá trị nghệ thuật được Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng là di sản văn hoá có giá trị ở Việt Nam (năm 1939). Nằm trong một quần thể các di tích: Đình Đông Đạo, Quán Tiên, đình Tiên, chùa Hạ, cầu đá…và ở vị trí trung tâm của thị xã Vĩnh Yên, chùa tháp Cói sẽ là điểm đến tham quan, nghiên cứu của đông đảo du khách gần, xa trong và ngoài tỉnh. Nguồn: Trung tâm thông tin và xúc tiến du lịch Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc 1051 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình làng Hương Canh

Hương Canh vốn là tên một xã của huyện An Lãng, trấn Sơn Tây đời Hậu Lê, rồi được lấy làm tên tổng thời Nguyễn và tên của thị trấn ngày nay - thị trấn Hương Canh (thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Theo dân gian, Hương Canh còn được gọi là Tam Canh bởi đây là tên chung của ba làng Canh gồm: Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh. Địa danh Hương Canh còn có tên nôm cổ là Kẻ Cánh. Tên gọi này bắt nguồn từ giống lúa của địa phương, thứ lúa có hai tia nhọn ở hai bên hạt thóc. Người ta gọi hai tia nhọn ấy là CÁNH và hạt thóc có tên là GIÉ CÁNH được lấy chữ CÁNH làm danh xưng của làng. Ban đầu ở đây mới có một làng Hương Canh, dần dần dân số phát triển mới tách thêm làng lấy tên là Ngọc Canh - nơi có thứ lúa Gié Cánh, hạt gạo đẹp như ngọc. Sau cùng, khi cả hai làng Hương Canh (lúa Cánh thơm), Ngọc Canh (lúa Cánh đẹp) cư dân đông đúc, mới mở rộng sang phía Tây và Tây Bắc thêm một làng nữa và lấy tên là Tiên Canh với nghĩa “lúa Cánh sớm”. Ba ngôi đình của ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh đều được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia và hiện đang trong quá trình lập hồ sơ đề nghị xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt. Các đình tọa lạc tại vị trí cách nhau từ 50m đến 100m, tạo thành quần thể di tích hoành tráng, kề sát quốc lộ 2A, thuận lợi cho tham quan, du lịch và hành hương. Về các nhân thần được thờ, theo truyền tụng của nhân dân địa phương, sau khi đánh bại quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc Hà Nội). Đất nước đã độc lập, hòa bình nhưng Ngô Quyền vẫn không quên đề cao cảnh giác, luyện tập binh mã để phòng giặc. Bấy giờ săn bắn cũng là một hình thức tập trận, nên có lần Ngô Quyền đã cử hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn cùng vị tướng thân cận Đỗ Cảnh Thạc mang quân đi tập trận dưới hình thức đi săn. Họ đã hành quân qua Hương Canh, đóng doanh trại tại một gò đất giữa đồng, nhân dân gọi là Gò Ngự. Để ghi lại dấu thiêng và tri ân các vị anh hùng nhà Ngô, nhân dân Hương Canh đã lập ở Gò Ngự một ngôi miếu để thờ các vị, theo quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” (sống là tướng giỏi - chết là thần thiêng). Đến thời Hậu Lê, nhân dân ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh lại xây dựng mỗi làng một ngôi đình, rước thần hiệu về thờ ở đình và hàng năm đều mở hội, tế lễ như hiện nay. 1.Đình Hương Canh Được hình thành sớm nhất nên làng Hương Canh xây dựng đình trước hai làng còn lại. Tuy không to hơn đình Ngọc Canh và đình Tiên Canh, nhưng đình Hương Canh được gia công, thể hiện nhiều hơn về trang trí, chạm trổ. Đình tọa lạc ở phía Nam thị trấn Hương Canh, mặt tiền hướng Tây Nam, nhìn ra hồ Điếm Lang, đấu trường kéo song và sông Cầu Treo. Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lịch sử, gần 300 năm nay đình Hương Canh vẫn đứng đó như thách thức với nắng mưa, chống chọi với thiên nhiên về bộ mái đồ sộ, duyên dáng của mình. Mái đình lợp bằng ngói mũi hài, được xếp đặt một cách thứ tự theo kiểu đóng ốc vảy rồng, rất chặt chẽ, phẳng đẹp. Bờ nóc đình được đắp thẳng ke, các đầu đao cong vút. Toàn bộ mái đình trông như một cánh diều khổng lồ đang động đậy, sắp sửa bay lên không trung. 2.Đình Ngọc Canh được kiến tạo vào thời Hậu Lê, trùng tu vào đầu triều Nguyễn. Trên câu đầu thứ nhất ở đình Ngọc Canh có 2 vế chữ chạm nổi: “Gia Long thập nhị niên, tuế tại Quý Dậu, thập nguyệt, nhị thập lục nhật y cựu thượng lương, trùng tu thổ mộc Giáp Tuất niên, ngũ nguyệt, thập ngũ nhật hoàn thành, hòa ninh đại cát”. (Nghĩa là: Năm Gia Long thứ 12 là năm Quý Dậu, ngày 26 tháng 10, dựng cây nóc như cũ. Chữa lại mộc, ngõa năm Giáp Tuất. Ngày 15 tháng 5 hoàn thành, mong hòa thuận tốt lành). Tính theo dương lịch, Quý Dậu là năm 1813 và Giáp Tuất là năm 1814, việc trùng tu kéo dài 7 tháng. Câu đầu thứ hai khắc là: “Minh mệnh nguyên niên, tuế tại Canh Thìn, lục nguyệt, thập nhất nhật, khởi công trang sức kim chu, chí thập nguyệt, thập nhật, hoàn thành đại cát đại vượng” (Nghĩa là: Năm Minh Mệnh thứ nhất là năm Canh Thìn, ngày 11 tháng 6 khởi công, sơn vẽ vàng son, đến ngày 10 tháng 10 hoàn thành, mong tốt lành lợi vượng). Tính theo dương lịch, Canh Thìn là năm 1820, niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất. Việc trang trí kéo dài 4 tháng. 3.Đình Tiên Canh được xây dựng sau cùng, song đình Tiên Canh có quy mô lớn hơn hai đình Ngọc Canh và Hương Canh. Về niên đại xây dựng, khi dỡ thượng lương nhà hậu xuống để phục chế, nét chữ khắc còn rõ rành rành “Cảnh Hưng tam thập thất niên, tuế thứ Bính Thân, thập nhị nguyệt, nhị thập nhị nhật, hoàng đạo thời, thụ trụ thượng lương đại cát lợi vượng thịnh” (Nghĩa là: Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, năm Bính Thân, tháng 12, ngày 22, giờ hoàng đạo, dựng cây nóc rất tốt lành, lợi vượng nhiều). Chiếu theo dương lịch, Bính Thân là năm 1776. Như vậy nhà hậu của đình được kiến tạo cách ngày nay (2022) đã 300 năm. Câu đầu hữu biên cũ của đại bái khắc “Kỷ Mùi niên, thập nguyệt Ất Hợi, nhị thập nhật Đinh Mùi, Ất Tỵ thời, thụ trụ thượng lượng đại bái” (Nghĩa là: Năm Kỷ Mùi, tháng 10 Ất Hợi, ngày 20 Đinh Mùi, 10 giờ sáng Ất Tỵ, dựng cây nóc nhà đại bái). Như vậy, tòa đại bái đình Tiên Canh được xây cất vào niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, triều Tây Sơn Nguyễn Quang Toản - 1799, cách ngày nay (2022) đã 223 năm, làm sau nhà hậu 23 năm. Đây là 3 ngôi đình cổ tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đình làng Bắc Bộ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Di tích kiến trúc nghệ thuật cụm đình Hương Canh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt ngày 29/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Báo Vĩnh Phúc tổng hợp

Vĩnh Phúc 1245 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Báo Ân

Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc 1615 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình Thổ Tang

Đình Thổ Tang thuộc thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đình được tạo dựng từ thế kỷ XVII, trải qua thời gian, đến nay còn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn kiểu thức kiến trúc thời Hậu Lê. Đình thờ danh tướng Lân Hổ, có công đánh giặc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII. Tương truyền, theo lệnh Vua Trần, Lân Hổ đã dẫn quân lên vùng Gia Ninh (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) lập phòng tuyến, bày binh bố trận, chỉ huy quân sĩ chiến đấu anh dũng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ kinh đô Thăng Long. Hiện nay suốt một dải từ Dục Mỹ- Sơn Vi (Phú Thọ) đến Vĩnh Tường - Yên Lạc (Vĩnh Phúc) có hệ thống di tích thờ Lân Hổ. ở xã Thổ Tang có Miếu Trúc, đình Thổ Tang, đình Phương Viên, trong đó đình Thổ Tang là trung tâm để tổ chức lễ hội cùng những trò diễn, hèm tục tưởng niệm về vị tướng tài Lân Hổ và cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước của dân tộc ta thời Trần. Đình Thổ Tang được xây dựng với quy mô đồ sộ, gồm hai toà kiến trúc bố cục theo hình chữ "đinh". Đại đình 5 gian 2 dĩ 6 hàng chân, hậu cung 2 gian. Toàn đình đếm được 60 cột, làm bằng gỗ tốt đại khoa. Cột cái có đường kính 0,80m, cột con đường kính 0,61m. Nền đình dài 25,80m, rộng 14,20m, bó đá xanh xung quanh. Kết cấu kiến trúc kiểu tứ trụ, chồng rường giá chiêng, gia cố bền chắc. Đình Thổ Tang hiện còn 21 bức chạm khắc gỗ hết sức tinh tế, được thể hiện trên các thành phần kiến trúc: Thân kẻ, thân bẩy, thân rường, nội dung phong phú, khái quát về chu trình: lao động - làm ăn - hưởng thụ của cư dân nông nghiệp, của nhân dân ta thời Lê Trung hưng. Các bức chạm ở đây được sắp xếp thứ tự theo chu trình đó. Bước vào cửa đình thì thấy ngay bức chạm đầu tiên là "ngày hội xuống đồng" (lễ tịch điền) rồi lần lượt đến các bức "bắn thú dữ" để bảo vệ mùa màng, thôn xóm. Cảnh vui chơi giải trí có: "đá cầu", "chơi cờ", "uống rượu", "người múa". Cảnh sinh hoạt gia đình có: "trai gái tình tự", "gia đình hạnh phúc". Phê phán những thói hư tật xấu có: "đánh ghen", "vợ chồng lười". Trang trí thờ phụng gồm các bức: "cửu long tranh châu", "bát tiên quá hải" và nhiều hình rồng, phượng khác. Theo đánh giá của các nhà sử học, Thổ Tang là nơi duy nhất của nước ta thờ ba chữ “Hòa vi quý”. Ba chữ đại tự này đến ngày nay vẫn còn khá nguyên vẹn. Chữ được sơn son thếp vàng trên nền màu gỗ nâu sậm. Hai bên hoành phi là hai dòng chữ nhỏ ghi thời điểm khắc chữ. Chính vì sự linh thiêng như vậy mà từ khi được xây dựng tới thời điểm hiện tại đình Thổ Tang chưa từng bị kẻ xấu xâm hại. Trải qua 400 năm trải qua mọi biến cố thăng trầm mà ngôi đình vẫn nguyên vẹn từ cột lim đến viên ngói vảy hến. Đình Thổ Tang được xếp hạng Di tích cấp quốc gia năm 1964. Đình Thổ Tang là một trong những ngôi đình đạt đến đỉnh cao về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian thời Hậu Lê, là di tích được xếp hạng quốc gia sớm nhất ở Vĩnh Phúc, mấy thập kỷ qua luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học, sự quan tâm bảo vệ tu bổ của Nhà nước các cấp, chính quyền và nhân dân địa phương. Nguồn: Cổng thông tin điện tử giao tiếp Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc 980 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Bắc Cung

Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc 1889 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hà Tiên

Chùa Hà Tiên tọa lạc trên đồi Hà – thuộc thôn Gia Viễn xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.Xưa xã Định Trung thuộc huyện Tam Dương – Thời Hùng Vương thuộc Phong Châu, thời Trần thuộc lộ Tam Bái, thời Nguyễn thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây; năm 1899, thành lập tỉnh Vĩnh Yên – nay là thôn Gia Viễn, xã Định Trung thuộc thành phố Vĩnh Yên – tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa Hà Tiên được xây dựng năm Quý Mùi (1703), niên hiệu Chính Hòa thứ 24, đời vua Lê Hy Tông Duy Hiệp. Từ xưa đến nay, du khách và Phật tử gần xa mỗi khi đến chùa Hà Tiên không chỉ thắp hương khấn Phật mà còn thành tâm làm lễ trước thánh mẫu cầu cho quốc thái dân an và cuộc sống bình yên. Theo sách xưa, chùa nằm ở thế “sơn chỉ, thủy giao”, hai bên có gò đất lớn án ngữ tựa hình thanh long, bạch hổ. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, bà Lăng Thị Tiêu trên đường hội quân với vua Hùng Vương thứ 7 thấy thế đất lạ nên đã dừng chân để chiêu binh. Sau này bà được tôn phong là Quốc Mẫu Tây Thiên, để tưởng nhớ bà, người dân lập bài vị thờ tại chùa, gọi là Đức Thánh Đại Vương. Chùa Hà Tiên là nơi thờ tam bảo đồng thời cũng thờ tự Quốc Mẫu. Chùa Hà Tiên còn có tên khác là “chùa cầu mưa”. Ngày xưa trong vùng thường xuyên hạn hán. Người dân sống dựa vào nông nghiệp rơi vào cảnh đói khát. Vị trụ trì chùa khi ấy là Tịnh Huân đã cho lập đàn cầu mưa. Hơn thế, vị sư đã nguyện tự thiêu để cầu mưa cho dân vào ngày 30-5 âm lịch. Sau khi phát nguyện trước tam bảo và đất trời, ngài đã tọa trong tư thế kiết già rồi tự thiêu để cúng già chi thiên, cầu đảo cho dân. Đến ngày 1-6, sau một ngày tự thiêu, thì trời mưa lớn và kéo dài liên tiếp 3 ngày. Và từ đó, hàng năm cứ đến ngày giỗ của sư tổ, trời thường đổ mưa. Vô cùng ghi nhớ công ơn của bậc chân tu, người dân đã dựng ngôi tháp bảo ba tầng để lưu trữ tro cốt của ngài. Hiện trong vườn mộ tháp của chùa có 8 ngôi tháp. Phần lớn những bảo tháp vẫn còn nguyên với 3 tầng chính. Các tháp cao khoảng 3m, có 4 mặt, dựng bằng gạch nung đỏ kết dính bằng nguyên liệu từ nhựa cây kết hợp đất sét nhão. Dù 8 ngôi tháp đều lưu giữ báu thân của các vị cao tăng, tuy nhiên, ở tháp của ngài Tịnh Huân lại đặc biệt hơn do được bao phủ bởi một cây sanh. Cây sanh lâu năm vẫn xanh tốt, mọc rất nhiều rễ, bao trùm gần trọn 3 mặt của bảo tháp. Trong chùa còn có giếng cổ (giếng Ngọc) có dòng nước lành mát. Ngày xưa, vào mùa hạn, những giếng khác đều cạn, riêng giếng cổ vẫn còn nước, vì thế người dân trong làng phải ra giếng cổ múc nước. Giếng chùa Hà Tiên “trong xanh, mạch thủy nhiệm màu” nên các cụ xưa vẫn ví von: “Dù ai có xấu như ma/ Uống nước chùa Hà lại đẹp như tiên”. Hàng năm, vào những ngày lễ lớn, khách thập phương đến chùa lễ Phật đều xin nước ở giếng Ngọc, mang về thắp hương và uống dần, nhất là những ngày đầu xuân. Người ta tin rằng có nước giếng cổ để sử dụng dịp Tết sẽ mang đến nhiều điều may mắn. Với những giá trị về lịch sử và văn hóa được nêu khái quát trên, chùa Hà Tiên đã được UBND tỉnh Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc) ra quyết định xếp hạng là di tích Lịch Sử Văn Hoá cấp tỉnh, năm 1995. Nguồn: Cổng thông tin điện tử TP Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc 1088 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Thờ Trần Nguyên Hãn

Đền thờ Trần Nguyên Hãn, còn gọi là đền Tả Tướng hay đền Thượng là một công trình kiến trúc nghệ thuật được xây dựng vào thời Hậu Lê cách đây trên 200 năm. Di tích này gắn liền với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Trần Nguyên Hãn. Ông vốn xuất thân dòng dõi vương tộc nhà Trần và là một vị tướng tài đức song toàn, có công lớn giúp Lê Lợi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đền ở thôn Đa Cai, xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch. Đền thờ Trần Nguyên Hãn Tả Tướng Quốc, phò Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước thế kỷ XV. Đền được xây dựng trên một thế đất bằng phẳng, rộng cao, tương truyền chính là nơi đặt Phủ đệ cũ của Trần Nguyên Hãn. Đền được cấu trúc theo kiểu chữ “Đinh”, xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuôn viên chữ “điền” vuông vắn. Các công trình xây dựng gồm 3 phần: Cổng đền, nhà tiền tế, hậu cung. Từ khi xây dựng đến nay, đền đã được tu sửa nhiều lần và xây dựng thêm, chủ yếu vào đời Nguyễn. Nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn: Đục trơn bào nhẵn, trang trí đơn giản. Liên quan tới di tích tương truyền còn có 2 vật cổ: Thanh Gươm và phiến đá mài gươm. Chuyện kể rằng: Trong thời kỳ giặc Minh thống trị nước ta, Trần Nguyên Hãn mới bước vào tuổi thanh xuân. Vì cha mẹ lên khai hoang lập trại ở địa đầu trang Sơn Đông, nên ngày ngày Trần Nguyên Hãn vẫn đi cày, đi cuốc. Trong một lần đi cày ở nương Gò Rạch, Trần Nguyên Hãn cày lên một thanh sắt dài như gươm. Đêm đêm ông đem gươm ra mài ở một hòn đá lớn bên bờ ao Son, vì vậy hòn đá đó có tên là đá mài gươm, hòn đá có một vết lõm trông tựa như vết chém tương truyền đó là vết chém thử gươm của Trần Nguyên Hãn. Thanh gươm được Trần Nguyên Hãn mang bên người, tình cờ Trần Nguyên Hãn được một ông chủ bè ở cửa sông Phú Hậu tặng một thanh gỗ hình chuôi gươm vớt ở dưới lòng sông, khi cắm lưỡi gươm vào thì vừa khít, thanh gươm từ đó công hiệu. Thanh gươm huyền thoại ấy đã gắn liền với những chiến tích lẫy lừng của vị công thần khai quốc thứ nhất triều Lê. Tương truyền, về sau Tôn Thất Thuyết đã mượn thanh gươm ấy đem đi Cần Vương chống Pháp. Còn phiến đá, sau một thời gian dài bị phù sa sông Lô lấp, ngày 12/1/1998 nhân dân thôn Đa Cai tìm thấy ở độ sâu 2m nghiêng về phía ao sen, chiều dài khoảng 2,49m, chiều rộng khoảng 1,6m, bề dày khoảng 0,4m và nặng khoảng 2 tấn. Phiến đá cổ tích này được chính quyền và nhân dân xã Sơn Đông trục vớt lên, chuyển về đặt trong khuôn viên đền thờ Tả Tướng Quốc để mọi người cùng chiêm ngưỡng dấu tích còn lại của người anh hùng thủa trước. Năm 1984, Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử đền thờ Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn là Di tích quốc gia. Hằng năm, vào những dịp kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của ông, nhất là vào dịp đầu Xuân, nhân dân trong vùng và khắp nơi trong cả nước thường về đây dâng hương tưởng nhớ công lao của người Anh hùng dân tộc. Nguồn: Báo điện tử Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc 1221 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Danh thắng Tây Thiên

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Tây Thiên - Tam Đảo (Khu danh thắng Tây Thiên) thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Tây Thiên nằm trong thung lũng lòng chảo của sơn hệ Tam Đảo, có độ cao từ 54m đến 1.100m so với mực nước biển, phạm vi phân bố khoảng 11km2 với cảnh quan đẹp và hùng vĩ. Tam Đảo dùng để chỉ 3 ngọn núi (trong dãy núi) liền nhau đột ngột nổi lên, bồng bềnh trong mây, tựa như 3 hòn đảo trong biển mây phủ, theo địa chí cổ đó là Phù Nghì cao 1.250m; Thiên Thị (Kim Thiên) cao 1.585m; Thạch Bàn cao 1.585m. Khu di tích và danh thắng Tây Thiên nằm trên sườn ngọn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo trong khoảng chiều dài 11km, chiều ngang 1km, là một quần thể di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, bao gồm hệ thống các đình, chùa có giá trị văn hóa và khảo cổ như đền Thượng, đền Thõng, đền Mẫu, đền Cậu, đền Cô... Nơi đây tập trung mật độ lớn dấu vết cũ cũng như các công trình văn hóa, các địa chỉ có giá trị nghiên cứu khảo cổ học nằm ẩn mình dưới những cánh rừng già dọc theo con suối Tây Thiên... Đền Thõng: là kiến trúc khởi đầu cho cả hệ thống di tích Tây Thiên. Đền nằm ở chân núi, trên một nền cao rộng, được dựng theo phong cách cổ truyền. Hệ thống bậu đá chạy dài suốt mặt trước, với ba lối lên, phân cách bởi bốn rồng lớn. Tiếp theo là nghi môn tứ trụ, mới được dựng lại theo kiểu thức truyền thống, với chất liệu bằng đá. Sau nghi môn trụ là sân đền, rất rộng, được lát đá. Ngôi điện chính có kết cấu mặt bằng hình chữ Đinh, gồm tiền bái, với ba gian hai chái lớn, phần “chuôi vồ”, nơi đặt bàn thờ của Thánh Mẫu có ba gian dọc. Đền Cậu - đền Cô: vượt qua đền Thõng bằng con đường đá xếp gập ghềnh men theo bờ suối khoảng hơn 1km tới đền Cậu. Ở nơi đó đã từng có một miếu nhỏ, nay được thay bằng một căn nhà có vẻ đơn sơ làm nơi thờ. Trung tâm của chính điện, có tượng của ba cậu bé cửa rừng đặt trong khám. Đền Cậu khởi nguồn là khe Trường Sinh, tương truyền là nơi “Cậu” ngự lại chiêu mộ và nuôi quân để đi theo phò Quốc Mẫu. Đền được tu sửa lại vào năm 1993. Đền Cô, cách đền Cậu khoảng 2km, gần thác Bạc, bên dòng Giải Oan (phần trên suối Trường Sinh), để chúng sinh rũ bỏ bụi trần mà nhẹ tâm tiếp bước lên miền thánh thiện. Đền Cô cũng có niên đại lâu đời và hiện đang thờ Cô Bé, tương truyền là một vị con nhà Trời đã cùng Quốc Mẫu giúp dân giúp nước. Cảnh sắc nơi đây thanh nhã, khoáng đãng và yên bình với thảm thực vật phong phú cùng khí hậu quanh năm trong lành, mát mẻ. Dòng suối Giải Oan cùng giếng nước cổ sát chân đền tăng thêm vẻ tịch mịch và thanh tĩnh cho không gian nơi đây. Nếu ai lấy nước từ đó dâng lên cùng lễ vật rồi uống sẽ thấy trong lòng thư thái, thanh thản và tịnh tâm đến lạ lùng. Khu vực đền Thượng: Hiện nay, đây là khu vực tâm linh chung của cả tín ngưỡng dân gian và tôn giáo, mà trung tâm là điện thờ Quốc Mẫu Tây Thiên. Đền Thượng: Những tầng bậc xen nhau của mạch núi nơi đây đã tạo nên nền của các điện thờ khác nhau, trong đó, đền Thượng nằm ở chính tâm, lưng tựa vào ngọn Thạch Bàn, hai bên là hai tay núi chạy xuống, phía trước rộng thoáng. Nơi đây, mây vờn núi, cây cối tốt tươi, chim muông tụ hội, khe suối reo vui, tạo thành một trong những miền Thánh địa của dãy núi Tam Đảo. Đền Thượng quay mặt về hướng Tây – Nam; Nghi môn được kết cấu theo kiểu tứ trụ, có tường nối giữa trụ lớn và trụ bên, chỉ để một cửa giữa cho khách hành hương ra vào. Trên các tường này đắp thanh long (rồng xanh), bạch hổ (hổ trắng) và cây cỏ tượng trưng cho bốn mùa. Sân lát đá ở giữa có thần đạo, tạc ba chữ lớn Phúc, Lộc, Thọ (nối dọc) dẫn vào bậc thềm lên điện. Kiến trúc này có mặt nền kiểu chữ Đinh, kết cấu ba gian, hai chái lớn. Nhìn mặt trước, kiến trúc khá cân đối với hai tầng “chồng diêm” tám góc mái cong duyên dáng. Ở phần “chồng diêm” gian giữa treo một bức hoành phi lớn, đề “Đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên” bằng Quốc ngữ. Trên chính điện chỉ một pho tượng Bà ngồi ở trên bệ trung tâm, mang dáng vẻ uy nghi, sang trọng, hai chân buông thẳng, hai tay tì trên gối, tay phải cầm quạt gấp. Ngoài ra, tại khu vực này còn có các công trình mới xây dựng như: miếu Sơn thần, đền Cô Chín, đền Địa Mẫu, đền Tam tòa Thánh Mẫu, Tả/ hữu vu. Đền thờ thần núi Tam Đảo: Sự tích kể rằng, thần đã âm phù cho cuộc cầu đảo dưới thời Trần Nhân Tông (1279 - 1293) nên được vua phong là “Thanh Sơn Đại Vương”. Đến thời Lê Sơ, đời vua Nhân Tông, niên hiệu Thái Hoà thứ 8 (1450), vua sai đại thần Lê Khắc Phục lên tế thần, ông có để lại tấm bia ma nhai (khắc vào vách núi) ghi lại sự kiện này (cách đền khoảng gần 700m theo lối mòn). Bia đá chữ: một di vật lịch sử có giá trị, là tấm bia ma nhai ở khu vực mà người dân địa phương gọi là Bia đá chữ. Tấm bia này trước đây được nhiều người biết đến nhưng chưa ai công bố bởi những khó khăn trong việc đi lại tiếp xúc với hiện vật. Qua khảo sát thực tế, đó là bài văn bia được khắc trực tiếp vào giữa một phiến đá màu ngà, chiều dài khoảng 5m, cao khoảng 3m. Cả phiến đá nằm nghiêng bên bờ suối, tạo ra hình vòm, tựa như hàm ếch, khiến cho phần chữ của bia khắc ở giữa hàm ếch không bị bào mòn bởi mưa nắng. Bia đá chữ có tổng cộng 121 chữ Hán, chữ khắc theo hàng dọc, phân bố trên 11 dòng, dòng nhiều 16 chữ, dòng ít 3 chữ. Chữ dùng theo thể khải thư, với đặc điểm chữ khắc sâu, dễ đọc. Duy ba chữ Bát nhã tuyền (Suối Bát nhã) đặt ở cuối bia được khắc to. Với giá trị tiêu biểu trên, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Tây Thiên - Tam Đảo (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Vĩnh Phúc 1053 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Tháp Bình Sơn

Tháp Bình Sơn (Tháp Then, Tháp chùa Then, Tháp chùa Vĩnh Khánh) thuộc thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; là một kiến trúc Phật giáo mang dấu ấn của một giai đoạn khá dài (khoảng từ thế kỷ XIV tới XVI). Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh toạ lạc trên một gò đất cao và rộng rãi, diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ là 17.200m2, bao gồm: Tháp Bình Sơn, tòa Tam bảo cũ, Tam bảo mới, giếng mực, nhà khách, hồ sen, cổng, các công trình phụ trợ. 1. Tháp Bình Sơn Tháp hiện nay cao 16,5 mét, (chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ), được cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về ngọn, với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ ngôi tháp được xây bằng gạch nung không tráng men. Từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét hoa văn hoàn chỉnh nhất. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng với hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu"… Từ tầng thứ ba trở lên, trang trí vẫn còn, nhưng càng lên cao, chiều ngang mặt tháp càng bị thu hẹp, thì trang trí cũng giảm dần. 2. Toà Tam bảo cũ: được đại trùng tu năm 1976, dạng chữ Đinh, có diện tích 131,5 m2, bao gồm Tiền đường 5 gian , Hậu cung 3 gian . Đặc biệt công trình có 2 cột đồng trụ phía trước, đua ra 6m, tạo như tay ngai. Hệ thống tượng thờ tại đây chủ yếu được làm bằng đất phủ sơn, niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vài tượng có niên đại thế kỷ XX. 3. Tam bảo mới: được xây dựng năm 2012, trên nền nhà tam bảo cũ, hình thức kiến trúc mang phong cách thiền viện. 4. Giếng Mực: tương truyền vị trí này xưa kia là đế của một ngôi tháp cổ màu xanh, khi tháp cổ này biến mất để lại một hố sâu hình giếng tròn. 5. Nhà khách: mới được xây dựng năm 2012, diện tích 283,5m2 có mặt bằng chữ nhất, kiến trúc đao mái, phù hợp với kiến trúc cổ truyền thống. 6. Hồ sen: nằm ở vườn trước tháp Bình Sơn, hiện đang trồng sen 7. Cổng vào khu di tích: gồm 4 cột trụ xây gạch, gắn 2 cánh cổng sắt ở lối chính giữa, hai lối bên rào tạm bằng cây, tre mang tính chất là cổng bảo vệ. 8. Một số trang trí của Tháp Bình Sơn Sư tử hý cầu: một trong những đồ án gây thắc mắc cho các nhà nghiên cứu là "sư tử hý cầu”, vì nó khác xa những con "sấu đớp ngọc" đội toà sen ở các bệ Phật thời Lý. Rồng: có sừng, uốn trong “ổ”, đầu quay vào giữa vòng tròn, thân không cuộn khúc mà lượn thành hình sin, do đó không "thắt túi", chân đạp ra ngoài, hoặc vắt qua thân để đạp ra ngoài, sống lưng hình “răng cưa” một chân trước đưa lên nắm "tóc"... Một số chi tiết vừa nêu phảng phất bóng dáng những con rồng cuối Trần, nhưng các chi tiết khác lại không cho phép quy con rồng trên tháp Bình Sơn vào một kiểu thức nhất định nào cả. Điều quan trọng hơn là rồng Bình Sơn thường đưa chân trước lên nắm tóc, trong một tư thế ngộ nghĩnh, rất nghịch ngợm, do đó khá "dân gian": trong trường hợp này, nó đã mang phong cách của mô - típ rồng vuốt râu thời hậu Lê. Lá đề: là một loại hình tương đối phổ biến, với những hoạ tiết hàm nhiều ý nghĩa. "Lá đề” Bình Sơn thuộc nhiều kiểu thức, nhưng kiểu nào cũng đơn giản, không thực trau chuốt như "lá đề" thời Lý. Hoa cúc dây: đã có từ thời Lý dưới dạng uốn thành khung tròn, lòng khung chứa gọn các đồ án trang trí khác. Thời Trần kế thừa bố cục ô tròn đó. Đấu ba chạc (con sơn): một điểm đáng quan tâm là đấu này đã thấy xuất hiện từ thời Lý (Tháp Chương Sơn, Nam Định) chúng càng phổ biến hơn ở dưới thời Mạc (Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội). Tháp Bình Sơn có nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Tháp Bình Sơn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, mà còn có giá trị mỹ thuật cao được gọi là “Hòn ngọc báu của kho tàng dân tộc”, trên các hòn gạch có rất nhiều loại hoa văn trang trí, chỗ hình tròn, chỗ lượn vòng tròn, chỗ sâu, nông, chỗ đậm… chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện. Tháp Bình Sơn là một công trình có kiến trúc độc đáo, theo đánh giá của người Pháp đây là một cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Hiện nay, Lễ hội tại Khu di tích Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh được địa phương tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm, gọi là “Lễ hội chùa tháp”, bao gồm những nghi thức: rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và những chương trình văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian (cờ tướng, cờ người, chọi gà...) Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015 . Nguồn: Cục di sản văn hoá

Vĩnh Phúc 1095 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Lịch sử Đền Cửa Ông

Đền Cửa Ông (còn gọi là Đông Hải linh từ hay đền Đức Ông) nằm trên địa bàn phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đền thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. Qua sử sách ghi chép có thể khẳng định đền Cửa Ông được khởi dựng, tồn tại qua hơn 100 năm. Lúc khởi dựng, đền chỉ là một thảo am nhỏ làm bằng tranh, tre, lứa lá; năm 1907 – 1916, đền được trùng tu lại; năm 1916, xây thêm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, chùa; năm 1946, đền Hạ, đền Thượng tiếp tục được tu bổ, tôn tạo; năm 2014, quy hoạch tổng thể khu di tích Đền Cửa Ông được phê duyệt với diện tích 18,125 ha; đến năm 2016, đền Trung được xây dựng và hoàn thành vào năm 2017. Ngoài ra, còn có đền Cặp Tiên (nhân dân gọi là đền “Cô bé Cửa Suốt”) được tạo dựng vào thời Nguyễn. Đền Cửa Ông lúc đầu khởi dựng chỉ thờ Trần Quốc Tảng, sau khi xây thêm các khu đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, chùa Cẩm Sơn... cụ thể như sau: Khu vực đền Hạ: gồm đền Mẫu và đền Trung Thiên Long Mẫu Đền Mẫu: thờ tam tòa Thánh Mẫu (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải phủ), Ngọc hoàng thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tứ vị chầu bà, Ngũ vị tôn ông, ông Hoàng Mười, ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bẩy. Đền Trung Thiên Long Mẫu: thờ Trung Thiên Long Mẫu và phối thờ ba cô, cậu bé Cửa Suốt, cô bé Cửa Suốt (hai vị giống như Kim Đồng, Ngọc Nữ, tượng trưng cho âm và dương luôn theo hầu bảo hộ mẫu, bảo vệ vùng đất, vùng biển Cửa Suốt, bảo vệ ngôi đền mà Trung Thiên Long Mẫu tọa lạc). Hiện, đền Cửa Ông còn lưu giữ đạo sắc phong cho xã Cẩm Phả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên, phụng thờ Trung Thiên Long Mẫu tôn thần, ghi ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 (1917). Bia đá ở đền Hạ dựng vào năm Mậu Tý (1948). Khu vực đền Trung: thờ Khâm Sai Đông Đạo Tiết Chế Hoàng Cần, người có công dẹp giặc ngoại xâm phương Bắc, trấn giữ vùng biển Đông. Tại đây, còn thờ Sơn thần, Thủy thần vì đền Trung nằm trên dãy núi Cẩm Sơn, phía trước là biển Đông, người dân ở khu vực cửa biển cũng như thuyền bè qua lại đều cầu mong sự phù trợ, giúp sức của các vị Sơn thần, Thủy thần. Khu vực đền Thượng: gồm đền Thượng, đền Quan Châu, đền Quan Chánh, chùa và lăng mộ Trần Quốc Tảng. Đền Thượng: thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. * Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng (1252 - 1313) Ông là vị anh hùng dân tộc, con trai thứ 3 của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Hiện nay, một số sắc phong cho Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng vẫn còn được lưu giữ tại đền khẳng định công trạng của Ông, cũng như lịch sử hình thành, tồn tại của đền Cửa Ông. Ngoài thần tích, thần sắc, sắc phong ghi chép về Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, tại đền Cửa Ông còn lưu giữ được bia đá, biển gỗ, hoành phi, câu đối mà qua đó đã xác định được thần chủ chính của đền là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng. * Đồng thời, tại đền Thượng còn phối thờ các nhân vật lịch sử như: - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Đại Vương sau khi giúp nhà Trần đánh đuổi giặc Nguyên xâm lược, trừ đại họa cho dân tộc, được nhân dân sùng kính, sau khi mất trở thành Thượng Tiên Cửu Thiên Vũ Đế. - Tướng công Phạm Ngũ Lão; Dã Tượng; Yết Kiêu; Nguyễn Khoái; Huyền Du; Cao Mang; Đỗ Hành; Hưng Vũ vương Nghiễn, Hưng Trí vương Hiện, Hưng Hiến vương Uất; Trần Bình Trọng; Phạm Ngộ; Trần Thì Kiến; Trần Quang Triều; Trần Quốc Toản; Hà Đặc; Trương Hán Siêu; Lê Phụ Trần; Nguyễn Địa Lô; Trần Khánh Dư; Đỗ Khắc Chung; Vi Hùng Thắng; Nguyễn Chế Nghĩa; Thánh Mẫu Thiên Thành (Nguyên Từ Quốc Mẫu); Quyên Thanh công chúa (Vương Cô Đệ Nhất); Đại Hoàng công chúa; Thuận Thánh (Bảo từ Hoàng hậu) Đền Quan Chánh: thờ Quan Chánh, Quan Tuần Tranh và Quan Giám Sát. Đền Quan Châu: thờ Quan Tri Châu cai quản khu vực châu Cẩm Phả. Lăng Mộ: căn cứ vào thần tích, thần sắc làng Cẩm Phả, tổng Cẩm Phả, huyện Cẩm Phả, tỉnh Quảng Yên, chép vào năm 1938, thì lăng mộ Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng chỉ mang tính tượng trưng, là nơi thể hiện lòng thành kính của nhân dân đối với Ngài, cũng như của người con đối với người cha. Chùa: thờ Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu,Quan Âm Tống Tử, Tuệ Trung thượng sĩ, Đức Chúa Ông, Đức Thánh Hiền...như các ngôi chùa truyền thống khác của Việt Nam. Đền Cặp Tiên: thờ một vị tiểu thư - con gái của Trần Quốc Tảng (còn gọi là “Cô bé Cửa Suốt”), quan Chánh và các vị nhân thần, sau đó lại thờ thêm Phật, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tiên Thiên Thánh Mẫu. Các thần tích, thần sắc, sắc phong cho các vị thần còn được lưu giữ tại đền Cửa Ông trở thành kho tư liệu lịch sử quý giá cho các thế hệ con cháu tìm hiểu về quá trình dựng nước và giữ nước của triều Trần. Khu di tích đền Cửa Ông đã trải qua các cuộc chiến tranh và thăng trầm của lịch sử, nhưng vẫn bảo lưu được nhiều kiến trúc cổ kính (tường hồi hai bên ống muống và Hậu cung) và các pho tượng cổ có niên đại từ thế kỷ XIX. Với giá trị đặc biệt trên, Di tích lịch sử Đền Cửa Ông đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 25/12/2017. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Quảng Ninh 905 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu Di tích Nhà Trần tại Đông Triều

Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều thuộc các xã An Sinh, Tràng An, Bình Khê, Thủy An. Hiện nay đây là khu di tích lưu giữ nhiều dấu ấn nhất của nhà Trần hiển hách. Năm Ất Dậu 1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Từ đây nhà Trần trị vì đất nước trong 175 năm, với 12 đời vua, đã tạo nên triều đại hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước ta. Triều Trần (1225 – 1400) với võ công, văn trị, đã mở ra kỷ nguyên hào hùng trong lịch sử dựng và giữ nước. Theo tư liệu, vùng Đông Triều chính là đất tụ cư đầu tiên của họ Trần. Sau đó, vùng đất này được vua Trần Thái Tông ban cho anh trai Trần Liễu làm ấp thang mộc. Đối mới mỗi triều đại khi trị vì đều quan tâm đến hai vấn đề, duyên trạch là vùng đất định đô, âm trạch là nơi đặt thái miếu lăng tẩm. Bên cạnh Thăng Long tiếp tục được lựa chọn làm kinh đô, thì nhà Trần cũng cho xây dựng và phát triển hai trung tâm văn hóa, hai khu sơn lăng ở phía đông và nam kinh thành. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định Đông Triều là trung tâm văn hóa tín ngưỡng lớn, cùng với Thăng Long – trung tâm chính trị, kinh tế và Thiên Trường Long Hưng, nơi phát tích của nhà Trần. Tên cổ của Đông Triều là An Sinh, đến đời vua Trần Dụ Tông mới đổi tên, và trở thành khu di tích lịch sử nhà Trần hiện nay. Đây là khu di tích quốc gia đặc biệt gồm lăng mộ, đền, chùa, am tháp với 14 di tích trải rộng. Đây là vùng thánh địa linh thiêng mang đậm tinh thần lịch sử, văn hoá là nơi quê gốc nhà Trần. Từ thế kỷ 13, nhà Trần cho xây dựng Thái Miếu, thờ tự Tam tổ thánh Trần, là điểm di tích quan trọng bậc nhất. Đến cuối thế kỷ 14, nhiều lăng mộ vua Trần mới được di chuyển về Đông Triều. Khu di tích lịch sử nhà Trần bao gồm 3 nhóm, nhóm di tích đình miếu, nhóm di tích lăng tẩm và nhóm di tích chùa tháp. Đền miếu và lăng tẩm gắn với tông miếu của nhà Trần. Cùng với việc xây dựng lăng mộ, triều Trần còn xây dựng đền miếu để thờ cúng các bậc tiền đế, chùa chiền cũng theo đó mọc lên không ít. Nhưng khi ấy Đông Triều chỉ đóng vai trò khu sơn lăng, chưa trở thành trung tâm Phật giáo của Đại Việt. Phải đến khi vua Trần Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử tu hành và sáng lập nên dòng thiền phái Trúc Lâm. Ông đã thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối. Vào thời kỳ này, Đông Triều trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các đời vua Trần đã cho xây dựng ở đây hệ thống đền miếu, lăng mộ, chùa tháp dày đặc trong vùng cảnh quan có diện tích rộng lớn trải dài lên tận sườn núi Yên Tử. Chùa Ngọa Vân Hồ Thiên là nơi Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông đăng đàn thuyết pháp, cũng là nơi gắn liền với sự nghiệp hoằng hóa Phật Giáo của nước Đại Việt, đào tạo những vị sư ở cấp độ cao hơn. Trên chùa Hồ Thiên còn có ngọn tháp đá 7 tầng mà đến nay kiến trúc của ngôi tháp vẫn là bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu, thu hút nhiều nhà nghiên cứu, người yêu thích lịch sử khắp nơi tìm đến tham quan, nghiên cứu. Chùa Quỳnh Lâm được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam, sở hữu tượng Phật một trong An Nam tứ đại khí. Vườn tháp trong chùa và tháp đá mộ các thiền sư có kiến trúc độc đáo, một di sản văn hoá tiêu biểu không chỉ của tỉnh Quảng Ninh mà là của cả Việt Nam. Trải qua thời gian, thiên tai hủy hoại, chiến tranh tàn phá, nhiều công trình xưa ở khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều chỉ còn là phế tích. Tuy vậy những phế tích đó trong lòng người dân vẫn còn vẹn nguyên giá trị. An Sinh xưa, Đông Triều nay là nơi các vua nhà Trần thể hiện tư tưởng lá rụng về cội của dân tộc Việt. Những thứ còn hiện hữu hay cả những thứ chỉ còn trong lòng đất vẫn là di sản vượt thời gian không chỉ mang giá trị lịch sử của vương triều vang danh mà còn là minh chứng cho 700 năm tồn tại của nền Phật giáo thuần Việt. Nguồn: Báo du lịch Quảng Ninh

Quảng Ninh 971 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu Di tích Lịch sử và Danh lam Thắng cảnh Yên Tử

Trong lịch sử, Yên Tử luôn là một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước, gắn với nhiều kiến trúc cổ, được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (Lý, Trần, Lê, Nguyễn). Về địa lý, Yên Tử là dãy núi thấp, thuộc hệ thống cánh cung Đông Triều, một vùng địa chất được hình thành từ kỷ Đệ tứ, với các loại đá gốc, như sa thạch, sỏi kết sạn và phù sa cổ… Địa hình, địa chất phức tạp của khu vực đã kiến tạo nên các điểm cảnh quan kỳ vĩ, như thác Ngự Dội, thác Vàng, thác Bạc, cổng Trời, đường Tùng, rừng trúc, đỉnh núi Yên Tử…, nơi có những kiến trúc cổ truyền như hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ. Khu vực Yên Tử có tổng diện tích tự nhiên khoảng 2686 hétta, trong đó có 1736 hétta rừng tự nhiên, đặc trưng cho hệ sinh thái rừng Đông Bắc, nơi còn bảo tồn được nhiều nguồn gen động, thực vật quý hiếm... Xen kẽ với thiên nhiên là hệ thống chùa, am, tháp… Ven lối dẫn lên các chùa, am, tháp thường trồng rất nhiều tùng. Trong khu vực này hiện còn khoảng hơn 200 cây tùng đại thụ, thuộc 4 nhóm quý hiếm, được trồng cách đây khoảng 700 năm. Ngoài đường tùng cổ thụ, rừng trúc ở đây cũng nổi tiếng từ ngàn xưa... Trúc là sản phẩm độc đáo của Yên Tử, tượng trưng cho sức sống dẻo dai, vẻ đẹp thanh bạch và tao nhã của tạo hóa. Có lẽ, đó cũng chính là lý do mà Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây để tu hành và lấy tên "rừng Trúc", tức Trúc Lâm, để đặt tên cho dòng Thiền do ông sáng lập. Hội Yên Tử là lễ hội hành hương vào mùa xuân, bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng hằng năm và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân. Khu vực Yên Tử bao gồm một số địa điểm và kiến trúc Phật giáo chính như: 1. Chùa Bí Thượng xưa được khởi dựng từ thời Hậu Lê, trên mặt nền kiến trúc hình chữ Nhất, từng được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Thờ Thập bát La Hán. 2. Chùa Suối Tắm Được dựng dưới chân núi, sát bên bờ suối Tắm. 3. Chùa Cầm Thực Nằm về bên trái con đường vào Yên Tử. 4. Chùa Lân và Chùa Giải Oan đều được dựng từ thời Trần. 5. Cụm tháp Hòn Ngọc nằm trên một gò đất khá rộng, bằng phẳng, gồm ba tháp đá và một tháp gạch. 6. Vườn tháp Huệ Quang nay chỉ còn 64 ngọn tháp và mộ, trong đó có 40 tháp mới được trùng tu năm 2002, 11 tháp đá, 13 tháp gạch, một số ngôi tháp đã bị đổ chỉ còn lại dấu tích. 7. Chùa Hoa Yên được dựng từ thời Lý và được tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam. 8. Am Thiền Định xưa vốn là một ngôi tháp cổ đặc biệt ở Yên Tử, đứng đơn lẻ một mình, phía sau chùa Hoa Yên. Tháp xây bằng gạch đỏ tráng men xanh, bề mặt đúc nổi nhiều hoa văn và mặt thú lạ. 9. Chùa Một Mái nằm nép mình bên sườn núi cao. Một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài và chỉ có một mái. 10. Am Thung và Am Dược hiện nay chỉ còn là các phế tích. 11. Chùa Bảo Sái nằm trên sườn núi, quay hướng Tây Nam. 12. Chùa Vân Tiêu toạ lạc trên sườn núi. Hai bên chùa có 2 dãy núi cao, tạo thành thế tay ngai bao bọc lấy chùa. Bên phải chùa có một dòng suối. 13. Chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử, được đúc từ chất liệu đồng. Những giá trị lịch sử - văn hóa đặc biệt của khu di tích đã đưa Yên Tử trở thành một chốn thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Để khẳng định giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử là di tích quốc gia đặc biệt ngày 27/09/2012). Nguồn: Cục di sản văn hoá

Quảng Ninh 915 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Lịch sử Bạch Đằng

Di tích Lịch sử Bạch Đằng nằm trên địa bàn Thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí. Đây là địa điểm ghi dấu sự kiện quân và dân nhà Trần đã lập nên chiến thắng lẫy lừng - Chiến thắng Bạch Đằng, đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông năm 1288. Trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta, sông Bạch Đằng đã ba lần chứng kiến quân và dân ta chiến thắng oanh liệt quân xâm lược phương Bắc hùng mạnh đều bằng các cây cọc gỗ cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Đó là chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền; năm 981 của Lê Hoàn và đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sông Bạch Đằng đã trở thành dòng sông lịch sử, cọc Bạch Đằng đã trở thành biểu tượng truyền thống đánh giặc ngoại xâm bằng đường thủy của dân tộc Việt Nam. Trải qua hơn 700 năm do phù xa của sông bồi đắp, bãi cọc nằm sâu dưới các lớp bùn đất, mãi đến năm 1953 nhân dân đi đào đất đắp đê đã phát hiện ra những cây cọc Bạch Đằng. Lúc đầu người dân chưa có kiến thức và ý thức bảo vệ di sản văn hóa rất nhiều cọc đã bị nhổ lên làm xà nhà, cọc rơm. Sau nhiều lần khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện hàng trăm chiếc cọc chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 đến 2,8 m, đường kính 20 đến 30 cm được cắm thẳng. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,9 m đến 1,5 m. Khu di tích bãi cọc Bạch Đằng (gồm bãi cọc Yên Giang, bãi cọc Đồng Vạn Muối, bãi cọc Đồng Má Ngựa). Di tích bãi cọc Yên Giang diện tích khoảng 3.000m2 nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120m, chiều rộng khoảng 20m. Bãi cọc Yên Giang được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2012. Sau đó, di tích được khoanh vùng bảo vệ, dựng bia giới thiệu, tôn tạo đường vào tạo điều kiện thuận lợi cho du khách tham quan. Đây cũng là địa chỉ để các em học sinh đến tìm hiểu lịch sử, phục vụ việc học tập. Hiện bãi cọc Yên Giang còn khoảng trên 300 cây nằm trong lòng đất. Ở khu di tích, bãi cọc được bơm nước đầy mặt ao để bảo tồn. Gần bãi cọc Yên Giang là bãi cọc đồng Vạn Muối diện tích khoảng 6.000m2 nằm ở cửa sông Rút, thuộc phường Nam Hòa được nhân dân Quảng Yên phát hiện trong quá trình canh tác, đào ao. Sau lần khảo sát và khai quật năm 2005. Các cuộc khai quật khảo cổ học sau đó tìm thấy tổng cộng gần 200 cọc, cho thấy những cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong khu vực đồng Vạn Muối thuộc nhiều loại gỗ được sử dụng cả thân và cành. Đường kính mỗi cọc từ 7 - 10 cm, phần được vạt nhọn chỉ khoảng 25 - 30 cm. Tuy nhiên, mật độ cọc ở đây được cắm rất dày, phổ biến cách nhau từ 40 - 60 cm, một số cọc chỉ cách nhau từ 10 - 30cm. Theo các nhà nghiên cứu, đây là nửa phía Nam của trận địa cọc Bạch Đằng, còn nửa phía Bắc là bãi cọc Yên Giang. Do giữa hai bãi cọc có một dải cồn đá cao, khi nước triều xuống thuyền không qua được buộc phải đi vào sát bờ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn vị trí cắm cọc ở hai bên cồn đá tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông Bạch Đằng để chặn đường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. Bãi cọc sau đó được vùi lấp dưới lớp bùn để được bảo quản tốt hơn. Cũng trong địa phận phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, bãi cọc đồng Má Ngựa diện tích khoảng 2.100m2 đã được phát hiện và tiến hành khảo sát, khai quật vào năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba thuộc bãi cọc Bạch Đằng nằm ở cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1 km về hướng Nam. Bãi cọc có chiều dài 70 m, rộng 30 m, cắm cọc thuộc nhiều loại gỗ có đường kính từ 6 - 22 cm dày đặc thành dải như một lớp tường thành. Ba bãi cọc Yên Giang, Đồng Vạn Muối và Đồng Má Ngựa đã làm thành những bãi chông ngầm lớn, phức tạp, kín đáo dưới mặt nước khóa chặt đường tháo lui ra biển, giúp tiêu diệt và bắt sống 600 chiến thuyền với 4 vạn binh tướng quân Nguyên – Mông trong lần thứ ba chúng xâm lược nước ta năm 1288. Ngày nay, khu di tích bãi cọc Bạch Đằng ở thị xã Quảng Yên đã được đắp bờ bao bảo vệ xung quanh. Một số cọc đã được lấy lên và những cọc còn lại được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ. Tuy nhiên, những cọc Bạch Đằng ở di tích này đa số phần đầu cọc nhô lên đã bị mục gẫy, phần thân cọc vẫn cắm dưới bùn đất nhưng đây lại là chứng tích vô cùng quan trọng của trận chiến lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là Di tích Quốc gia đặc biệt. Lễ hội Bạch Đằng diễn ra từ ngày 6-9/3 âm lịch với nhiều nghi lễ trang nghiêm và các hoạt động lễ hội phong phú, được tổ chức tại tất cả các điểm trong khu di tích. Nhằm tôn vinh giá trị ngày đại thắng của dân tộc ta và tưởng nhớ những người đã hy sinh trong các trận chiến Bạch Đằng. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh

Quảng Ninh 1092 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Vịnh Hạ Long

Theo các nhà khoa học, vùng Hạ Long và vùng rìa bờ, đảo phụ cận của vịnh, bao gồm nhiều hệ tầng trầm tích lục nguyên và cacbonat, có tuổi từ nguyên đại Cổ sinh đến Tân sinh. Nhiều hệ tầng trầm tích ở khu vực này chứa đựng các vết tích cổ sinh vật dưới các dạng hoá thạch khác nhau, trong đó có những nhóm ngành động, thực vật đã tuyệt diệt hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn trên trái đất. Lịch sử địa chất Vịnh Hạ Long, được mở ra từ khoảng gần 500 triệu năm trước đây, với những hoàn cảnh cổ địa lý hết sức khác nhau và khá phức tạp. Sự hiện diện của vịnh và những hòn đảo trên vịnh là những minh chứng độc đáo về lịch sử phát triển của trái đất, bao gồm đặc điểm địa chất và quá trình vận động, phát triển liên tục của dạng địa hình Karst, hệ Fengcong và Fengling. Địa hình đặc biệt của vịnh Hạ Long có liên quan chặt chẽ tới lịch sử khí hậu và quá trình vận động kiến tạo của trái đất. Những hòn đảo ở đây là mẫu hình khá lý tưởng về Karst hình thành trong điều kiện nhiệt đới, ẩm. Toàn bộ khu vực Vịnh Hạ Long là một cảnh quan Karst qua nhiều triệu năm, với các tháp Karst hình chóp, hình tháp, bị bào mòn, tạo nên cảnh đẹp nổi bật, độc đáo toàn thế giới. Thạch nhũ trong hang động trong khu Vịnh có tuổi trẻ hơn các hang động. Nước mưa theo các khe nứt trên trần hang động và vách chảy xuống, trên đường đi chúng hoà tan, bào mòn đá vôi và lắng đọng thành nhũ đá ở trần, măng đá ở nền… Hàng ngàn hòn đảo, hàng chục hang động đẹp đã tạo nên giá trị thẩm mỹ của Vịnh. Vẻ đẹp của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: đá, nước và bầu trời. Hệ thống đảo đá ở Hạ Long muôn hình vạn trạng quyện với trời biển, tạo ra một bức tranh thủy mặc. Phía trong những đảo đá lớn lại hấp dẫn bởi những hang động đẹp đẽ, kỳ lạ. Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp, với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ. Động Thiên Cung như một đền đài hoành tráng, mỹ lệ. Hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung, với vô số nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu. Hang Sửng Sốt đẹp đến bất ngờ, với nhũ đá mang hình hài của gà rừng, cóc, rồng, thác nước, cùng với nhiều hình hài khác, như mở ra một thế giới cổ tích. Những hang động như Tam Cung, Trinh Nữ, Ba Hang, Tiên Long,… mỗi hang có những vẻ đẹp độc đáo, kỳ thú. Lịch sử kiến tạo của vịnh Hạ Long đã trải qua những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, nhiều lần tạo sơn, biển thoái, sụt chìm, biển tiến… Vịnh Hạ Long còn giữ lại được những dấu ấn của quá trình tạo sơn, địa máng vĩ đại của trái đất, có cấu tạo địa lũy, địa hào cổ. Khu vực Vịnh Hạ Long đã từng là biển sâu vào các kỷ Odovic - Silua (khoảng 500 - 410 triệu nẳm trước), là biển nông vào các kỷ Cacbon - Pecmi (khoảng 340 - 250 triệu năm trước), biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen, đầu Neogen (khoảng 26 - 20 triệu năm trước) và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh (khoảng 2 triệu năm trước). Vào kỷ Trias (240 - 195 triệu năm trước), khi trái đất nói chung, châu Âu nói riêng có khí hậu khô nóng, thì khu vực Vịnh Hạ Long là những đầm lầy ẩm ướt, với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ… Địa hình Karst của vịnh Hạ Long có ý nghĩa toàn cầu và có tính chất nền tảng cho khoa học địa mạo. Môi trường địa chất còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác của vịnh, như đa dạng sinh học, văn hóa khảo cổ và các giá trị nhân văn khác. Tổng số loài thực vật sống trên các đảo ở vịnh Hạ Long khoảng trên một nghìn loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau đã được tìm thấy, như các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở cửa hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên Thế giới (IUCN) đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ Long. Những loài này chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi của Vịnh Hạ Long, mà không nơi nào trên thế giới có được, đó là: thiên tuế Hạ Long, khổ cử đại tím, cọ Hạ Long, khổ cử đại nhung, móng tai Hạ Long, ngũ gia bì Hạ Long, hài vệ nữ hoa vàng. Theo thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới ở Hạ Long, Bái Tử Long có: 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20 loài thực vật ngập mặn; đối với động vật cũng đã thống kê được 4 loài lưỡng cư, 10 loài bò sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Những kết quả nghiên cứu, khảo cổ học và văn hóa học cho thấy, sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập được những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau, bao gồm văn hóa Soi Nhụ(trong khoảng 18.000 - 7.000 năm trước Công nguyên), văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 năm trước Công nguyên) và văn hóa Hạ Long (cách ngày nay khoảng từ 3.500 - 5.000 năm). Phương thức sống chủ yếu của chủ nhân Soi Nhụ là “bắt sò ốc, có cả hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây”, biết bắt cá mà chưa có nghề đánh cá. Di chỉ Cái Bèo là một trong những bằng chứng đầu tiên để có thể khẳng định, tổ tiên của người Việt cổ, từ rất sớm đã đương đầu với biển khơi và đã phát triển ở đây một nền văn hóa rực rỡ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hóa truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á: dòng văn hóa Cuội. Về phương thức cư trú và sinh sống của người Cái Bèo, ngoài săn bắt hái lượm, đã có thêm khai thác biển. Vịnh Hạ Long là khu vực có giá trị nổi bật toàn cầu, tiêu biểu nhất là các giá trị về thẩm mỹ, khoa học, lịch sử, khảo cổ... Năm 1962, khu vực vịnh Hạ Long được công nhận là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Năm 1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới về giá trị thẩm mỹ và được tái công nhận lần thứ 2, với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất - địa mạo vào năm 2000. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của vịnh, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009). Nguồn: Cục di sản văn hoá

Quảng Ninh 885 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Núi Mằn

Quần thể di tích lịch sử danh lam thắng cảnh Núi Mằn thuộc thôn Đá Trắng, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, có diện tích 150 hét ta (bao gồm toàn bộ Núi Mằn, đền Bạch Thạch; các miếu: Thánh Mẫu, Ông Lang, Ông Dài, Ông Cộc; đình Xích Thổ; và di chỉ thành nhà Mạc). Núi Mằn có tên trong thư tịch cổ là “Bân Sơn" nghĩa là ngọn núi đẹp, hoàn thiện từ trong ra ngoài. Vì núi có dòng sông Mân chảy qua nên người dân địa phương thường gọi núi Bân là núi Mân (từ “Mằn” là đọc chệch của từ “Mân”). Theo ghi chép của Đồng Khánh dư địa chí (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn năm 1886-1888), Hoành Bồ thời bấy giờ có nhiều núi đá đẹp như núi Bân (núi Mằn), núi Truyền Đăng, núi Hạp, núi Phượng Các… Tuy nhiên, chỉ có hai ngọn núi nổi tiếng được xếp hạng vào danh lam thắng tích thời Đồng Khánh là núi Mằn và núi Truyền Đăng (Núi Bài Thơ ngày nay). Núi Mằn nằm giữa hai nhánh suối Đá Trắng (Bạch Thạch Khe) và suối Lưỡng Kỳ (khe Bân) đổ ra sông Đá Trắng. Nằm trên độ cao gần 300m so với mực nước biển, hình dáng của ngọn núi khiến ta liên tưởng đến con voi ở trong thế quỳ phục, vòi chúc xuống khe Bân. Hệ thống các tảng đá tự nhiên, lớn, nhưng tương đối đồng đều bao quanh núi Mằn như vành mũ. Điểm xuyết giữa màu trắng xanh của những phiến đá là màu xanh của lá, màu đỏ vàng của các loài hoa cùng hệ thực vật bốn mùa tươi tốt ở xung quanh. Lưng chừng núi với vách đá cheo leo và hiểm trở còn có các hang động với những thớ đá, nhũ đá mịn màng, rực rỡ sắc màu, tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu, huyền bí. Từ trên đỉnh núi Mằn nhìn xuống, phía Đông và phía Tây ngọn núi có dòng sông Bân và sông Đá Trắng chảy lượn bao quanh, nước trong xanh như mắt ngọc, tạo thành bức tranh sơn thuỷ đầy mê hoặc. Không chỉ là danh thắng đẹp, có cảnh sắc hữu tình với câu sấm trạng nổi tiếng lưu truyền đến tận ngày nay “Mằn sơn án hải, vạn đại Đế Vương”, ngọn núi nổi tiếng từ thời Đồng Khánh còn chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hoá. Theo lời người dân địa phương kể lại, từ ngàn xưa, nhân dân trong vùng thường coi núi Mằn và núi Bài Thơ là hai cặp núi song sinh với nhiều truyền thuyết hấp dẫn, ly kỳ. Trong đó, núi Mằn gắn liền với truyền thuyết “Ông khổng lồ gánh đá vá trời”. Tương truyền rằng, mỗi bước chân ông đi qua đều gắn liền với một số địa danh lưu truyền đến ngày nay. Đặc biệt, khi ông trở vai, đôi gánh gãy làm đôi, một bên gánh rơi xuống TP Hạ Long là núi Bài Thơ, một bên rơi xuống địa phận Xích Thổ (huyện Hoành Bồ cũ) chính là núi Mằn ngày nay. Di tích núi Mằn còn gắn liền với các sự tích lịch sử về Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương và các truyền thuyết liên quan đến hệ thống đình, miếu nằm rải rác trên địa phận xã Thống Nhất và phường Hoành Bồ như: Miếu Ông Cộc, miếu Ông Lang, miếu Ông Dài, đình Xích Thổ... Để thờ thần núi Mằn (Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương) và Long Hải sơn thần (vị thần cả cai quản vùng sông nước), nhân dân trong vùng đã xây dựng đền Bạch Trạch ngay dưới chân núi. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đến nay đền không còn thờ Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương và Long Hải sơn thần, mà xây dựng thêm am thờ Phật và thờ Mẫu Thượng Ngàn, Tam toà Thánh Mẫu. Đền có khuôn viên gần 1.000m2, bao gồm các công trình: Phủ Bà Chúa Đá trắng, am Thờ Phật, nơi thờ Sơn Thần và Cung bà Chúa Bản thổ. Hầu hết các công trình được xây gạch, trát vữa, mái lợp ngói tây và nền lát gạch hoa. Bên cạnh các giá trị về cảnh quan, tâm linh, quần thể khu di tích núi Mằn còn có giá trị to lớn về lịch sử. Theo nghiên cứu của các nhà sử học thì núi Mằn còn từng là đại bản doanh của quân đội nhà Lý trong cuộc kháng Tống thế kỷ XI. Trong hai lần kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông (1285, 1288), núi Mằn được Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chọn làm đại bản doanh dự bị chiến lược của đạo thủy binh nhà Trần. Sau chiến thắng trận Bạch Đằng năm 1288, vua Trần Thánh Tông đã chỉ huy quân đội nhà Trần vượt biển tiến vào vịnh Cửa Lục, đóng quân tại núi Mằn rồi từ đó tiến lên chặn đánh và truy kích quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy trên đường rút chạy về nước qua đường Đình Lập – Lạng Sơn… Với vẻ đẹp hữu tình tạo hoá đã ban tặng cùng với hệ thống đền, miếu gắn liền với nhiều truyền thuyết lịch sử, quần thể di tích lịch sử - danh thắng núi Mằn đã được Bộ Văn Hoá, Thông Tin và Du Lịch quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia ngày 08/7/2014. Nguồn: Báo du lịch Hạ Long Quảng Ninh

Quảng Ninh 873 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích khảo cổ Hòn Hai Cô Tiên

Di tích lịch sử, khảo cổ học Hòn Hai Cô Tiên thuộc tổ 65, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long. Từ năm 2001 đến nay, Bảo tàng Quảng Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam khảo sát, khai quật và đã phát hiện nhiều di vật mang dấu ấn đặc trưng của giai đoạn muộn của văn hóa Hạ Long (Hậu kỳ đá mới) đến giai đoạn Văn hóa Đông Sơn (Thời đại Kim khí) có niên đại cách đây từ 4.000 năm đến 2.000 năm. Tại đây, các nhà khoa học đã khai quật được 91 hiện vật, 1.000 tiêu bản khoa học gồm công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, trang sức, tín ngưỡng... với các chất liệu gốm, xương, đá; một khu mộ táng với 46 di cốt người cổ, trong đó có những di cốt còn tương đối hoàn chỉnh. Các di cốt được chôn bó gối kèm theo đồ tùy táng. Bảo tàng Quảng Ninh còn thám sát 4 vị trí ở khu vực thung lũng và chân núi, đã thu được 294 hiện vật, trên 20.000 tiêu bản khoa học gồm các chất liệu đồng, đá, xương, gốm như: lưỡi câu, rìu, đục, đồ trang sức. Tại đây, các nhà khoa học đã phát hiện được nhiều mảnh khuôn đúc đồng của Văn hóa Đông Sơn cùng những mảnh xỉ đồng dùng để đúc rìu, mũi giáo, lao... Tại khu vực I, Bảo tàng Quảng Ninh còn phát hiện được một quần thể San hô hóa thạch có thể là thuộc kỷ Devon - Cacbon (cách ngày nay khoảng 400 triệu năm). Cùng với giá trị khảo cổ, Di tích Hòn Hai Cô Tiên còn có rừng nguyên sinh núi đá với nhiều loài linh trưởng quý, bò sát như khỉ lông vàng, kỳ nhông, tắc kè... và một hệ thực vật phong phú đặc hữu của rừng núi đá như chè dây, Phất Dụ núi, Phong lan Hạ Long, Hài vệ nữ hoa vàng, Thiên tuế Hạ Long... Việc công nhận di tích Hòn Hai Cô Tiên là Di tích quốc gia đã góp phần nâng cao giá trị văn hóa của Di sản thế giới Vịnh Hạ Long và vị trí lịch sử quan trọng của Quảng Ninh với nền văn hóa cổ Hạ Long, trong vùng Đông Bắc của Việt Nam. Đồng thời, di tích còn tạo ra một sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo ngay trong thành phố Hạ Long. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh 881 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích thắng cảnh hồ Yên Lập – chùa Lôi Âm

Cụm di tích chùa Lôi Âm - hồ Yên Lập từ lâu đã được đông đảo du khách thập phương biết đến là chốn sơn thuỷ hữu tình của Hạ Long. Với những giá trị về văn hoá, lịch sử, khoa học, nghệ thuật và thắng cảnh, mang đậm dấu ấn các thời đại, ngày 23/11/1997, chùa Lôi Âm - hồ Yên Lập đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng là di tích cấp Quốc gia. Còn với nhiều người dân của TP Hạ Long, nơi đây đã trở thành địa điểm hành hương không thể thiếu mỗi dịp du Xuân. Cụm di tích này nằm bên phải quốc lộ 18A (hướng đi từ TP Hạ Long đi Hà Nội) thuộc địa phận phường Đại Yên, thành phố Hạ Long. Qua nghiên cứu các sử liệu cho thấy chùa Lôi Âm được xây vào năm Quang Thuận thời Lê Thánh Tông và ngày khánh thành có thể trùng hợp với thời điểm vua Lê đi tuần thủ An Bang, khắc bài thơ trên núi Bài Thơ (1468). Hồ Yên Lập là công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Quảng Ninh, trải qua hơn 30 năm đi vào khai thác, sử dụng, đến nay hồ Yên Lập vẫn đang phát huy hiệu quả, không chỉ góp phần giảm hạn hán, lũ lụt mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hạ Long, thành phố Uông Bí và thị xã Quảng Yên. Nhìn từ trên cao, hồ Yên Lập hiện ra với màu xanh êm dịu, xung quanh hồ là những ngọn núi nhấp nhô, giữa hồ nổi lên các đảo nhỏ tạo nên vẻ tự nhiên, quyến rũ lòng người. Cụm di tích lịch sử danh thắng chùa Lôi Âm – hồ Yên Lập đã tạo nên cảnh quan thơ mộng, vốn đã nổi tiếng từ xưa, đến nay lại càng nổi tiếng để thu hút khách tham quan trong khắp mọi miền đất nước. Chùa Lôi Âm nằm trong một khu vực hình bán nguyệt, kéo dài từ trên đỉnh xuống lưng chừng núi. Phía trước mặt là hồ nước, theo thế "tựa sơn, hướng thủy" mà từ xưa cha ông đã từng ví "long chầu hổ phục, bên tả che, bên hữu đỡ, có non thiêng hội tụ, có huyền vũ trùng trùng". Chùa Lôi Âm ở độ cao 395m so với mặt biển, được xây dựng theo hướng Đông Nam là hướng của trí tuệ, hướng của tâm linh. Các dấu tích còn để lại hiện nay thì chùa Lôi Âm được xây theo kết cấu kiến trúc kiểu "nội công ngoại quốc", một điển hình của kiến trúc thời Lê. Từ chân núi Lôi Âm lên tới cửa chùa theo con đường Chúa Ngự, với độ dài khoảng 850m và chiều rộng trung bình là 2,5m. Hai bên chùa có suối giải oan tách làm 2 nhánh, khi qua chùa được nhập lại thành dòng. Suối có nước chảy quanh năm, bắt nguồn từ đỉnh núi đổ xuống hồ Yên Lập. Hàng muỗm cổ thụ trồng phía trước và xung quanh chùa là biểu tượng của sự thanh cao, trường tồn. Ngoài ra, chùa còn phong phú với hàng đa, hàng thau hay những hàng trâm, tạo nên sự linh thiêng nơi chốn cửa thiền mà cũng rất gần gũi với cuộc đời trần tục. Các triều vua phong kiến Việt Nam thường lui tới đây du ngoạn và ca ngợi. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tất cả chùa chiền, đền, miếu đều bị đập phá một cách nghiêm trọng. Riêng tiền đường phía tay phải vẫn còn bức tường cao 1,5m, dày 30cm, xây toàn bộ bằng gạch đỏ. Phía hậu cung của khu tam bảo còn giữ lại bức tường cao 1,2m, độ dày 20cm. Bên cạnh chùa phía tay phải là vườn tháp làm bằng đá xanh thớ mịn, với kỹ thuật ghép mộng chắc chắn. Còn lại nguyên vẹn tháp tổ 3 tầng, phía trên được ghi rõ hàng chữ "Phổ Minh tháp". Đỉnh tháp tạc 1 đài sem ôm lấy bình nước Cam Lộ, thu nhỏ dần lên phía đầu, tỏa mãi trong không trung, tạo cho du khách cảm giác như được siêu thoát trước cửa thiền tâm. Trước cửa chùa còn đặt một cây hương đá xây hình tứ trụ. Trên mái hương nơi các đầu đao thể hiện hình vân xoắn, trong một chừng mực nào có, nó tượng trưng cho niềm mong ước "mưa thuận gió hòa". Cũng nằm phía trước chùa về phía tay trái là hàng bia đá cổ gồm 5 chiếc nguyên vẹn. Trong mỗi mùa lễ hội, nhân dân và du khách vượt qua lòng hồ Yên Lập lên đến chùa Lôi Âm. Cảm nhận về cái đẹp ở đây là phải lướt trên con thuyền để thưởng ngoạn sự thơ mộng, không khí trong lành. Mặt hồ Yên Lập không có sóng xô cuồn cuộn của biển cả, không có những hang động thiên tạo như Vịnh Hạ Long... Nhưng đến với hồ Yên Lập là tìm đến với sự thanh thản của một phong cảnh dịu hiền, mặt nước gợn sóng trong làn gió nhẹ có thể nhìn suốt tới đáy, các đảo nổi trên hồ là những điểm nghỉ chân thú vị. Cụm di tích lịch sử và danh thắng Chùa Lôi Âm - Hồ Yên Lập đã mang đậm dấu ấn các thời đại với nhiều giá trị trong lịch sử, khoa học, nghệ thuật và danh thắng. Qua nghiên cứu, khảo sát những di vật của chùa Lôi Âm ta có thể khẳng định: chùa Lôi Âm là một kho tàng nghệ thuật văn hóa vô giá. Ngoài giá trị khoa học, nghệ thuật văn hóa, chùa Lôi Âm còn chứa đựng những giá trị lịch sử đấu tranh của dân tộc. Nằm nơi địa thế sơn lâm kín đáo, năm 1946 Trung đoàn 98 đã đóng quân tại đây, do đồng chí Vũ Mạnh Hùng làm Trung đội trưởng, lấy ngôi chùa làm đài quan sát, đơn vị đã kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lên nhiều chiến công, đập tan mọi âm mưu phá hoại của địch. Giờ đây, chùa Lôi Âm là một danh thắng hài hòa trong cảnh "sơn thuỷ hữu tình". Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thành Phố Hạ Long

Quảng Ninh 850 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Trận địa pháo 37 ly của Xí nghiệp tuyển than Hòn Gai

Trận địa pháo cao xạ 37 ly của Xí nghiệp Tuyển than Hòn Gai là di tích lịch sử đã được xếp hạng cấp quốc gia năm 1997. Nơi đây, vào thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, các chiến sĩ tự vệ của Xí nghiệp Bến Hòn Gai (nay là Công ty Tuyển than Hòn Gai) đã lập nên những chiến công xuất sắc, bắn rơi máy bay Mỹ. Di tích trận địa pháo 37 ly của Xí nghiệp Tuyển than Hòn Gai nằm trên đồi cao 102m so với mặt nước biển. Từ đây có thể bao quát được nhiều vị trí của Thị Xã Hòn Gai (nay là TP Hạ Long) như bến phà, cảng Hòn Gai và các khu dân cư xung quanh. Năm 1960, đơn vị tự vệ của Bến Hòn Gai được thành lập. Trận đánh đầu tiên của đơn vị chính là ngày 5-8-1964, khi máy bay Mỹ lao vào bắn phá Quân cảng Hải quân ta ở Bãi Cháy, các chiến sĩ tự vệ Bến Hòn Gai đã chiến đấu anh dũng, cùng với các lực lượng phòng không, hải quân và tự vệ của các đơn vị khác tạo nên lưới lửa, bắn rơi 3 máy bay, bắt sống tên phi công Mỹ E-vơ-rết An-va-rét khi hắn nhảy dù xuống Vịnh Hạ Long. Sau trận đánh này, đã có 28 đồng chí của đơn vị được tặng thưởng Huy hiệu 5-8, tiêu biểu như Đặng Bá Hát, Trần Minh Thành… Năm 1966, Xí nghiệp Bến Hòn Gai hình thành 2 cụm trực chiến gồm 30 người, chỉ huy trưởng là đồng chí Lê Quang Minh, chỉ huy phó là đồng chí Đặng Bá Hát. Ngày 10-3-1967, máy bay của giặc Mỹ theo nhiều hướng lao vào đánh phá khu Ba Đèo, phố Nhà Thờ, đồi 102… Với tinh thần chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ tự vệ, 1 chiếc máy bay F8 của giặc Mỹ đã bị bắn trúng bốc cháy, lao ra biển. Cuối năm 1968, sau khi được tỉnh trang bị thêm cho 4 khẩu pháo cao xạ 37 ly, Xí nghiệp Bến Hòn Gai thành lập 1 đại đội gồm 45 người do đồng chí Đặng Bá Hát làm Đại đội trưởng. Trận địa đóng trên đồi 102 (đồi Bến phà). Ngày 18-5-1972, Đại đội tham gia chiến đấu và đã bắn rơi 1 chiếc F4 của giặc Mỹ. Chiến công đã làm tăng thêm sự phấn khởi và quyết tâm đánh thắng cho cả Đại đội, từ chỉ huy tới chiến sĩ. Chiến tranh leo thang của giặc Mỹ ngày càng ác liệt. Ngày 12-7-1972, chúng lại tập trung đánh vào TX Hòn Gai. Lúc này, hai chiếc phà chở đầy người và ô tô đang trong hành trình qua sông Cửa Lục. Tình thế diễn ra rất nguy kịch. Đồng chí Đặng Bá Hát vừa chỉ huy đánh chi viện, bảo vệ phà vừa trực tiếp chiến đấu. Trận địa bị máy bay Mỹ đánh trúng bằng bom xuyên, đồng chí Đặng Bá Hát bị thương vào bụng và đã anh dũng hy sinh khi tay còn đang cầm cờ lệnh. Sau trận đánh, Đại đội bị tổn thất lớn nhưng vẫn tiếp tục bám trụ, triển khai đánh địch. Chỉ trong tháng 10-1972, Đại đội đã đánh 37 trận, tháo gỡ nhiều bom phá, bom xuyên và bom bi các loại… Với những chiến công đã đạt được, đầu năm 1973, Đại đội tự vệ 37 ly của Xí nghiệp Bến Hòn Gai đã vinh dự được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng trao tặng lẵng hoa ngay tại trận địa và cũng trong năm này, Xí nghiệp Bến Hòn Gai đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Liệt sĩ Đặng Bá Hát với tấm gương chiến đấu, hy sinh quên mình đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vào năm 1995. Nhằm bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích trận địa pháo cao xạ 37 ly của Xí nghiệp Bến Hòn Gai, được biết UBND tỉnh và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã có sự thoả thuận về dự án đầu tư, tôn tạo di tích. Hiện các thủ tục đã cơ bản xong, chỉ còn chờ con đường lên cầu Bãi Cháy hoàn chỉnh để bắt tay vào thi công. Các hạng mục dự kiến tôn tạo bao gồm xây dựng tượng đài Đặng Bá Hát, phục hồi các giao thông hào, hầm đạn, hầm trú ẩn, xây dựng nhà trưng bày hiện vật… Di tích sau khi được tôn tạo sẽ không chỉ là nơi ghi dấu chiến công, giáo dục truyền thống, mà còn góp phần làm tăng giá trị, ý nghĩa và vẻ đẹp của cầu Bãi Cháy nói riêng, vùng đất Cửa Lục nói chung. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh

Quảng Ninh 845 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Núi Bài Thơ

Núi Bài Thơ nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long. Ba mặt núi là những khu dân cư đông đúc, phía tây và phía nam núi kề bên Vịnh Hạ Long xinh đẹp. Núi Bài Thơ là nơi ghi lại dấu ấn lịch sử, là biểu tượng của thành phố Hạ Long, nơi quần tụ của nhiều di tích nổi tiếng như: chùa Long Tiên, đền Đức Ông, Trung tâm điện chính Bưu điện Quảng Ninh; Trận địa 12 ly 7; Hang thị đội Hồng Gai; Các hang phòng không sơ tán (từ hang số 1 đến hang số 6). Là nơi quần tụ của các điểm di tích thuộc nhiều loại hình như lịch sử, danh lam thắng cảnh, núi Bài Thơ mang nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ (được Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng công nhận là Di tích lịch sử, thắng cảnh ngày 31/8/1992 (Bổ sung khu di tích thắng cảnh vịnh Hạ Long ) đã trở thành điểm đến thú vị cho những nhà lịch sử, các thi sỹ, nhiếp ảnh gia, nhân dân và khách du lịch gần xa. Từ đỉnh núi Bài Thơ ta có thể nhìn ra bao quát toàn cảnh Vịnh Hạ Long. Núi Bài Thơ như một tượng đài sống ghi lại những dấu ấn lịch sử quan trọng của nhiều thời đại. Hàng trăm năm trước, khi còn mang tên là núi Rọi Đèn (tên chữ là Truyền Đăng Sơn). Theo truyền thuyết dân gian ở địa phương kể rằng: núi Truyền Đăng là ngọn núi cao nhất ở vùng biển Cửa Lục, án ngữ trên con đường hàng hải cổ đại từ phía Bắc vào nội địa nước ta. Các triều đại phong kiến đều lấy núi Truyền Đăng đặt làm vọng gác tiêu biểu ở vùng biển ải Đông Bắc. Hàng đêm, lính đồn trú treo ngọn đèn nồng trên đỉnh núi báo hiệu tình hình phía Đông Bắc vẫn yên tĩnh. Nhưng khi có giặc dã, người lính bèn đốt củi cho ngọn khói bốc cao báo động về đất liền. Từ việc treo đèn đốt lửa của lính đồn trú trên đỉnh núi, nên núi có tên là Dọi Đèn, tên chữ là Truyền Đăng. Năm 1468, vua Lê Thánh Tông dẫn quân đi tuần vùng biển An Bang và đóng quân dưới núi Truyền Đăng. Xúc động trước vẻ đẹp thần tiên của mây trời non nước Hạ Long, nhà vua đã làm một bài thơ và cho khắc vào phía Nam của vách núi đá và từ đó núi có tên Bài Thơ. Hai trăm sáu mươi mốt năm sau (1729), chúa Trịnh Cương đã làm một bài thơ họa lại bài thơ của vua Lê Thánh Tông và cho khắc vào gần đấy... Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (năm 1968) núi Bài Thơ còn là vọng gác phòng không canh giữ biển trời vùng mỏ, là hang cứu thương, phục vụ chiến đấu và là nơi đặt trung tâm điện tín của Bưu điện tỉnh Quảng Ninh…. Đặc biệt sự kiện cắm cờ Đảng đầu tiên trên núi Bài Thơ mang một ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn. Sáng 01/5/1930, lá cờ Đảng phấp phới bay trên núi Bài Thơ đã đánh một dấu mốc quan trọng trong tiến trình cách mạng ở khu mỏ, nó thúc giục công nhân và lao động khu mỏ bước lên trường tranh đấu, đạp đổ ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân và bây giờ ngọn cờ đó vẫn tung bay phất phới trên ngọn núi Bài Thơ, là biểu tượng của thành phố Hạ Long - vùng đất mỏ anh hùng. Cũng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ núi Bài Thơ còn góp phần tạo nên một sự kiện lịch sử quan trọng. Lịch sử còn ghi lại: Dân quân tự vệ phường Bạch Đằng ở ngay trung tâm thành phố Hòn Gai (thành phố Hạ Long bây giờ), dưới chân núi Bài Thơ đã thành lập một khẩu đội 12 ly 7 và đưa lên trực chiến ngay trên núi Bài Thơ. Khẩu đội này là một trận địa phòng không bám trụ và chiến đấu trong điều kiện hết sức gian khổ và góp phần tích cực vào thắng lợi chung của quân dân vùng mỏ Quảng Ninh. Với một vai trò khác, vào những năm 1964 -1975, tại các hang ở sườn núi phía Đông của núi Bài Thơ, Trung tâm điện chính Bưu Điện Quảng Ninh đã chọn làm nơi sơ tán nhà cơ vụ và đặt một trạm viba để phát sóng truyền đi những thông tin quan trọng, nhờ đó không những đảm bảo được thông tin liên lạc thông suốt mà còn góp phần đánh trả lại máy bay Mỹ, bảo vệ trạm phát sóng an toàn. Núi Bài Thơ nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh Quảng Ninh từ thời kỳ Phong kiến đến các thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ nếu được đầu tư tôn tạo, kết hợp với các điểm di tích như Trận địa 37ly của Xí nghiệp tuyển than Hòn Gai (thành phố Hạ Long), Trung tâm chiến khu Đông Triều (chùa Bắc Mã) (huyện Đông Triều); Khu căn cứ cách mạng Sơn Dương, khu căn cứ kháng chiến chống Pháp Bằng Cả (huyện Hoành Bồ) cùng các di tích lịch sử cách mạng của các huyện Vân Đồn, Tiên Yên, Ba Chẽ, thành phố Móng Cái sẽ trở thành tour du lịch thăm chiến trường xưa hấp dẫn của tỉnh Quảng Ninh. Nguồn: Cổng thông tin điện tử văn hoá thể thao Quảng Ninh

Quảng Ninh 872 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ

Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ thuộc thôn Làng Quá, xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Đồn và tường thành là hai khu vực riêng biệt và nằm cách nhau khoảng 2km, độ cao 742m so với mực nước biển, Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ cách thành phố Hà Giang 106 km về phía Bắc. Theo tài liệu của Pháp, năm 1907 vùng đất Đường Thượng thuộc tổng Đông Minh, xã Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong chuyến đi thị sát các vùng Đại Miên, Tiểu Miện, Yên Minh, Yên Định, Du Già, Đường Thượng của Trung tá Boifacy chỉ huy đạo quan binh thứ 3, trong báo cáo số 1165, tháng 9/1913 vùng đất này “cần được theo dõi và chính vì thế mà phải có đồn Đường Thượng…” Sau chuyến thị sát này công việc lên kế hoạch xây dựng đồn bốt mới dần được tiến hành. Đồn bốt Đường Thượng cũ nay là đồn Lũng Hồ được xây dựng và hoàn thiện từ những năm 1935 - 1940. Công việc xây dựng đồn bốt vô cùng vất vả, chúng đã bắt dân chúng khu vực xung quanh làm phu phen, tạp dịch, vác đá, lấy nước để xây dựng, ai không tuân theo bị chúng đánh đập hoặc bắn chết. Tường thành: Tường thành cách đồn gần 2km được bố trí dựa vào điều kiện tự nhiên theo triền núi hai bên con đường độc đạo nối giữa Lũng Hồ và Yên Minh với mục đích kiểm soát hàng hoá, người ngựa trên khu vực này, báo động sẽ liên lạc về đồn cách đó khoảng 2km. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Đồn Lũng Hồ: Đồn được xây dựng trên khu đất cao, khá bằng phẳng quay hướng Đông - Tây. Chiều dài tường bao quanh gần 200m được bố trí các ụ bắn. Các ụ bắn đều có lỗ châu mai quan sát bên ngoài. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Thiết kế của đồn gồm có Khu nhà ngang và dãy nhà dọc ở phía Tây; Khu dãy nhà dọc và tháp canh ở phía Đông; Giữa khu phía Đông và phía Tây là khoảng đất rộng. Nhìn chung nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, hư hại, hầu như toàn bộ phần mái của các dãy nhà dọc và ngang bị tháo dỡ. Về mặt quân sự Đồn và tường thành Lũng Hồ là công trình quy mô, có vị trí quan trọng án ngữ con đường từ Lũng Hồ sang Đường Thượng, đồng thời ngăn chặn hoạt động tuyên truyền cách mạng tại vùng Đường Thượng của ta trong thời gian này. Công trình là bằng chứng của một thời kỳ lịch sử Pháp chiếm đóng và hoạt động tại khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh của tỉnh Hà Giang. Dưới sự kìm kẹp, nô dịch của thực dân Pháp ở khu Đường Thượng, cuộc sống của nhân dân rơi và cảnh lầm than. Thực hiện nghị quyết lãnh đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng. “Cuối năm 1944 đồng chí Việt Hưng thực hiện nhiệm vụ khơi thông con đường liên lạc từ Cao Bằng - Bắc Cạn - Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc) để đón cán bộ và chuyển vũ khí từ nước ngoài về nước. Đồng chí Việt Hưng tới Lũng Hồ, Đường Thượng gây dựng cơ sở, lấy Đường Thượng làm căn cứ, cán bộ Việt Minh đi đến đâu cũng nhận được sự ủng hộ của đồng bào. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật đảo chính Pháp. Ở Đường Thượng (Yên Minh) Bang tá Đào Văn Ất hốt hoảng bỏ đồn chạy trốn. Nắm bắt thời cơ đó cán bộ Việt Minh ở Đường Thượng đã họp khẩn cấp, chiếm đồn Đường Thượng, phá kho và lấy ngô, thóc chia cho dân và đặt trạm cảnh giới ở ngoài khu căn cứ được tiến hành rất khẩn trương. Ngày 16/3/1945 ta đã chiếm được đồn Đường Thượng, làm chủ và kiểm soát hoàn toàn khu Đường Thượng, từ đây các cán bộ Việt Minh toả về cơ sở lãnh đạo phong trào". Cùng với Khu di tích Sùng Chứ Đà, cơ sở cách mạng Đường Thượng, hang Mậu Long được công nhận là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, vườn quốc gia Du Già và Lễ hội Gầu tào, Lồng tồng, Cầu trăng, Cấp sắc, Thượng thọ... Nổi bật, là Lễ hội Tết Cá của người Tày được tổ chức tại xã Mậu Duệ. Cùng với định hướng của huyện và tỉnh trong thời gian tới, di tích Đồn và tường thành Lũng Hồ sẽ tiếp tục là những điểm đến hấp dẫn du khách khi tới Yên Minh. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Hà Giang 1013 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sùng Khánh

Chùa Sùng Khánh thuộc địa phận thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên. Chùa nằm gần Quốc lộ 2, cách Thành phố Hà Giang 9 km. Chùa Sùng Khánh được khởi công xây dựng từ tháng giêng năm Bính Thân thời Thiệu Phong (1356) đến rằm tháng tư thì hoàn thành. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, ngôi chùa được xây dựng thời Trần và sau này được trùng tu vào thời Lê đã bị đổ nát, tượng Phật và các đồ thờ tự đã bị mai một. Duy nhất chỉ còn 2 tấm bia đá và 1 quả chuông cùng trường tồn với thời gian, trong đó đáng chú ý nhất là tấm bia dựng dưới triều vua Trần Dụ Tông vào năm 1367. Bia đặt trên một con rùa đá tương xứng, điểm độc đáo là ở trán bia được bao bọc trong băng trang trí hình cánh cung được chia ra 3 ô: Ô chính giữa khắc hình Phật bà A Di Đà ngự trên toà sen 2 tầng cánh, mỗi bên có một đệ tử đứng chầu tay chắp trước ngực; hai ô bên cạnh khắc 2 con rồng giống nhau, tựa như đối xứng trong tư thế đang bay, đầu nghển cao hướng tới toà sen. Theo các nhà nghiên cứu, trán bia này là một tổ hợp trang trí đặc biệt, chưa từng thấy trên một tấm bia nào khác hiện đã biết ở nước ta. Tấm bia này là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn, được dùng để so sánh đối chiếu một số tự dạng thời Trần khi nghiên cứu các văn bản khác. Tấm bia không chỉ khẳng định sự ra đời của một ngôi chùa thờ Phật ở vùng biên cương hẻo lánh, mà còn có một sử liệu quan trọng là việc dòng họ Nguyễn thế tập làm phụ đạo quản trị ở đây ràng buộc với ngôi chùa. Bia đá chùa Sùng Khánh là một tài liệu bia ký nguyên vẹn, trang trí hình Phật, rồng, hoa dây…chưa từng thấy trên tấm bia thời Trần nào hiện biết. Tấm bia còn giúp thêm tài liệu cho việc tìm hiểu địa danh, lịch sử, chữ viết thời Trần, đặc biệt là sự xuất hiện của chữ Nôm khắc trong văn bia. Ngoài ra, chúng ta còn biết chế độ Phụ đạo ở thời Trần được chính quyền Trung ương thi hành rộng rãi. Tấm bia còn là chứng cớ nói lên ảnh hưởng của Phật giáo thời Trần thời bấy giờ. Hơn nữa, một hệ quả lịch sử mà chúng ta thấy được, đó chính là một biểu hiện lớn mạnh của chính quyền trung ương thời Trần đã quản lý chặt chẽ mọi miền biên viễn của đất nước. Chính vì vậy tấm bia này được công nhận là Bảo vật quốc gia vào năm 2013. Đến năm 1705 ngôi chùa được trùng tu lại. Lần trùng tu này đúc quả chuông và tạc 1 bia đá ghi lại sự kiện trùng tu chùa. Chuông cao 0,90m, đường kính miệng rộng 0,67m. Đặc biệt là ở 4 múi chuông, mỗi múi có 2 phù điêu hình người đắp nổi (cao 10cm bố trí ở góc các múi) để bảo vệ và trấn 8 hướng. Sau năm 1964, do điều kiện lịch sử, chiến tranh khốc liệt, ngôi chùa Sùng Khánh không được chăm nom bảo vệ thường xuyên và ít lâu sau đã bị đổ sập. Đến năm 1989 ngôi chùa được xây dựng lại; năm 1993 chùa Sùng Khánh được xếp hạng là di tích lịch sử; năm 1999, được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa Sùng Khánh gắn liền với lễ hội Lồng Tồng nơi đây. Từ năm 1994 đến nay, lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) được phục hồi lại. Lễ hội diễn ra vào ngày 15 tháng giêng âm lịch, được tổ chức tại thửa ruộng trước cổng chùa. Vào ngày này bà con nhân dân trong thôn, xã và các vùng lân cận quy tụ về đây dự lễ và lễ Phật. Vẫn theo lệ từ xưa, phần lễ đầu tiên là cúng tạ các thần linh cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, bản làng bình yên no ấm. Sau đó, người ta tiếp tục dâng lễ lên chùa lễ Phật. Tiếp theo phần lễ là phần hội với nhiều trò chơi dân gian truyền thống mà trong đó vui nhất, đông nhất là hội tung còn. Người dân địa phương thường quan niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm thì năm đó bản làng mới làm ăn thuận lợi. Lễ hội được tổ chức vui tươi, tưng bừng và phấn khởi, với mục đích mở mùa gieo trồng mới, tạ ơn trời, đất, thần Nông, thần Phục Hy, Thành hoàng làng bản…, cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa và cuộc sống an yên,yên lành, hạnh phúc… Chùa Sùng Khánh là một điểm du lịch tâm linh trên mảnh đất Vị Xuyên. Dù trải qua bao biến cố thăng trầm, nơi đây vẫn lưu giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa từ ngàn xưa. Về chùa Sùng Khánh, chúng ta có được khoảng không gian yên bình, tĩnh lặng giữa núi rừng non cao hùng vỹ, là cơ hội để cùng thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên yên bình, thơ mộng của Hà Giang. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Hà Giang 835 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cột Cờ Lũng Cú

Là cột cờ quốc gia, tượng trưng cho cột mốc cực Bắc của Tổ Quốc, cột cờ Lũng Cú nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Địa điểm này nằm ở độ cao khoảng 1.470m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú Có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều lần phục dựng, tôn tạo, cột cờ mới hình bát giác có độ cao trên 30m được khánh thành ngày 25 tháng 9 năm 2010. Được xây dựng đầu tiên từ thời Lý Thường Kiệt, ban đầu cột cờ chỉ làm bằng cây sa mộc. Cột được xây dựng lại từ thời Pháp thuộc năm 1887. Những năm sau đó như 1992, 2000 và đặc biệt năm 2002 cột cờ tiếp tục được trùng tu , xây dựng lại nhiều lần với kích thước, quy mô lớn dần theo thời gian. Năm 2002 cột cờ được dựng với độ cao khoảng 20m, chân và bệ cột có hình lục lăng và dưới chân cột là 6 phù điêu họa tiết bề mặt trống đồng Đông Sơn. Theo thiết kế cột cờ hiện nay xây dựng theo mô hình cột cờ Hà Nội nhưng có kích thước nhỏ hơn, chiều cao 33,15m (hơn cột cờ cũ 10m) trong đó phần chân cột cao 20,25m, đường kính ngoài thân cột rộng 3,8m. Chân, bệ cột cờ có 8 mặt phù điêu bằng đá xanh mô phỏng hoa văn mặt của trống đồng Đông Sơn và những họa tiết minh họa các giai đoạn qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, cũng như con người Địa điểm này cũng được xếp hạng Di tích lịch sử và danh thắng quốc gia, là biểu tượng khẳng định chủ quyền dân tộc. Hàng năm, cột cờ Lũng Cú đón lượng lớn khách du lịch đến khám phá. Nguồn: Di sản Tràng An

Hà Giang 871 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tiểu khu Trọng Con

Khu di tích Tiểu khu Trọng Con ở xã Bằng Hành, cách trung tâm huyện lỵ Bắc Quang gần 30 km, có tuyến đường Quốc lộ 279 chạy từ huyện Bắc Quang (Hà Giang) qua xã Bằng Hành tới huyện Chiêm Hóa của tỉnh Tuyên Quang. Từ khoảng năm 1939, phong trào đấu tranh chống đế quốc đã nhen nhóm ở nơi đây khi đồng chí Phạm Trung Ngũ, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, được phân công tới tổng Bằng Hành, nay thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) để gây dựng cơ sở cách mạng thông qua việc dạy học. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí Phạm Trung Ngũ đã khơi dậy lòng yêu nước, ý thức cách mạng của đồng bào trong vùng, tố cáo ách thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, do bị thực dân Pháp phát hiện nên đồng chí Phạm Trung Ngũ đã phải rút khỏi Bằng Hành đến nơi khác hoạt động. Thực hiện Chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, ngày 1/6/1945, đồng chí Lê Quảng Ba (tức Lê Tâm), đồng chí Bế Triều (tức Hải Nam) chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền gồm 54 chiến sĩ xuất phát từ Cao Bằng về tổng Bằng Hành để tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng. Để đảm bảo bí mật và an toàn, các đồng chí trong Ban Chỉ huy chia nhỏ thành từng nhóm đi tuyên truyền, xây dựng cơ sở. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội vũ trang tuyên truyền đã mở được nhiều lớp đào tạo ngắn ngày, thành lập các đội du kích, tự vệ, các đoàn thể cứu quốc và đặt tên vùng hoạt động là "Tiểu khu Trọng Con" (tên anh hùng Lý Tự Trọng) bao gồm các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc, Vô Điếm, Hữu Sản. Ngày 24/6/1945, đại biểu chính quyền cách mạng các xã trong Tiểu khu Trọng Con đã tổ chức mít tinh tại Thác Vệ, xã Bằng Hành, để thành lập chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh tổng hội. Tại đây, nhân dân đã được chứng kiến việc chính quyền cách mạng đốt bằng sắc, ấn triện, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, tổ chức cho nhân dân sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, xây dựng đời sống mới. Từ đó, phong trào cách mạng ngày một phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng lan rộng trong toàn huyện Bắc Quang và các vùng lân cận. Tháng 8/1945, phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang đã lớn mạnh, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. 74 năm đã trôi qua, mỏm đá Thác Vệ còn đó bên dòng sông Lô, khắc ghi đóng góp của các chiến sĩ cách mạng, nhân dân các dân tộc vùng tả ngạn sông Lô thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) cho cách mạng, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. Năm 1996, Di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) được Nhà nước công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

Hà Giang 838 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật