Cách trung tâm thủ đô chỉ 40 km, đồi Bù là địa danh nằm giáp ranh giữa huyện Chương Mỹ, Hà Nội và huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Nơi đây có dãy núi đẹp sườn thoải với độ dài khoảng 1,5 km. Cứ vào cuối thu, từ tháng 11 trở đi, tiết trời mát mẻ và hơi se lạnh thì cỏ lau mọc ở các sườn đồi sẽ nở bung tạo nên khung cảnh đẹp mắt. Mùa lau nở ở đồi Bù sẽ bắt đầu vào đầu tháng 11 và kéo dài đến cuối tháng 12, thời điểm đẹp nhất là giữa tháng 11. Những triền cỏ lau vào chiều tà ở đồi Bù, xóm Núi Bé, xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Từ trung tâm Hà Nội bạn đi theo Quốc lộ 6 tới Xuân Mai rồi rẽ trái đi theo đường mòn Hồ Chí Minh. Đi qua Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây 5 km tới khu vực chợ Cá thì rẽ phải ở ngã 4 chợ Cá. Đi theo con đường bê tông vào xóm Núi Bé đến cuối sẽ gặp hai lối đi. Bên phải là lối đường đất có đoạn dốc dài 200m. Bên trái là đường đá hộc, ngắn hơn và an toàn hơn. Đường từ Hà Nội vào đến chân núi rất dễ đi nhưng đoạn lên núi khó khăn hơn do nhiều đá gập ghềnh và dốc, thích hợp cho ôtô hai cầu, nếu bạn đi xe máy cần dùng xe số khỏe và tay lái cứng, thời gian di chuyển từ chân núi lên đỉnh tốn khoảng 20 phút. Nhờ cảnh quan rộng rãi, còn nguyên nét hoang sơ, đồi Bù còn là điểm chụp ảnh lý tưởng. Tiết trời mát mẻ quanh năm nhưng đồi Bù thu hút nhiều bạn trẻ check-in nhất vẫn là những tháng cuối năm khi mùa cỏ lau nở. Do gần Hà Nội nên du khách hoàn toàn có thể đi về trong ngày hoặc cắm trại một đêm cuối tuần. Thời điểm đẹp nhất để ngắm cỏ lau cuối thu là sáng sớm hoặc chiều hoàng hôn của những ngày nắng đẹp. Lúc đó, cả một vùng đồi cỏ lau trắng chuyển sang màu cam hồng dưới ánh mặt trời.
Hà Nội
Tháng 11- Tháng 12
19 lượt xem
Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên khu vực dãy núi Ba Vì thuộc huyện Ba Vì (Hà Nội) và hai huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình với diện tích 10.814,6 ha, cách Sơn Tây, Hà Nội 15 km và cách trung tâm Hà Nội 50 km về phía tây. Từ đầu thế kỉ 20, Ba Vì đã là địa danh nổi tiếng nhờ sự đa dạng của các hệ sinh thái và có phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ. Vườn quốc gia này nằm trong dãy núi cao chạy dọc theo hướng đông bắc-tây nam với đỉnh Vua cao 1.296 m, đỉnh Tản Viên cao 1.227m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1.131 m. Du lịch vườn quốc gia Ba Vì du khách không chỉ được ngắm thảm thực vật phong phú mà còn được tham quan rất nhiều những địa điểm đẹp hấp dẫn như: đền Thượng, nhà từ thời Pháp, đền thời Bác Hồ, quần thể bách xanh cổ thụ, khu vườn xương rồng… Đây toàn là những địa điểm rất đẹp và hấp dẫn, khi tới đây bạn nhớ mang theo máy ảnh để có thể check in lại những khoảnh khắc đẹp lung linh như trong chuyện cổ tích này nhá.
Hà Nội
Tháng 4 - Tháng 12
30 lượt xem
Nói đến làng dệt tơ lụa đẹp và nổi tiếng tại Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến cái tên làng lụa Vạn Phúc, Hà Đông với những đường thêu chỉ và mẫu hoa văn tinh tế. Làng lụa Vạn Phúc Hà Đông là 1 trong những làng nghề dệt lụa nổi tiếng bậc nhất Việt Nam. Đây là làng nghề dệt lụa truyền thống đã được công nhận là kỷ lục “Làng nghề dệt lụa tơ tằm lâu đời nhất vẫn còn duy trì hoạt động đến ngày nay” do Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã trao tặng. Hơn nữa, làng lụa Hà Đông cũng là 1 điểm đến hấp dẫn cả du khách trong và ngoài nước. Làng dệt lụa Vạn Phúc còn có tên gọi khác là làng dệt lụa Hà Đông thuộc phường Vạn Phúc - Hà Đông - Hà Nội. Vốn tồn tại hơn 1000 năm, làng tơ lụa Vạn Phúc là 1 trong những làng dệt lụa đẹp nhất ở Việt Nam. Từ trung tâm Hà Nội, để đến thăm làng lụa Vạn Phúc bạn đi qua đường Nguyễn Trãi tới bưu điện Hà Đông rồi sau đó rẽ phải; hoặc bạn có thể đi theo tuyến đường Lê Văn Lương - Tố Hữu. Tuy quá trình đô thị hóa hiện nay đang diễn ra rất nhanh chóng, thế nhưng làng lụa Vạn Phúc Hà Đông vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính vốn có của nó. Làng lụa Vạn Phúc trước kia có tên gọi khác là Vạn Bảo. Do kị húy nhà Nguyễn nên làng đã được đổi tên thành Vạn Phúc. Năm 1931, lần đầu tiên lụa Vạn Phúc Hà Đông đã được quảng bá ra thị trường quốc tế tại hội chợ Marseille và đã được người Pháp đánh giá là 1 trong những dòng lụa tinh xảo, đẹp nhất của vùng Đông Dương. Đến năm 1958, tơ lụa Vạn Phúc đã được xuất sang những nước Đông Âu và cho đến nay lụa Hà Đông được ưa chuộng tại nhiều nước trên thế giới. Qua dòng thời gian, lụa Vạn Phúc vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của nó. Và hiện nay, lụa Vạn Phúc đang đi đầu trong ngành dệt Việt Nam. Tơ lụa Vạn Phúc luôn được đánh giá là đẹp bền. Bởi hoa văn trên lụa đa dạng, trang trí cân xứng, đường nét thanh thoát, giản đơn mang đến sự dứt khoát, phóng khoáng cho người xem.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
27 lượt xem
Bãi đá sông Hồng là một trong những điểm đến không thể bỏ qua khi đi du lịch Hà Nội. Đây không chỉ là điểm dừng chân lý tưởng cho những chuyến dã ngoại, trải nghiệm thiên nhiên theo cách khác biệt mà còn là nơi để du khách tìm kiếm cảm hứng và thư giãn sau những ngày làm việc mệt mỏi. Bãi đá sông Hồng nằm trong một con ngõ trên đường Âu Cơ, thuộc phường Nhật Tân. Khoảng cách từ trung tâm thành phố Hà Nội đến đây chỉ khoảng 30 phút lái xe. Mặc dù nằm gần trung tâm của một khu đô thị sầm uất nhưng bãi đá sông Hồng lại mang vẻ đẹp bình yên và nhẹ nhàng. Vào mỗi cuối tuần, nơi đây thu hút đông đảo du khách đến dã ngoại, chụp ảnh với những loài hoa đầy màu sắc. Đây cũng là nơi lý tưởng để tận hưởng không khí trong lành và mát mẻ của thiên nhiên.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
31 lượt xem
Chùa Hương tọa lạc tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 50km. Nơi đây được mệnh danh là một trong những điểm đến tâm linh đặc sắc bậc nhất ở Hà Nội! Chùa Hương cũng là trung tâm của một quần thể văn hóa, tôn giáo gồm nhiều ngôi đền, chùa cổ kính, thiêng liêng khác. Những điểm đến ở Chùa Hương: Đền Trình Là ngôi đền đầu tiên bạn đến sau khi xuống đò. Được xây dựng dưới chân núi Ngũ Nhạc hùng vĩ, hoang sơ. Chùa Thiên Trù Chùa tọa lạc trên thềm núi Lão, được xây dựng và hoàn thành vào năm 1467. Thời gian đi từ bến đò vào chùa Thiên Trù hết khoảng 40 phút đi bộ. Chùa Giải Oan Chùa nằm trên con đường đến động Hương Tích, cách khoảng 2,5km nằm trên núi Long Tuyền, mang trên mình nét cổ kính, hoài niệm. Suối Yến Là con đường thủy duy nhất để vào chùa Hương, có chiều dài khoảng 4km. Động Hương Tích Động có hình dáng tựa như một con rồng đang há miệng vờn ngọc. Động Hương Tích ở độ cao 390m, bạn có thể leo bộ hoặc di chuyển bằng cáp treo đều được. Chùa Thanh Sơn Chùa có cả lối vào từ phía sông và phía núi với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Chùa Thanh Sơn là một trong những ngôi chùa tiêu biểu cho tín ngưỡng mang màu sắc Việt Nam. Động Long Vân Đi từ bến Long Vân leo cao khoảng 150m là tới chùa Long Vân, đi một đoạn qua eo núi đến động Long Vân. Động Long Vân có không gian thoáng đãng, rộng rãi. Hang Sũng Sàm Hang Sũng Sàm ở độ cao 100m, cửa hướng Tây Nam và hang rộng khoảng 15m. Chùa Bảo Đài Chùa nằm dưới chân núi, hiện có phong cách kiến trúc nhà Nguyễn. Động Tuyết Sơn Động nằm ở giữa núi, đường đến động tương đối dễ. Bên trong có vô số nhũ đá hình thù kỳ lạ và đẹp đẽ.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
89 lượt xem
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có nhiều chức năng: nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, phục chế hiện vật và tư liệu về các dân tộc; tổ chức trưng bày, trình diễn và những hình thức hoạt động khác để giới thiệu, giáo dục về văn hoá của các dân tộc ở Việt Nam cũng như các nước khác... Nằm ngay trên trục đường Nguyễn Văn Huyên, trực thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội, bảo tàng Dân tộc học Việt Nam chỉ cách trung tâm thủ đô Hà Nội chỉ khoảng 8 km, rất dễ dàng cho bạn di chuyển. Đối với người dân Hà Thành nói riêng và người dân cả nước Việt Nam nói chung, bảo tàng mang ý nghĩa và giá trị văn hóa vô cùng to lớn. Trong hành trình khám phá phố cổ Hà Nội, chắc chắn bạn không thể bỏ lỡ nơi này. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được xây dựng từ năm 1981 với diện tích ban đầu là 3,27 ha. Sau nhiều lần tu sửa, diện tích bảo tàng được nâng lên với tổng diện tích là 4,4 ha. Đây là công trình do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh, người Tày thiết kế; còn nội thất được thiết kế bởi nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp). Với mục đích lưu giữ những lịch sử và nét văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, bảo tàng là một trong những điểm tham quan tại Hà Nội thích hợp cho các bạn học sinh, sinh viên và du khách có hứng thú tìm hiểu tất cả nét văn hóa mỗi dân tộc. Các hiện vật được trưng bày theo nhiều thể loại khác nhau như y phục, trang sức, vũ khí, nhạc cụ, tôn giáo, nhà ở… được du khách yêu thích cũng như đánh giá cao.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
109 lượt xem
Việt Phủ Thành Chương được xây dựng từ năm 2001 bắt nguồn từ ý tưởng của họa sĩ Thành Chương – người muốn tái hiện lại dấu ấn văn hóa của cha ông ta thời xa xưa. Nằm trên mảnh đất với diện tích hơn 8000 hecta tại Sóc Sơn, Việt Phủ Thành Chương được xem là một công trình kiến trúc đồ sộ mang đậm nét đặc trưng của Việt Nam. Việt Phủ Thành Chương nằm tại hồ Kèo Cả, xã Hiền Linh, huyện Sóc Sơn, chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng 40km thế nên việc di chuyển đến đây tương đối dễ dàng. Bạn có thể lựa chọn nhiều loại phương tiện như ô tô, xe máy, xe bus… Việt Phủ Thành Chương ôm trọn 30 công trình kiến trúc mang dáng dấp lịch sử Việt Nam thế kỷ trước. Dạo quanh một vòng rộng lớn, du khách sẽ cảm nhận được không gian lịch sử như ùa về trong kí ức. Đầu tiên, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của 13 ngôi nhà cổ với những tên gọi đặc biệt như lầu Tường Vân, nhà Thanh Tĩnh, cổng Hương, nhà Mạc Hương, quán Xuân Phong,…
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
101 lượt xem
Thành Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước phong kiến dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 tại vùng đất xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. Cổ Loa ngày nay không chỉ là một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ mà còn là một điểm đến lý tưởng cho các du khách thập phương. Thành Cổ Loa không chỉ gắn liền với những truyền thuyết của dân tộc Việt Nam, như vua An Dương Vương định đô, xây thành, chiếc nỏ thần Kim Quy bắn một phát hạ hàng trăm tên giặc hay mối tình bi thương và cảm động của Mỵ Châu - Trọng Thủy…, mà còn là điểm tham quan, du lịch độc đáo của Thủ đô Hà Nội. Được mệnh danh là tòa thành cổ lớn nhất Việt Nam, di tích lịch sử Cổ Loa rộng khoảng 500ha, được vua Thục An Dương Vương xây từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó), nay thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội. Tương truyền, thành có chín vòng hình xoáy trôn ốc nên người dân thành xưa còn gọi là thành Ốc. Do sự tàn phá của thời gian và chiến tranh nên hiện tại thành chỉ còn ba vòng với những dấu tích xưa, đó là thành nội, thành trung và thành ngoại. Thành ngoại có chu vi khoảng 8km, được xây dựng theo phương pháp đào đất tới đâu khoét hào tới đó, đắp thành, xây lũy liền kề. Các lũy xưa cao từ 4-5m đặc biệt có chỗ cao từ 8-12m. Thành trung có chu vi khoảng 6,5km, cũng có kết cấu như thành ngoại nhưng diện tích hẹp và kiên cố hơn. Thành nội có diện tích khoảng 2km2, là nơi ở của vua An Dương Vương cùng các cung tần, mỹ nữ và quan lại dưới triều. Thành Cổ Loa có rất nhiều tên gọi khác nhau như Loa thành (thành Ốc), thành Côn Lôn, thành Tư Long, Cửu thành, Thành Việt Vương, thành Khả Lũ, Cổ Loa thành. Đến thế kỷ thứ X, thời kỳ Ngô Quyền làm vua, Cổ Loa lại trở thành kinh đô lần thứ hai. Ngày nay, trong khu di tích Cổ Loa còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, như khu đền Thượng thờ An Dương Vương, đền thờ tướng Cao Lỗ, am thờ công chúa Mỵ Châu và chùa Bảo Sơn… Trong các đền chùa còn có nhiều hiện vật khảo cổ được khai quật trong Thành cổ như tượng đồng, mũi tên đồng và các món đồ bằng sứ, đá, được chạm khắc tinh tế.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
118 lượt xem
Làng Gốm Bát Tràng - một ngôi làng nổi tiếng với nghề gốm truyền thống tọa lạc cách trung tâm Hà Nội khoảng 13 km về phía đông nam. Với hơn 700 năm lịch sử và sự phát triển không ngừng, làng gốm Bát Tràng đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho những ai yêu thích nghệ thuật gốm sứ và muốn khám phá văn hóa truyền thống của Việt Nam. - Thời nhà Lý: Xưởng sản xuất gốm của các thợ gốm Thanh Hóa được chuyển về đây. - Thời nhà Trần: Làng gốm Bát Tràng trở thành trung tâm chế tác gốm sứ lớn nhất miền Bắc. - Thời nhà Lê: Nghề gốm Bát Tràng đạt đến đỉnh cao phát triển, sản xuất nhiều loại đồ thờ cúng, đồ gia dụng tinh xảo. - Thời nhà Nguyễn: Nghề gốm Bát Tràng vẫn được tiếp tục phát triển nhưng sản lượng không còn nhiều. - Hiện nay: Làng gốm Bát Tràng đã được phục hồi và phát triển mạnh mẽ, trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước. Làng gốm tọa lạc tại xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 10km và sân bay Nội Bài 40km. Vì vậy nên việc đi lại và tham quan làng gốm không quá khó khăn. Để đến đây du khách có thể di chuyển bằng phương tiện cá nhân như ô tô, xe máy hoặc phương tiện công cộng như xe bus, tàu.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
119 lượt xem
Chợ Đồng Xuân là 1 trong những ngôi chợ lớn có nhiều giá trị văn hóa, lịch sử nhất Hà thành. Trải qua hàng nghìn năm, chợ vẫn phát triển và có lượng lớn người mua, kẻ bán giao dịch tấp nập mỗi ngày. Chợ Đồng Xuân Hoàn Kiếm Hà Nội là một trong những khu chợ lớn nhất miền Bắc đã có tuổi đời lên tới hàng trăm năm. Tọa lạc tại trung tâm Thủ đô, đây không chỉ là nơi giao thương buôn bán tấp nập mà còn là “thiên đường ẩm thực”, nơi “chiều chuộng” khách du lịch Hà Nội bằng những món ngon Hà thành. Chợ Đồng Xuân nằm ngay trung tâm phố cổ Hà Nội, thuộc phường Đồng Xuân, Q. Hoàn Kiếm. Chỉ cách Hồ Hoàn Kiếm khoảng 1km, rất gần ga Long Biên và phố Hàng Mã. Phía Tây của chợ là phố Đồng Xuân, phía Đông là ngõ Đồng Xuân, phía Bắc là phố Hàng Khoai và phía Nam là phố Cầu Đông. Cũng như nhiều khu chợ khác, chợ Đồng Xuân mở cửa vào tất cả các ngày trong tuần, từ 6h - 18h hằng ngày. Riêng khu ẩm thực ở ngõ chợ thì mở cửa đến tận rạng sáng hôm sau. Đặc biệt, vào những ngày cuối tuần thứ 6, thứ 7, Chủ nhật, chợ Đồng Xuân mở cửa đến 22h30 để phục vụ nhu cầu tham quan và mua sắm của du khách. Đây là một trong những địa điểm mua sắm đông vui, nhộn nhịp mà du khách không thể bỏ lỡ khi đến du lịch Hà Nội. Chợ Đồng Xuân là khu chợ có quy mô lớn đã có tuổi đời hàng trăm năm nay. Nơi này đã cùng thời gian chứng kiến biết bao đổi thay của Hà Nội và được biết đến với tên gọi khác là Chợ Lớn. Sử sách ghi lại, vào năm 1804, triều đình nhà Nguyễn đã cho xây dựng một khu chợ ở phía Nam sông Tô Lịch để tiện cho việc giao thương buôn bán của tàu thuyền. Đến năm 1889, sau khi sông Tô Lịch và hồ Thái Cực bị lấp, chính quyền Pháp đã quy hoạch và dồn hàng quán vào một khu đất trống ở phường Đồng Xuân. Năm 1890, người Pháp xây chợ với tổng diện tích 6.500 m2 theo kiến trúc Pháp với 5 nhà cầu, 5 phần tam giác trổ lỗ tổ ong và 5 vòm cửa. Đến năm 1990, chợ được sửa chữa lại chỉ còn 3 dãy giữa và xây 3 tầng. Năm 1995, chợ Đồng Xuân được xây sửa lại với đầy đủ hệ thống cứu hỏa, thông khí và thoát hiểm. Lúc đó, chợ đã có diện tích lên đến 14.000m2 với khoảng 2000 gian hàng. Nơi đây trở thành khu chợ hiện đại và sầm uất nhất Thủ đô Hà Nội.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
116 lượt xem
Ga Hà Nội là một nhà ga cổ do Pháp xây dựng, còn được biết đến với tên gọi là Ga Hàng Cỏ. Nhà ga được khánh thành vào năm 1902, là đầu mối giao thông vận tải quan trọng nhất của Thủ đô. Ga nằm ngay tại trung tâm thành phố, ở số 120 đường Lê Duẩn, quận Hoàn Kiếm, được chia thành 2 khu là khu A và khu B. Khu A chuyên phục vụ các chuyến tàu Thống Nhất, nằm tại đường Lê Duẩn. Khu B thuộc địa phận của phố Trần Quý Cáp, phường Văn Miếu, quận Đống Đa. Ga Hà Nội là công trình gắn bó với nhiều thế hệ người dân Hà Nội. Tiếng còi tàu đã trở thành ký ức khó phai mờ đối với những người từng sống ở thập niên 90. Trải qua nhiều thăng trầm, Ga Hà Nội giờ đã là một nhà ga hiện đại với hệ thống phòng chờ tàu, phòng chờ khách liên vận quốc tế khang trang. Đặc biệt, nơi đây còn là điểm đến hấp dẫn cho du khách trong các chuyến du lịch Hà Nội. Hiện nay, Ga Hà Nội có 2 khu vực, toạ lạc tại 2 quận khác nhau ở Thủ đô: Khu A: Số 120 Lê Duẩn, quận Hoàn Kiếm Khu A là nhà ga chuyên phục vụ cho các đoàn tàu Bắc Nam, điểm đầu là Ga Hà Nội và điểm cuối là Ga Sài Gòn. Ga hoạt động từ thứ 2 đến chủ nhật, từ 8h đến 22h30 hàng ngày. Khu B: Số 1 Trần Quý Cáp, phường Văn Miếu, quận Đống Đa Khu B còn được gọi là ga Trần Quý Cáp, là nhà ga chuyên dụng cho các đoàn tàu đi các tỉnh lân cận. Các tuyến tàu xuất phát từ ga này gồm có: Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Lạng Sơn, Hà Nội – Quan Triều, Hà Nội – Đồng Đăng. Nhà ga mở cửa từ thứ 2 đến chủ nhật, khung giờ hoạt động là 5h10 – 6h, 8h – 11h30 và 14h – 17h30.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
154 lượt xem
Hồ Tây là một trong những thắng cảnh đẹp nổi tiếng ở thủ đô Hà Nội, nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển của Kinh thành Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay. Vẻ đẹp của hồ Tây là một nét chấm phá lãng mạn, thi vị trong bức tranh đầy màu sắc của Hà Nội, nơi gặp gỡ, ghi dấu kỷ niệm của biết bao người Hà Nội, nơi níu chân du khách mỗi lần đếm thăm thủ đô. Hồ Tây là hồ nước tự nhiên nằm ở phía tây bắc nội thành Hà Nội với diện tích khoảng 500ha, đường vòng quanh hồ dài gần 20km. Những tư liệu lịch sử cho thấy cách đây hàng nghìn năm, hồ Tây là đoạn còn sót lại do sông Hồng chuyển dòng mà thành. Hồ Tây từng có nhiều tên gọi như hồ Mù Sương (Dâm Ðàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), đầm Xác Cáo... Mỗi tên gọi đều gắn với sự tích về nguồn gốc hình thành của hồ. Hồ Tây có thế “Long phượng trình tường - Phượng hoàng ẩm thủy”, trên bờ thuận việc canh tác tằm tang, dưới nước thuận giao thông thủy và chài lưới... Bởi thế mà thời Lý (năm 1138), công chúa Từ Hoa, con Vua Lý Thần Tông đã rời cung về vùng ven hồ Tây dạy dân trồng dâu, nuôi tằm hình thành nên một vùng đất nổi tiếng với nghề tơ tằm, vang danh khắp Kinh thành Thăng Long. Các vua, chúa thời Lý - Trần cũng chọn khu vực ven hồ Tây lập các cung điện để vãn cảnh, như: cung Thúy Hoa vào thời Lý, sang thời Trần đổi tên thành điện Hàn Nguyên và nay thuộc địa phận chùa Trấn Quốc; cung Từ Hoa thời Lý nay thuộc địa phận chùa Kim Liên; điện Thụy Chương thời Lê nay thuộc địa phận trường PTTH Chu Văn An... Nhìn từ trên cao, hồ Tây có hình dáng giống chiếc càng cua với góc phía đông được bao quanh bởi đường Thanh Niên - tuyến đường ngăn cách giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch, phần còn lại được bao quanh bởi đất liền. Hồ Tây không chỉ đẹp bởi mặt nước xanh mênh mông, quanh năm dập dềnh, lượn sóng mà còn mang vẻ đẹp thơ mộng bởi sắc hồng thơm ngát của hoa sen, sắc tím của hoa bằng lăng hay vẻ rực rỡ của những cánh phượng hồng mỗi độ hè về. Không gian xung quanh hồ luôn phảng phất những làn gió mát khiến ai đến đây cũng đều cảm thấy thư thái. Mỗi sáng tinh mơ hay khi hoàng hôn xuống , nhiều người thích dạo quanh hồ để hít thở không khí trong lành hay tập thể dục rồi mới bắt đầu một ngày làm việc mới hoặc trở về nhà. Những lúc chiều tà hay khi màn đêm buông xuống cũng là lúc hồ Tây trở thành nơi gặp gỡ bạn bè, nơi hẹn hò, lưu giữ kỷ niệm tình yêu của bao người. Có người tìm cho mình một góc ở bên hồ để hóng gió, nhâm nhi ly cà phê trong một quán ven đường, thưởng thức món bánh tôm nổi tiếng, ăn một ly kem tươi mát lạnh. Cũng có người lựa chọn những nhà hàng sang trọng nằm ở ven hồ để vừa ăn vừa ngắm cảnh và tận hưởng những làn gió trong lành. Với vẻ đẹp lãng mạn, hồ Tây còn khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ tạo nên những áng văn chương cùng những tình khúc đầy trữ tình, thi vị. Nằm ven hồ Tây còn có các làng cổ như: làng hoa Nhật Tân, làng hoa Quảng Bá, làng quất Nghi Tàm, làng nghề giấy dó Yên Thái, làng nghề đúc đồng Ngũ Xã... cùng hệ thống di tích lịch sử văn hóa đậm đặc như: chùa Vạn Niên, chùa Tảo Sách, chùa Kim Liên, đền Quán Thánh, chùa Bà Đanh... Đặc biệt, trên bán đảo và đảo ở phía đông hồ Tây, 2 di tích nổi tiếng là phủ Tây Hồ (được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 thờ bà chúa Liễu Hạnh - một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam) và chùa Trấn Quốc (được dựng vào thời Tiền Lý (thế kỷ 6), dời và phục dựng vào thời Lê Trung Hưng (năm 1615) trên nền cũ của điện Hàn Nguyên) vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến tham quan, vãn cảnh, lễ chùa. Ngoài ra, để phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn của khách du lịch, Công ty TLC Hồ Tây đã đưa vào khai thác các tour du lịch tham quan, ngắm cảnh hồ Tây và vùng phụ cận bằng xe điện như: “Vãn cảnh hồ Tây”, “Bình minh Tây Hồ”, “Du ngoạn Hồ Tây”; "Tham quan làng đúc đồng Ngũ Xã", “Tham quan làng hoa Nhật Tân”... Tham gia các tour du lịch này, du khách không chỉ được thưởng lãm vẻ đẹp hồ Tây hiện nay mà còn có dịp hoài niệm về “Tây Hồ bát cảnh”.
Hà Nội
Tháng 1 - Tháng 12
153 lượt xem
Hà Nội nằm ở tả ngạn sông Đà và hai bên đồng bằng sông Hồng. Phía Bắc giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía Đông giáp với tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên, còn phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc. Sau khi được mở rộng, Hà Nội nằm trong top 17 Thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới với 3.324,92 km2. Với vị trí địa lý thuận lợi này, thành phố này dễ dàng trở thành trung tâm kinh tế – chính trị, văn hóa, khoa học quan trọng của cả nước. Hiện tại, bao gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện. Do có kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm nên đến du lịch Hà Nội, bạn có thể thưởng thức đủ 4 mùa trong năm. Mỗi mùa đều có những đặc trưng riêng, cho bạn những cảm nhận khác nhau về cuộc sống, về cảnh vật và con người nơi đây. Hà Nội vào đông lạnh thì cũng lạnh lắm, vào hè nóng thì cũng nóng lắm nhưng không vì thế mà mất đi cái đẹp. Song có lẽ, đặc biệt nhất vẫn là mùa xuân, là mùa thu Hà Nội. Hà Nội từ thuở còn là Kinh thành Thăng Long cho đến nay vẫn luôn là trung tâm văn hóa lớn nhất của cả nước. Vùng đất này đã sinh ra nền văn hóa dân gian với nhiều câu chuyện truyền thuyết, nhiều câu ca dao, tục ngữ, nhiều lễ hội dân gian và cả những vị anh hùng được ca ngợi, các di tích văn hóa vật thể và phi vật thể được công nhận. Một điều khi giới thiệu về Hà Nội – một Hà Nội rất đặc biệt khi mang nhiều nền văn hóa khác nhau, và không đâu nhiều làng văn hiến như nơi này. Cùng với đó là những ngôi làng với kiến trúc Phật giáo, dân gian, kiến trúc Pháp nằm rải rắp khắp nơi, hiến du khách không khỏi thích thú khi lạc bước trên một thành phố sầm uất, phát triển như Hà Nội vẫn tìm thấy những giá trị văn hóa ngàn năm trước đó. Truyền thống Hà Nội hiện hữu từ những điều nhỏ nhặt nhất, từ lời nói “cảm ơn”, “xin lỗi” đến cách chào hỏi, cách mời nhau. Tất cả đã được thống nhất trong chuẩn mực giáo dục sao cho mọi người yêu mến. Truyền thống ấy còn được thể hiện ở những làng nghề truyền thống, các con phố buôn bán các mặt hàng độc đáo như gốm Bát Tràng, phố hàng Mã, hàng Bạc,… Tôn giáo, tín ngưỡng từ lâu đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thân của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung. Vùng đất này có nhiều tôn giáo như: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Đạo Tin Lành, Đạo Hồi, Cao Đài,… để phục vụ nhu cầu sinh hoạt đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người dân. Mỗi lần giới thiệu về Hà Nội không thể không nhắc đến con người nơi đây, Hà Nội chất chính ở những con người chất phát, trong lời ăn tiếng nói và cách ứng xử văn minh, lễ độ. Nếu có một ngày bạn ghé thăm Thủ đô, bạn sẽ thấy ở đó luôn ấm tình người, mọi người ai nấy cũng luôn sẵn sàng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình về đường xá, xe cộ, nơi ăn chốn ở khi bạn là kẻ lữ khách phương xa. Và bên cạnh nét cổ kính ngàn năm, bên cạnh những góc phố cũ và nếp sống bình lặng. Du khách sẽ vẫn cảm nhận được không khí nhộn nhịp của một thành phố vốn là Thủ đô của đất nước này. Sáng ra, trên những con đường tấp nập người đi kẻ lại, nhất là vào những giờ cao điểm. Tối về, Hà Nội lại trở về với bầu không gian đó, yên bình, cổ kính, rực rỡ trong ánh đèn đêm.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1862 lượt xem
Nhà thờ Hàm Long là một trong những nhà thờ lớn ở Hà Nội, có địa chỉ ở số 21 phố Hàm Long, quận Hoàn Kiếm, có quan thầy là thánh Antôn thành Pavoda. Tòa kiến trúc này được thiết kế bởi kiến trúc sư Doctor Thân, người từng có thời gian du học ở Pháp trước khi trở về Việt Nam. Nhà thờ được hoàn thành vào tháng 12 năm 1934, cao 17m cùng lối kiến trúc vô cùng độc đáo. Điểm đặc biệt nhất của nhà thờ Hàm Long nằm ở cách chọn vật liệu. Nhờ có việc sử dụng các chất liệu đến từ dân gian như nứa, giấy bản kết hợp với rơm hồ vôi và một vài vật liệu đặc biệt khác để tạo nên các chi tiết vòm cuốn mà dù không có sự trợ giúp của các thiết bị âm thanh hiện đại, âm thanh trong những buổi hành lễ vẫn được vọng lại rât vang. Không những vậy, sự độc đáo của nhà thờ Hàm Long còn đến từ các họa tiết, mà nổi tiếng nhất là họa tiết dây thừng, giống như trên dây áo của dòng Phanxicô, được chạm trổ trên các cột trụ nhà thờ cũng như là trên các bệ bàn thờ. Mảnh đất Hà Nội có biết bao công trình kiến trúc mang giá trị lịch sử cao, nhưng nhà thờ Hàm Long vẫn luôn là điểm đến thu hút không chỉ bà con giáo dân mà còn đối với những ai yêu thích tìm hiểu về văn hóa công giáo. Được mệnh danh là một trong những nhà thờ đẹp nhất Hà Nội, thế nên bạn đừng bỏ lỡ cơ hội một lần đến tham quan nhà thờ Hàm Long nếu có dịp.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1170 lượt xem
Tại Hà Nội, có lẽ mọi người đã quá quen thuộc với những cái tên như làng hoa Nhật Tân, làng hoa Ngọc Hà hay Nghi Tàm, Quảng Bá. Đó không chỉ là những làng hoa có cảnh đẹp nổi tiếng qua thời gian mà còn mang trong mình những ý nghĩa lịch sử và văn hóa sâu sắc, góp phần tạo nên sự thơ mộng và vẻ đẹp nức tiếng cho mảnh đất kinh kì. Không lâu đời như làng hoa Nhật Tân, song làng hoa Mê Linh được nhiều người biết đến bởi đây là nơi cung cấp hoa chủ yếu cho Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc vào các dịp lễ. Nghề trồng hoa bén duyên trên đất này đã hơn 20 năm nay. Đất ở đây thích hợp nhất để trồng hồng. Vào những đêm thời tiết sương giá, vườn hoa Mê Linh tuyệt đẹp dưới ánh sáng của hàng trăm ngọn đèn được thắp chạy khắp cánh đồng, tạo nên một khung cảnh đặc biệt. Với cảnh sắc tươi thắm, rực rỡ cùng bầu không khí trong lành, tự nhiên, làng hoa Mê Linh đang trở thành một trong những điểm du lịch thú vị tại Hà Thành. Không chỉ được giới trẻ ưa thích, nó đã trở thành lựa chọn số một cho cuộc dã ngoại cuối tuần của nhiều gia đình. Làng hoa nằm cách trung tâm thành phố 30 km, gần sân bay Nội Bài. Du khách có thể chạy xe máy hoặc đi xe buýt số 7. Từ trung tâm thủ đô du khách đi theo qua cầu Thăng Long đi đến cầu vượt vào khu công nghiệp Thăng Long, rẽ vào đường vào khu công nghiệp nhưng không vào bên trong khu mà đi tiếp chừng 5km sẽ đến làng hoa Mê Linh. Du khách cũng sẽ thấy ngay những ruộng hoa bạt ngàn hai bên đường. Người dân ở Mê Linh trồng nhiều loại hoa như hoa hồng các loại, hoa cúc, mẫu đơn… Nhưng nhiều nhất vẫn là hoa hồng gồm có hồng nhung, hồng đỏ. Những bông hoa ở đây có màu sắc tươi tắn, đa dạng và bắt mắt. Chỉ đứng từ xa cũng đã có thể cảm nhận được mùi hoa đưa trong gió, đem lại cho du khách cảm giác rất thích thú. Du khách đến sẽ càng thích thú hơn nữa với sự mộc mạc, bình dị đậm chất thôn quê của khung cảnh nơi đây. Không khí trong lành và cảm giác thư thái cũng là những nhân tố khiến cho du khách không nỡ rời khỏi. Đó chính là ưu điểm khiến cho làng hoa Mê Linh trở thành sự lựa chọn ưu tiên khi so sánh với những làng hoa khác như Nhật Tân hay Quảng Bá. Bởi trong khi những làng hoa khác, vì quá đề cao tính thương mại nên đã thay thế vẻ đẹp tự nhiên của phong cảnh bằng sự diêm dúa, lòe loẹt của các vật trang trí giả tạo thì sự tự nhiên, mộc mạc của làng hoa Mê Linh đã trở thành điểm thu hút ấn tượng cho khách du lịch. Nếu như năm 1995, xã Mê Linh (huyện Mê Linh) mới có 2ha trồng hoa thì đến nay cả xã đã có 236ha. Ở Mê Linh hầu hết các hộ dân đều trồng và buôn bán hoa. Hoa ở ngoài đồng, hoa trong vườn nhà đều phủ kín khiến làng quê nơi đây lúc nào cũng rực rỡ sắc màu và đem lại đời sống ấm no cho nhân dân. Trong số 236ha trồng hoa thì hoa hồng và hoa cúc chiếm vai trò chủ đạo. Ngoài ra, nông dân Mê Linh còn trồng một số loại hoa khác như: Ly, loa kèn, mẫu đơn, lay ơn...
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1109 lượt xem
Đền Quán Thành toạ lạc tại ngã tư đường Thanh Niên với đường Quán Thánh, đối diện Hồ Tây luôn quanh năm mát mẻ. Được xây dựng vào thời nhà Lý, Đền Quán Thành còn có tên là Trấn Vũ Quán bởi là nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ – Một vị thần trấn giữ phía Bắc của kinh thành Thăng Long xưa. Ngay từ cổng đến, bạn sẽ bị ấn tượng bởi bốn cột trụ được trang trí với tượng hình phượng hoàng đấu lưng nhau và hai bên là các bức bình phong cổ. Xung quanh các cột trụ là cặp câu đối đỏ nổi bật. Bước vào bên trong, bạn sẽ phải ngỡ ngàng trước không gian cổ kính của cổng tam quan, sân, ba lớp nhà tiền tế – trung tế – hậu cung theo phong cách kiến trúc kiểu Trung Quốc. Với những mảnh chạm khắc trên gỗ vô cùng độc đáo bên trong không gian hài hoà, kiến trúc trong đền có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cực kì cao. Nổi bật nhất trong đền Quán Thánh phải kể tới là pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được đúc bằng đồng đen với chiều cao gần 4m và nặng khoảng 4 tấn trên tảng đá cẩm thạch cao hơn 1m. Trong sự tích xưa, Huyền Thiên Trấn Vũ là vị thần đã nhiều đánh đuổi ngoại xâm, giúp dân Thăng Long trừ tà ma yêu quái và trấn quản phương Bắc. Tượng có khuôn mặt vuông chữ điền uy nghiêm nhưng hiền hậu, bình thản với đôi mắt nhìn thẳng. Đây là một công trình nghệ thuật độc đáo và phần nào khẳng định sự khéo léo và tài hoa trong kỹ thuật tạc tượng và đúc đồng của các nghệ nhân Việt Nam cách đây 3 thế kỷ. Pho tượng được đặt ở khu vực Hậu cung. Mỗi dịp đầu tháng hoặc lễ Tết, người người lại nô nức đến Đền Quán Thánh để cầu sức khỏe, bình an và tài lộc. Tương truyền rằng nếu dùng tay phải xoa vào chân trái của tượng Huyền Thiên Trấn Vũ thì người xoa sẽ nhận được nhiều may mắn và suôn sẻ. Ngoài ra, lễ hội đền Quán Thánh cũng được diễn ra hàng năm vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch thu hút đông đảo người dân đến dâng hương, tế lễ và cầu bình an.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1188 lượt xem
Cầu Long Biên nối liền giữa quận Long Biên, Hoàn Kiếm và Ba Đình. Cây cầu chính là biểu tượng của Hà Nội. Đây là cây cầu thép đầu tiên nằm vắt ngang qua dòng sông Hồng. Cây cầu đã từng nằm ở trong top 2 cây dài nhất thế giới, chỉ sau cây cầu Brooklyn bắc qua sông East-River của Mỹ. Sau nhiều năm hình thành và phát triển, cầu Long Biên Hà Nội đã cùng dân tộc ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ. Cây cầu đã chứng kiến biết bao sự kiện, dấu mốc lịch sử hào hùng, đáng nhớ. Cầu Long Biên đã trở thành một biểu tượng đẹp và ý nghĩa của Thủ đô Hà Nội. Cây cầu vẫn luôn in đậm trong kí ức và trở thành niềm tự hào dân tộc. Cầu Long Biên có nét kiến trúc vô cùng độc đáo với chiều dài 2.290m qua sông, 896m cầu dẫn với 19 nhịp dầm thép và 20 trụ cao vững chắc. Khi khánh thành, cây cầu được ví von như “Tháp Eiffel nằm ngang” với thiết kế hài hòa, tỉ mỉ. Cây cầu có chiều rộng 4,75m với 3 làn đường. Hai làn hai bên dành cho ô tô, xe máy, xe đạp di chuyển rộng 2,6m, luồng phía ngoài cùng dành cho người đi bộ rộng 0,4m. Làn ở giữa là làn đường sắt, dành cho tàu hỏa rộng 1,75m. Cây cầu được xây dựng theo kiến trúc nổi tiếng của Pháp, do công ty Daydé & Pillé (Paris, Pháp) lên thiết kế và xây dựng. Kỹ thuật thi công cầu hiện đại, đảm bảo về độ an toàn và tính thẩm mỹ cao. Toàn bộ cầu được làm từ thép chất lượng cao, được xếp tầng chặt chẽ với nhau tạo nên tổng thể hài hòa, ấn tượng. Từ xa, cây cầu giống như một con rồng khổng lồ uốn lượn, mềm mại, nằm bắc ngang qua dòng sông chảy xiết. Thời gian qua đi, sự tàn phá của chiến tranh để lại vô cùng nặng nề, nhưng cây cầu vẫn ở đó, vẫn hiên ngang. Cầu Long Biên là chứng nhân lịch sử của dân tộc Việt Nam, cùng dân tộc trải qua biết bao sự kiện, cột mốc lịch sử quan trọng. Cây cầu đánh dấu từng bước tiến trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cây cầu vẫn luôn đồng hành với dân tộc ta trong những ngày đấu tranh chống xâm lược gian khổ, khó khăn. Và cho đến khi chứng kiến những giây phút hân hoan, phấn khởi khi miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Hãy cùng nhìn lại các sự kiện lịch sử cầu Long Biên: Ngày 2/9/1945: Tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, cây cầu trở thành nhịp dẫn đưa hàng nghìn người dân ngoại ô đến với Bác trong niềm vui sướng, hân hoan. Tháng 10/1954: Trong ngày giải phóng Thủ đô, chiếc cầu vẫn hiên ngang, sừng sững chứng kiến niềm vui, sự tự hào của dân tộc. Năm 1965-1968: Trong chiến dịch Sấm Rền, cầu bị máy bay Mỹ ném bom 10 lần, hỏng 7 nhịp và 4 trụ. Ngày 10/9/1972: Trong chiến dịch LineBacker II, cầu bị ném bom 4 lần, làm hỏng 1500m cầu và 2 trụ lớn bị cắt đứt gây thiệt hại nặng nề. Ngày 30/12/1972: Khi Mỹ buộc ngừng ném bom Hà Nội, công nhân tiến hành sửa chữa đường sắt trên cầu. Năm 1975: Trong ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một lần nữa cầu Long Biên lại cùng nhân dân ta chứng kiến niềm vui hân hoan, tự hào này. Cầu Long Biên đã cùng chứng kiến và đồng hành với người dân Việt Nam trong suốt một chặng đường dài. Trải qua biết bao thăng trầm, biến cố, giờ đây cây cầu không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là người bạn đồng hành vô cùng thân thiết với mỗi người dân Việt Nam.
Hà Nội
Tháng 1 đến tháng 12
1154 lượt xem
Cột cờ Hà Nội còn được có cái tên khác là Kỳ đài Hà Nội, được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 và nay nằm trong khuôn viên của Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Trải qua bao nhiêu năm nhưng công trình này vẫn còn nguyên vẹn và giá trị nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long sau cuộc kháng chiến Pháp và chống Mỹ. Được xây dựng từ năm 1805 đến 1812 dưới thời vua Gia Long triều Nguyễn để làm đài quan sát. Cột cờ Hà Nội là địa điểm được nhiều người dân thủ đô cũng như du khách quốc tế ghé thăm khi đi du lịch Hà Nội, chụp ảnh lưu niệm. Điều thú vị đầu tiên khiến hầu hết du khách khi đến thăm Hà Nội đều muốn đặt chân đến đây chính là nét kiến trúc độc đáo, cổ kính. Du khách đến Hà Nội không phải đi quá xa, Cột cờ nằm ở ngay trung tâm của thủ đô Hà Nội. Để ra đây bạn cứ hỏi đường ra Cửa Nam và Lăng Bác là sẽ thấy. Từ bờ Hồ Hoàn Kiếm đi ra tới Cột cờ chỉ chưa đầy 1km. Du khách có thể đi taxi hoặc xe buýt hoặc có thể thuê xa đạp, tản bộ ngắm cảnh phố phường. Toàn bộ Cột cờ Hà Nội cao hơn 33m, tính cả trụ treo cờ thì là 44m. Ở đây được tham quan cả khu ngoài trời và trong nhà. Ở bên trong rất rộng rãi, thoáng mát, trưng bày súng và những tượng của những người anh hùng. Các tầng đế Cột cờ có hình vuông, nhỏ dần lên trên, chồng lên nhau, xung quanh ốp gạch. Bố cục cân đối ấy đã tạo lên những đường nét thẳng, vững vàng cho Cột cờ Hà Nội. Điều đặc biệt là trong những ngày nóng nhất của Hà Nội, nhiệt độ bên trong của Cột cờ luôn mát mẻ. Trên nóc Cột cờ là lá quốc kỳ biểu tương quan trọng cho sự thống nhất đất nước và được thay mới sau 2 đến 3 tuần. Theo cách bậc thang dẫn đến đỉnh cột cờ, du khách có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn xe tăng và máy bay trực thăng của Bảo tàng Quân Sự và Công viên Le-nin. Thiết kế lối cầu thang xoắn bằng đá bên trong cột cờ, du khách có thể dừng chân nhìn ra các ổ cửa sổ hình hia điểm xuyết theo theo những bức tường cong. Có tất cả 3 tầng quan sát riêng biệt và một thân cột, nếu muốn ngắm cảnh thì tốt nhất nên di chuyển đến đài quan sát trên cùng. Từ trên đỉnh của kỳ đài có thể quan sát cả một vùng rộng lớn bên trong và bên ngoài khu thành cổ. Trừ cửa hướng Bắc, ba cửa còn lại của Kỳ đài đều được khắc tên riêng. Cửa hướng Đông là “Nghênh húc” (đón ánh nắng ban mai), cửa hướng Tây là “Hồi quang” (ánh sáng phản chiếu), còn cửa Nam là “Hướng minh” (hướng về ánh sáng).
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1202 lượt xem
Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội. Di chỉ khảo cổ này là minh chứng sống động cho nền văn minh châu thổ sông Hồng trong suốt 13 thế kỷ: bắt đầu từ thời tiền Thăng Long vào khoảng thế kỷ VII, đi qua thời Đinh và tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, hậu Lê, đến triều Nguyễn và tồn tại mãi đến ngày nay. Dấu son Hoàng thành Thăng Long được hình thành vào năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư đến Đại La và cho xây dựng Kinh thành cũng như hàng loạt cung – điện, trong đó có Hoàng thành Thăng Long. Theo sách sử và tài liệu khảo cổ, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam trùng thành quách, bao gồm: vòng ngoài cùng là La thành hay Kinh thành – nơi sinh sống của cư dân, vòng ở giữa là Hoàng thành – khu triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều, và vòng trong cùng là Tử Cấm thành hay Long Phượng thành – nơi dành cho vua, hoàng hậu, và các thành viên hoàng tộc khác. Những gì chúng ta còn thấy ngày nay ở thủ đô Hà Nội là Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long với diện tích khoảng 20ha (trên tổng diện tích 140ha của Hoàng thành), bao gồm hai khu vực: Khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và Khu di tích Thành cổ Hà Nội. Ngoại trừ Bắc Môn và Kỳ Đài, những công trình còn sót lại chỉ là phục dựng và các di tích khảo cổ được tìm thấy trong suốt nhiều năm. Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long có địa chỉ tại 19C Hoàng Diệu, phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Thực tế, toàn bộ cụm di tích được bao bọc bởi bốn con đường: phía Bắc là đường Phan Đình Phùng, phía Nam là đường Điện Biên Phủ, phía Đông là đường Nguyễn Tri Phương và phía Tây là đường Hoàng Diệu, thuộc địa bàn phường Điện Biên và Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Điểm dừng chân đầu tiên trong cụm di tích Hoàng thành đó là Kỳ Đài, hay thường được gọi là Cột cờ Hà Nội. Đây là di tích có kết cấu dạng tháp, được xây dựng dưới triều Nguyễn từ năm 1805 đến 1812, cùng thời với Hoàng thành Thăng Long. Kiến trúc cột cờ bao gồm ba tầng đế, thân cột, và đài vọng canh, với tổng chiều cao khoảng 33,4m. Bên trong công trình có thiết kế cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên đỉnh - nơi bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh Hoàng thành Thăng Long. Công trình Cột cờ Hà Nội vẫn đứng vững chãi, kiên cố đến ngày nay, và trở thành một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Rời Cột cờ Hà Nội, bạn đi thêm một đoạn nữa sẽ đến Đoan Môn, cổng chính dẫn vào Hoàng thành. Đoan Môn đã xuất hiện từ thời Lý, nhưng kiến trúc mà chúng ta thấy ngày nay là do nhà Lê xây dựng vào thế kỷ XV và nhà Nguyễn tu bổ vào thế kỷ XIX. Đoan Môn là tường thành phía Nam, được xây theo lối kiến trúc cuốn vòm cân xứng gần như tuyệt đối qua “trục thần đạo”, với 5 cổng thành: cổng giữa to nhất dành cho vua, 4 cổng còn lại dành cho quan lại, hoàng thân, quốc thích. Đây là địa điểm được check-in nhiều nhất bởi vẻ hoành tráng, uy nghi của công trình. Bắt đầu từ Đoan Môn, bạn băng qua một khoảng sân lớn gọi là Long Trì, rồi đến Điện Kính Thiên – hạt nhân chính trong tổng thể di tích Hoàng thành. Điện Kính Thiên được xây vào năm 1428, là nơi vua Lê Thái Tổ đăng cơ, về sau trở thành nơi cử hành các nghi lễ long trọng của triều đình, các buổi thiết triều và đón tiếp sứ giả nước ngoài. Hiện nay, công trình này chỉ còn giữ lại được phần nền và hai bậc thềm rồng đá. Tuy vậy, những dấu tích tìm thấy nơi đây cùng đôi rồng chầu đã phần nào gợi lại nét nguy nga, tráng lệ của Điện Kính Thiên năm xưa. Hậu Lâu, hay còn được gọi là Tĩnh Bắc Lâu, là tòa lầu được xây phía sau Điện Kính Thiên, khi xưa là chốn hậu cung – nơi sinh hoạt của hoàng hậu, công chúa, và các cung tần, mỹ nữ. Hậu Lâu xuất hiện từ sau đời hậu Lê, được xây theo kiến trúc hình hộp với ba tầng, kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Pháp. Nét đặc trưng nhất của Hậu Lâu là độ dày của các bức tường, khiến các phòng luôn mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Cuối thế kỉ 19, Hậu Lâu bị hư hỏng nặng, và được người Pháp cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc Môn, hay Cửa Bắc, là một trong năm cửa của thành cổ Hà Nội thuộc thời Nguyễn, và cũng là cửa thành duy nhất còn sót lại. Cửa Bắc được xây dựng xong vào năm 1805, theo lối vọng lâu: phía trên là lầu, phía dưới là thành. Trên lầu hiện là nơi thờ hai vị Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – người đã cùng dân Hà Nội chiến đấu bảo vệ thành đến chết. Cổng hành cung là nơi canh gác của quân lính, nhằm giữ an toàn cho vua và hoàng tộc. Mỗi cổng hành cung là một công trình có thiết kế cầu kỳ, vững chãi, làm tôn vẻ tráng lệ của cung điện. Trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội hiện còn tồn tại tám cổng hành cung như thế. Chính nhờ những cổng hành cung này mà công việc xác định tọa độ các cung điện và lớp tường thành được chính xác hơn. Ngoài các công trình khảo cổ, trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội còn có hệ thống các công trình kiến trúc Pháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nay được trưng dụng làm trụ sở và cơ quan của Nhà nước Việt Nam.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1245 lượt xem
Nhà tù Hỏa Lò nằm ở số 1 phố Hỏa Lò, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khu di tích vẫn còn trường tồn với thời gian cho đến tận ngày nay, là một minh chứng rõ nét cho cả một thời kì lịch sử khổ cực mà gian lao, biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của những người con Việt Nam yêu nước. Nhà tù Hỏa Lò, hay còn gọi là ngục Hỏa Lò, xưa có tên tiếng Pháp là Maison Centrale, có nghĩa là đề lao trung ương, còn tên tiếng việt là Ngục thất Hà Nội, là một nhà tù cũ nằm trên phố Hỏa Lò, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngày đó còn là ngoại vi thành phố, với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ, giam giữ chủ yếu là các nhà tù chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu: A,B,C,D, trong đó: Khu A, B: dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. Khu C: dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. Khu D: dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại, bảo tồn để trở thành khu di tích, phục vụ cho mục đích tham quan du lịch của những ai muốn đến và tận mắt chứng kiến khung cảnh của nhà tù thực dân trông như thế nào. Được mệnh danh là chốn “địa ngục trần gian”, là nhà tù đáng sợ nhất Đông Nam Á, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn mà điển hình nhất là cỗ máy chém, cố máy đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Sau khi giải phóng thủ đô năm 1954, nhà tù Hỏa Lò đã từng là nơi được sử dụng để giam giữ tù binh phi công Mỹ cho đến năm 1973. Với vai trò lịch sử của mình, nhà tù Hỏa Lò hiện tại trở thành địa điểm tham quan thú vị ở Hà Nội hấp dẫn rất đông du khách trong và ngoài nước. Nơi đây mở cửa cho tất cả những ai có nhu cầu, mong muốn đến tham quan với mức giá vé vô cùng dễ chịu, 30.000 VND/người, giảm 50% giá cho học sinh, sinh viên, người khuyết tật, người cao tuổi hay những ai thuộc vào diện chính sách xã hội. Ngoài ra, các đối tượng như trẻ em dưới 15 tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng hay người có công với Cách mạng sẽ được miễn hoàn toàn giá vé.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1466 lượt xem
Tọa lạc tại vị trí trung tâm số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, nhà hát lớn Hà Nội là địa điểm được đông đảo du khách ưa thích ghé thăm mỗi khi có dịp đến với thủ đô. Đây là một công trình kiến trúc được xây dựng bởi người Pháp vào những năm 1901 – 1911 (trong khoảng thời gian đô hộ Việt Nam), lúc bấy giờ nhà hát là nơi chuyên trình diễn các tiết mục nghệ thuật cổ điển xa xỉ như Opera, nhạc thính phòng, kịch nói… cho tầng lớp quan lại hay giới thượng lưu Pháp và một số tư sản Việt. Được lấy cảm hứng từ các công trình kiến trúc Châu Âu nổi tiếng như nhà hát Opera Paris, lâu đài Tuylory… nên “hồn” Châu Âu thấm đượm nơi đây. Một thế kỷ trôi qua với biết bao thăng trầm biến cố, nhà hát lớn Hà Nội đã xuống cấp rất nhiều và gần đây mới được tu sửa lại, thay một diện mạo một sức sống mới. Tạm biệt sắc vàng nhạt nguyên tác, giờ đây nhà hát khoác lên mình lớp áo vàng đậm pha thêm trắng tạo vẻ uy nghi, mỹ lệ. Ngay từ bên ngoài nhà hát chúng ta đã có thể cảm nhận được “hơi thở” Châu Âu với những đường nét họa tiết tinh tế, chạm khắc hoa văn cổ điển. Bước vào sảnh chính, du khách không khỏi cảm thấy choáng ngợp trước sự lộng lẫy hào nhoáng nơi đây. Cả gian phòng được lát đá trắng nhập khẩu từ Italia, trải thảm đỏ ở lối đi giữa tạo cảm giác sang trọng quý phái như cung điện hoàng gia Anh. Phía trần và xung quanh tường được trang hoàng với hệ thống đèn chùm nhỏ mà đồng hay mạ vàng theo hơi hướng cổ điển vintage trông rất quý phái. Tiếp đến là phòng khán giả nơi diễn ra những hoạt động biểu diễn nghệ thuật cho khán giả hiện nay. Không gian nơi đây được thiết kế tinh tế với một sân khấu ở chính giữa và khán đài được thiết kế theo hình vòng cung được lấy cảm hứng từ đấu trường La Mã ôm lấy sân khấu giúp cho tầm nhìn khán giả không bị che lấp và chất lượng âm thanh có thể truyền tải tốt nhất. Với 598 ghế ngồi được phân bố hợp lý cho 3 tầng tạo nên không gian thưởng thức thoải mái nhất. Cuối cùng là phòng gương, nơi tổ chức các nghi lễ quan trọng hay đón tiếp các nhân vật cấp cao…Không gian nơi đây ngập tràn vẻ cổ điển từ thiết kế kết hợp nhiều ô cửa lớn kết hợp kỹ thuật Mozaic, cho đến những cây đèn treo, đèn trùm được mạ vàng hoặc đồng… tất cả đều toát lên vẻ sang trọng, lộng lẫy. Ngoài ra, bên trong nhà hát lớn Hà Nội còn được bố trí một vài công trình phụ khác như: phòng quản trị, 18 phòng hóa trang, 2 phòng luyện thanh, thư viện và phòng họp. Khi đến với nhà hát, du khách có thể ghé mua vài món đồ lưu niệm nhỏ tại phòng trưng bày và bán đồ lưu niệm. Mới đây, nhà hát lớn Hà Nội chính thức công bố mở cửa cho du khách tham quan với mức phí 400.000đ/người, học sinh được giảm một nửa. Ngoài ra, bạn có thể mua vé chương trình tại nhà hát với mức giá từ 300.000đ – 1.000.00đ/người và tranh thủ đi thăm quan một vài công trình kiến trúc đẹp nơi đây.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1121 lượt xem
Chùa Trấn Quốc ban đầu có tên là chùa Khai Quốc, xây dựng vào năm 541 thuộc thời Tiền Lý. Lúc đó, chùa nằm gần bờ sông Hồng bởi vậy khi đê sạt lở vào năm 1615 (đời vua Lê Trung Hưng), chùa được di dời vào phía trong đê Yên Phụ khu gò đất Kim Ngưu. Sau đó, trong khoảng thế kỉ 17, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (nay là đường Thanh Niên) để nối với đảo Kim Ngưu. Chùa đổi tên thành chùa Trấn Quốc vào đời vua Lê Hy Tông (1681 – 1705) với ý nghĩa mong muốn đây sẽ là nơi giúp dân xua đi thiên tai, đem lại cuộc sống bình yên cho toàn dân. Và cái tên đó được sử dụng cho tới tận ngày nay. Xưa kia, chùa Trấn Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Các vua Lý, Trần vẫn thường hay vãn cảnh và ngự giá cúng lễ vào các dịp lễ, Tết tại chùa bởi vậy mà có nhiều cung điện đã được xây dựng phục vụ việc nghỉ ngơi của vua: cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên. Chùa tọa lạc trên một hòn đảo phía Đông của Hồ Tây, nép mình trầm mặc trên con đường Thanh Niên tấp nập. Là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ lâu, chùa Trấn Quốc đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, diện mạo có phần thay đổi, quy mô và kiến trúc của chùa hiện giờ là kết quả của một đợt trùng tu lớn năm 1815. Tổng diện tích chùa khoảng hơn 3000m2, bao gồm vườn tháp, nhà tổ và thượng điện. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông với kết cấu và kiến trúc theo nguyên tắc khắt khe của Phật Giáo gồm 3 ngôi chính: Tiền đường, nhà thiêu hương và Thượng điện nối với nhau thành hình chữ Công (工). Nhà Tiền đường có hướng về phía Tây, phía sau có nhà Tam bảo. Hai dãy hành lang nằm hai bên nhà thiêu hương và Thượng điện. Phía sau Thượng điện là gác chuông nằm trên trục sảnh đường chính với kiến trúc ba gian có mái chồng diêm. Nhà tổ nằm bên trái Thượng điện và bên trái là nhà bia hiện còn lưu giữ 14 tấm bia mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa. Năm 1998, ngôi Bảo Tháp lục độ đài sen được xây dựng, đến năm 2003 thì hoàn thành tạo thành khu vườn tháp của chùa. Ngôi Bảo Tháp cao 15m, gồm 11 tầng. Ở mỗi tầng tháp có đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý màu trắng trong mỗi ô cửa hình vòm. Đặc biệt, trên đỉnh có một tháp sen 9 tầng (Cửu phẩm liên hoa) được tạc bằng đá quý, tạo nên vẻ đẹp uy nghi, linh thiêng nhưng lại rất mềm mại. Bảo Tháp được dựng đối xứng với cây bồ đề do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 trong chuyến đến thăm thủ đô Hà Nội của ông. Cây bồ đề này được chiết từ cây đại bồ Đạo Tràng – nơi mà Đức Phật Thích Ca ngồi hành đạo cách đây hơn 25 thế kỷ. Hiện nay, chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng Phật và Bồ Tát có giá trị lớn được đặt chủ yếu ở Thượng điện. Trong đó nổi bật nhất là bức tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn được làm từ gỗ, sơn son thiếp vàng, là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam. Qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Trấn Quốc vẫn nằm đó uy nghi, mang nét yên bình mà cổ kính giữa lòng Hà Nội tấp nập. Hàng năm, chùa thu hút rất đông phật tử thập phương, du khách trong và ngoài nước đến dâng hương, lễ phật cũng như vãn cảnh chùa.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1124 lượt xem
Là một trong những công trình kiến trúc Thiên Chúa giáo được xây dựng sớm nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử của nước nhà, thấm đẫm cuộc đời cũng như tâm hồn của nhiều người dân Hà thành. Khu đất xây dựng nhà thờ vốn là nơi chùa Báo Thiên tọa lạc, tồn tại từ thời Lý. Đến cuối thế kỷ 18, chùa Báo Thiên bị phá hủy và trở thành khu chợ nhỏ trước khi nhà thờ đầu tiên được xây dựng. Từ năm 1884 – 1888, Giáo hội công giáo tiến hành xây dựng nhà thờ bằng gạch trên nền móng nhà thờ tạm bằng gỗ ban đầu. Đây chính là nhà thờ lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội, được tôn phong là “ Nhà thờ chính tòa kính Thánh Giuse”. Nhà thờ được khánh vào lễ Giáng sinh năm 1887. Đến năm 1890, phố Nhà Chung được mở rộng và Nhà thờ lớn trở thành địa điểm trung tâm tấp nập người qua lại. Từ hồ Hoàn Kiếm men theo hướng phố Nhà Chung, du khách có thể dễ dàng tìm đường đến nhà thờ. Nổi bật giữa khu phố với quảng trường rộng lớn với tượng đài Đức mẹ bồng chúa hài đồng. Khách tham quan sẽ phải đi vào nhà thờ qua cổng bên. Được mệnh danh là nhà thờ lâu đời và có kiến trúc đẹp nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã được thiết kế công phủ, tinh xảo bởi bàn tay cũng những nghệ nhân tài hoa. Với phong cách thiết kế Châu Âu, Gothic, Nhà thờ lớn được xây dựng theo mô típ của công trình Nhà thờ Đức Bà Paris. Nhà thờ có chiều dài tầm 65m, chiều rộng 21m và 2 tháp chuông cao gần 32m được cố định bởi những trụ đá to lớn. Cây thánh giá được thiết kế tinh xảo bằng đá thu hút ánh nhìn của mọi người ngay từ lúc bước chân vào. Toàn bộ sàn gạch được tạo ra từ gạch đất nung, bốn bề bức trường trát bằng giấy bổi tạo nên không gian cổ kính, vô cùng đẹp mắt. Vì đã có tuổi đời từ trăm năm, bức tường nhà thờ bám phủ rêu phong tạo nên khung cảnh hoang sơ, kì bí. Các ô cửa chính và cửa đều mang hình vòm cuốn nhọn, đặc trưng phong cách Gothic. Mái vòm uốn cong rộng lớn hướng lên trên tạo ra một không gian cao vời vợi. Điểm nhấn ở giữa chính là cánh cửa sổ tròn hình hoa, tinh xảo. Với màu sắc trầm, chủ đạo theo phong cách Châu Âu, xen lẫn nhiều họa tiết mang hình ảnh Việt Nam, làm cho hai bên lối đi của nhà thờ hấp dẫn thu hút khách du lịch ngắm nghía, chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo. Nhà thờ được chia làm 3 gian: sảnh đón tiếp – nơi dành cho ca đoàn và các nhạc công, khu vực hành lễ và cung thánh cử hành nghi lễ. Ngay trong thánh đường ẩn chứa 3 ngôi mộ của Hồng y Trịnh Như Khuê, Hồng y Phạm Đình Tụng và Hồng ý Trịnh Văn Căn. Ở giữa là tượng Đức Mẹ, bao trùm lên toàn bộ khung cảnh nhà thờ, tạo nên cảm giác ấm áp lạ thường, như người mẹ đang dang trọn vòng tay ôm ấp những đứa con thơ. Nhà thờ thường có 2 thánh lễ vào ngày thường và 7 thánh lễ vào chủ nhật. Ngày 19 tháng 3 hằng năm, nơi đây sẽ tổ chức lễ rước thánh Quan thầy của Tổng giáo phận Hà Nội. Trong những hôm hành lễ, người dân thường nghe tiếng nhạc vang lên cùng những bài cầu kinh trong Nhà thờ lớn. Đây cũng là nơi diễn ra các buổi xá tội dành cho giáo đoàn. Như những nhà thờ khác, lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh là 2 lễ lớn nhất ở nhà thờ, thường tổ chức những buổi hành lễ linh đình, tấp nập người công giáo đến cử hành buổi lễ. Không chỉ là địa điểm tôn giáo nổi tiếng của thủ đô, Nhà thờ lớn Hà Nội còn là điểm đến thu hút rất đông các bạn trẻ và du khách tới tham quan, chụp ảnh. Đặc biệt vào dịp Noel là lúc Nhà thờ lớn được trang hoàng lộng lẫy nhất với những cây thông được trang trí cầu kì và ánh đèn lung linh đa màu sắc. Tuy nhiên bạn sẽ cần phải tới từ sớm bởi chỉ chập choạng tối là nơi đây đã đông nghẹt người. Nhắc đến nhà thờ Lớn thì dĩ nhiên không thể không kể tới “đặc sản” “trà chanh chém gió” ở đây. Những cốc trà thoảng hương hoa nhài, điểm thêm một vài lát chanh tươi với vị chua, ngọt, chan chát đã trở thành thức uống quen thuộc với không ít người Hà Nội. Chỉ cần một chiếc ghế nhựa bên vỉa hè, nhấp ngụm trà, trò chuyện với bạn bè hay nhìn ngắm dòng xe cộ qua lại. Có lẽ từ những điều giản dị như vậy mà trà chanh Nhà thờ luôn giữ được cái thú vị rất riêng của người Hà Nội. Ngoài ra sẽ thật là thiếu sót nếu như đến Nhà thờ lớn Hà Nội mà không thưởng thức hết những món ăn ở đây. Từ các món Á, Âu cho tới những món ăn vặt Hà Nội như nem nướng, bánh gối, cháo quẩy… tất cả đều sẽ được tìm thấy chỉ trong vài bước chân quanh Nhà thờ Lớn.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1318 lượt xem
Văn Miếu nằm ở khu vực quận Đống Đa, Hà Nội, ngay giữa 4 phố chính gồm Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Du lịch đến với Hà Nội ngàn năm văn hiến thì đây chắc chắn là địa điểm mà bạn nên ghé thăm. Nếu xuất phát từ Hồ Gươm, các bạn đi theo đường Lê Thái Tổ, rẽ phải vào đường Tràng Thi, đi về phía đường Cửa Nam, Nguyễn Khuyến rồi rẽ trái vào đường Văn Miếu là đến. Vì đường Hà Nội có rất nhiều đường một chiều, đặc biệt là xung quanh khu Văn Miếu nên các bạn nhớ để ý để tránh phạm luật giao thông. Văn Miếu được xây dựng năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập thêm Quốc Tử Giám bên cạnh là trường đại học dành riêng cho con vua và các gia đình quý tộc. Đến thời vua Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc học viện và thu nhận cả con cái nhà thường dân có sức học xuất sắc. Sang thời hậu Lê, đời vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ. Tới thời Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập Huế. Văn miếu Thăng Long được sửa sang lại chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện tại nằm trong khuôn viên rộng 54331 m2, bao gồm nhiều công trình kiến trúc nhỏ khác nhau. Bao bọc khuôn viên là những bức gạch vồ. Trải qua nhiều tu sửa, quần thể di tích này bao gồm Hồ Văn, Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, bia tiến sĩ, Đại Thành môn, nhà Thái Học. Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn miếu thờ Khổng Tử ở Trung Quốc, tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc. Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau. Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau. Khu thứ nhất. Bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn. Khu thứ hai. Từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các. Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ. Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Khu thứ ba. Gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia của các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích. Khu thứ tư. Là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung. Đây là khu vực thờ Khổng Tử và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Khu thứ năm. Đây là khu nhà Thái Học. Thời Nguyễn trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội bị bãi bỏ, nhà thái học bị đổi làm nhà Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử. Tuy nhiên khu nhà này đã bị phá hủy trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999. Trong khu thứ năm này còn có nhà Tiền đường – Hậu Đường, là nơi thờ các vị vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Những lưu ý khi thăm quan Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đầu tiên, Tôn trọng di tích, chấp hành quy định của đơn vị quản lý di tích. Không xâm hại đến các hiện vật, cảnh quan di tích. Không xoa đầu rùa, viết, vẽ, đứng, ngồi lên bia Tiến sĩ… Thứ hai, Trang phục khi tới Văn Miếu nên sạch sẽ, gọn gàng. Không nên mặc váy hoặc quần quá ngắn, trang phục hở hang hay trang phục trong nhà. Không hút thuốc, đội nón, đội mũ trong khu vực Điện thờ, nhà trưng bày… Cuối cùng, Thực hiện nếp sống văn minh nơi thờ tự: Không có hành vi thiếu văn hóa, nói tục, gây mất trật tự an ninh; Có thái độ đúng mực khi hành lễ, mỗi người chỉ thắp một nén hương; Dâng lễ, thắp hương đúng nơi quy định.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1254 lượt xem
Nhắc đến lịch sử của Hà Nội 36 phố phường hay phố cổ Hà Nội, có lẽ phải ngược lại khoảng thời gian từ thời Lý – Trần, khi khu dân cư sinh hoạt buôn bán này bắt đầu hình thành, dân cư từ khắp các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập lại và trở thành khu vực sầm uất nhất kinh thành thời ấy. Không những vậy, khu đô thị này còn tập trung nhiều hoạt động tiểu thủ công nghiệp, buôn bán giao thương để mà từ đó hình thành nên cái tên “Hàng”, cách gọi ám chỉ những phố nghề đặc trưng, mang đậm nét truyền thống. Trải qua bao thăng trầm của đất thủ đô, khu phố ấy vẫn đi cùng năm tháng, trường tồn cho đến tận bây giờ, bảo tồn và gìn giữ để trở thành phố cổ Hà Nội trong lòng bao người con đất Việt. Về mặt diện tích, theo quy định của Bộ Xây dựng, phạm vi chính thức của khu phố cổ Hà Nội được xác định như sau: phía Bắc là phố Hàng Đậu; phía Tây là phố Phùng Hưng; ở phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng; còn phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật. Hà Nội 36 phố phường, cái tên đã đi vào tiềm thức của nhiều người với những nét giản dị mộc mạc nhất từ những cái tên như Hàng Mắm, Hàng Nón, Hàng Đường, Hàng Muối… đại diện cho mặt hàng chủ yếu được cái tiểu thương nơi đây trao đổi buôn bán. Phố cổ mang trong mình một nét rất riêng về đô thị, nơi phồn hoa đông đúc, lúc nào cũng tấp nập người nhưng lại vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống từ ngàn đời xưa của đất kinh kì. Mỗi con phố đều tập trung những người thợ từ các làng nghề có tiếng quanh kinh thành Thăng Long xưa, biến mỗi con phố nơi đây thành một làng nghề thu nhỏ giữa lòng Hà Nội. Kiến trúc lại là một nét đặc sắc khác làm nên chất riêng của phố cổ, với lối cấu trúc nhà ống, mái ngói nghiêng cùng mặt tiền là các cửa hiệu chuyên để kinh doanh buôn bán, được xây dựng chủ yếu từ những ngày thế kỉ 18, 19. Những ngôi nhà thoạt nhìn thì lụp xụp nhỏ bé, nhưng lại được con người sắp xếp vô cùng khéo léo mà hợp lý, vẫn phục vụ đầy đủ được nhu cầu đời sống của người dân nơi đây. Phố cổ Hà Nội đẹp với những hàng quán nhỏ ven đường, dù không phải nhà hàng sang trọng nhưng hương vị lại đậm đà níu chân người lữ khách, có đi rồi cũng mãi không quên. Là một buổi ngồi bên hồ Gươm hóng gió, ăn que kem Thủy Tạ, nhìn dòng người qua lại, hay lên phố mà không thưởng thức kem Tràng Tiền thì quả là điều thiếu sót. Hà Nội cũ với những gánh hàng rong chập chùng, len lỏi qua từng con phố với những món ăn bình dị mà dân dã như bánh rán, trứng vịt lộn, hay chỉ đơn giản là cốm, món quà quê nức lòng người con Tràng An có thể làm say lòng bất kì thực khách khó tính nào. Ẩm thực phố cổ gắn liền với những món ăn truyền thống như bún chả, phở, bún cá, bún đậu mắm tôm, bún ốc, bún thang,…của quán nhỏ ven đường, hay trong những căn nhà cổ đã có đến hàng chục năm tuổi. “Hà Nội 36 phố phường” không chỉ nổi tiếng là nơi ăn chơi bậc nhất Hà Thành, mà còn lưu giữ biết bao giá trị lịch sử, văn hóa của hơn một ngàn năm văn hiến. Bạn nhất định không được bỏ qua điểm đến này khi về thăm Hà Nội nhé.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
1149 lượt xem