Di tích lịch sử

Việt nam

Quần thể di tích chuông chùa Đà Quận, Chùa Viên Minh, Đền Quán Triều

Quần thể di tích Đà Quận bao gồm 3 di sản văn hóa vật thể được xếp hạng, đó là chùa Viên Minh, đền Quan Triều (đều được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh vào năm 2008) và đôi chuông “Thần chung” được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2016. Chùa Đà Quận hay chùa Viên Minh đều là một. Viên Minh là tên chữ của ngôi chùa, còn Đà Quận là tên Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn - Danh tướng nhà Mạc, ở làng Đà Quận, xã Xuân Tĩnh, châu Thạnh Lâm, nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng. Chùa có từ thời Lý, vì trong chùa có hai câu đối như sau: “Viên Minh thắng tích hưng tiền Lý, Đà Quận thần chung chú Hậu Lê”. Tạm dịch: Thắng tích Viên Minh được khởi dựng trước, vào thời Lý. Chuông thần Đà Quận được đúc sau, vào thời Lê. Đôi câu đối này, như nghĩa của nó, cũng là phản ánh truyền ngôn trong dân gian về lịch sử ngôi chùa. Chùa là một quần thể hoàn chỉnh, kiến trúc thống nhất mở đầu bằng tam quan và kết thúc bằng gác chuông. Kiến trúc trang trí ở đây lấy cái ý: “sắc sắc không không của Phật giáo làm gốc”. Đối diện với chùa là đền Quan Triều. Tương truyền, đền Quan Triều được xây dựng từ thời nhà Lý, đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175). Trải qua thời gian và do biến cố của lịch sử, đền đã bị hoang phế hoàn toàn, đến khi nhà Mạc lên đất Cao Bằng đóng đô đã cho trùng tu lại, nay chỉ còn nền móng cũ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhân vật lịch sử của Di tích lịch sử văn hóa đền Quan Triều là Dương Tự Minh, người dân tộc Tày, quê ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương (đạo thừa tuyên Thái Nguyên). Dương Tự Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có cha là quan châu mục, thủ lĩnh một đội dân binh Tày, từng đánh trận Ung Châu, trận sông Như Nguyệt, một võ quan của triều đình nhà Lý ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương, nay là xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương (Thái Nguyên). Làm quan phủ, Dương Tự Minh được muôn dân kính trọng bởi sự thanh liêm và đức độ. Nhưng sau đó, triều đình rối ren, quan lại lộng quyền, Dương Tự Minh vì lòng chính trực mà bị gian thần trả thù. Dương Tự Minh bị vua Anh Tông đày đi nơi rừng sâu, nước độc ở chân núi Đuổm, phủ Phú Lương. Vị chủ tướng oai hùng năm xưa trở thành “ông già núi Đuổm”, nhưng chính cái tên hiền lành đơn sơ ấy cùng với những kỳ tích năm xưa mãi mãi khắc sâu danh tiếng anh hùng Dương Tự Minh trong lịch sử. Chùa Viên Minh là một trong ba ngôi chùa cổ nhất của tỉnh, giá trị lịch sử lâu đời ấy được khắc ghi tại đôi chuông đang hiện diện tại đây. Năm 1993, đôi chuông này có giá trị nghệ thuật điêu khắc. Với những giá trị đặc sắc, năm 2016, đôi chuông được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia. Quả chuông to cao 1,75 m, miệng rộng 1,07 m; quả chuông nhỏ cao 1,55 m, miệng rộng 0,95 m. Cả hai đều đúc bằng hợp kim đồng, lâu ngày đã ngả sang màu gang. Chuông chùa Viên Minh là một trong số ít những di sản của nhà Mạc còn lại ở vùng đất biên viễn này. Quần thể di tích Đà Quận, Đền Quán Triều nơi lưu giữ đôi chuông cổ được công nhận là Bảo vật Quốc gia này có giá trị rất lớn về mặt lịch sử và văn hóa. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử

Cao Bằng 1266 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền thờ Chu Văn Lương

Đền thờ Chu Văn Lương (còn gọi là đình làng Nam Ngạn), xưa thuộc xã Nam Ngạn, tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, nay là phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa. Đền thờ quan Đốc học Liệt hầu đồng bình chương sự Chu Văn Lương, người có công dạy chữ, bốc thuốc chữa bệnh, khai phá đất đai lập ra ấp Nam Sơn, trại Nam Ngạn và tổ chức nhân dân nơi đây đánh giặc giữ làng, có nhiều công trạng trong cuộc khánh chiến chống quân Nguyên Mông đầu thế kỷ XIII. Sau khi ngài mất, vua Trần đã ban sắc phong cho ngài là “Thượng đẳng Phúc thần” và y chuẩn cho nhân dân trại Nam Ngạn giữ gìn cúng tế. Dân làng suy tôn ông làm Thành Hoàng làng. Đền được khởi dựng từ thời Trần ở ngoài đê sông Mã, đến năm Bảo Thái thứ 4 triều Lê Dụ Tông (1723) được di dời cùng với chùa Mật Đa vào khu đất hiện nay. Trải qua các triều đại, ngôi đền đều được triều đình quan tâm tu sửa, ban thêm sắc phong, mỹ tự cho thần. Đền thờ Chu Văn Lương đã được Bộ Văn Hoá-Thể Thao xếp hạng di tích Lịch Sử Văn Hoá cấp Quốc gia ngày 6/11/1989. Hiện nay, đền thờ còn lưu giữ được nhiều mảng chạm độc đáo, đặc sắc có phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ XIX), cùng nhiều hiện vật đồ thờ thời Lê, Nguyễn có giá trị lịch sử văn hóa như: Sắc phong, ngai thờ bài vị, bảng văn, bia đá… Lễ hội được tổ chức vào ngày sinh nhật 18 tháng 2 âm lịch và ngày giỗ 12 tháng 9 âm lịch của ngài, với nhiều trò chơi, trò diễn dân gian đặc sắc. Hiện nay, đền thờ có vị trí địa lý như sau: Phía bắc giáp đường ngõ Đúc Tiền, phía nam giáp chùa Mật Đa và nhà dân, phía đông và phía tây giáp nhà dân. Tổng diện tích đất theo biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ của di tích đền Chu Văn Lương là 0,140 hét ta. Diện tích đất nghiên cứu Quy hoạch dự kiến là 0,142 hét ta. Nguồn: Trang thông tin điện tử thành phố Thanh Hoá

Thanh Hóa 1204 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Mật Đa

Chùa Mật Đa thuộc cụm Di tích lịch sử Nam Ngạn, phường Nam Ngạn (TP Thanh Hóa), đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1989. Theo văn bia còn lưu giữ thì chùa Mật Đa lúc đầu ở ngoại đê sông Mã, thuộc ấp Hòa Bình, xã Nam Ngạn, được xây dựng vào thời Hậu Lê - đời Bảo Thái năm thứ tư, tức năm Quý Mão 1723. Thuở ban sơ, ngôi chùa chỉ là nhà tranh vách đất, dùng để thờ Phật. Tượng Phật được tôn tạo bằng đất nung rất đẹp, cung kính, trang nghiêm. Chùa Mật Đa là một ngôi chùa cổ của Thanh Hóa còn giữ được nguyên vẹn với kiến trúc đặc trưng của những ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc bộ. Chữ “Mật Đa tự” mang hàm nghĩa là nơi có hoa thơm, quả ngọt của đất Phật, có nhiều phúc đức nên từ xa xưa chùa đã thu hút rất đông khách thập phương về chiêm bái, thể hiện tâm linh, cầu phúc, làm việc thiện giúp đời. Cảnh chùa phong quang, hoa văn trang trí rất độc đáo. Quy mô ngôi chùa mang kiến trúc hình chữ Đinh, gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Bên trong chính điện có treo một bức đại tự sơn son thếp vàng chạm 3 chữ “Mật Đa tự”. Ở gian giữa có 4 chữ “Pháp giới mông huân”. Gian ngoài cùng treo một bức có 4 chữ “Tam giới độc tôn”. Hậu cung là cung Tam bảo nơi đặt tượng Phật. Phía Tây Nam ngôi chùa là nhà Tăng và nhà Tổ. Kết cấu của chùa với bộ khung gỗ vững chắc, cột bằng gỗ lim, chùa lợp bằng ngói đất nung mái cong. Trong chùa bài trí tượng pháp khá đầy đủ. Đặc biệt chùa có hai tượng hộ pháp khuyến thiện và trừ ác cao hơn 3m. Sau khi xây dựng tôn tạo nhiều lần, về mặt kiến trúc điêu khắc của chùa đã có sự thay đổi hài hòa đan xen giữa các nền nghệ thuật của các thời Trần, Lê, Nguyễn... Chùa có 4 pho tượng rất đẹp do thập phương công đức. Tại bia số 2 bên trái chùa có ghi ngôi chùa này được trùng tu vào thời Bảo Đại năm thứ 3 Mậu Thìn 1928. Mật Đa tự không chỉ là một ngôi chùa đẹp linh thiêng trong tâm nguyện của Nhân dân, mà còn mang dấu ấn của một di tích lịch sử, có công trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Hàm Rồng - Nam Ngạn không bao giờ quên hình ảnh các nhà sư trong chùa đã tích cực tham gia chiến đấu. Chùa Mật Đa trở thành sở chỉ huy của trận địa bảo vệ cầu Hàm Rồng, là nơi tập kết lương thực, thực phẩm, đạn dược, nơi cấp cứu nuôi dưỡng ban đầu cho thương binh. Chỉ nằm cách cầu Hàm Rồng gần 2km theo đường chim bay, nên chùa Mật Đa đã trở thành địa điểm cứu chữa thương binh quan trọng của trận địa bảo vệ cầu Hàm Rồng. Chùa Mật Đa sẽ sống mãi với những trang sử hào hùng của dân tộc và trong tâm thức tăng ni, đồng bào phật tử và Nhân dân cả nước cũng như của Nam Ngạn - Hàm Rồng, Thanh Hóa. Nguồn: Báo Thanh Hoá

Thanh Hóa 1137 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thái miếu nhà Hậu Lê

Tọa lạc tại phố Kiều Đại, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, Thái miếu nhà Hậu Lê nằm tĩnh lặng, yên bình bên những bóng cây cổ thụ hơn 200 năm tuổi. Nơi hậu thế tỏ lòng kính ngưỡng với vương triều Hậu Lê - một triều đại phong kiến dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Thái miếu nhà Hậu Lê hay còn gọi là Đền Lê, Miếu Bố Vệ được xây dựng vào năm Gia Long thứ 4 (1805) là nơi thờ tự chung của các đời vua, các vị Hoàng hậu, Hoàng Thái hậu, Triệu tổ, Hiển tổ, Tuyên tổ cùng các vị vương công, đại thần triều hậu Lê. Điểm nhấn của Thái miếu được thể hiện ở lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang phong cách kiến trúc Hậu Lê và thời Nguyễn, với các công trình: Nghinh môn, sân điện, tiền điện, hậu điện. Qua Nghinh môn là bức cuốn thư (xây dựng năm 1805) một trong những hiện vật cổ còn lưu giữ. Thái miếu gồm 2 tòa: Tiền điện và Hậu điện được bố trí liền nhau theo lối trùng thềm (kiểu chữ Nhị) gồm 7 gian, mái được lợp ngói mũi hài, phía trên nóc được trang trí công phu với biểu tượng "lưỡng long chầu nguyệt". Phía trước Tiền điện có 2 cột nanh cao 6m và các con Nghê làm từ chất liệu gỗ mít, được chạm khắc tinh xảo, mang đậm chất nghệ thuật điêu khắc cổ. Tại gian giữa của Tiền Điện treo một bức hoành phi lớn có khắc 6 chữ: "Nam quốc sơn hà tự thử" (có nghĩa là nước Nam ta có từ đây), bên cạnh có hàng chữ nhỏ ghi năm dựng miếu là 1805. Trải qua biến thiên của thời gian cùng nhiều lần trùng tu, nhưng Thái miếu nhà Lê còn lưu giữ được nhiều hiện vật giá trị. Nơi đây hiện đang lưu thờ bài vị của 27 vua, Hoàng Thái Hậu cùng các vương công nhà Hậu Lê. Trong đó có 4 thánh vị cổ của các vua Lê Thái Tổ, Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông và Lê Gia Tông. Với những giá trị về văn hóa, lịch sử, năm 1995, Thái miếu nhà Hậu Lê được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật Quốc gia. Hơn 200 năm đã trôi qua, Thái miếu nhà Hậu Lê uy nghi đứng đó, cổ kính và linh thiêng, là nơi để hậu thế tìm về, chiêm ngắm, tỏ lòng tri ân các bậc tiền nhân, là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa giúp hậu thế phần nào hiểu được về một chặng đường phát triển của lịch sử để từ đó thêm tự hào và yêu hơn mảnh đất nơi mình được sinh ra và lớn lên. Nguồn: Đài phát thanh và truyền hình Thanh Hoá

Thanh Hóa 1057 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Mai An Tiêm

Đền thờ Mai An Tiên thuộc xã Nga Phú, huyện Nga Sơn, cách huyện lỵ Nga Sơn 5km về phía Đông Bắc. Ngôi đền nhỏ đơn sơ nép mình bên sườn núi nhưng chứa đựng cả một huyền thoại đẹp được lưu truyền bao đời nay. Kiến trúc của ngôi đền khá đơn giản, đền được kết cấu theo hình chữ Đinh gồm 5 gian Tiền Bái và 4 gian Hậu cung được mô phỏng theo kiến trúc đình, đền Việt Nam, có cổng tứ trụ truyền thống. Nội thất trong đền được bố trí trang nghiêm, gọn gàng. Đến thăm ngôi đền của nhân vật huyền sử - Mai An Tiêm, người khai sinh ra quả dưa hấu đỏ ai cũng có tâm trạng xúc động về một biểu tượng về tinh thần vượt khó, cần cù, sáng tạo trong lao động. Tương truyền: Vào thời vua Hùng Vương thứ 6, Mai Yển - hiệu An Tiêm nguyên Thượng thư Lại Bộ Xuân Thu, do có nhiều công trạng nên được nhà vua rất yêu mến và gả con gái cho. Được vua yêu quý nên chàng bị các lạc hầu, lạc tướng ghen ghét, gièm pha tìm cách hãm hại;một lần vì làm phật ý vua nên chàng và gia đình bị đày ra đảo hoang sinh sống. Nhờ có loài quạ tha quả về ăn, Mai Yển đã tìm cách đuổi quạ đi và ăn thử thấy ngon, ngọt lạ thường bèn đem hạt gieo, mùa đầu đã cho nhiều quả và thứ quả đó đã nuôi sống gia đình Mai Yển, sau này người ta gọi đó là quả dưa hấu. Vụ này tiếp nối vụ kia, dưa hấu ngày càng nhiều, gia đình Mai Yển dùng không hết liền nghĩ cách, khắc chữ vào vỏ quả, bỏ xuống biển, thủy triều đã đẩy những quả dưa vào bờ, quan quân thấy vậy liền tâu lên nhà vua, mọi người cùng ăn và vui mừng khen ngon. Vua biết Mai Yển và vợ con không chết mà còn nhớ đến nhà vua, tìm cách dâng quả ngon; vua liền ra lệnh đưa Mai Yển về đất liền để phong lại chức tước. Với ý nghĩa dân gian sâu sắc, vào năm Duy Tân thứ nhất, vua sắc phong cho thôn Ngoại, huyện Nga sơn thờ phụng Mai Yển hiệu An Tiêm Dực Bảo Trung Hưng linh phù chi thần. Đến năm Khải Định thứ 9, vua gia phong Đoan túc tôn thần, sắc cho thôn Ngoại tiếp tục thờ phụng. Đặc biệt chuẩn phong cho phép phụng thờ, dùng theo lễ quốc khánh. Năm 1989, đền thờ Mai An Tiêm thuộc xã Nga Phú, huyện Nga Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hàng năm, vào ngày 12 đến 15 tháng 3 âm lịch, tại đền thờ Mai An Tiêm, chính quyền và nhân dân địa phương thường tổ chức lễ hội để tưởng nhớ, tri ân Mai An Tiêm, người có công khai phá, mở mang bờ cõi, thủy tổ của nghề canh nông cho dân trong vùng. Hình ảnh Mai An Tiêm và sự tích quả dưa hấu là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta trong buổi đầu dựng nước. Nguồn: Du lịch Thanh Hoá

Thanh Hóa 1136 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Cầu Hàm Rồng

Cầu Hàm Rồng lịch sử nằm trên tuyến đường Bắc – Nam của vùng đất xứ Thanh “địa linh nhân kiệt”, sơn thủy hữu tình bắc qua sông Mã, với lối kiến trúc độc đáo, gắn liền với lịch sử phát triển của mảnh đất Xứ Thanh hào hùng, ý chí quật cường của người Thanh Hóa. Cầu Hàm Rồng là cây cầu đầu tiên được bắc ngang qua dòng sông Mã ở Thanh Hóa, cách trung tâm Thành phố Thanh Hóa gần 5km về phía Bắc... Đây cũng là cây cầu đường sắt duy nhất đi qua dòng sông Mã do Pháp xây dựng năm 1904 theo kiểu cầu vòm thép không có trụ, hiện đại nhất Đông Dương thời bấy giờ. Năm 1946, cầu bị phá hủy theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến của Việt Minh nhằm ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược. Năm 1963, cầu được các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ thiết kế và thi công khôi phục lại, trở thành cầu có trụ như hiện nay, với chiều rộng 17 mét, gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ. Trong chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc nước ta, Không quân Mỹ đã tập trung đánh phá cầu Hàm Rồng nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông quan trọng, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường lớn miền Nam. Việc đánh phá Hàm Rồng được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chọn là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Với âm mưu cắt đứt sự chi viện Bắc - Nam, cô lập Hàm Rồng và tập trung đánh dứt điểm Hàm Rồng, vào 8 giờ 45 phút ngày 3/4/1965, 16 chiếc máy bay đầu tiên của Mỹ ném bom vào địa phận Thanh Hoá với một loạt địa điểm đánh phá như cầu Đò Lèn (Hà Trung), cầu Cun (Nông Cống), ga Văn Trai (Tĩnh Gia)... Chỉ trong 2 ngày 3 và 4/4/1965, quân Mỹ đã sử dụng 174 lần tốp, 454 lần máy bay; ném xuống địa bàn tỉnh Thanh Hoá 627 quả bom phá, 58 quả bom nổ chậm (gồm các loại từ 500 đến 1.000kg), hàng trăm tên lửa, rốc-két vào các khu vực trọng điểm của Thanh Hoá. Riêng khu vực Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực, địch bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn phá 80 lần, ném 350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc-két. Để bảo vệ cầu Hàm Rồng, về phía ta, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa tháng 12 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Nếu như Quân khu IV là quan trọng thì Thanh Hóa là quan trọng nhất bởi vì Thanh Hóa là hậu phương trực tiếp của mặt trận Bình - Trị - Thiên và Lào”. Tỉnh ủy Thanh Hóa nhận định: “Trọng điểm đánh phá quân khu vào lúc này là Thanh Hóa, trọng điểm Thanh Hóa là Hàm Rồng, bảo vệ cầu Hàm Rồng là góp phần bảo vệ giao thông thông suốt”. Do vị trí đặc biệt quan trọng của cầu Hàm Rồng là ở hai đầu Bắc vào Nam của cầu có hai ngọn núi, núi Ngọc và núi Rồng có thể chắn được hầu hết bom rơi xuống. Sau 2 ngày chiến đấu kiên cường, Thanh Hoá đã bắn rơi 47 máy bay giặc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng. Điều này đã chứng minh đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự của Đảng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta đã đi vào lịch sử như một huyền thoại khiến dư luận nước Mỹ xôn xao, bạn bè yêu chuộng công lý và hòa bình trên toàn thế giới khâm phục. Năm tháng qua đi. Cầu Hàm Rồng cùng hai chữ “Quyết Thắng” uy nghiêm tạc vào sườn núi như một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam. Với mỗi người con Thanh Hóa, Hàm Rồng - Sông Mã còn là hiện thân của quê hương, vừa gần gũi, thân thuộc, vừa rất đỗi thiêng liêng, tự hào. Nguồn: Trường Chính Trị Thanh Hóa

Thanh Hóa 1316 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Ông Bảy Bảo Hà

Nằm trong "Quần thể di tích Thần vệ quốc Hoàng Bảy", đền Bảo Hà ở xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai. Đền Bảo Hà được xếp hạng là Khu di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 1997. Đền Bảo Hà, nơi thờ Thần Vệ Quốc Hoàng Bảy, còn được nhiều người gọi là Đền Ông Hoàng Bảy. Tương truyền, vào cuối thời Lê (niên hiệu Cảnh Hưng 1740 - 1786) khắp vùng đất thuộc phủ Quy Hóa, nhất là Châu Thủy Vỹ và Châu Văn Bàn luôn bị giặc vùng Vân Nam (Trung Quốc) tràn sang cướp phá. Trong tác phẩm “Đại Nam nhất thống trí” của Quốc sử quán Triều Nguyễn ghi rõ về châu Thủy Vỹ: “Động Cam Đường có mỏ vàng, Động Trình Lạn và đọng Sơn Yên ngày trước có mỏ đồng. Thổ sản có thảo đậu khấu. Động Ngọc Uyển có mỏ kẽm và bạc. Trên sông Ân đối ngạn với điếm Bắc Sát có sở Tuần Ty ở xứ Nguyên Đường, thu thuế muối, mỗi năm được một nghìn lạng bạc. Phong tục ngôn ngữ và văn tự giống như châu Văn Bàn. Họ Nguyễn đời đời làm Phụ đạo. Binh hiệu gọi là Ninh Nhất. Sau khi loạn lạc, dân cư điêu tàn, ruộng đất bỏ hoang. Những người quản cũ ở động Hương Sơn và động Trình Lạn chiêu mộ những người Nùng áo xanh về khẩn điền khai mỏ chịu thuế. Các tù trưởng chiêu tập những người nùng và người mán về ở lẫn lộn với nhau nhưng họ khó dậy và dễ làm theo giặc. Đường bộ từ châu Văn Bàn đi vào đều phải qua núi, rất là khó khăn. Đường thủy từ sông Thao đi ngược lên, phía dưới sông nhiều đá lởm chởm, gập gềnh”. Lúc này, tướng giặc là phu Chẩn Tin Toòng thường xuyên cho quân đánh phá châu Thủy Vỹ, chiếm trấn Văn Bàn. Trước tình hình đó, triều đình nhà Lê đã cử danh tướng họ Nguyễn lên trấn thủ vùng biên ải tiến ngược sông Hồng đánh đuổi quan giặc giải phóng châu Văn Bàn và củng cố, xây dựng vùng đất Bảo Hà thành căn cứ lớn. Tại đây, danh tướng họ Nguyễn đã tập hợp các thổ ty, tù trưởng, chiêu nạp quân sỹ ngày đêm luyện tập. Sau đó, Ông đã thống lĩnh đội quân thủy, bộ tiến lên Lào Cai, đánh đuổi quân giặc phải rút về vùng biên giới Vân Nam - Trung Quốc. Sau khi giải phóng vùng Quy Hóa, ông chiêu dụ các Thổ hào địa phương tổ chức đón người Dao, Thổ và đặc biệt là ngường Nùng áo xanh về lập làng, khẩn điền, khai mỏ xây dựng quê hương. Với âm mưu chiếm Lào Cai, giặc phương Bắc thường xuyên đem quân tiến đánh các khu vực biên giới, nhưng các cuộc xâm lược nhỏ ấy đều bị quân và dân vùng biên chống trả quyết liệt, đuổi chúng về nước. Nhưng ý đò xâm chiếm của họ vẫn không dừng lại, chúng điều một đạo quân lớn do tướng giặc là Tả Tủ Vàng Pẹt dẫn sang xâm lược bờ cõi, danh tướng Hoàng Bảy lại một lần nữa thân chinh xuất quân đánh giặc. Song, do giặc phát hiện bí mật quân sự của ta, mặt khác, quân giặc đông, trận chiến không cân sức giữa quân ta và quân xâm lược, nên Ông và các tướng lĩnh đã anh dũng hy sinh, xác Ông trôi theo sông Hồng tới địa phận xã Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng ngậm ngùi thương nhớ, đưa xác Ông lên chôn cất và xây dựng đền thờ để nhân dân quanh năm dâng hương tưởng nhớ đến công lao đánh giặc giữ nước của ông và các tướng lĩnh. Sau đó, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, triều Nguyễn đã phong cho ông danh hiệu “Trấn An hiển liệt”. và ban sắc phong là “Thần Vệ Quốc”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1120 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh thự Hoàng A Tưởng

Dinh vua mèo Hoàng A Tưởng tọa lạc tại trung tâm huyện lỵ Bắc Hà. Có kiến trúc thiết kế theo phong cách Á- Âu kết hợp. Dinh vua mèo Hoàng A Tưởng được xây dựng từ năm 1914 và đến năm 1921 thì hoàn thành. Chủ nhân của Dinh Thự này là Hoàng Yến Chao dân tộc Tày, bố đẻ của Hoàng A Tưởng. Trải qua hơn 80 năm tồn tại cùng thời gian, phủ bao lớp rêu phong cổ kính vẫn đứng uy nghi nổi trội giữa một nơi dân cư đông đúc, phố xá tấp nập. Sở dĩ nơi đây còn được gọi là dinh vua Mèo vì trước năm 1945, Bắc Hà thuộc chế độ thuộc địa nửa phong kiến với giai cấp thống trị và bị trị, người bóc lột và kẻ bị bóc lột. Trong đó, tầng lớp bóc lột là các thổ ty mà điển hình là cha con Hoàng Yến Chao và Hoàng A Tưởng. Chính vì vậy Dinh Thự Vua Mèo Hoàng A Tưởng được xây dựng để phần nào khẳng định sự uy quyền và giàu có của mình. Gần 100 năm trôi qua, dinh Vua Mèo Sa Pa vẫn đứng sừng sững giữa bao la núi đồi, trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng của Bắc Hà. Dù đã trải qua gần 100 năm tồn tại cùng nắng mưa nhưng nét kiến trúc Á – Âu và vẻ đẹp của dinh Hoàng A Tưởng vẫn là niềm tự hào của con người nơi đây. Toàn bộ dinh thự được xây theo hình chữ nhật khép kín, rộng 4.000m². Muốn vào dinh, bạn phải bước lên hai cầu thang vòng trước hiên nhà rồi đến một sân chờ rộng. Nghe nói ngày trước, sân này dùng để múa xòe cho vua xem. Khu nhà gồm hai tầng với phòng chính, phòng sinh hoạt chung và phòng riêng dành cho các bà vợ và con cái. Những phòng kế tiếp nhỏ hơn là nơi ở cho lính và người hầu. Toàn bộ dinh thự được xây bằng gạch đất nung, kết dính bằng vôi và sáp ong. Quy định về cống nạp sáp ong, thuốc phiện thời đó cũng rất khắt khe theo từng tháng với mỗi gia đình. Toàn bộ mái dinh lợp bằng ngói gốm, sàn nhà lát bằng gỗ quý khai thác trong rừng. Những bộ bàn ghế đóng theo kiểu Pháp kết hợp với kiến trúc tâm linh của Trung Quốc. Phía sau dinh là hầm ngầm thoát hiểm của gia đình họ Hoàng. Dinh Hoàng A Tưởng được bộ Văn hoá, Thể Thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 11/6/1999. Nguồn: Du lịch Việt Nam

Lào Cai 1274 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thượng - Lào Cai

Đền Thượng Lào Cai còn có tên Thánh Trần Từ. Đền Thượng Lào Cai được xây trên đất thuộc phố Bảo Thắng, Châu Thủy Vĩ, tỉnh Hưng Hóa nay thuộc phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Đền Thượng được xây dựng vào thời Lê, niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Là nơi thờ Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn, người đã có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ bờ cõi non song đất nước. Một Danh nhân lịch sử vĩ đại, vị Thánh linh thiêng tôn quý trong tâm thức của các thế hệ người Việt Nam. Tọa lạc trên đồi Hỏa Hiệu thuộc dãy núi Mai Lĩnh với độ cao 1200m so với mực nước biển. Đền Thượng được xây dựng theo lối kiến trúc cổ hình chữ Công, tuân theo thuyết phong thủy vừa đường bệ mà lại rất trang nghiêm. Khu vực đền Thượng có cảnh quan thiên nhiên sơn thủy hữu tình cùng sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc truyền thống với nét văn hóa bản địa, tạo cho ngôi đền mang dáng vẻ uy nghi lộng lẫy. Soi mình bên dòng sông Nậm Thi, nơi đây xưa có vị trí vô cùng quan trọng trong chiến lược phòng thủ chống quân xâm lược. Ngày nay, gần cửa ngõ giao thương giữa hai tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc), vùng đất linh thiêng nơi địa đầu Tổ quốc này mỗi năm đón hàng vạn lượt du khách trong và ngoài nước thăm viếng, tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc. Ngay từ khi bước chân đến cổng đền, du khách đã được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cây đa 300 năm tuổi đang vươn cành trổ tán, dưới bóng cây cổ thụ là miếu thờ Bà chúa Thượng Ngàn (Nữ chúa rừng xanh). Tương truyền, trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bà đã góp công đánh giặc bảo vệ bờ cõi nước Nam, ghi công ơn bà, nhân dân lập miếu thờ ngay dưới gốc cây đa xum xuê cành lá. Tại khu vực đền chính, bức hoành phi “Văn hiến tự tại” được treo trước Nghi môn, hai bên có hai câu đối: “Việt khí linh đài hoành không lập, Đông A hào khí vạn cổ tồn”, nghĩa là: “Nước Việt đài thiêng vắt ngang trời, Nhà Trần hào khí còn muôn thủa”. Mặt sau Nghi môn nội có dòng chữ “Quốc thái dân an” với hai câu đối: “Thiên địa dịu y, thiên địa cựu; Thảo hoa kim dị, thảo hoa tiền” nghĩa là: “Trời đất vẫn nguyên, trời đất cũ; Cỏ hoa nay khác, cỏ hoa xưa”. Đền Thượng được xây dựng khang trang với 7 gian thờ chính gồm: Cung thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, Cung thờ Tam tòa Thánh Mẫu; Ban thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo; Cung thờ Đức vua cha Ngọc Hoàng... và các ban thờ phía Tả Vu - Hữu Vu thờ Chầu bà Đệ Nhị Sơn Trang, Thập Nhị Tiên Cô, Chầu hầu cận Chúa và Cậu Bé thủ đền... tất cả đều được sắp đặt theo trình tự. Bên cạnh Đền Thượng là ngôi đình hình vuông với 4 cửa, 8 rồng chầu, giữa phương đình hình rùa vàng lưng đội bia đá khắc tích "Đức Thánh Trần". Nơi đây trước kia là nơi nghỉ chân của các quan quân đi tuần, ngày nay, là rừng sinh thái với đủ các loại cây trồng bảo vệ môi trường, phục vụ du khách tham quan, nghỉ chân thưởng thức khí hậu trong lành. Đền Thượng nằm trong quần thể di tích văn hóa với chùa Tân Bảo, đền Am, đền Mẫu, đền Cấm, đền Quan. Đặc biệt, Đền Thượng là một trong những ngôi đền linh thiêng được nhiều người biết đến nhất trong hệ thống các đền, chùa ở Lào Cai. Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, năm 1996, Đền Thượng đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Hàng năm Đền Thượng tổ chức lễ hội vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch, thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách trong và ngoài nước đến tham quan, chiêm bái. Nguồn: Du lịch Việt Nam

Lào Cai 1239 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Công Viên Hồ Chí Minh

Nằm ngay trung tâm thành phố Lào Cai, di tích Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào Cai thường được mọi người biết đến với tên gọi “Công viên Hồ Chí Minh”, thuộc địa phận phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Khu di tích là địa danh tưởng niệm, ghi dấu chuyến thăm duy nhất của Bác Hồ cùng phái đoàn chính phủ với Đảng bộ và nhân dân Lào Cai. Vị trí di tích được đặt trên nền Nhà máy điện Lào Cai cũ, nơi Bác đã dành thời gian đến thăm hỏi, động viên công nhân tại công trình Nhà máy điện đang xây dựng sắp sửa hoàn tất. Trong bộn bề khó khăn của đất nước dù bận trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian về thăm và làm việc với Đảng bộ và nhân dân Lào Cai vào ngày 23-24/9/1958. Ghi nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trân trọng những tình cảm quý báu của Người với quê hương Lào Cai, nhân dịp kỷ niệm tròn 40 năm Bác Hồ đến thăm Lào Cai (1958-1998), UBND tỉnh Lào Cai xây dựng công trình khu lưu niệm Bác Hồ. Năm 2022, Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào Cai đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Việc xây dựng đài tưởng niệm Bác Hồ tại Lào Cai là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đáp ứng được nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Lào Cai, thể hiện tình cảm của Bác Hồ dành cho nhân dân nơi đây, cũng như tình cảm, lòng kính yêu và sự tri ân của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai đối với Bác Hồ kính yêu. Đây là công trình tâm linh để nhân dân, du khách gần xa có dịp bày tỏ lòng biết ơn, niềm thành kính, dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bên cạnh đó, Khu tưởng niệm còn là "địa chỉ đỏ" giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau về lịch sử dân tộc, về thân thế, sự nghiệp vĩ đại của Người. Nơi đây, luôn mở cửa đón nhân dân cả nước đến tham quan và tỏ lòng thành kính, biết ơn Hồ Chủ tịch. Nguồn: Ban quản lý di tích thành phố Lào Cai

Lào Cai 1154 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cấm Lào Cai

Đền Cấm thuộc thôn Soi Mười xã Vạn Hòa (nay là tổ 3 phường Phố Mới - Lào Cai), ngôi đền được tọa lạc dưới chân quả đồi thấp, xung quanh cây trái tốt tươi, trước đền là 3 cây cổ thụ: cây si, cây mít và cây ngọc lan tỏa bóng mát cho đền tạo nên cảnh quan rất lý tưởng. Ngôi đền được xây dựng và tồn tại cách đây gần 200 năm nay gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam nói chung và đồng bào các dân tộc Lào Cai nói riêng. Ngôi đền có truyền thuyết gắn liền với công cuộc 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông dưới sự chỉ huy của vua tôi nhà Trần đó là vị tướng quốc Trần Quốc Tuấn - người được phong hiệu “Vạn cổ anh linh Thượng đẳng phúc thần”. Tương truyền rằng, năm 1257 Trần Quốc Tuấn hành quân lên biên giới chỉ huy quân phòng thủ chống quân xâm lược Mông Cổ (Thế kỷ XIII) có rất nhiều tướng lĩnh đã ngã xuống vùng đất nơi biên cương này. Đền Cấm được xây dựng để tưởng nhớ 5 binh sĩ nhà Trần (không rõ tên tuổi). Hồi đó khu vực ga (Phố Mới ngày nay) là một cánh rừng nguyên sinh rậm rạp, trong một lần thị sát và chỉ huy phòng thủ biên giới (khoảng năm 1257), tướng Trần Quốc Tuấn đã chọn địa điểm ngôi Đền Cấm bây giờ làm trạm quân y tuyến 2 trong phòng thủ biên giới. Sau đó trong các trận chiến đấu, thương binh được đưa về chữa trị dưới cánh rừng này, người dân bản địa lúc đó là người Việt, người Tày và người Giáy cũng đưa người ốm đau vào nhờ quân y chăm sóc giúp. Rồi có chuyện ly kỳ xảy ra đó là: đêm đêm có một thiếu nữ mặc váy áo màu xanh đến chữa thuốc cho mọi người, thiếu nữ chữa rất giỏi, ai được dùng thuốc đều khỏe mạnh, nhưng thầy thuốc thần kỳ chỉ xuất hiện vào ban đêm còn ban ngày không thấy xuất hiện. Tìm hiểu bản xứ, người dân cho biết không có con cái nhà ai như vậy, sau đó người dân và quan binh đều tin rằng đó là hiển linh của Thánh Mẫu thượng ngàn giúp quan quân và nhân dân giữ nước. Ngay dưới Phương Đình bên cây mít cổ thụ này là 5 ngôi mộ của những quan binh đã xả thân vì nghĩa lớn. Đền Cấm nằm ở vị trí trung tâm cánh rừng xưa, trước đây là một ngôi miếu nhỏ do quan binh và dân làng cùng nhau tạo tác, sau đó được chính thức khởi công xây dựng thành ngôi đền từ thế kỷ XVI, sau bao thăng trầm vẫn giữ được một số sắc phong và cây mít cổ thụ. Ngày nay, đền đã được trùng tu khang trang, to đẹp gồm 2 phần là tòa đại bái và hậu cung. Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian không những của người dân thành phố mà cả du khách thập phương, tô đẹp thêm truyền thuyết xưa - truyền thuyết về tình nghĩa quân dân nơi biên giới. Đền Cấm tổ chức lễ hội chính vào ngày thìn tháng bảy (âm lịch) hàng năm, làm lễ giỗ cho 5 vị binh sĩ nhà Trần. Người dân coi đây là ngày giỗ “xóa tội vong nhân” cho 5 vị binh sĩ; do đó cùng nhau đóng góp gạo thịt...để tổ chức. Phần lễ của di tích được tổ chức khá khang trang theo trình tự. Bên cạnh phần lễ còn diễn ra phần hội được tổ chức vui vẻ với các trò chơi truyền thống như ném còn, đánh én...ngoài ra nơi đây còn là nơi tổ chức lễ hội xuống đồng hàng năm. Ngày 27/12/2001 Đền Cấm được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc Gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1133 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Mẫu Lào Cai

Đền Mẫu thuộc tổ 4, phường Lào Cai, Thành phố Lào Cai. Đền được toạ lạc tại hợp lưu giữa hai dòng sông Nậm Thi và Sông Hồng chảy vào đất Việt. Nơi đây cũng là cửa khẩu quốc tế Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu (Vân Nam - Trung Quốc) và cũng là điểm cột mốc 102 nơi vùng biên giới Tây Bắc. Đền Mẫu là nơi thờ đức Thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa, một nhân thần giàu lòng nhân ái, trừ tà, diệt ác, cứu giúp dân nghèo, phù giúp cho triều đình chống giặc ngoại xâm bảo vệ vùng biên ải thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, Bà là người Mẹ linh kiệt trong tiềm thức dân gian của dân tộc Việt Nam. Tục thờ Mẫu ở nước ta đã trải qua trường kỳ lịch sử, đây không những là tục thờ mang đậm bản sắc dân tộc mà nó là nhu cầu chung về tâm linh của nhân dân ta từ thời kỳ đầu dựng nước, giữ nước cho đến tận ngày nay. Tín ngưỡng và tục thờ Mẫu khởi nguyên từ ý thức tưởng nhớ tổ tiên, lòng tôn kính, sự biết ơn, tin tưởng và mang ý nghĩa giáo dục đạo đức sâu sắc vẫn còn nguyên giá trị đối với các thế hệ chúng ta ngày nay. Thánh mẫu Liễu Hạnh in sâu trong tiềm thức của người dân Việt Nam nói chung và Lào Cai ta nói riêng từ thế kỷ thứ 16. Trải qua những bước thăm trầm của lịch sử đến ngày nay, dân Việt ta đã phong Bà là Mẫu Nghi Thiên Hạ, luôn ước nguyện Thánh Mẫu giúp cho “Thiên hạ Thái bình - Quốc thái dân an - Phong đăng hoà cốc”. Mẫu Liễu hạnh là một biểu tượng sinh động trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại rất linh thiêng trong đời sống tâm thức của người Việt Nam. Trong tiềm thức Bà là Tiên nên có phép Tiên; Là Phật nên mang tư tưởng Phật; là Mẫu nên có phẩm chất của người mẹ; là Thánh nên linh thiêng; là con nhà gia thế cho nên được học hành, thông kinh sử, giỏi đàn ca và thơ phú. Trong bà có đức hiếu nghĩa của Nho giáo, có pháp thuật của Đạo giáo. Chính bởi vậy, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là hình tượng, là một trong Tứ Bất Tử, là Mẫu Nghi Thiên Hạ đã được nhắn nhủ, giáo dục chúng ta từ bao đời: “Tháng Tám giỗ cha - Tháng Ba giỗ Mẹ”. Tại Lào Cai, Đền Mẫu nằm trong quần thể Di tích Đền Thượng – Nơi thờ tự và ghi nhớ công lao to lớn của Quốc công tiết chế - Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn. Đền Mẫu cùng với Đền Thượng còn là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, là cột mốc biên cương phía Bắc của Tổ quốc và là địa chỉ đỏ của cội nguồn lịch sử, văn hóa dân tộc. Đền Mẫu được xây dựng từ đầu thế kỷ 18, tọa lạc tại địa phận làng Lão Nhai (nay là Thành Phố Lào Cai), Phía sau ngôi đền tựa vào bức tường cổ do nghĩa quân Lưu Vĩnh Phúc xây dựng nhằm chống giặc ngoại xâm bảo vệ biên cương bờ cõi. Bởi vậy, Đền Mẫu đã được các triều đại vua nhà Nguyễn ban cho 3 đạo sắc phong: Tự Đức năm thứ Sáu (ngày 24/9/1853); Tự Đức năm thứ 33 (Ngày 24/11/1880); Khải Định năm thứ 9 (Ngày 25/7/1924). Nằm ở vị trí cửa khẩu biên giới Quốc Gia, trên trục đường giao thương Quốc Tế nên mặc dù đã trải qua hàng trăm năm với biết bao biến cố thăng trầm của Lịch Sử, đền Mẫu không những trở thành cột mốc biên giới linh thiêng được nhân dân, du khách thập phương trong nước, quốc tế tới viếng thăm, thắp nhang thờ phụng, mà còn là cột mốc văn hóa tâm linh vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Đền Mẫu được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia ngày 26/01/2011. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1333 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Giao tế Quảng Bình

Tọa lạc ở thôn Giao Tế, Đức Ninh, cách trung tâm thành phố Đồng Hới chỉ 3km về phía Tây, Di tích lịch sử Quốc gia, cơ quan Giao tế – Chuyên gia (gọi tắt là Khu giao tế Quảng Bình) được thành lập ngày 21-8-1954 và giải thể vào tháng 7-1988. Trong 34 năm thực hiện sứ mệnh ngoại giao, cơ quan này đã đón tiếp chu đáo trên 450 đoàn khách trong và ngoài nước. Với vai trò lịch sử vô cùng to lớn của mình, Khu Giao tế Quảng Bình được Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia, ngày 4-12-1998. Khu giao tế Quảng Bình khi mới thành lập có trụ sở tại thị xã Đồng Hới. Thời kỳ đầu, Khu Giao tế Quảng Bình được xây dựng ở thị xã Đồng Hới, nhiệm vụ của Khu Giao tế lúc này là đưa đón các đoàn cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc, các đoàn khách đến thăm và công tác tại tỉnh. Năm 1964, khi giặc Mỹ điên cuồng tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, trong mưa bom bão đạn, để bảo đảm hoạt động đưa đón, phục vụ khách, Giao tế Quảng Bình đã liên tục chuyển trụ sở tiếp khách cũng như bắt buộc phải chia hoạt động giao tế thành những nhóm nhỏ, đóng tại nhiều địa phương trong tỉnh như Đức Ninh, Cộn, Nghĩa Ninh, Lý Ninh, Bố Trạch… Năm 1970, Ủy ban hành chính Quảng Bình quyết định triển khai xây dựng Khu Giao tế tại đồi Đức Ninh. Việc xây dựng đang dang dở thì đế quốc Mỹ quay trở lại, tiếp tục mở rộng cuộc chiến với âm mưu ngày càng xảo quyệt hơn. Khu Giao tế lại tiếp tục sơ tán lên vùng Cộn. Năm 1973, khi Hiệp định Pari vừa được kí kết, Trung ương Đảng và Chính phủ đã chỉ thị cho Quảng Bình gấp rút xây dựng Khu Giao tế tại Đức Ninh để phục vụ tổ cố định quốc tế đóng tại Đồng Hới giám sát Hiệp định Genevơ. Với bao bộn bề, thiều thốn của một tỉnh vừa mới thoát khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt và trường kỳ, Quảng Bình đã nhanh chóng bắt tay vào triển khai nhiệm vụ mới. Chỉ sau một thời gian ngắn, Khu Giao tế đã cơ bản hoàn thành và đi vào hoạt động. Với khuôn viên gần 4 héc-ta, Khu Giao tế được chia thành nhiều khu vực như: khu nhà nghỉ cho khách trong nước, khu nhà nghỉ cho khách nước ngoài, nhà làm việc, hội trường, bếp ăn… Tháng 5/1973, 19 đoàn ngoại giao quốc tế và Đoàn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam – Việt Nam do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu cùng các ông Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Thích Đôn Hậu… đã đến khu Giao tế để làm công tác chuẩn bị cho việc ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam – Việt Nam. Tháng 9/1973, khu Giao tế đã vinh dự đón và phục vụ Đoàn khách cao cấp của Đảng và Nhà nước Cu Ba do đồng chí Phi đen-Catxitơrô dẫn đầu. Tại đây Chủ tịch Phi đen-Catxitơrô đã ở lại nhiều ngày để vào thăm vùng giải phóng ở Quảng Trị. Cũng tại khu Giao tế này, lãnh đạo cao nhất của các nước Lào, Campuchia, Tiệp Khắc, Đảng Cộng sản Pháp… đã đến làm việc và nghỉ tại đây. Nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta như đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ đã từng vào nghỉ lại ở khu Giao tế để làm việc. Tại khu Giao tế, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bàn về giải phóng miền Nam đã được khởi xướng… Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1082 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng mộ và nhà thờ Đề Đốc Lê Trực

Nhà thờ và khu mộ Đề đốc Lê Trực ẩn mình bên dòng sông Gianh, thuộc làng Thanh Thủy, xã Tiến Hóa (Tuyên Hóa, Quảng Bình). Đề đốc Lê Trực là thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương lừng danh, một tấm gương trung trinh yêu nước mà hậu duệ bây giờ vẫn kể. Vào cuối thế kỷ XIX, xã hội phong kiến Việt Nam ngày một rối ren, Đàng Trong thì nội bộ lủng củng đố kỵ nhau, Đàng Ngoài thì thực dân Pháp ra sức lấn chiếm. Trước sức mạnh của chủ nghĩa thực dân với phương thức sản xuất Tư Bản chủ nghĩa, triều đình phong kiến nhà Nguyễn liên tục phải ký các hiệp ước đầu hàng với Pháp. Sau khi triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp ước bán nước, khắp nơi trên đất nước ta từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ rồi Nam Kỳ phong trào kháng chiến chống Pháp nổi lên mạnh mẽ, đặc biệt là khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương thì phong trào khởi nghĩa lan rộng ra khắp các tỉnh, làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Ở Quảng Bình phong trào kháng chiến của nhân dân nổi lên rầm rộ, nhưng tiêu biểu nhất vẫn là nghĩa quân do Đề Đốc Lê Trực đứng đầu. Lê Trực người làng Thanh Thủy, phủ Quảng Trạch (nay là xã Tiến Hóa – Tuyên Hóa) Ông đỗ Tạo sỹ (Tam Giám Tiến sỹ võ), nguyên làm lãnh binh Hà Nội. Khi tướng giặc Henry Ryviere hạ thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, Ông bị triều đình cách chức. Đến khi nhận chiếu Cần Vương vào năm 1885, các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi bùng lên, Lê Trực tập hợp một số quân dân đứng lên khởi nghĩa ở vùng sông Gianh, lấy Cửa Xai trong vùng núi Thanh Thuỷ làm căn cứ, được Tôn Thất Thuyết cho phục nguyên hàm. Từ đó, ông kêu gọi sĩ phu, thân sĩ trong vùng theo Hàm Nghi chống Pháp. Nghĩa quân của Lê Trực ngày một phát triển mạnh mẽ, tầm hoạt động càng lớn, tiếng vang ra khắp các địa bàn. Lê Trực đã tổ chức được nhiều cuộc tấn công lớn, nhỏ, đánh tập kích vào đồn bốt địch, bắt giết lũ tay sai bán nước. Tuy phong trào Cần Vương bị thất bại, các văn thân, sỹ phu yêu nước, người bị bắt, người bị giết nhưng tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và ngọn lửa hồng truyền thống ấy luôn luôn cháy rực trong lòng nhân dân cả nước nói chung và Quảng Bình nói riêng. Đến khoảng ngày 28, 29 tháng 9 năm 1888, khi hay tin vua Hàm Nghi bị bắt và bị giải về Đồn Thuận Bài, Quảng Trạch, Ông và một số đề đốc khác đã đến bái kiến vua và nộp mình. Tuy nhiên, Ông vẫn không chịu nhận niên hiệu vua mới Đồng Khánh mà chỉ lấy niên hiệu vua Hàm Nghi. Đầu năm 1891, cụ Lê Trực đã phải giải hoà với Pháp để bảo vệ cuộc sống cho dân lành. Phong trào Cần Vương Quảng Bình kết thúc. Lê Trực mất tại quê nhà vào tháng 6 năm Đinh Mẹo (1918), tại làng Thanh Thủy, Tuyên Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình-Hưởng thọ 90 tuổi. Lê Trực mất ở quê nhà nhưng tên tuổi ông vẫn gắn liền với những địa danh như tên làng, tên phố, tên đường. Hình ảnh, công lao cùng ý chí kiên cường của ông vẫn sống mãi trong lòng nhân dân. Để tưởng nhớ một người con trung với nước, hiếu với dân, tận tuỵ, gian khổ một lòng vì tổ quốc, giang sơn, nhân dân và bà con đã góp công, góp của để xây dựng nhà thờ, mộ của Ông vào năm 1912. Khu Di tích Mộ và Nhà thờ Đề đốc Lê Trực đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc Gia, ngày 21 tháng 6 năm 1993. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1147 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích đình làng Minh Lệ Quảng Bình

Đình Làng Minh Lệ thuộc thôn Minh Lệ, tổng Thuận Phi, Phủ Quảng Trạch nay thuộc làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đình làng nằm cách trụ sở UBND xã 400m về phía Tây Bắc, cách thị trấn Ba Đồn 6km về phía Tây Nam, cách ga Minh Lệ 400m về phía Đông Bắc. Đình Làng Minh Lệ được xây dựng từ những năm 1464 dưới thời vua Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ. Đây là nơi thờ tự linh thiêng và cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tính ngưỡng, là nhân chứng của lịch sử. Đình làng Minh Lệ là nơi thờ tự thành hoàng làng Trương Hy Trọng và 4 vị đức thần tổ: Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Ông là người con trai thứ hai của Trương Công Lang – là một vị tướng tài của vua Lê Lợi. Trương Hy Trọng tên thật là Trương Công Chấn tiếp nghiệp cha đã lập nhiều chiến công to lớn trong công cuộc chống quân Chiêm Thành, trấn giữ vùng Thuận Hóa. Ông cùng 3 họ Nguyễn, Hoàng, Trần đã có công chiêu dân, khai phá cùng đất phía Nam sáng lập ra xã Thị Lệ gồm 5 thôn: Minh Lệ (Quảng Minh), thôn Đoài (Diên Trường-Quảng Sơn), Vĩnh Ninh (Hoà Ninh-Quảng Hoà), Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc (Quảng Lộc). Năm 1493 sau trận đánh tại Thành Lồi ông đã bị trọng thương và tạ thế tại tại quê làng Minh Lệ. Vua Lê đã vô cùng thương tiếc cho nhân tài của đất nước nên đã sắc phong cho ông là “Cai tri phương tước hầu”. Năm Quang Trung thứ hai ông được phong sắc Trung lang Thượng Tướng Quân. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử thì Đình Làng Minh Lệ vẫn trường tồn với thời gian cùng những giá trị văn hóa và tinh thần vô cùng to lớn đối với nhân dân. Đình làng Minh Lệ được xây dựng công phu từ các khối hình rồng, phượng, đến các bức vẽ, chạm khắc, thể hiện màu sắc nhất là sự bố trí, cấu trúc các cửa, các vòm liên tiếp nhau, cửa chìm vào tường, cửa thông các gian, tường dày, hơi thấp về độ cao. bố cục trong phép đối xứng, đình hậu lại làm theo kiểu mái cuốn vòm kế tiếp nhau thành hai vòm, càng vào trong càng thấp xuống. Mặt rồng hung dữ, thân rồng thô, chân rồng chắc khoẻ thể hiện thế lực đầy quyền uy của chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Đình Minh Lệ là khu di tích bao gồm: cổng, thành bao, sân, bình phong, đình trung và đình hậu. Trong đó đình trung có bốn mái, hai mái trước và hai mái hồi. Trên đình, giữa mái có lưỡng long chầu nguyệt, hai góc mái là hình hai con rồng lượn được cách điệu bằng hoa lá, đầu rồng ẩn trong lá. Bốn góc mái là hình rồng lượn vuốt cong, nâng mái lên cao uyển chuyển, giữa hai đường mái trước là hình khối những con lân. Gian giữa thông với gian hai bên bằng ba cửa vòm và thông với đình hậu cũng bằng 3 cửa vòm. Đình làng Minh Lệ gắn liền với nhiều những sự kiện lịch sử tiêu biểu của quê hương qua các thời kỳ. Như trong thời kỳ vận động thành lập đảng, khởi nghĩa giành chính quyền 1945, hay cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Đến năm 1992 Đình Làng Minh Lệ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia. Hàng năm trong các ngày lễ tết, con cháu trong làng từ khắp nơi trên mọi miền tổ quốc đều về đây dâng hương. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1015 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chiến Khu Trung Thuần

Chiến khu Trung Thuần nằm ở vùng bán sơn địa thuộc địa phận hai xã Quảng Lưu và Quảng Thạch, huyện Quảng Trạch, cách thị trấn Ba Đồn chừng 5 km về phía Tây. Từng là căn cứ địa cách mạng quan trọng của quân và dân Quảng Trạch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến khu Trung Thuần đã trở thành chứng tích lịch sử hào hùng, là niềm tự hào của mỗi người dân nơi đây. Chiến khu Trung Thuần là di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia năm 1995. Chiến khu nằm trên diện tích 2 xã là Quảng Lưu và Quảng Thạch. Tuy nhiên, diện tích chính chủ yếu vẫn thuộc xã Quảng Thạch. Chiến khu Trung Thuần xưa là một thung lũng bao kín với nhiều núi cao và rừng rậm theo hình chữ U. Trong chiến khu có đỉnh Chóp Chài cao gần 1.000m so với mực nước biển đã trở thành “đài” quan sát lý tưởng cho cả vùng. Ở các xóm nhỏ của Trung Thuần như Dương Khê, xóm Hà, Xuân Vương, Kim Thanh, Tam Đa, Trung Chính, Tiền Miếu, Dinh Cừ, Phù Lưu, Vân Tập... các nhà Khảo cổ học đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ như: Trống đồng Phù Lưu, trống đồng Đông Sơn loại I, lưỡi câu đồng, rìu đồng và dấu tích phế đô Lâm ấp. Trung Thuần trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh là căn cứ lớn của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, căn cứ Đại Đồn (Trung Thuần) cùng với đồn Roòn, đồn Thuận Bài là những phòng tuyến chiến lược quan trọng của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, những dấu tích còn lại như giếng Tàu Voi, hòn Vọng Bái... Trong thời kỳ Cần Vương, Trung Thuần là căn cứ của nghĩa quân Lê Trực trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Quảng Bình. Trung Thuần là căn cứ quan trọng trong cả hệ thống căn cứ Cần Vương như Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), Quy Đạt, Khe Ve ..., những dấu tích còn lại như Bãi Tập, Bạch Thạch, Linh Thần, Ao cá, Khe đá mài, xóm Tiền Miếu, xóm Xuân Vương. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến khu Trung Thuần không chỉ là nơi Huyện ủy, Ủy ban hành chính và các cơ quan đầu não của huyện Quảng Trạch làm việc mà còn là nơi huấn luyện, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền và bổ sung lực lượng để cùng tự vệ Võ Xá giành chính quyền tại thị xã Đồng Hới tháng 8-1954. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung thuần là hậu cứ của Binh đoàn B70 quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là điểm trung chuyển trong hệ thống đường Hồ Chí Minh chi viện sức người, sức của cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Do có vai trò quan trọng nên những năm 1968 và 1972, chiến khu Trung Thuần bị máy bay Mỹ bắn phá rất ác liệt. Bộ đội địa phương và người dân hy sinh rất nhiều, tuy nhiên, với ý chí quật cường, điều đó vẫn không làm lung lay tinh thần cách mạng của quân và dân nơi đây. Với đóng góp quan trọng của mình, năm 1971, chiến khu Trung Thuần vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm và tổng kết chiến thắng Đường 9-Nam Lào. Nguồn: Báo Quảng Bình

Quảng Bình 1356 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành cổ Đồng Hới

Thành cổ Đồng Hới là một bộ phận nằm trong tổng thể các di tích lịch sử quân sự của Đồng Hới vào thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, được xây dựng trên một vùng đất xung yếu của đường xuyên việt từ Bắc vào Nam. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi là phía Đông giáp với sông và cửa biển Nhật Lệ, vừa là nơi tiếp viện quân, vừa góp phần chặn đứng mũi tiến công bằng đường thuỷ của đối phương, nơi đây đã ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự thắng lợi trong công cuộc Bắc tiến của 9 đời chúa Nguyễn, kết thúc 200 năm nội chiến. Đồng thời, thành Đồng Hới còn ghi dấu nhiều chiến công của quân và dân Quảng Bình qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Thành Đồng Hới được khởi công xây dựng vào năm Gia Long thứ 10 (1812). Thành được xây trên mảnh đất năm xưa chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho dựng luỹ Trấn Ninh (hay còn gọi là luỹ Đào Duy Từ - 1631) và đồn Động Hải (1774) trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Lúc đầu thành được xây bằng đất, đến đời vua Minh Mạng, ông đã nhờ một viên sỹ quan Pháp thiết kế lại và xây bằng gạch vào năm 1824 theo kiến trúc vô băng, mang dáng dấp thành lũy quân sự, hình mũi khế, 4 múi to, 4 múi nhỏ theo hướng tây nam-đông bắc và tây bắc-đông nam. Thành có 3 cổng lớn bắc-nam-đông, trên cổng có vọng canh 8 mái, cổng thành xây cuốn kiểu tam quan thông ra ngoài bằng chiếc cầu gạch cũng xây kiểu vòm cuốn bắc qua hào. Ngoài thành, cách chân thành khoảng 5-6m là hào rộng 7 trượng (28m), mặt ngoài thành đắp đất phụ thêm 3 trượng, thành được xây bằng gạch, vữa bằng mật mía trộn cát, không tô trát, gạch có độ nung cao, loại gạch to còn gọi là gạch vồ. Năm Nhâm Dần 1842, vua Thiệu Trị trên đường đi tuần du ra Bắc qua lũy Trấn Ninh đã đổi tên cũ thành tên Định Bắc Trường thành và cho tu sửa lại. Năm 1885, thực dân Pháp đánh miền Trung, thành Đồng Hới trở thành nơi phòng ngự, phản công của quan quân nhà Nguyễn. Ngày 19-7-1885, thực dân Pháp tấn công thành Đồng Hới lần 2 và thành đã rơi vào tay Pháp. Trong phong trào Cần Vương, quân và dân Quảng Bình tham gia nghĩa quân do Nguyễn Phạm Tuân chỉ huy đã 3 lần đột nhập vào thành Đồng Hới vào tháng 1, 6, 8 năm 1886 tấn công binh lính Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Trong thời chống Pháp, thành Đồng Hới là nơi tụ nghĩa, tụ quân, là điểm hẹn của những con người dám sống, dám hy sinh vì Tổ quốc. Phần lớn thành Đồng Hới đã bị phá hỏng trong thời kỳ Pháp thuộc. Sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, với mục đích san phẳng và huỷ diệt, biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã trút xuống Đồng Hới hàng vạn tấn bom đạn và phá huỷ một phần thành cổ. Ngày nay thành Đồng Hới chỉ còn khoảng 1.087m với 15 đoạn dích dắc hình răng khế, đoạn thành phía nam còn lại 2/3 tương đối nguyện vẹn, đoạn thành phía đông còn 3 cổng, 2 cầu nam, bắc thành đã bị sập hoàn toàn, nhìn rõ nhất từ trên bản đồ là một hào nước xung quanh thành theo kiến trúc xưa. Mặc dù đã bị phá huỷ nhiều qua hai cuộc chiến tranh nhưng thành Đồng Hới vẫn bảo lưu được những yếu tố gốc cần thiết. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, cùng với thời gian thành Đồng Hới là nhân chứng, cũng là pho sử ghi dấu một thời kỳ đấu tranh anh dũng của người dân Đồng Hới-Quảng Bình và cả nước trong cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Với tầm quan trọng là một di tích tồn tại hơn 200 năm, là chứng tích lịch sử quan trọng của mảnh đất Đồng Hới-Quảng Bình, Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch đã xếp thành Đồng Hới là một trong 32 công trình trong danh mục dự án văn hoá trọng điểm được đầu tư từ năm 2001-2010. Nguồn: Báo Quảng Bình

Quảng Bình 1068 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Trạm thông tin A72 Quảng Bình trạm thông tin a72

Tổng Trạm thông tin A72 nằm trong hệ thống hang đá thuộc núi An Bờ, xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Đây là nơi ghi dấu những chiến công thầm lặng, tinh thần quyết chiến quyết thắng, không ngại gian khổ, hi sinh, ý chí kiên cường của cán bộ, chiến sĩ thông tin liên lạc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. A72 là Tổng trạm cơ vụ quan trọng của Trung đoàn Thông tin 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc, đặt ở vùng núi An Bờ, xã Ngân Thủy (Lệ Thủy) trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vào những năm 1966-1967, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển sang giai đoạn mới quyết liệt hơn, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng thêm tuyến thông tin từ Bắc Nghệ An vào sát bờ Bắc sông Bến Hải. Từ đường trục này sẽ có nhiều đường nhánh toả về các địa bàn để Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo các mặt trận phía Nam Quân khu 4, mặt trận Trị Thiên, Bộ Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559), Đoàn vận tải 500 của Bộ Giao thông vận tải và mặt trận Nam Lào. Theo đó, Cục Thông tin liên lạc (tiền thân của Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc sau này), quyết định thành lập Đại đội 7 trực thuộc Trung đoàn Thông tin 136, quản lý và khai thác tuyến dây trần hơn 300 cây số từ Giang Sơn-Nghệ An vào điểm cao 316-Vĩnh Linh. Tuyến này có 3 trạm cơ vụ đều ở trên đất Quảng Bình là: A69 ở Lèn Hà-Tuyên Hoá; A70 ở Khương Hà-Bố Trạch và A72 ở An Bờ-Lệ Thuỷ. Ngày 7-1-1967, tại hang lèn núi An Bờ, xã Ngân Thủy, Tổng trạm Thông tin A72 thuộc Đại đội 7, Trung đoàn 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc được thành lập. Trạm cơ vụ A72 có tới 50 mạch thoại cao tần, 28 đầu máy tải ba các loại và 2 tổng đài loại 100 số. Ngoài nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc cho các hướng chiến trường, A72 còn là trạm đón tiếp các cơ quan của Bộ Quốc phòng và phái viên cấp cao của Đảng và Nhà nước vào trực tiếp theo dõi và chỉ đạo các chiến dịch. Nơi đây trở thành trung tâm chỉ huy chiến dịch. Công việc của cán bộ, chiến sĩ Trạm A72 tăng tới 7-8 lần so với bình thường. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã ở tại hang đá trong Sở chỉ huy, khu vực Tổng trạm Thông tin A72, cùng các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy quân và dân ta chiến đấu trong “Chiến dịch đường 9-Nam Lào” lịch sử. Đánh bại hoàn toàn “Cuộc hành quân Lam Sơn 719” của quân đội đế quốc Mỹ và quân ngụy của chính quyền Sài Gòn. Một chiến công vang dội, oai hùng vào bậc nhất trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ, chiến sĩ Tổng trạm Thông tin A72, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Sở chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, giữ vững thông tin liên lạc trong mọi tình huống ác liệt nhất. Tháng 12-1982, trước yêu cầu về tổ chức lực lượng, Bộ Quốc phòng đã sáp nhập Trung đoàn 136 vào Trung đoàn 134, thống nhất nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc hữu tuyến từ miền Bắc vào miền Trung. Từ năm 1967-1982, Tổng trạm Thông tin A72, Đại đội 7, Trung đoàn 136 đã trưởng thành vượt bậc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo thông tin liên lạc, góp phần vào sự nghiệp chiến đấu xây dựng Binh chủng Thông tin liên lạc anh hùng, Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trung đoàn được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; Đại đội 7 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Tổng trạm Thông tin A72 ở xã Ngân Thủy được Nhà nước cấp bằng Di tích lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1181 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng Nguyễn Hữu Cảnh

Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh nằm trên một ngọn đồi cao, cây cối thoáng mát của dẫy núi An Mã thuộc xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy. Nguyễn Hữu Cảnh là quan có công lớn dưới thời chúa Nguyễn trong việc đánh giặc, mở cõi, định hình lãnh thổ Việt Nam trong một quốc gia thống nhất. Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650 tại thôn Phước Long, Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Ông được phong tước Lễ Thành Hầu, Khai Quốc Công Thần, liệt vào hạng Thượng Đẳng Công Thần và thờ ở Thái Miếu. Nguyễn Hữu Cảnh là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Thuộc dòng dõi con nhà tướng, tổ tiên là Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc, – người khai quốc công thần thời nhà Đinh. – Nguyễn Hữu Cảnh cũng là cháu đời thứ 9 của Nguyễn Trãi, – người khai quốc công thần nhà Lê. Sinh ra trong gia đình truyền thống, lớn lên ở thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh nên tài năng của Nguyễn Hữu Cảnh sớm bộc lộ. Ở tuổi đôi mươi, Nguyễn Hữu Cảnh nổi tiếng khắp vùng bởi văn võ song toàn. Ông theo cha chinh chiến khắp nơi, lập nhiều công lao nên Chúa Nguyễn phong cho chức Cai cơ. Người có vóc dáng hùng dũng, da ngăm đen, sinh năm Dần nên dân gian gọi ông bằng biệt danh “Hắc Hổ”. Lịch sử cũng ghi nhận ông từng nhiều lần đem quân dẹp nhà Chiêm Thành quấy nhiễu phương Nam. Đầu năm 1692, chúa Nguyễn phái Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân bình định biên cương, thành lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay). Bình định vừa xong, một nhóm người Thanh, đứng đầu là Aban xúi giục bè đảng dấy loạn. Nguyễn Hữu Cảnh lại nhận lệnh dẹp bọn tạo phản, đem lại sự an ninh cho dân chúng bản hạt rồi được cử làm trấn thủ dinh Bình Khương (còn được gọi Bình Khang, nay là vùng Khánh Hòa – Bình Thuận). Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (có sách ghi Nặc Ong Thu) đem quân tiến công Đại Việt, chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh, lo việc đánh dẹp và an dân. Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh bị bệnh. Ngày 16 tháng 5 năm 1700. Nguyễn Hữu Cảnh mất tại Sầm Giang (Rạch Gầm). Đến năm 1802, di hài của Nguyễn Hữu Cảnh được hậu duệ cải về an táng tại xã Trường Thủy. Hiện nay trong khuôn viên Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình còn tấm bia đá rất có giá trị. Bia mộ Nguyễn Hữu Cảnh cao khoảng 1,2m, được tạc bằng đá xanh (cẩm thạch). Sau khi ông mất nhân dân miền Nam nói chung và nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long lập miếu thờ ông ở nhiều nơi. Dù mấy thế kỷ đã đi qua song tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Hữu Cảnh còn mãi khắc ghi với người dân Việt nói chung và nhân dân Quảng Bình nói riêng. “Công Lễ Thành Hầu đi mở đất Nghìn năm con cháu mãi còn ghi” Ngày 25/3/1991 Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1034 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đèo Đá Đẽo

Đèo Đá Đẽo nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh nhánh Đông huyền thoại gắn liền với lịch sử Việt Nam. Đèo dài 17km thuộc địa phận của xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Sở dĩ người ta gọi là Đèo Đá Đẽo bởi vì con đèo nằm vắt ngang qua đỉnh một ngọn núi đá vôi dài hơn 10 km. Ngày trước đây chỉ là một con đường mòn nhỏ, nhưng khi chiến tranh Việt Nam, các anh hùng thanh niên xung phong đã mở đường Trường Sơn là con đường huyết mạch cho việc vận chuyển quân, lương, vũ khí… chi viện cho chiến trường miền Nam. Người đi trước đẽo đá mở đường để quân ta tiếp bước đi sau, cũng chính lẽ đó có tên là đèo Đá Đẽo. Địa hình khu vực đèo Đá Đẽo khá đa dạng với đồi núi, thung lũng xen kẽ và bị chia cắt bởi một bên là dãy núi cao, một bên là vực sâu thẳm. Đèo với các đường vòng cua cong gấp, độ dốc khá lớn, bị xói lở nhiều. Khí hậu ở đây lại vô cùng khắc nghiệt với gió Lào nắng cháy, mưa lũ triền miên… Trong những năm tháng chiến tranh, đèo Đá Đẽo là một trong những điểm khốc liệt, bị bom đạn bắn phá suốt ngày đêm. Các loại máy bay tiêm kích, B52 dội bom liên tục, bên cạnh đó là pháo từ hạm đội 7 Hoa Kỳ bắn từ biển Đông. Nơi đây tưởng chừng như đã bị san phẳng thành bình địa bởi bom đạn quân thù. Biết bao thanh niên xung phong đã ngã xuống đảm bảo lưu thông cho tuyến đường trọng điểm. Chiến tranh tàn khốc là thế, bom đạn ác liệt là thế nhưng Đèo Đá Đẽo vẫn sừng sững hiên ngang. Cùng những đôi bàn tay trần không ngại gian lao, hiểm nguy của chiến sĩ bộ đội, thanh niên xung phong. Tất cả với tinh thần “máu có thể đổ, đường không thể tắc”, sau khi tiếng bom vừa dứt thì tất cả các anh, các chị ào ra mặt đường lấp hố bom, khắc phục thiệt hại. Khi xây dựng tuyến đường mòn Hồ Chí Minh công nghiệp hóa hiện đại hóa, đèo Đá Đẽo đã được cải tạo nâng cấp. Trở thành tuyến đường du lịch về thăm chiến trường xưa vô cùng ý nghĩa. Ngay trên đỉnh đèo vẫn còn một tấm bia đá ghi dấu thời kỳ lịch sử: “Đèo Đá Đẽo trọng điểm bắn phá ác liệt của không quân Mỹ từ năm 1965 đến 1972”. Khi đi qua đèo Đá Đẽo chúng ta có thể cảm nhận được phần nào sự tàn khốc của chiến tranh, cũng để tưởng nhớ những người con đã hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những câu chuyện, những sự tích oai hùng nơi đây sẽ được truyền mãi đến mai sau. Ngay dưới chân đèo Đá Đẽo là thung lũng Chà Nòi, một khung cảnh hoang sơ tuyệt đẹp. Nằm tựa mình bên dãy núi đá vôi hùng vỹ thuộc Phong Nha Kẻ bàng, có sông, suối, bao quanh bởi những làn sương khói mờ ảo. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1144 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hoằng Phúc

Chùa Hoằng Phúc với khởi nguồn là am Tri Kiến, chùa Kính Thiên, dân gian thường gọi là chùa Trạm hay chùa Quan, thuộc phường Thuận Trạch (nay là xã Mỹ Thủy), huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Trải qua hơn 700 năm lịch sử, chùa Hoằng Phúc vẫn tồn tại và phát triển với nhiều lần trùng tu, phục dựng. Năm 1609, chúa Nguyễn Hoàng đã cho dựng lại chùa trên nền cũ và đặt tên là Kính Thiên Năm 1716, chúa Nguyễn Phúc Chu ra thăm chùa, cho tu sửa lại, ngự để hai bức hoành biểu “Kính Thiên tự“, “Vô song phúc địa”, và ngự chế 5 đôi liễn treo ở chùa. Năm 1821, vua Minh Mạng ghé thăm chùa, cho đổi tên chùa thành “Hoằng Phúc tự”. Năm 1823, 1826 vua ban 250 lạng bạc cho tu sửa lại chùa. Năm 1842, vua Thiệu Trị ngự giá Bắc tuần, đến thăm chùa Hoằng Phúc, cấp 300 lạng bạc để trùng tu chùa. Chùa Hoằng Phúc không những là nơi thờ tự Đức Phật, nơi hoằng dương Phật pháp mà còn là nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của quê hương qua các thời kỳ. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, với vị trí nằm ở vùng bán sơn địa, xung quanh cây cối um tùm và giáp với Mỹ Thổ – Trung Lực, nơi ra đời chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở phía Nam tỉnh Quảng Bình (1931). Chùa Hoằng Phúc đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu, che chở cho cán bộ về đây hoạt động. Đặc biệt năm 1943, đồng chí Bùi Trung Lập cán bộ của Xứ uỷ Trung Kỳ cũng đã đến đây để gặp gỡ cán bộ cách mạng, tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, tinh thần đấu tranh đến quần chúng nhân dân. Đầu thàng 5 năm 1945, theo chỉ thị của cấp trên, Ban vận động khởi nghĩa các làng được thành lập, chùa Hoằng Phúc được chọn là nơi hội họp để triển khai các chỉ thị khởi nghĩa của cấp trên và chuẩn bị lực lượng, vũ khí tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ngày 23/8/1945. Trong những năm tháng đấu tranh ác liệt đó, chùa Hoằng Phúc là nơi cất giấu vũ khí, nơi kết nạp, huấn luyện dân quân tự vệ, nơi các cán bộ quân sự cấp trên về hội họp và cùng tổ chức những trận tập kích ở địa phương, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Quảng Bình. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mỹ Thuỷ là một trong những xã tiếp giáp trực tiếp với tiền tuyến lớn miền Nam. Nơi đây là hậu cứ của chiến trường B, nơi tập kết hàng hoá, vũ khí, điểm dừng chân trước khi vào chiến trường miền Nam. Các phật tử trong chùa Hoằng Phúc đã cùng nhân dân địa phương tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại địa phương. Năm 1967, chùa Hoằng Phúc đã bị bom đạn đánh sập sau những đợt không kích của giặc Mỹ Trước đây, hệ thống tượng thờ tại chùa Hoằng Phúc có số lượng khá lớn, được thiết kế trên 7 cấp thờ. Tuy nhiên, hiện nay chùa chỉ còn lại 7 pho tượng các loại với chất liệu, kĩ thuật chế tác, kiểu dáng và mỹ thuật trang trí khác nhau. Trong đó, có 5 pho tượng bằng đồng và 2 pho tượng bằng gỗ. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ đại hồng chung đúc năm Minh Mạng thứ 20 (1839) để tên Hoằng Phúc linh chung. Tháng 11 năm 2014, công trình phục dựng lại chùa Hoằng Phúc được triển khai thực hiện theo lối chùa cổ thời nhà Trần gồm: Tam quan ngoại, Tam quan nội, tháp Phật, Tam bảo, nhà thờ Tổ, tả hữu hành lang, am hóa vàng và các công trình phụ trợ khác. Với những giá trị lịch sử của chùa, ngày 09/12/2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng chùa Hoằng Phúc là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1043 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng

Di tích vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng tọa lạc tại vùng núi Trung Trung Bộ Việt Nam, là một kỳ quan thiên nhiên nằm ở phía Tây Nam sông Gianh. Với vị trí địa lý độc đáo, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng giáp với nước Lào ở phía Tây và Tây Nam; phía bắc giáp với xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa; phía Đông Nam giáp với xã Trường Sơn, Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Di tích quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng không chỉ là núi đá vôi lớn nhất thế giới; nơi đây còn sở hữu những hang động kỳ vĩ, những dòng sông bí ẩn và những thác nước tuyệt đẹp. Từ những hang động nổi tiếng được biết đến từ thập kỷ 1920 và được khai thác du lịch từ thời Pháp thuộc, đến những phát hiện mới gần đây từ Đoàn thám hiểm Hang động Hoàng gia Anh, di tích này vẫn làm cho người người mê mẩn bởi những cảnh đẹp mà tạo hóa ban tặng cho nơi đây. Hệ thống hang động ở vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng thuộc loại hang động cổ nhất Đông Nam Á, với những tác động tự nhiên từ hơn 35 triệu năm trước. Đây cũng là nơi hình thành các hệ sinh thái đa dạng nhờ vào khối đá vôi lớn nhất Đông Nam Á, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của rừng nguyên sinh. Với hơn 15 kiểu sinh cảnh và 10 loại thảm thực vật quan trọng, Phong Nha Kẻ Bàng che phủ rừng nguyên sinh đến 83,74% diện tích. Điều làm nên sự nổi bật của di tích Phong Nha Kẻ Bàng không chỉ nằm ở phong cảnh thiên nhiên thơ mộng, mà còn nằm ở sự đa dạng sinh học. Với hơn 2.600 loài thực vật, 735 loài động vật có xương sống và 369 loài côn trùng, trong đó có nhiều loài sinh vật quý hiếm được liệt kê vào sách đỏ. Nơi đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài linh trưởng và dơi đặc hữu, góp phần làm cho hệ sinh thái ở đây trở nên phong phú và đa dạng. Ngoài giá trị sinh học, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử. Từ những dấu tích văn hóa cổ xưa của người Chăm, Việt cổ, cho đến những kỷ vật kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Tất cả điều đó đã mang đến cho di tích Phong Nha Kẻ Bàng những giá trị lịch sử và văn hóa vô cùng to lớn. Nhờ đó mà vào tháng 7 năm 2003, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là một trong những di sản thiên nhiên của thế giới. Đến ngày 12/8/2009, thủ tướng chính phủ nước Việt Nam đã công nhận di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng là một trong những di tích lịch sử Quảng Bình được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Bình 1007 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Tiên La

Đền Tiên La tọa lạc trên diện tích gần 6000 m2, tại gò Kim qui, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đền Tiên La với kiến trúc cổ “Tiền nhất”, “Hậu đinh” từ cột kèo đến đao mái uốn cong với kiểu dáng Lưỡng long chầu nguyệt; mặt trước Đền hướng ra sông Tiên Hưng, gần ngã ba đổ ra sông Luộc, bao quanh Đền là những rặng cây xanh sum suê, tỏa bóng. Đền Tiên La được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 12/11/1986. Ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần hai ngàn năm nay. Bát Nạn công chúa, đại tướng quân Đông Nhung là tước hiệu Trưng Vương phong cho Thục nương (Vũ Thị Thục) khi đánh thắng quân Hán. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước, thương dân lại ưa binh đao, võ nghệ nên bà đã ngầm lo việc cứu nước giúp dân. Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà theo về giúp thống lãnh quân tiên phong. Nghĩa quân chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, lấy hiệu là Trưng Vương. Đền Tiên La có các công trình chính như: Tam quan ngoại, Tam quan nội, Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Qua tam quan ngoại, sân Đền là tam quan nội, hai bên có Lầu cậu, Lầu cô; đi tiếp sẽ đến nhà Tiền tế gồm 5 gian, được kiến trúc bằng gỗ tứ thiết, nội thất được trạm trổ công phu với các hoa tiết như: “Long - Lân - Quy - Phượng ” đan xen “Thông - Trúc - Cúc - Mai ”. Tại đây còn có những đại tự với nội dung ca ngợi triều Trưng Vương và đức hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nạn. Kế tiếp là nhà Trung tế được xây dựng theo kiểu nhà phương đình, kiến trúc “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng nhà đều bằng đá; toàn bộ hệ thống cột, kèo được chạm khắc rất tinh xảo, trong đó 4 cột cái chạm tứ linh; 12 cột quân chạm long vân; 8 xà chạm thông, trúc, cúc, mai; sườn cột và 8 kèo đá chạm điểm băng hoa dây và chữ Triện; đi sâu vào bên trong là hậu cung được kiến trúc bằng gỗ thứ thiết, gồm 3 gian, trong đó gian giữa là ngai và tượng thờ Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ của Bà. Trên nóc hậu cung treo bức đại tự “Vạn cổ anh linh ”. Tương truyền, đây còn là nơi đặt mộ của bà Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục. Cùng với kiến trúc đặc sắc, Đền Tiên La còn lưu giữ nhiều đồ tế khí, đồ thờ có niên hạn từ thời Trần, Lê; Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão). Nguồn: Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Bình

Thái Bình 1120 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Lưu Xá

Đền Lưu Xá là nơi thờ phụng hai danh nhân lịch sử thời Lý (Thế kỷ XII - XIII) là Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba. Chùa Báo Quốc là tên gọi của vua Lý đặt cho để tỏ lòng trọng vọng các quan đại thần có nhiều công lao giúp bốn triều vua Lý (Thái Tông - Thánh Tông – Nhân Tông – Thần Tông) xây dựng đất nước thịnh trị thời đó. Di tích đền Lưu Xá và chùa Báo Quốc liên quan chặt chẽ với nhau, hình thành cụm di tích vì đều chung một sự kiện lịch sử. Ngôi đền và chùa nằm gần nhau ở đầu thôn Lưu Xá – xã Canh Tân – huyện Hưng Hà – tỉnh Thái Bình. Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba là hai anh em khác mẹ, thân phụ của các ông là cụ Lưu Ngữ - Quê ở quận Cửu Chân (nay là xã Thiệu Trung – Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Cụ Lưu Ngữ được làm quan đời tiền Lê (Hai triều vua Lê Hoàn và Lê Long Đĩnh) cai quản vùng đất ngã ba sông này. Nhận thấy đất Lưu Xá lúc ấy sau sông trước đầm, sông nước quanh co thế “Rồng chầu hổ phục” bèn lập cung ở đó rồi lấy vợ người bản quán. Lúc đầu lấy bà Trần Thị Ngọc, bà gần 40 tuổi mà chưa có con, cụ lại lấy bà họ Phạm. Sau đó hai bà mang thai và sinh con trong cùng một ngày chỉ khác là người sinh giờ Dần, người sinh giờ Ngọ, anh là Lưu Khánh Đàm, em là Lưu Khánh Điều (Lưu Ba). Cụ Lưu Ngữ lại đưa người thân từ quê ra ở đất Lưu Xá. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra vương triều Lý, các con của Lưu Ngữ sớm được tập ấm, nhập triều. Cả hai anh em đều làm quan đồng triều. Triều Lý vừa lập, giặc từ phương nam lấn tới, Lưu Khánh Đàm được vua Lý Thái Tổ giao cùng các tướng cầm quân đánh giặc, bắt sống vua nước Chiêm là Bố Hợp đem về. Phía Nam vừa yên thì phía Bắc giặc Tống lại lăm le lấn tới. Ông đã tâu với vua: “Mong bệ hạ đừng lo, sa giá bệ hạ thân chinh đế thị uy bốn biển, ngoài cõi, thần và nghĩa đệ cùng các tướng sỹ lo đánh giặc” thời Lý 3 lần giặc Tống vào đánh chiếm nước ta đều bị quân dân ta đánh bại. Thái Tổ xét Lưu Đàm là người đánh nam dẹp bắc, lại có “thiện kế” (kế giỏi), xướng xuất việc rời đô lên phong ông làm Thái Phó khai quốc công thần, giao cho ông dạy bảo thái tử Phật Mã. Thái Tổ mất, Thái Tông lên ngôi, Lưu Khánh Đàm tâu xin vua miễn phu dịch và thuế cho dân làng Lưu Xá. Khi Thái Tông băng hà, Thánh Tông lên ngôi phong cho Lưu Khánh Đàm làm Bình Chương sự, cuối đời Lưu Khánh Đàm về Lưu Xá sửa lại chùa làng và tu ở đó. Khi ở làng, cùng với sư Giác Hải, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không tổ chức cho dân “Khai thông sông Luộc”, “Móc ruộc sông Sinh”, “Đào phình sông Hóa” ở Thái Bình. Khi ông mất vua Thánh Tông về dự lễ an táng, vì ông là khai quốc công thần nên vua ban tên chùa nơi ông tu hành là “Báo Quốc Tự”, ban cho ông tước vương, ban mĩ tự là “Chính trực chiêu cảm”, lại cho xây một tháp cao 9 trượng, 9 tầng ở bên lăng của Lưu Đàm vương. Dân làng Lưu Xá cảm ơn xây đền thờ và tôn ông làm Thành Hoàng làng. Lý Nhân Tông lên ngôi ban cho ông bốn chữ đẹp “Hiển ứng linh thông”, các triều sau đều có sắc phong thần cho ông. Đền thờ ông (đền Lưu Xá) và chùa Báo Quốc đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1990. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình

Thái Bình 1147 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Keo Thái Bình

Chùa Keo (Thần Quang tự), thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Theo tư liệu lịch sử, năm Tân Sửu, niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) đời Lý Thánh Tông dựng chùa Nghiêm Quang trên đất Giao Thuỷ (làng Keo/ấp Keo), thuộc Nam Định ngày nay. Tháng 3 năm Đinh Hợi, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) đời Lý Anh Tông, chùa này được đổi tên thành chùa Thần Quang. Năm Tân Hợi (1611), một trận lụt lớn làm chùa bị trôi dạt, dân ấp Keo phải di dời đi 2 nơi: một bộ phận định cư ở phía Đông Nam - hữu ngạn sông Hồng (nay thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định); một bộ phận định cư ở phía Đông Bắc - tả ngạn sông Hồng (nay thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Như vậy, sau năm 1611, làng Keo (gốc ở Nam Định) được chia thành hai làng. Sau đó, hai làng dựng lại chùa, tên Nôm đều gọi là “chùa Keo”. Để phân biệt, dân gian thường gọi chùa Keo ở Thái Bình là Keo Thái Bình hoặc Keo trên; chùa Keo ở Nam Định là Keo Nam Định hoặc Keo dưới. Chùa Keo Thái Bình được dựng năm 1632, tên chữ là Thần Quang tự. Ngoài chức năng thờ Phật, chùa Keo Thái Bình cũng như chùa Keo Nam Định còn là nơi thờ Thánh Dương Không Lộ và những người có công lớn trong việc dựng. Chùa Keo (Thái Bình) thường mở hội 2 lần trong một năm. Hội xuân được tổ chức ngày mùng 4 tháng Giêng, mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp. Chùa Keo Thái Bình gồm 21 hạng mục lớn, nhỏ (154 gian). Trải qua trên 300 năm, chùa đã được tu bổ, tôn tạo nhiều lần, vào các năm 1689, 1707, 1941, 1957, 2004. Xét về quy mô, bố cục, đặc điểm và nghệ thuật kiến trúc, có thể coi chùa Keo (Thái Bình) là một trong những công trình sáng giá nhất trong hệ thống chùa dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” cũng như dạng thức chùa “trăm gian” ở Việt Nam. Các hạng mục kiến trúc chính của di tích gồm: Tam quan ngoại gồm 3 gian, hai chái, khung gỗ, 4 chân hàng cột, mái lợp ngói mũi hài. Tam quan nội ở phía sau hồ nước (hình vuông), khung gỗ, gồm 3 gian, hai chái, 3 hàng chân cột, 4 bộ vì, mái lợp ngói mũi hài. Chùa thờ Phật được dựng trên mặt bằng hình chữ Công, gồm 3 toà (chùa Hộ/chùa Ông Hộ, Ống muống, Tam bảo). Đền Thánh được dựng theo dạng thức mặt bằng chữ Công, gồm 3 tòa: Thiêu hương (5 gian), Ống muống (3 gian), Thượng điện (5 gian). Phía trước đền là toà Giá roi (5 gian). Gác chuông được làm theo dạng thức chồng diêm cổ các, gồm có 3 tầng, 12 mái, khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Hai dãy hành lang Đông và Tây được dựng bao quanh chùa Phật - Đền Thánh, phía trước thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Hai dãy hành lang đều được dựng trên mặt bằng hình chữ L, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói, mỗi dãy 33 gian. Với những giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng chùa Keo là Di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc - Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Thái Bình 1111 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật